Cơ sở khoa học hình thành các mục tiêu xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 & đánh giá tính khả thi…

CƠ SỞ KHOA HỌC HÌNH THÀNH CÁC MỤC TIÊU XÃ HỘI TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 2001-2010 VÀ ĐÁNH GIÁ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC MỞ ĐẦU Chiến lược phát triển xã hội là chiến lược được tách ra từ chiến lược phát triển kinh tế, với nội dung hướng vào sự phát triển xã hội có quan hệ mật thiết với chiến lược phát triển kinh tế, song cũng độc lập tương đối so với chiến lược phát triển kinh tế. Xây dựng chiến lược phát triển xã hội đòi hỏi phải coi trọng hơn các vấn đề xã hội

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ sở khoa học hình thành các mục tiêu xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 & đánh giá tính khả thi…, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, quan hệ xã hội, kết cấu và quá trình xã hội, nhận thức sâu hơn về quy luật của hoạt động xã hội cũng như đẩy mạnh công tác quản lý của con người đối với hoạt động tự thân và nhất là hoạt động phi kinh tế. Chiến lược phát triển xã hội có những đặc trưng riêng, khác chiến lược phát triển kinh tế. Chiến lược phát triển xã hội có phạm vi bao quát rộng lớn, vì vậy việc hoạch định chiến lược là quá trình phức tạp. Do vậy để đảm bảo tính khả thi và khoa học của chiến lược, việc hoạch định chiến lược cần coi trọng việc xác định các căn cứ xây dựng chiến lược. Đây là bước đầu tiên khi tiến hành xây dựng chiến lược và cũng là khâu quan trọng nhất trong tiến trình xây dựng chiến lược. Việc xác định chính xác và phù hợp các căn cứ để xây dựng quyết định lớn tới sự thành công hay thất bại của bản chiến lược. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 của Việt Nam, chiến lược đã được coi trọng và xây dựng một cách đầy đủ. Các mục tiêu và định hướng phát triển xã hội trong thời kỳ chiến lược đã được đề ra cụ thể và rõ hướng. Để có những mục tiêu về phát triển xã hội trong giai đoạn 2001 -2010, các nhà hoạch định chiến lược đã dựa trên những cơ sở khoa học nào? Đã tính toán tới những thay đổi nào, có những ưu điểm gì và điểm gì còn hạn chế…Nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu và đưa ra một số nhận xét sau khi bản chiến lược đã đi được hơn nửa chặng đường của nó. NỘI DUNG I. CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XÃ HỘI : Đặc trưng của các vấn đề xã hội và mối quan hệ giữa phát triển xã hội với phát triển kinh tế : Đặc trưng của các vấn đề xã hội : Cùng với trình độ phát triển kinh tế, sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật… đòi hỏi chúng ta phải coi trọng hơn các vấn đề xã hội, quan hệ xã hội, kết cấu và quá trình xã hội cũng như đẩy mạnh công tác quản lý của con người đối với hoạt động tự thân và nhất là hoạt động phi kinh tế. Do đó cần phải có chiến lược phát triển xã hội một cách hợp lý. Muốn vậy trước hết chúng ta sẽ xem xét những đặc trưng của các vấn đề xã hội, như là : Chiến lược phát triển xã hội lấy sự phát triển con người làm chủ để nó đưa vấn đề phát triển theo chiều sâu vào vị trí trung tâm của chiến lược. Thông qua đó sự phát triển con người được thể hiện cụ thể và sinh động. Chiến lược phát triển xã hội cũng đưa ra các quyết sách to lớn về y tế, giáo dục, văn hoá, an ninh và các phúc lợi xã hội khác. Nó trực tiếp đề xuất các quy hoạch cho vấn đề làm thế nào để thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá tinh thần của toàn thể nhân dân. Nếu như trong chiến lược phát triển kinh tế, mối quan hệ giữa các ngành rất chặt chẽ và rõ ràng thì trong chiến lược phát triển xã hội mối liên hệ giữa các ngành và lĩnh vực với nhau tương đối lỏng lẻo. Ví dụ : giữa y tế, giáo dục, văn hoá và các phúc lợi xã hội khác ít có quan hệ với nhau. Ngoài ra các vấn đề xã hội còn có tính định tính cao, do đó gây nên những khó khăn nhất định trong hoạch định và thực hiện các mục tiêu của chiến lược. Mối quan hệ giữa phát triển xã hội và phát triển kinh tế : Một câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao cùng với trình độ phát triển kinh tế và sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật…lại cần có sự phát triển xã hội một cách hợp lý? Bởi vì sự phát triển xã hội có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế. Sự phát triển kinh tế là nền tảng cơ bản và là điều kiện tiên quyết cho phát triển xã hội. Phát triển xã hội chịu sự ràng buộc của trình độ hiện có của phát triển kinh tế, và sự phát triển toàn diện của con người phải lấy sự trình độ phát triển kinh tế làm tiền đề vật chất. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào trình độ hiện có thì chưa đủ vì phát triển kinh tế là một quá trình động, đòi hỏi phát triển xã hội phải có bước đi tương ứng. Vì thế khi xác định mục tiêu phát triển xã hội còn phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế dự tính trong tương lai. Có như vậy mới đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Ngược lại có phát triển xã hội tương xứng với phát triển kinh tế thì nó mới có thể tạo được tiền đề để cho kinh tế phát triển. Chẳng hạn muốn nâng cao trình độ nguồn lực đảm bảo cho phát triển kinh tế thì cần phải phát triển giáo dục, y tế, khoa học - kỹ thuật… Tuy phát triển xã hội và phát triển kinh tế có quan hệ mật thiết với nhau song nó cũng có tính độc lập tương đối. Nếu như phát triển xã hội nhằm mục tiêu phát triển của con người, đảm bảo điều kiện sống và môi trường cho con người… thì phát triển kinh tế lại nhằm vào mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất. Hoạch định chiến lược phát triển xã hội : Các vấn đề xã hội chủ yếu cần hoạch định trong chiến lược phát triển xã hội : Sau khi đã thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1991 - 2000, tuy đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng, song thực trạng kinh tế xã hội vẫn có những mặt yếu kém và bất cập, đặc biệt là các vấn đề về xã hội, như là : giáo dục đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp, có nhiều tiêu cực trong dạy, học và thi cử…; khoa học - công nghệ chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội; cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thông tin, thể thao còn nhiều thiếu thốn, đời sống của một bộ phận dân cư còn nhiều khó khăn, nhất là ở các vùng núi, vùng sâu vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai; số lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm còn lớn; nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn ma tuý, mại dâm, lây nhiễm HIV/AIDS có chiều hướng lan rộng; môi trường sống ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng; nguy cơ bệnh dịch lây lan tạo thành các nạn dịch vẫn còn cao mà nguồn thông tin cảnh báo chưa mang tính quần chúng, việc xử lý chưa triệt để… Do đó trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 cần hoạch định các vấn đề xã hội chủ yếu như : văn hoá, nghệ thuật, thông tin, thể dục thể thao; dân số và việc làm; xoá đói giảm nghèo; tiền lương và thu nhập; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội; bất bình đẳng giới và bảo vệ môi trường. Căn cứ cơ bản của việc hoạch định chiến lược : Chiến lược phát triển xã hội có phạm vi bao quát rộng lớn, vì vậy việc hoạch định chiến lược là quá trình rất phức tạp. Để đảm bảo tính khoa học và tính khả thi của chiến lược thì việc hoạch định chiến lược cần dựa vào các căn cứ sau đây : Trình độ tăng trưởng kinh tế đã đạt được và dự tính trong tương lai. Có như vậy mới đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Mặt khác phát triển kinh tế cũng đặt ra những yêu cầu đối với phát triển xã hội, chẳng hạn yêu cầu về nâng cao trình độ nguồn lực liên quan đến sự phát triển của giáo dục, y tế, khoa học - kỹ thuật… Do đó chiến lược phát triển xã hội phải thực hiện được đầy đủ nội dung để thoả mãn yêu cầu phát triển kinh tế. Trình độ tiến bộ của khoa học - kỹ thuật : Đặc điểm phát triển của xã hội hiện đại là tiến bộ khoa học - công nghệ ngày càng ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Một mặt nó thúc đẩy kết cấu xã hội thay đổi và phát triển, mặt khác làm cho hình thức và nội dung của hoạt động xã hội được đổi mới, làm thay đổi đời sống tinh thần của xã hội, các quan niệm xã hội và các khái niệm xã hội khác. Do đó khi hoạch định chiến lược phát triển xã hội phải tính đến những yêu cầu của tiến bộ khoa học - công nghệ và sự tác động của nó đến những biến đổi xã hội. Quy luật phát triển nội bộ của hoạt động xã hội : Quy luật xã hội tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Nếu dùng ý chí chủ quan để hoạch định các vấn đề xã hội thì nó sẽ không có sự phối hợp nhịp nhàng, cân đối giữa các vấn đề xã hội, và đặc biệt là không tương xứng với trình độ phát triển kinh tế, gây nên sự rối loạn trong xã hội cũng như kìm hãm sự phát triển kinh tế. Do vậy khi hoạch định chiến lược phát triển xã hội nhất thiết phải tính đến quy luật phát triển nội bộ của hoạt động xã hội. Môi trường quốc tế : Việc so sánh tình hình phát triển của đất nước với các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, có trình độ phát triển xã hội và khoa học - kỹ thuật khác nhau cho phép thấy được chỗ mạnh và chỗ yếu về phương diện phát triển xã hội tiến triển hơn, khoa học hơn. Từ đó chúng ta tiếp thu được điểm mạnh, tránh được vết xe đổ của các nước đi trước, rút ngắn thời kỳ phát triển và đặc biệt cho ta thấy được xu thế phát triển xã hội của thế giới, do đó có thể hoạch định được chiến lược phát triển xã hội hợp lý. Điều cuối cùng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoạch định chiến lược phát triển xã hội là mong muốn chủ quan của Đảng, Nhà nước và các nhà hoạch định chính sách. Lựa chọn trọng điểm phát triển xã hội : Lựa chọn trọng điểm phát triển xã hội là một nội dung quan trọng phải giải quyết khi hoạch định chiến lược phát triển xã hội. Khi lựa chọn trọng điểm, phải vừa xét đến tầm quan trọng chung của trọng điểm phát triển xã hội, vừa phải tính đến tầm quan trọng đặc biệt của trọng điểm trong từng thời kỳ nhất định, như là : Khi kinh tế ở vào thời kỳ đầu công nghiệp hoá hiện đại thì phải phát triển kinh tế, đề ra cho phát triển xã hội những yêu cầu bức bách và cụ thể hơn. Bởi vậy xoay quanh trung tâm phát triển kinh tế, những bộ phận trong hoạt động xã hội có liên quan chặt chẽ với phát triển kinh tế phải được coi là trọng điểm lựa chọn của chiến lược phát triển xã hội. Sau khi phát triển kinh tế ở vào thời kỳ chín muồi của công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì trọng điểm của phát triển xã hội cần phải chuyển hướng vào những ngành hoạt động xã hội có lợi cho tăng trưởng kinh tế nội sinh. Đồng thời phát triển xã hội đã hình thành những lĩnh vực tương đối độc lập, xuất hiện những ngành và lĩnh vực hoạt động mới tiêu biểu cho tương lai phát triển xã hội và sẽ trở thành trọng điểm phát triển của xã hội. Ở Việt Nam trình độ phát triển còn ở giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, do vậy trọng điểm phát triển xã hội cần hướng vào 2 lĩnh vực : giáo dục và khoa học - kỹ thuật. Tiếp đó từng bước phát triển các ngành hoạt động y tế, xoá đói giảm nghèo… II. PHÂN TÍCH CƠ SỞ XÂY DỰNG CÁC MỤC TIÊU XÃ HỘI TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 2001 - 2010 : Các mục tiêu phát triển XH trong chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 : Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn 1,1%. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn (thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80-85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị; giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện. Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin. Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn 1,1%. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn (thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn khoảng 80-85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị; giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%; tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chấ t, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện. Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá. Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính - viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại trường. Có đủ giường bệnh cho bệnh nhân Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển, đồng thời nâng cao trách nhiệm của mỗi người góp sức thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp nhận thông tin, sinh hoạt văn hóa. Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện về hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thiết thực chăm lo sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ; đặc biệt chăm lo sự phát triển và tiến bộ của trẻ em. Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao. Công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá. Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính - viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại trường. Có đủ giường bệnh cho bệnh nhân Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập khẩu. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển, đồng thời nâng cao trách nhiệm của mỗi người góp sức thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp nhận thông tin, sinh hoạt văn hóa. Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện về hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thiết thực chăm lo sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ của phụ nữ; đặc biệt chăm lo sự phát triển và tiến bộ của trẻ em. Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao. Cơ sở khoa học (căn cứ) xây dựng các mục tiêu chiến lược : Trình độ phát triển kinh tế : Trình độ phát triển kinh tế đã đạt được : Mười năm thực hiện chiến lược do Đại hội IIV đề ra (từ 1991-2000) chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn tạo ra những chuyển biến tích cực và quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Tổng sản phẩm trong nước sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Bảng tăng trưởng GDP (%) thời kì 1991-1999 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 5.9 8.7 8.1 8.8 9.5 9.3 8.2 5.8 4.8 Trong 10 năm qua, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm là 7,5% (mục tiêu chiến lược đề ra là 6,9 –7,5%). Từ tình trạng mọi thứ hàng hoá đều khan hiếm, sản xuất không đáp ứng nhu cầu thiết yếu, hiện nay chúng ta đã đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, nhiều loại hàng hoá tiêu dùng, có dự trữ và xuất khẩu ngày càng tăng; cung cấp đầy đủ năng lượng và phần lớn vật liệu xây dựng. Do sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế sức sản xuất của toàn xã hội đã nâng lên một bước, đã kết thúc tình trạng khan hiếm hàng hoá, đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; đời sống của nhân dân ở cả thành thị và nông thônđều được cải thiện đáng kể cả về vật chất lẫn văn hoá, tinh thần; trình độ dân trí ngày một nâng lên; tính năng động của cả cộng đồng cũng như của từng người trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt, trong giao lưu, trong tiếp cận với cái mới đều có những tiến bộ rõ nét. Đây chính là động lực để Đảng và Nhà nước đặt ra các mục tiêu xã hội cho thời kì chiến lược tiếp theo. Dự báo trình độ phát triển của đất nước trong tương lai : Để ước tính khả năng tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2001-2010 của Việt Nam và góp phần trả lời câu hỏi tăng trưởng bao nhiêu là hiện thực thì chúng ta cần xem xét các hướng tiếp cận sau đây: Kỉ lục về tăng trưởng kinh tế trong khu vực: Một số nước và vùng lãnh thổ đã đạt được nhịp tăng trưởng kinh tế cao trong một thời gian dài 10-20 năm, điển hình trong số này phải kể đến các nước sau đây: 1971-1980 1981-1990 1991-1995 Các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới 9.0 8.8 - Hàn Quốc 9.3 7.2 7.5 - Đài Loan 9.3 8.5 6.6 - Trung Quốc 7.9 10.1 13.0 Các nước Đông Nam Á 7.4 6.1 - Thái Lan 7.9 7.8 8.5 - Malaixia 7.5 (5.2) 8.6 - Inđônêxia 7.7 (5.5) 7.8 Đây là các nước có điều kiện kinh tế xã hội tương tự như Việt Nam nên chúng ta có thể sử dụng số liệu tăng trưởng của các nước này để dự báo tốc đọ tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn mới. Mô phỏng hạch toán tăng trưởng: Để tính toán cho các nước đang phát triển, các chuyên gia quốc tế thường ước tính đối với các yếu tố đầu vào: Vốn đóng vai trò lớn từ 60%-70% Lao động đóng vai trò nhỏ hơn từ 30%-40%. Khảo sát tình hình tăng trưởng của các nước trong khu vực tròng vòng 30 năm qua cho thấy có thể lấy mức đóng góp của lao động là 35% và của vốn là 65% và TFP trong khoảng từ 2%-2,5% để mo phỏng cho VIệt Nam trong giai đoạn 2001-2010. Kết quả mô phỏng dưới đây cho thấy về trung bình mức tăng trưởng 7%-8%/năm cho giai đoạn 2001-2010 đối với Việt Nam có thể coi là mức cơ sở. Bảng kết quả mô phỏng tăng trưởng cho giai đoạn 2001-2010 Tăng trưởng vốn (1) Tăng trưởng lao động (2) Tăng trưởng TFP (3) Tăng trưởng GDP = 0,65 x (1)+0,35 x (2)+(3) 6 2 2 6.6 7 2 2 7.2 8 2 2 7.9 6 2.5 2.5 7.3 7 2.5 2.5 7.9 8 2.5 2.5 8.6 Giới hạn tăng trưởng của ngành Đối với ngành nông nghiệp, lương thực đóng vai trò quan trọng. Theo dự kiến trong điều kiện thời tiết không có biến động lớn, với tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay, sản lượng lương thực có hạt quy thóc nước ta năm 2000 có thể đạt tới 34,5 triệu tấn, năm 2010 từ 38-40 triệu tấn, tương ứng với nhịp tăng trưởng khoảng 1,7%-2,3% bình quân năm trong giai đoạn 2001-2010. Nhìn chung, trong hai thập kỉ 70 và 80 các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực có nhịp độ phátt riển nông nghiệp không cao, nhịp độ tăng trưởng của giá trị gia tăng nông nghiệp hầu hết nằm trong khoảng 1%-4%. Đối với ngành công nghiệp, nhìn chung trong hai thập kỉ 70 và 80 các nước khu vực có nhịp độ phát triển công nghiệp cao, nhịp độ tăng trưởng của giá trị gia tăng công nghiệp hầu hết nămg trong khoảng 8,0%-12,0%. Đối với ngành dịch vụ, nhịp độ tăng trưởng của giá trị gia tăng dịch vụ bằng trên một nửa tổng nhịp độ tăng trưởng công nghiệp và nông nghiệp tức là khoảng 5%-9%. Cơ cấu kinh tế và sự dịch chuyển cơ cấu Trong thời gian từ 1980-1997 số liệu cơ cấu kinh tế của các nước xung quanh như sau: Nông nghiệp trong cơ cấu GDP trong 10 năm có thể chuyển dịch khoảng từ 3,5%-10,7%. Công nghiệp trong cơ cấu GDP tăng không nhiều, có xu thế tăng chút ít trong 10 năm đầu, sau đó giảm dần nhường chỗ cho dịch vụ. Dịch vụ trong cơ cấu GDP tăng nhanh trong 10 năm tăng thêm khoảng 10% đối với các nước có tỉ trọng dịch vụ những năm đầu tiên trên dưới 30%, khoảng 4%-5% đối với các nước có tỉ trọng dịch vụ những năm đầu ở mức 40% và không tăng nhiều đối với các nước có tỉ trọng dịch vụ những năm đầu ở mức 50%. Các nhân tố tích cực thúc đẩy tăng trưởng cao của đất nước Thực tiễn 10 năm qua khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Dảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Tiếp tục đổi mới đường lối một cách sâu rộng sẽ là một tiền đề quan trọng cho phát triển đất nước ta trong thập kỉ tới. Xem xét các yếu tố sản xuất có thể thấy, yếu tố thúc đẩy tăng trưởng cao trong giai đoạn 1991-1997 là vốn đầu tư. Yếu tố lao động (không tay nghề) đóng góp chủ yếu ở khu vực nông nghiệp và dịch vụ. Hàm lượng khoa học kĩ thuật trong tăng trưởng chưa cao, néu có chính sách đầu tư đúng để nâng cao hàm lượng này thì đây là một yếu tố tích cực tác động tới tăng trưởng cao trong thập kỉ tới. Tiềm lực khu vực dịch vụ, đặc biệt các dịch vụ sản xuất vẫn còn to lớn. Tạo được sự bổ sung lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế. Từ thực tiễn 10 năm qua và với điều kiện hiện nay, trên cơ sở cân đối các nguồn lực và với quyết tâm thực hiện tốt các khâu đột phá mà Đại hội IX đã đề ra, khả năng đạt tốc độ tăng trưởng ít nhất 7,2%/năm giai đoạn 2001-2010 là hoàn toàn có tính hiện thực. Đây chính là một yếu tố quyết định đối với việc đề ra các mục tiêu xã hội của chiến lược 2001-2010. Thực trạng các vấn đề xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2000. (1). Các hoạt động Văn hoá - Thông tin đã và đang hướng vào việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới và các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Các cơ quan và phương tiện thông tin đại chúng đã tích cực tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng, động viên và cổ vũ các nhân tố tích cực đấu tranh chống các mặt tiêu cực và các tệ nạn xã hội, tổ chức tốt các ngày lễ lớn và lễ hội truyền thống văn hoá của nhân dân. Chương trình đưa văn hoá về cơ sở, mở rộng diện phủ sóng phát thanh và truyền hình, đưa đến những vùng cao, biên giới và hải đảo xa xôi được thực hiện có kết quả khá. Đến hết năm 2000, khoảng 80% số hộ đã được xem đài truyền hình Trung ương (mục tiêu năm 2000 là 80%) và 90% số hộ được nghe đài tiếng nói Việt Nam (mục tiêu năm 2000 là 95%). Nhiều cơ chế quản lý đã được đổi mới theo hướng xã hội hoá và hội nhập song vẫn giữ được bản sắc dân tộc của nền văn hoá theo tinh thần Nghị quyết TW5 (khoá VIII). (2). Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, đã được triển khai thực hiện sâu rộng trong nhân dân, thu hút mọi cá nhân, mọi cơ quan, tổ chức tham gia các hoạt động từ thiện giúp đỡ người có công, người tàn tật, các nạn nhân chiến tranh và trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ. Tính đến nay đã có 100% Bà mẹ Việt Nam anh hùng được các đơn vị, tổ chức nhận phụng dưỡng đến cuối đời; hàng chục vạn thân nhân của liệt sĩ được đỡ đầu; gần 120 nghìn ngôi nhà tình nghĩa được tu sửa và xây mới, Các đơn vị và cá nhân đã lập sổ tiết kiệm tặng cho các gia đình chính sách có khó khăn, tổng giá trị trên 13 tỷ đồng; thành lập quĩ đền ơn đáp nghĩa trong cả nước với nguồn kinh phí là 365 tỷ đồng; xây dựng và đưa vào sử dụng 8 khu nuôi dưỡng thương binh nặng, 6 trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng, đảm bảo nuôi dưỡng phục hồi chức năng cho các đối tượng thương binh và các đối tượng chính sách khác. Các nghĩa trang lớn trong cả nước như: Điện Biên Phủ (Lai Châu), Đường 9 (Quảng Trị), Việt - Lào (Nghệ An), Bến Được (TPHCM) và các nghĩa trang của các tỉnh, thành phố khác trong cả nước đã được xây dựng và nâng cấp khang trang đáp ứng nguyện vọng, tình cảm thiêng liêng của nhân dân đối với những người đã hy sinh cho Tổ quốc. Nhờ các hoạt động trên, đời sống đại bộ phận các gia đình hưởng chính sách ưu đãi đã có sự cải thiện. Nhưng đối với vùng sâu, vùng xa thì các gia đình này vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề xã hội đang đặt ra cấp bách, nhiều hiện tượng đáng lo ngại: tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại và tệ tham nhũng không giảm. Các tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, trộm cướp,... đang tồn tại những nhức nhối. Tội phạm kinh tế, tội phạm hình sự có xu hướng gia tăng, có nhiều vụ trọng án hơn trước, trong khi đó những vụ vận chuyển và buôn bán ma tuý trái phép với quy mô lớn, một số vụ đặc biệt nghiêm trọng có sự tham gia của một số cán bộ trong cơ quan bảo vệ pháp luật. Khiếu kiện của dân, trước hết là của nông dân diễn ra phúc tạp hơn, rộng lớn hơn, có nơi lôi cuốn nhiều xã trong huyện, chủ yếu do cán bộ cơ sở vi phạm pháp luật, tha hoá biến chất, tham nhũng, mất dân chủ nhưng không được giải quyết kịp thời gây bất bình trong quần chúng nhân dân; hiện tượng đùn đẩy trong việc giải quyết đơn, thư khiếu kiện khá phổ biến dẫn đến tình trạng nhân dân phải kéo đến các cơ quan Trung ương, đến nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đưa đơn khiếu kiện. Cuộc đấu tranh chống các thói hư, tật xấu, nọc độc văn hoá, hủ tục mê tín dị đoan, thoái hoá đạo đức,... chậm đưa lại hiệu quả thiết thực. Tình hình trên nếu tiếp tục phát triển có nguy cơ làm xói mòn môi trường xã hội và kinh tế, xói mòn hệ giá trị đạo đức và văn hoá của dân tộc. (3). Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã có những tiến bộ đáng ghi nhận, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế dự phòng. Mặc dù thiên tai xẩy ra liên tiếp nhưng đã không có dịch bệnh lớn xẩy ra, các chỉ số sức khoẻ cộng đồng đã phát triển theo chiều hướng tốt. Chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng lên, trang thiết bị y tế đã được nâng cấp ở các tuyến. Bước đầu hình thành 2 trung tâm y tế chuyên sâu ở phía Bắc và phía Nam. Đầu tư chiều sâu cho các bệnh viện đầu ngành, bệnh viện chuyên ngành đồng thời với việc củng cố hệ thống y tế cơ sở, chú trọng đầu tư ban đầu cho bệnh viện tuyến huyện. Đã có 35 bệnh viện của Bộ Y tế và các Bộ, Ngành ở trung ương được đầu tư cải tạo, nâng cấp. Một số bệnh viện của tỉnh đã và đang được cải tạo hoặc xây dựng mới. Cùng với việc tăng cường đầu tư, đã thực hiện bước đầu việc đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ nhân dân, ngoài các bệnh viện công, mạng lưới cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân được hình thành, có tác dụng tốt. Công tác Y học cổ truyền đã được quan tâm hơn. Đến nay đã có 45/61 tỉnh, thành phố có bệnh viện Y học dân tộc. Ngành Dược đã có nhiều cố gắng trong việc đảm bảo cung cấp đủ thuốc thiết yếu, thuốc chuyên khoa và các loại thuốc chữa bệnh khác cho dân, kể cả ở vùng sâu, vùng xa. Thực hiện chế độ BHYT và chế độ thu một phần viện phí đã góp phần khắc phục những khó khăn về kinh phí của ngành Y tế. Bên cạnh đó, các chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, gia đình có công cũng được nghiên cứu, ban hành, giúp các địa phương tăng cường khả năng khám và chữa bệnh cho người nghèo, người có công ... Cơ sở vật chất của ngành y tế tuy có được cải thiện, nhưng vẫn còn thiếu thốn, lạc hậu, nhất là ở tuyến huyện và xã. Quy hoạch mạng lưới y tế chưa hợp lý, phân bổ không đồng đều giữa các vùng và chất lượng dịch vụ còn kém. Năm 1999 mới có 27% trạm y tế xã có bác sĩ, 5% số xã không có y sĩ, 88,0% số trạm y tế có y sỹ sản nhi hoặc nữ hộ sinh. Chúng ta còn thiếu những thầy thuốc giỏi và trang thiết bị ở cơ sở để nhân dân tin cậy trong việc khám chữa bệnh. Cơ chế chính sách chưa đủ sức khuyến khích đưa bác sĩ về các tuyến cơ sở. Trong khi đó hàng năm có hàng ngàn bác sĩ mới ra trường nhưng chỉ có khoảng 30% số đó có việc làm. Tình hình dịch bệnh cục bộ vẫn xảy ra ở nhiều nơi, số người nhiễm HIV tiếp tục tăng. Sự phân biệt đối xử giữa khám chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế và theo dịch vụ thu phí gây ra nhiều tiêu cực và bất công. Việc khám và chữa bệnh cho người nghèo vẫn là vấn đề nổi cộm hiện nay. (4) Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình được triển khai thực hiện tốt, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tỷ lệ sinh bình quân mỗi năm giảm 0,78%o, so với mục tiêu là 0,6%o. Tỷ lệ tăng dân số năm 1995 là 1,65%, năm 2000 là 1,53%, so với mục tiêu đề ra là dưới 1,8%. Mạng lưới tổ chức làm công tác dân số từ TW đến địa phương đã được củng cố và hoàn thiện; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác dân số KHHGĐ được tăng cường đáng kể ; bình quân mỗi huyện đã có 2 trung tâm liên xã làm dịch vụ KHHGĐ. Đã cải tạo và nâng cấp 2035 trạm y tế cơ sở có phòng dịch vụ KHHGĐ và phòng truyền thông, bảo đảm 100% tuyến tỉnh, huyện và 70% tuyến xã có trang thiết bị phù hợp với dịch vụ KHHGĐ. Đã ưu tiên tập trung nguồn vốn đầu tư cho công tác dân số kế hoạch hoá gia đình: năm 1995 so với năm 1990 vốn đầu tư tăng 5,3 lần; năm 1998 so với năm 1990 tăng 5,8 lần; ngoài ra, hàng năm các tỉnh còn huy động thêm hàng chục tỷ đồng cho công tác dân số KHHGĐ. Với các tiến bộ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0705.doc
Tài liệu liên quan