Công đoàn đối với công nhân, lao động tại Công ty Cổ phần dụng cụ số 1 trong giai đoạn hiện nay

Lời nói đầu Sau 3 tháng làm việc khẩn trương, Khoá luận tốt nghiệp ngành Xã hội học với đề tài “Vai trò của Công đoàn đối với công nhân, lao động tại công ty cổ phần dụng cụ số 1 trong giai đoạn hiện nay” (Qua khảo sát xã hội học tại công ty cổ phần dụng cụ số 1) đã được hoàn thành. Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tống Văn Chung, người đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và giúp đỡ em trong việc nghiên cứu đề tài. Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn các bác, các cô, chú tại phòng

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công đoàn đối với công nhân, lao động tại Công ty Cổ phần dụng cụ số 1 trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổ chức lao động, phòng Công đoàn công ty cổ phần dụng cụ số 1. Là một sinh viên khoa xã hội học, em mạnh dạn chọn đề tài về Công đoàn, kiến thức còn hạn chế, cũng như chưa có thực tế kinh nghiệm nhiều, nên trong đề tài không tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong được sự thông cảm và góp ý của thầy cô, các bạn để khoá luận được hoàn thiện. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! phần I: mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. Như chúng ta đã biết, Công đoàn là thành viên của hệ thống chính trị. Từ khi ra đời Công đoàn đã có được vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với lịch sử nước nhà. Công đoàn cùng với Đảng, Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên... lãnh đạo công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp lao động khác đứng lên đấu tranh đòi quyền lợi cho dân tộc, giai cấp và cho người lao động. Khi đất nước thống nhất, Công đoàn vẫn gánh trên vai mình sứ mệnh lịch sử cao cả đó là bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích của giai cấp mình bằng những việc làm cụ thể hữu ích. Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Để có thể nắm bắt được thời cơ và phát huy cao độ nội lực thì chúng ta cần phải quan tâm tới mỗi con người nói chung cũng như mỗi công nhân, lao động nói riêng. Việc bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân có liên quan tới: việc làm, thời gian lao động, tiền lương lao động, nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, phòng chống độc hại... Hiện nay, việc làm là vấn đề quan trọng, bức xúc đối với công nhân, lao động. Trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, cho nên vấn đề việc làm của công nhân, lao động đã bớt gay gắt, tỷ lệ người không có việc làm giảm bớt. Tuy vậy, hàng năm vẫn còn từ 6 - 7% số công nhân lao động thất nghiệp và thiếu việc làm. Điều này đòi hỏi phải có những việc làm cụ thể, tích cực hơn nữa trong vấn đề này, bởi Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ thất nghiệp vào loại cao trên thế giới và khu vực. Tiền lương là nguồn thu nhập chính của công nhân, viên chức và lao động, tuy đã từng bước được nâng lên, nhưng còn thấp so với nhu cầu tối thiểu, chưa đáp ứng được mức sống và sự thay đổi cơ cấu tiêu dùng của người lao động, nhất là những công nhân, viên chức, lao động về nghỉ hưu, nghỉ hưởng trợ cấp một lần, nghỉ do sắp xếp lại sản xuất, lao động ngoài nguồn lương hưu hoặc trợ cấp; họ không có nguồn thu nhập khác. Do vậy, đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Điều kiện làm việc trong nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã, cơ sở sản xuất cá thể, tình trạng công nghệ, thiết bị lạc hậu, lao động thủ công, nặng nhọc và độc hại vẫn chiếm tỷ lệ cao; công nhân lao động vẫn phải làm việc trong điều kiện môi trường bị ô nhiễm, không đảm bảo các điều kiện về vệ sinh, an toàn lao động. Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn nghiêm trọng. Hàng năm, theo báo cáo chưa đầy đủ, có khoảng 4000 người bị tai nạn lao động, trong đó bị chết khoảng 400 người. Việc chăm sóc sức khoẻ, phòng chống bệnh nghề nghiệp cho người lao động có nhiều nơi chưa quan tâm đúng mức, sức khoẻ của một bộ phận công nhân bị giảm sút. Các vi phạm về an toàn và vệ sinh lao động không được xử lý nghiêm minh, kịp thời. Trong 5 năm (1998 - 2002) thì vấn đề tranh chấp lao động tập thể và đình công diễn ra phức tạp và có xu hướng tăng lên. Bình quân hàng năm có trên 70 vụ, xảy ra trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, tập trung nhiều ở các tỉnh, thành phố lớn và các khu công nghiệp tập trung, ở các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ những vấn đề trên cho ta thấy tổ chức Công đoàn nói chung cũng như Công đoàn công ty cổ phần dụng cụ số 1 cần lựa chọn những vấn đề trọng tâm, tập trung chỉ đạo nghiên cứu để cụ thể hoá thành chương trình hành động, để nâng cao đời sống công nhân, lao động; góp phần vào sự vững mạnh của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng, tính cấp thiết của tổ chức Công đoàn ở mỗi giai đoạn lịch sử, nhất là vai trò của Công đoàn với giải quyết việc làm, tiền lương, tiền công, công tác bảo hộ đối với công nhân, lao động tại công ty. Nghiên cứu vai trò của Công đoàn có ý nghĩa quan trọng không chỉ về lý luận mà cả về thực tiễn, nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “Vai trò của Công đoàn đối với công nhân, lao động tại công ty cổ phần dụng cụ số 1 trong giai đoạn hiện nay”. 2. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn. 2.1 ý nghĩa khoa học. Nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta hình thành quan niệm đúng đắn, khoa học về lý luận và nghiệp vụ Công đoàn, đặc biệt đề tài chỉ ra vai trò to lớn của Công đoàn đối với công nhân, viên chức và lao động cũng như đối với quá trình phát triển của đất nước. Qua đó chúng ta thấy được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước trên con đường đổi mới đất nước. Đồng thời thấy được sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó có tổ chức Công đoàn. Thông qua nghiên cứu đề tài, phần nào làm sáng tỏ các hệ thống khái niệm, phương pháp nghiên cứu xã hội học và nó được vận dụng một cách sáng tạo trong việc thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt là lý thuyết vai trò. 2.2 ý nghĩa thực tiễn. Đề tài chỉ ra được vai trò của Công đoàn công ty cổ phần dụng cụ số 1 trong giai đoạn hiện nay. Qua đây giúp cho cán bộ Công đoàn nhận thức đúng cũng như hiểu biết sâu sắc vai trò to lớn của Công đoàn trong việc tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, lao động, tham gia vấn đề tiền lương, tiền công của công nhân, lao động và trách nhiệm trong công tác bảo hộ, an toàn vệ sinh lao động. Từ đó, cán bộ công đoàn xác định phải làm gì, làm như thế nào và làm bằng cách nào để đạt hiệu quả cao nhất. Công đoàn đã đem lại lợi ích gì cho công nhân, lao động của công ty cũng như của đất nước? Đồng thời tìm hiểu và vận dụng phương thức hoạt động, tổ chức Công đoàn quản lý theo phương thức làm việc mới của công ty và góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 3. Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu. 3.1 Mục đích nghiên cứu. Mục đích chính của đề tài là làm sáng tỏ “vai trò của Công đoàn đối với công nhân, lao động tại công ty Cổ phần dụng cụ số 1 trong giai đoạn hiện nay”. Để thực hiện mục tiêu này tôi đã đặt ra các nhiệm vụ sau: + Hoạt động của Công đoàn công ty trước cổ phần hoá. + Vai trò của Công đoàn công ty từ khi cổ phần hoá cho đến nay. + Đưa ra khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn công ty. 3.2 Đối tượng nghiên cứu. Vai trò của Công đoàn đối với công nhân, lao động tại công ty cổ phần dụng cụ số 1 trong giai đoạn hiện nay. 3.3 Khách thể nghiên cứu. Công nhân, viên chức và lao động đang làm việc tại công ty cổ phần dụng cụ số 1. 3.4 Phạm vi nghiên cứu đề tài. a. Không gian. Địa bàn khảo sát tại công ty cổ phần dụng cụ số 1 - 108 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. b. Thời gian. Đề tài thực hiện trong thời gian từ 7/2 -> 7/5/2004. 4. Phương pháp nghiên cứu. 4.1 Phương pháp luận chung. Đề tài nghiên cứu lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm phương pháp luận chung, đồng thời sử dụng các nguyên lý cơ bản khác của xã hội học Mác xít làm cơ sở nhận thức luận. Trong quá trình nghiên cứu dựa trên những nguyên lý cơ bản sau: Nguyên lý phát triển: sự biến đổi và phát triển của xã hội có nguyên nhân sâu xa là sự phát triển của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển đến một giai đoạn lịch sử nhất định, đòi hỏi quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu phải thay đổi, để thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là quá trình tiến hoá phù hợp với các quy luật khách quan. Chính trong nguyên lý này đã chỉ rõ bản chất tồn tại và phát triển của xã hội cũng như động lực của sự phát triển đó. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người luôn có mối quan hệ tác động qua lại; tức là khi chúng ta phân tích xã hội học thì phải coi xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, đồng thời phải coi xã hội là một hệ thống tự vận hành và phát triển. Là hệ thống nên xã hội có một cơ cấu cụ thể, trong đó các yếu tố cấu thành nên xã hội có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Đó là tổng hợp những hình thức hoạt động khác nhau của con người, các quan hệ xã hội; các hình thức cộng đồng của con người với tính ổn định, tính hoàn chỉnh và tính quy luật. Vận dụng nguyên lý trên nghiên cứu vai trò của Công đoàn, nghĩa là xem xét hoạt động của Công đoàn phải đặt trong mối quan hệ chỉnh thể, theo từng giai đoạn lịch sử và phát triển cụ thể, phù hợp với quy luật khách quan. Vai trò của Công đoàn được thể hiện thông qua những hoạt động cụ thể đó là bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng cho công nhân, lao động cả về vật chất lẫn tinh thần. Vai trò của Công đoàn có sự biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử để phù hợp với yêu cầu, phù hợp với sự biến đổi và phát triển xã hội. Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội nên có một hệ thống tổ chức và hoạt động hoàn chỉnh riêng, nó tự vận hành và phát triển, nó gắn liền với từng thời kỳ của các giai đoạn trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ta cũng thấy rằng, tổ chức là một hệ thống mở, vì vậy trong quá trình tồn tại và phát triển thì tổ chức Công đoàn luôn luôn có mối quan hệ với các tổ chức trong và ngoài hệ thống chính trị, đặc biệt là với Đảng và Chính quyền. Thông qua mối quan hệ chặt chẽ này thì Công đoàn càng có điều kiện phát huy vai trò của mình với công nhân, lao động. Như vậy, phương pháp luận chung cho phép ta một quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể và đúng đắn để nhìn nhận, đánh giá vấn đề trong quá trình nghiên cứu. Để thực hiện nghiên cứu đề tài, tôi còn sử dụng một số lý thuyết xã hội học làm công cụ cho quá trình nghiên cứu của mình: * Lý thuyết cấu trúc - chức năng: Cấu trúc là kiểu quan hệ giữa con người và xã hội được hình thành một cách ổn định, bền vững. Chức năng là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, hệ quả, tác động mà một thành phần, bộ phận tác động ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận động của cả hệ thống. Lịch sử của thuyết này gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học August Comte, Herbert Spencer, Emile Dukheim… Về mặt chủ thuyết chức năng còn gọi là thuyết cấu trúc - chức năng hay thuyết chức năng - cấu trúc. Nhưng dù với tên gọi nào đi chăng nữa, các tác giả của chủ thuyết này đều nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định, bền vững. Các luận điểm của lý thuyết cấu trúc - chức năng đều nhấn mạnh tính cân bằng, ổn định và khả năng thích nghi của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cấu trúc. Thuyết này cho rằng một xã hội tồn tại được, phát triển được là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kì một sự thay đổi nào cũng kéo theo sự thay đổi khác. Sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi khi môi trường sống thay đổi, sự biến đổi của cấu trúc luôn hướng tới thiết lập lại trạng thái cân bằng ổn định. Đối với cấu trúc xã hội, các đại diện của chủ thuyết này vừa nhấn mạnh tính hệ thống của nó vừa đề cao vai trò của hệ thống giá trị, hệ chuẩn mực xã hội trong việc tạo dựng sự nhất trí, ổn định, trật tự xã hội . Thuyết này hướng vào giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc. Đối với bất kỳ sự kiện, hiện tượng xã hội nào, những người theo thuyết này đều hướng vào phân tích các thành phần cấu tạo nên cấu trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối quan hệ với nhu cầu chung của sự tồn tại, phát triển sự kiện, hiện tượng đó. Đồng thời phải tìm hiểu cơ chế hoạt động của từng thành phần để phân biệt chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự tồn tại một cách cân bằng, ổn định của cấu trúc xã hội. Đại diện là Talcott Parsons - nhà xã hội học người Mỹ (1920 - 1979). Ông cho rằng bất kỳ hệ thống hoạt động xã hội nào (một xã hội, một thể chế, một nhóm...) đều có những nét nổi bật chung, đó là nhu cầu cơ bản: thích nghi với môi trường thông qua hoạt động xã hội, theo đuổi những mục tiêu được hình thành theo xã hội bởi các chuẩn mực được thể chế trong xã hội. Đồng thời chính các mục tiêu và chuẩn mực này được nảy sinh từ hệ thống giá trị của nền văn hoá vượt trội mà trên đó có sự đồng cảm tương ứng với mỗi nhu cầu xã hội nêu trên, có một phương tiện nhất định để thoả mãn nó: 1 - Thích nghi: một hệ thống phải đương đầu với các nhu cầu khẩn yếu của hoàn cảnh bên ngoài. Nó phải thích nghi với môi trường của nó và làm cho môi trường thích nghi với các nhu cầu của nó; 2 - Đạt được mục tiêu: một hệ thống phải xác định và đạt được các mục tiêu cơ bản; 3 - Phối hợp: một hệ thống phải điều hoà mối tương quan của các thành tố bộ phận. Nó cũng phải điều hành mối quan hệ trong ba yếu tố tất yếu; 4 - Sự tiềm tàng: một hệ thống phải cung cấp, duy trì và kiến tạo cả động lực thúc đẩy của các cá thể cũng như các khuôn mẫu văn hoá đã sáng tạo và duy trì động lực thúc đẩy. Vận dụng lý thuyết này ta thấy Công đoàn có một hệ thống hoạt động riêng, đảm bảo cho tổ chức tồn tại và phát triển để thực hiện được chức năng của mình; trong đó bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân lao động là hết sức quan trọng. Cấu trúc - chức năng của Công đoàn phải phù hợp với nhau và hài hoà với lợi ích của đất nước, của nhân dân và chức năng của Công đoàn phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển lịch sử. Có như vậy, Công đoàn mới thực sự là tổ chức của công nhân, lao động; mới có thể thu hút đông đảo công nhân, lao động tham gia sinh hoạt. * Lý thuyết biến đổi xã hội: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã chỉ ra rằng: sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, sự phát triển đó, trải qua các giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn bắt đầu bằng một cuộc cách mạng xã hội. Động lực quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội là đời sống vật chất của xã hội. Phương thức sản xuất xã hội (lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp với nó). Trong mỗi giai đoạn xã hội, lực lượng sản xuất được phát triển không ngừng và đòi hỏi có một quan hệ sản xuất phù hợp vớ nó. Khi quan hệ sản xuất trở nên chật hẹp, lỗi thời, mâu thuẫn với sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất sẽ dẫn tới cuộc cách mạng xã hội, thay xã hội cũ bằng xã hội mới, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển. Đặc biệt như ngày nay, ta thấy điều này càng được khẳng định trong thực tế. Vậy biến đổi xã hội là gì? Theo từ điển xã hội học, biến đổi xã hội là: một quá trình xã hội về những thay đổi trong cơ cấu của một hệ thống xã hội. Những thay đổi này liên quan đến các đặc trưng của nó. Theo “xã hội học đại cương”, nhà xuất bản chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thì biến đổi xã hội là: sự thay đổi xã hội từ một ngưỡng phát triển này sang một ngưỡng phát triển khác (cao hơn hoặc thấp hơn) về chất, xét dưới góc độ tổng thể các thiết chế và cấu trúc. Như vậy, sự biến đổi xã hội là kết quả của sự tác động qua lại giữa hoạt động tích cực của con người với môi trường con người, thông qua các hoạt động sáng tạo của mình trong lao động và tổ chức xã hội, đồng thời làm thay đổi môi trường tự nhiên. Đến lượt nó, sự thay đổi môi trường này ảnh hưởng ngược lại tới sự thay đổi xã hội. Sự biến đổi xã hội diễn ra theo quy luật không đều về nhịp độ, tốc độ, về quy mô không gian, thời gian trong mỗi xã hội và các xã hội khác nhau. Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng của biến đổi xã hội, người ta có thể chia nó thành hai cấp độ: - Những biến đổi vĩ mô: đó là những biến đổi diễn ra và trải rộng trên một phạm vi lớn và chúng được diễn ra trong khoảng thời gian dài. - Những biến đổi vi mô: đó là những biến đổi nhỏ, nhanh và được tạo bởi những quyết định, những hành vi trong quan hệ tương tác của con người với đời sống. Vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu, vai trò của Công đoàn cũng có sự biến đổi là một tất yếu và phù hợp với xu thế khách quan. Có như vậy thì Công đoàn mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình trong từng điều kiện lịch sử cụ thể, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, tổ chức Công đoàn phải đổi mới nội dung, hình thức sao cho phù hợp. * Lý thuyết vai trò: Đây là một trong những lý thuyết quan trọng và được sử dụng rất nhiều trong nghiên cứu xã hội học. Theo từ điển xã hội học thì vai trò - tập hợp những kỳ vọng ở trong một xã hội gắn với hành vi của những người mang các điạ vị... ở mức độ này thì vai trò riêng là một tổ hợp hay nhóm các kỳ vọng hành vi. Vai trò thực ra là nói đến cả một nhóm các khái niệm trực thuộc với nhau mà sau đó tạo thành lý thuyết vai trò như là một hệ thống khái niệm: vai trò, địa vị (thân thế), kỳ vọng (kỳ vọng - có thể - nên - phải), hình thức thưởng phạt (tích cực, tiêu cực) nhóm quy chiếu, hành vi (được kỳ vọng và thực tế). Sau đó là những khái niệm bổ sung như năng lực - cái tôi, quyền lực, bản thân, sự đồng nhất, tính được sử dụng, tình huống, tầng lớp và những phân hóa của vai trò như vai trò quy gán và vai trò giành được... Vận dụng lý thuyết này vào đề tài, vai trò của Công đoàn được thể hiện qua các hoạt động cụ thể của mình: tham gia giải quyết việc làm; Công đoàn với vấn đề tiền lương, tiền công lao động; Công đoàn tham gia công tác bảo hộ, an toàn và vệ sinh lao động... Do vậy, Công đoàn có một cơ cấu tổ chức phù hợp, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình. 4.2 Phương pháp cụ thể. Để nghiên cứu đề tài này mội cách khách quan, khoa học và mang tính đặc thù của ngành xã hội học, tôi có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của xã hội học sau: 4.2.1 Phương pháp phân tích tài liệu. Đây là phương pháp xem xét các thông tin có sẵn trong các tài liệu để rút ra những thông tin cần thiết nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của một đề tài nhất định. Tài liệu chính là nguồn thông tin để trả lời cho câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu này. Khi thực hiện đề tài này, tôi đã dựa vào văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, văn kiện Đại hội Công đoàn lần thứ IX, báo cáo Đại hội Công đoàn công ty cổ phần dụng cụ số 1, đồng thời kết hợp với các văn bản pháp quy, các số liệu thống kê về Công đoàn Việt Nam và Công đoàn công ty. Ngoài ra, tôi còn tiếp thu có chọn lọc những tác phẩm sách báo, những công trình, đề tài nghiên cứu xã hội học, nghiên cứu về Công đoàn của một số tác giả đi trước. Qua việc thu thập thông tin, tôi đã tiến hành phân tích đánh giá vấn đề để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình. 4.2.2 Phỏng vấn bằng bảng hỏi. Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến cho việc thu thập thông tin trong các nghiên cứu xã hội học. Trong phương pháp này, người được hỏi tiến hành trả lời các câu hỏi bằng cách tự ghi ý kiến của mình vào bảng hỏi. Thông tin thu được là toàn bộ câu trả lời thể hiện quan điểm, thái độ và ý thức của người đó đối với vấn đề nghiên cứu. Khi thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành trưng cầu 100 bảng hỏi đối với những người đang làm việc tại công ty. Trong đó cơ cấu của mẫu khảo sát: Giới: nam 67%, nữ 33%; Tuổi: 50 tuổi 20%; Trình độ học vấn: cấp 3 là 78%; Trình độ chuyên môn: Mỗi bảng hỏi gồm có 15 câu hỏi (gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở) thể hiện nội dung về vai trò của Công đoàn công ty. 4.2.3 Phương pháp phỏng vấn sâu. Phỏng vấn sâu là phương pháp cụ thể để thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học thông qua việc tác động tâm lý - xã hội trực tiếp giữa người đi hỏi và người được hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu. Phỏng vấn sâu là dạng phỏng vấn mà trong đó người ta xác định sơ bộ những vấn đề cần thu thập thông tin cho đề tài nghiên cứu. Mục tiêu của phỏng vấn sâu không phải để hiểu một cách đại diện, khái quát về tổng thể, mà giúp chúng ta hiểu sâu, hiểu kỹ về một vấn đề nhất định. Tôi đã sử dụng phỏng vấn sâu một số đối tượng nhằm khai thác chi tiết những thông tin cần thiết ở Công đoàn công ty cổ phần dụng cụ số 1. Qua đó có cơ sở dữ liệu để phản ánh đúng bản chất về vai trò của Công đoàn đối với công nhân lao động tại công ty trong giai đoạn hiện nay. 4.2.4 Phương pháp quan sát. Quan sát xã hội học là quá trình tri giác và ghi chép mọi yếu tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu phù hợp với đề tài và mục tiêu nghiên cứu. 4.2.5 Các phương pháp khác. Ngoài các phương pháp kể trên, tôi còn vận dụng các phương pháp liên ngành như so sánh, thống kê, tiến trình lịch sử... để khẳng định cũng như làm sáng tỏ giả thuyết và mục đích nghiên cứu của đề tài. 5. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết. 5.1 Giả thuyết nghiên cứu. - Quá trình cổ phần hoá tác động tích cực đến vai trò của Công đoàn công ty đối với công nhân lao động. - Công đoàn tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, lao động có hiệu quả. - Công đoàn tham gia vấn đề tiền lương, tiền công của công nhân, lao động có hiệu quả. - Công đoàn có trách nhiệm trong công tác bảo hộ, an toàn vệ sinh lao động. 5.2 Khung lý thuyết. Đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội Hoạt động của Công ty cổ phần dụng cụ số 1 Vai trò của Công đoàn đối với công nhân lao động Tham gia giải quyết việc làm cho công nhân lao động Tham gia vấn đề tiền lương, tiền công của công nhân lao động Trách nhiệm trong công tác bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao động phần II nội dung chính Chương I cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Giai cấp công nhân nói chung, cũng như giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng là lực lượng trung tâm của thời đại; có sứ mệnh lịch sử thiêng liêng là lãnh đạo xã hội xoá bỏ chế độ người bóc lột người, áp bức, bất công, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa theo bước đi, phương thức phù hợp đối với mỗi quốc gia. Như vậy, trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là lực lượng chính trị - xã hội quyết định chiều hướng phát triển xã hội, theo quy luật tất yếu tiến lên của nhân loại. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “tri thức hoá công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ đổi mới”. Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là tổ chức Công đoàn có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần, xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo động lực khuyến khích công nhân, lao động khắc phục khó khăn, tự giác rèn luyện, tích cực tham gia các chương trình đào tạo, từng bước tri thức hoá công nhân và hình thành xã hội học tập, để góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đi đến thành công. Công đoàn là thành viên của hệ thống chính trị nước nhà, là cánh tay phải đắc lực của Đảng, là mắt khâu tổ chức nối liền Đảng, Nhà nước với quần chúng công nhân, lao động. Để thực hiện được sứ mệnh cao cả thì Công đoàn có nhiệm vụ vận động, tổ chức tập hợp, giáo dục và xây dựng đội ngũ công nhân lao động trở thành lực lượng cách mạng thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiểu được vai trò to lớn của tổ chức Công đoàn, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đề tài này như: “Hoạt động Công đoàn trong giai đoạn mới” của Hoàng Thị Khánh; Đề tài KX05 - 10 đề cập đến “Tính chất của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của Nguyễn Viết Vượng, chủ nhiệm đề tài; “Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nhà xuất bản Lao động) của Nguyễn Viết Vượng cùng một số người. Các tác giả đã phân tích những vấn đề về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua đó, nêu lên dự báo, phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt Nam ngày càng vững mạnh. Hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu xã hội học về vai trò Công đoàn trong các công ty cổ phần hoá, được sự góp ý của cán bộ công ty cùng thầy giáo hướng dẫn, tôi chọn đề tài “Vai trò của Công đoàn đối với công nhân, lao động tại công ty cổ phần dụng cụ số 1 trong giai đoạn hiện nay” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Các khái niệm công cụ. 2.1 Tổ chức. Theo nhập môn xã hội học tổ chức của Gunter Buschges (nhà xuất bản thế giới, Hà Nội - 1996) thì tổ chức là dấu hiệu đặc trưng và yếu tố cấu thành một xã hội công nghiệp và dịch vụ hiện đại. Đóng vai trò là một bộ phận xã hội trung gian, tổ chức nối từng thành viên trong xã hội chúng ta với toàn xã hội cũng như giữa các hệ thống đang tồn tại trong xã hội đó. Tổ chức được quyện chặt vào hệ thống kinh tế xã hội mà nó chứa trong đó. Tổ chức được hình thành dựa trên một sự quyết định hợp lý, trên cơ sở mong muốn có chủ định của những người thành lập. Sự hình thành, cơ cấu và sự phát triển của tổ chức phục vụ cho các mục tiêu đã chọn, vì nó mà tổ chức được hình thành và bảo tồn. Tổ chức mang lại một chất lượng đặc biệt cho tất cả những người mà phần lớn cuộc sống của họ gắn liền với tổ chức. Như vậy, tổ chức không chỉ là phương tiện để đạt mục đích, là công cụ quan trọng để biến các mục tiêu thành hiện thực mà còn có ý nghĩa trọng tâm đó là tổ chức cuộc sống. Tổ chức tạo ra chất lượng cuộc sống thành hiện thực ở trong và thông qua tổ chức. Theo giáo trình lý luận và nghiệp vụ Công đoàn (tập 1, nhà xuất bản lao động): tổ chức là một đơn vị xã hội được liên kết phối hợp một cách có ý thức, có ranh giới hoạt động tương đối xác định, hoạt động tương đối thường xuyên nhằm đạt được mục tiêu hoặc là một số mục tiêu nhất định. Nó có những đặc trưng: - Là một đơn vị xã hội, tập hợp từ hai người trở lên cùng hoạt động. - Tổ chức là sự liên kết, phối hợp có ý thức, có nghĩa là đề cập đến hoạt động quản lý, ranh giới hoạt động tương đối xác định đề cập đến một khía cạnh quan trọng đó là phạm vi hoạt động rõ ràng. Mục tiêu của tổ chức là đề cập đến vấn đề tổ chức đó phải đạt được bằng hoạt động của mình. Như vậy, Công đoàn là một tổ chức, nó có vị trí, vai trò, chức năng, mục tiêu hoạt động của mình đã được Đảng, Nhà nước và xã hội thừa nhận. 2.2 Vai trò của Công đoàn. Vai trò là mô hình hành vi gần như chức năng phải thực hiện của mỗi cá nhân phụ thuộc vào sự trông chờ của người khác hoặc ở xã hội đối với cá nhân đó. Vai trò của tổ chức là sự tác động của tổ chức đó đến tiến trình phát triển của lịch sử và cách mạng, được phản ánh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá tư tưởng mà tổ chức đó tồn tại và phát triển. Lênin đã từng nói: Công đoàn có vai trò là trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học chủ nghĩa Cộng sản. Là trường học quản lý, Công đoàn giúp cho người công nhân, viên chức và lao động biết quản lý mà trước mắt là tham gia quản lý sản xuất, quản lý xí nghiệp, quản lý các công việc xã hội. Là trường học kinh tế, Công đoàn vận động công nhân, viên chức và lao động tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hoàn thiện các chính sách kinh tế nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Là trường học Chủ nghĩa Cộng sản, Công đoàn giáo dục công nhân, viên chức và lao động thái độ lao động mới. Đồng thời Công đoàn tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, giáo dục văn hoá, giáo dục lối sống, giáo dục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, hình thành nhân sinh quan, thế giới quan khoa học cho công nhân, viên chức và lao động. Trong lĩnh vực kinh tế: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đặt ra cho Công đoàn hàng loạt vấn đề phức tạp. Công đoàn cần quan tâm đến việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm xoá bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ. Do đó, Công đoàn cần có vai trò tích cực trong việc xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới. Đặc biệt hiện nay việc đẩy mạnh hoạt động của các thành phần kinh tế đảm bảo cho kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, đóng vai trò chủ đạo, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế, dân sinh và đề cao vai trò của tổ chức Công đoàn. Trong lĩnh vực chính trị: để xây dựng và nâng cao hiệu quả hệ thống chính trị xã hội của nước ta, Công đoàn tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động theo hệ thống dân chủ tập trung; góp phần bảo đảm tăng cường kỷ luật phép nước, đấu tranh chống lại mọi âm mưu của kẻ thù nhằm chống phá Cách mạng Việt Nam. Trong lĩnh vực xã hội: hiện nay xã hội nước ta có nhiều thay đổi: các giai tầng có sự biến đổi; dân trí lên cao, sự gắn kết mạnh mẽ giữa các yếu tố trong lực lượng sản xuất; đời sống được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần; các tệ nạn xã hội, tiêu cực xã hội nảy sinh, phát triển đang là lo ngại. Do vậy, Công đoàn góp phần xây dựng giai cấp công nhân, viên chức, tầng lớp trí thức ngày càng lớn mạnh về số lượng, chất lượng, nâng cao trình độ về chính trị, kỷ luật, văn hoá, kỹ thuật. Đồng thời tăng cường khối liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân; là cơ sở xã hội vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Trong lĩnhvực văn hoá tư tưởng: Công đoàn phải giáo dục cho công nhân, lao động nâng cao lập trường giai cấp; lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam, nền tảng cho mọi hoạt động trong xã hội chúng ta. Đặc biệt Công đoàn phải góp phần nâng cao giá trị truyền thống, đạo đức, nếp sống, tiếp thu những thành tự._.u tiên tiến của văn minh nhân loại. Vị trí, vai trò của Công đoàn còn tiếp tục được nâng cao theo xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát huy hơn nữa vai trò của mình, Công đoàn cần chủ động, tích cực thực hiện tốt các chức năng của tổ chức. 2.3 Công đoàn. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (xuất bản năm 1927), Nguyễn ái Quốc đã từng viết: “Công hội trước là cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt cho công nhân khá hơn bây giờ, bốn là giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho thế giới”. Sau này, Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) (chương I - điều 10) cũng đã ghi “Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động. Cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Luật Công đoàn đã được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7 khoá VIII ngày 30/6/1990 khẳng định “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam, tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, là trường học Chủ nghĩa xã hội của người lao động”. Chương II kết quả nghiên cứu thực nghiệm 1. Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. 1.1 Khái quát tình hình ra đời và phát triển công ty cổ phần dụng cụ số 1. Để đáp ứng yêu cầu của đất nước đó là xây dung miền Bắc xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; Đảng và Nhà nước đã đầu tư công nghiệp, phục vụ sản xuất. Do vậy, ngày 25/3/1968 từ một phân xưởng dụng cụ của nhà máy cơ khí Hà Nội, đã thành lập nhà máy dụng cụ cắt gọt thuộc bộ cơ khí luyện kim. Trải qua chặng đường 36 năm phát triển, công ty đã có những đóng góp to lớn đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. ở mỗi thời kỳ, tên gọi của nhà máy cũng được thay đổi phù hợp với yêu cầu khách quan. Ngày 12/8/1970 đổi tên thành nhà máy dụng cụ số 1. Ngày 22/7/1995 Nhà máy dụng cụ số 1 đổi tên thành Công ty cắt gọt và đo lường cơ khí thuộc Tổng công ty máy và - Thiết bị công nghiệp - Bộ công nghiệp, viết tắt là DUFUDOCO. Ngày 22/5/1998 theo quyết định 292QĐ/TCSDT Bộ công nghiệp nặng quyết định thành lập lại nhà máy dụng cụ số 1. Ngày 1/1/2004 nhà máy đổi tên thành Công ty cổ phần dụng cụ số 1- Đây là bước ngoặt quan trọng đối với công nhân, viên chức và lao động của công ty, chuyển từ công ty của Nhà nước - được trợ cấp của Nhà nước sang công ty cổ phần. Do mới cổ phần trong thời gian ngắn nên công ty hầu như không có gì thay đổi lớn trong việc sắp xếp cơ cấu, sản xuất kinh doanh. Hiện nay, hàng năm công ty nắm 49% tổng doanh thu, nộp lên Tổng công ty 51%. Nhân viên công ty đã nhận thức được rằng cổ phần hoá là có sự đóng góp của tất cả các thành viên, nên ý thức trách nhiệm của mỗi người được nâng lên rõ rệt. 1.2 Bộ máy tổ chức quản lý của công ty. Từ khi chuyển sang công ty cổ phần hoá. Vì vậy, bộ máy tổ chức quản lý cũng phải phù hợp với điều kiện mới, bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm sát. Trong hội đồng quản trị bầu ra giám đốc điều hành; dưới giám đốc là các phó giám đốc phụ trách về sản xuất - kỹ thuật, phó giám đốc phụ trách kinh doanh, tiếp đó là các phòng ban. Bên sản xuất kỹ thuật gồm có: Phòng kế hoạch. Phòng kỹ thuật. Phòng cơ điện. Phòng KCS. Công tác định mức lao động. Công tác an toàn lao động và đào tạo. Phân xưởng cơ khí 1. Phân xưởng cơ khí 2. Phân xưởng cơ khí 3. Phân xưởng cơ khí 4. Phân xưởng dụng cụ. Phân xưởng nhiệt luyện. Phân xưởng bao gói. Bên kinh doanh gồm: Ban kiểm tra cơ bản. Phòng thương mại. Phòng kinh doanh vật tư. Các đại lý. Cửa hàng dịch vụ cơ điện. Phòng tài chính kế toán. Phòng tổ chức lao động. Phòng y tế. Phòng bảo vệ. Trung tâm kinh doanh các chi nhánh liên quan. 1.3 Tình hình sản xuất kinh doanh. Công ty cổ phần dụng cụ số 1 thuộc Tổng công ty máy và thiết bị công nghiệp; sản xuất chủ yếu các sản phẩm: dụng cụ cắt kim loại: bàn ren, tarô, mũi khoan, dao phay, dao tiện, lưỡi cưa máy, dao cắt tôn... Trong vài năm gần đây, do sự chuyển biến của thị trường, sản phẩm của công ty tiêu thụ chậm và giảm bởi trình độ công nghệ còn thấp, thiết bị sử dụng đã quá lâu, sản phẩm làm ra chất lượng chưa cao so với hàng nhập ngoại và giá thành còn chưa hợp lý. Trước tình hình đó, công ty đã nghiên cứu thay thế một số thiết bị cũ bằng thiết bị mới hiện đại hơn; nghiên cứu cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Vì vậy, hoạt động sản xuất của Công ty trong cơ chế thị trường đã nhanh chóng ổn định, thu nhập bình quân ngày càng tăng lên. Quan sát bảng dưới đây ta sẽ chứng minh điều này: Bảng 1: Kết quả kinh doanh từ năm 1999- 2003: (Nguồn của phòng Công đoàn) Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng GTSL Tr VNĐ 9344 9971 11062 12175 14110 Tổng doanh thu Tr VNĐ 12000 14743 18800 21035 17205 Trong đó:-DTCN Tr VNĐ 8230 9698 10854 12142 13120 DT TM & DV Tr VNĐ 3770 5045 7946 8893 9380 Nộp ngân sách Tr VNĐ 512,9 688,87 780,8 836,7 903,8 Lao động Người 414 406 419 402 445 TN bình quân đ/ng/th 680000 770000 875000 919000 938000 2. Sự biến đổi vai trò của Công đoàn công ty trước và sau cổ phần hoá. 2.1 Vai trò của Công đoàn trước cổ phần hoá. Cho đến nay, đất nước ta đã có nhiều thành tựu rực rỡ, nền kinh tế phát triển, tốc độ tăng trưởng vào loại cao trên thế giới. Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần - định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chú trọng kinh tế nhà nước mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp nhà nước, khi chuyển sang cơ chế thị trường, trải qua những thách thức gay gắt. Dưới tác động của cơ chế thị trường, do sự chi phối của quy luật kinh tế hàng hoá, đã diễn ra một quá trình sàng lọc, thải loại quy mô lớn ở thành phần kinh tế nhà nước. Quá trình sàng lọc đó đã làm cho một số doanh nghiệp thích ứng phát triển làm ăn có lãi, một số khác làm ăn cầm chừng, cầm cự được, số còn lại là làm ăn thua lỗ, thậm chí một số doanh nghiệp phải phá sản, giải thể. Công ty trước khi cổ phần hoá nổi lên những vấn đề sau: - Bộ máy tổ chức quản lý còn rườm rà, mang tính bao cấp, trì trệ, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất; chưa phát huy được tính sáng tạo trong công nhân viên chức; số lao động gián tiếp chiếm tỷ lệ rất cao gần 40%; cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ sản xuất cũ kỹ, lạc hậu và ngày càng xuống cấp. Sản phẩm không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng chủng loại trên thị trường; không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của các công ty, doanh nghiệp… Điều này dẫn đến nhiều khi sản phẩm sản xuất ra còn tồn đọng. Nếu cứ sản xuất tiếp thì tiếp tục thua lỗ, còn không thì công nhân không có việc làm - đây là gánh nặng đối với Nhà nước. - Trong khi đó thì vốn để đầu tư cải tiến trang thiết bị máy móc lại rất thấp. Một câu hỏi luôn đặt ra đối với lãnh đạo công ty là làm sao đưa công ty mình đi lên, phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm ổn định cho cán bộ công nhân viên toàn công ty. Để góp phần giải quyết lao động dôi dư, bảo toàn vốn doanh nghiệp và tăng cường một bước quyền làm chủ của công nhân, viên chức và lao động. Đảng và Nhà nước đã chủ trương cổ phần hoá một bộ phận các doanh nghiệp nhà nước, nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2001 có ghi: “Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho người lao động mua cổ phần hoá mà từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước” (chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001). Đứng trước tình hình đó, cổ phần hoá là một nhu cầu cấp bách, sự sống còn đối với sự tồn tại và phát triển công ty; là một tất yếu khách quan trong thời kỳ đổi mới, là nguyện vọng của toàn thể cán bộ, công nhân viên của công ty. Có thể nói rằng, vai trò của Công đoàn trong thời kỳ này chưa thực sự có nhiều niềm tin của công nhân, viên chức và lao động; chưa thực sự là người đại diện bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng, đặc biệt là việc làm cho họ. Do vậy, Công đoàn chưa phát huy hết tác dụng của mình; chưa tham gia tốt chức năng tham gia quản lý, tham gia bảo vệ quyền lợi của công nhân, lao động. Có người cho rằng vai trò của Công đoàn thực sự là không cần thiết. Cán bộ công đoàn tâm huyết với nghề thì thường suy nghĩ là làm thế nào để họ tin tưởng vào tổ chức của giai cấp, tầng lớp mình; để Công đoàn là sợi dây nối liền Đảng với công nhân, viên chức, lao động toàn công ty. 2.2 Vai trò của Công đoàn từ khi cổ phần hoá. Trước tình hình kể trên, được sự quan tâm của ban lãnh đạo Tổng công ty cũng như của công ty, sự ủng hộ từ phía người lao động, công ty đã tiến hành cổ phần hoá. Việc này đã đem lại động lực mới và thành công cho công ty, người lao động từ vai trò làm công trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp nên càng có trách nhiệm cao trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cơ chế mới - công ty cổ phần cũng đem lại cho công ty một bộ máy quản lý gọn nhẹ, tinh giảm nhưng hoạt động có trách nhiệm, năng động và hiệu quả, các tổ chức đoàn thể phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng của mình trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng cuả đoàn viên, hội viên và tham gia quản lý công ty. Công tác quản lý của Công đoàn có ý nghĩa quan trọng trong việc chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động. Thực hiện quy định của Nhà nước và Công đoàn cấp trên, hàng năm Công đoàn công ty đã cùng với chuyên môn chuẩn bị và mở Đại hội công nhân viên chức trong công ty theo đúng tiến độ và nội dung chỉ đạo của Công đoàn cấp trên để đạt kết quả tốt. Trong đó có việc bỏ phiếu thăm dò tín nhiệm cán bộ chủ chốt của công ty; ký và duy trì thực hiện thoả ước lao động tập thể. Do vậy, quyền lợi cơ bản của công nhân, viên chức, lao động trong công ty như việc làm, thu nhập, nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tạo điều kiện cho công nhân, viên chức và lao động đi nghỉ mát hàng năm, chế độ nâng lương, nâng bậc, chế độ hiếu hỷ vẫn được bảo đảm; đặc biệt là công tác bảo hộ lao động và an toàn vệ sinh lao động. Công đoàn đã kịp thời tham gia cùng chuyên môn xây dựng các quy chế quản lý, xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ trong công ty, phân công các đồng chí cán bộ chủ chốt của công ty thường trực tiếp dân, tiếp thu và giải quyết kịp thời kiến nghị của công nhân, lao động. Ngoài ra, công tác tuyên truyền giáo dục cũng được quan tâm nhằm giúp đỡ công nhân, viên chức, lao động hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, các nghị quyết của Tổng công ty. Qua đây góp phần nâng cao nhận thức, trình độ và định hướng suy nghĩ, hành động cho công nhân, viên chức, lao động tiếp tục hoàn thành kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh và đáp ứng có hiệu quả quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp; trong đó nâng cao tay nghề cho công nhân được đặc biệt coi trọng. Như vậy, để thực hiện khẩu hiệu “việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”, cùng với sự lãnh đạo của Công đoàn cấp trên, tổ chức Công đoàn công ty đã tích cực đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động hướng về Công đoàn cơ sở, Công đoàn bộ phận; lấy công nhân, viên chức và lao động làm đối tượng vận động, lấy chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân, lao động và thúc đẩy sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hoạt động. Tuy nhiên, công ty mới bước vào cổ phần hoá trong thời gian ngắn (1/1/2004) nên trong hoạt động bước đầu còn gặp không ít khó khăn, đây cũng là quá trình thử nghiệm để Công đoàn rút ra những bài học cho hoạt động trong thời gian tới. Bảng 2: Vai trò của Công đoàn công ty trước và sau cổ phần hoá: Tốt hơn Như cũ Kém hơn Khó nói 30,1% 60% 2,1% 7,8% (Nguồn: điều tra xã hội học) Nhìn vào số liệu ta thấy có 30,1% số người được hỏi cho rằng vai trò của Công đoàn đã có sự chuyển biến tích cực, 60% cho rằng vai trò của Công đoàn vẫn như cũ. Như vậy, ta thấy rằng vai trò của Công đoàn chưa có sự chuyển biến mạnh vì công ty cũng mới chỉ tiến hành cổ phần hoá trong thời gian ngắn. 3. Vai trò của Công đoàn công ty. 3.1 Tình hình phong trào công nhân lao động và hoạt động của Công đoàn trong những năm qua. Trong những năm qua, đội ngũ công nhân viên chức luôn vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Công đoàn cấp trên; tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt để hoà nhập với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phong trào công nhân, viên chức, lao động tiếp tục phát triển đồng đều cả chiều rộng lẫn chiều sâu, thu hút đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia trên mọi lĩnh vực, góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Kết quả là năm 2003 so với năm 2002 tổng giá trị sản lượng tăng 6,5%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 2%. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động Công đoàn còn chịu sự tác động của các yếu tố bên ngoài, đó là mặt trái của nền kinh tế thị trường như: các tệ nạn xã hội, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội càng rõ nét, ảnh hưởng trực tiếp đến tâm tư, tình cảm của đại bộ phận cán bộ công nhân viên; hàng nhập lậu, hàng giả vẫn trôi nổi ngoài thị trường tạo nên sự cạnh tranh không cân sức với hàng sản xuất trong nước. Đối với công ty, ngoài những khó khăn chung của đất nước, của ngành cơ khí, còn có những khó khăn riêng: nhà xưởng, thiết bị đã quá lạc hậu, xuống cấp chưa được đầu tư mới. Đội ngũ công nhân viên chức trong công ty phần đông đã lớn tuổi, sức khoẻ giảm sút theo thời gian công tác, được đào tạo theo chuyên môn khá sâu, đã quen với nếp làm ăn cũ, nay hoà nhập với tình hình mới bộc lộ nhiều yếu kém. Số cán bộ công nhân viên còn trẻ mới được tuyển dụng có trình độ, sức khoẻ song còn thiếu kinh nghiệm, tiền lương thu nhập tại công ty còn quá thấp so với yêu cầu cuộc sống nên chưa có sức thuyết phục động viên họ. Trong điều kiện như vậy, tổ chức Công đoàn trong quá trình hoạt động có cả những thuận lợi và khó khăn: Thuận lợi: trở thành công ty cổ phần hoá từ một doanh nghiệp nhà nước, mọi lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động đồng nhất với nhau và gắn liền với lợi ích của công ty. Do đó, quan hệ về lợi ích không mang tính chất phức tạp như những loại hình doanh nghiệp khác. Công đoàn công ty được sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ công ty, mọi hoạt động của Công đoàn công ty dựa trên cơ sở quy chế phối hợp được soạn thảo giữa ban chấp hành Công đoàn và giám đốc công ty, thể chế hoá đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của người lao động cùng với các chính sách, biện pháp hoạt động Công đoàn. Công đoàn - Tổ chức của giai cấp công nhân và người lao động, đại diện bảo vệ họ nên thu hút được đông đảo công nhân, viên chức, lao động tham gia: 100% cán bộ công nhân viên đều là thành viên Công đoàn. Điều này chứng tỏ rằng tổ chức Công đoàn đã gây được lòng tin rất lớn. Cán bộ Công đoàn từ cấp công ty tới các cơ sở, bộ phận đều tận tụy và tích cực tham gia công tác. Khi có tâm tư, nguyện vọng, đề xuất gì thì đoàn viên đều tìm đến cán bộ Công đoàn. Khó khăn: kinh phí hoạt động còn quá ít ỏi, tài chính chủ yếu dựa vào khoản thu 1% kinh phí Công đoàn và 0,7% tiền thu đoàn phí Công đoàn cấp trên để lại cơ sở. Nguồn thu thì ít nhưng việc chi tiêu phải dàn trải ra nhiều lĩnh vực mà theo thoả ước lao động lẽ ra phải chi ở nguồn quỹ phúc lợi. Song do đặc thù công ty không có quỹ phúc lợi nên phải chi vào nguồn kinh phí Công đoàn. 100% cán bộ công đoàn đều là bán chuyên trách, thời gian dành cho hoạt động Công đoàn bị hạn chế. Để phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn. Tổ chức Công đoàn cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của mình, Công đoàn công ty cũng cần được sự quan tâm của Công đoàn cấp trên và ban lãnh đạo công ty. Bảng 3: Sự cần thiết của công đoàn công ty và công đoàn cơ sở: Tính theo phần trăm (%) Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Công đoàn công ty 27,3 63,6 9,1 Công đoàn cơ sở 25,3 66,7 8 (Nguồn: điều tra xã hội học) Như vậy, có 27,3% số người được hỏi cho rằng tổ chức Công đoàn công ty là rất cần thiết, 63,6% cho rằng là cần thiết, trong khi đó chỉ có 9,1% số người cho răng Công đoàn công ty là không cần thiết và tổ chức Công đoàn cơ sở cũng có kết quả tương tự như vậy. Biểu 1: Mức độ tham gia Công đoàn của đoàn viên công đoàn Nhìn vào bảng trên ta thấy: mức độ tham gia sinh hoạt Công đoàn rất thường xuyên: 30% số người được hỏi; 40% đánh giá sinh hoạt Công đoàn thường xuyên; thỉnh thoảng tham gia sinh hoạt là 28% và không tham gia sinh hoạt chỉ chiếm 2%. Trong thời gian qua, các mặt hoạt động của Công đoàn luôn bám sát chức năng, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của mình, vận dụng linh hoạt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Công đoàn cấp trên vào tình hình cụ thể; lấy công nhân, lao động là đối tượng phục vụ. Góp phần đáng kể vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần. 3.2. Vai trò của Công đoàn trong việc chăm lo, bảo vệ lợi ích cho công nhân, lao động. 3.2.1 Vai trò của Công đoàn trong việc giải quyết việc làm, chăm lo đời sống công nhân lao động. Hiện nay, việc làm đã trở thành vấn đề xã hội bởi những tác động tiêu cực của nạn thất nghiệp đang ngày càng diễn ra phức tạp và giải quyết việc làm cho người lao động cũng là mục tiêu của chiến lược kinh tế - xã hội. Đây là “yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh hoá xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX). Tại điều 13, Bộ luật Lao động nước ta có ghi “Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội”. Đảng, Nhà nước có biện pháp giải quyết việc làm: Nhà nước xây dựng và thực hiện chương trình quốc gia giải quyết việc làm trong từng thời kỳ phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của từng vùng, các ngành, các địa phương, cho các đối tượng khác nhau trong xã hội. Lập quỹ quốc gia giải quyết việc làm từ nhiều nguồn để hỗ trợ và bảo đảm vốn thực hiện các chương trình quốc gia giải quyết việc làm, hỗ trợ vốn cho người nghèo phát triển kinh tế, tìm và tạo việc làm. Bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách cụ thể về lao động và việc làm, khuyến khích các lĩnh vực, các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân tạo chỗ làm mới, ổn định và phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động. Mở rộng và phát triển các trung tâm dạy nghề và dịch vụ giới thiệu việc làm ở các ngành, địa phương, các tổ chức xã hội có yêu cầu lớn về dạy nghề và tìm việc làm, trước hết là cho thanh niên đến độ tuổi lao động. Đại hội Công đoàn lần thứ VIII đã đề ra “thu hút tập hợp đông đảo công nhân viên lao động góp phần cùng Nhà nước tham gia giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là những đơn vị cổ phần hoá, tiến hành sắp xếp lại sản xuất hoặc giải thể. Khuyến khích, hỗ trợ công nhân, viên chức, lao động tìm kiếm mở mang các hoạt động dịch vụ xã hội, sản xuất phát triển kinh tế gia đình để tăng thu nhập, thực hiện xoá đói giảm nghèo, từng bước ổn định và cải thiện đời sống công nhân, đẩy lùi tệ nạn xã hội”. Công đoàn tham gia giải quyết việc làm là đáp ứng nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của người lao động, bởi việc làm là lợi ích thiết thực nhất, là cơ sở để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình bằng thu nhập chính đáng và ổn định. a. Công đoàn tham gia giáo dục công nhân lao động nâng cao nhận thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trong thời đại nền kinh tế tri thức như hiện nay thì việc nâng cao trình độ nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ là hết sức cần thiết; nếu không sẽ bị thụt lùi so với sự phát triển chung của đất nước. Vì vậy, việc nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, viên chức và lao động tại công ty là nhiệm vụ quan trọng và không kém phần khó khăn phức tạp. Trong quá trình lao động không thể tránh khỏi những bất cập về chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công nhân, lao động trước sự phát triển của khoa học công nghệ. Nhận thức được điều này Công đoàn công ty đã có những biện pháp thiết thực. Hàng năm công ty đã mở lớp huấn luyện cho công nhân để nâng cao tay nghề, huấn luyện cho công nhân mới tuyển dụng, huấn luyện cho công nhân sử dụng máy móc, làm quen với quy trình sản xuất tại công ty. Bảng 4 : Tình hình công nhân lao động trong thời gian 1999- 2003: Năm Tổng số lao động (người) Nữ (người) Đại học/ cao đẳng (người) THCN (người) Thợ (người) Thu nhập bình quân (đồng) 1999 414 136 40 98 276 680000 2000 406 120 43 99 264 770000 2001 419 130 47 110 262 875000 2002 402 137 50 118 234 919000 2003 445 143 57 150 238 938000 (Nguồn của phòng Tổ chức lao động) Nhìn chung số người có trình độ đại học/cao đẳng tại công ty chiếm tỷ lệ 10 - 12%; Trung học chuyên ngiệp: 35%. Trong số thợ trực tiếp thì lao động bậc cao chiếm tỷ lệ khá cao: thợ dưới bậc 3: 10%; thợ bậc 3 - 5 chiếm 29%; thợ bậc 5 - 7 chiếm 61%. Trung bình tay nghề của công nhân đạt 5,7 - đây là con số khá cao so với trình độ chung về tay nghề của công nhân, lao động cả nước. Điều này sẽ là điều kiện thuận lợi đối với công ty, hy vọng rằng trình độ tay nghề của người lao động càng được nâng lên trong thời gian tới. Để có đội ngũ này, sự đóng góp của Công đoàn công ty là không nhỏ. b. Công đoàn tham gia xây dựng, thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh. Kế hoạch sản xuất kinh doanh được công ty đặt lên hàng đầu, xây dựng một cách tỉ mỉ và công phu. Công đoàn cùng với phòng chuyên môn phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của năm trước, các hợp đồng đã ký kết và khả năng mở rộng thị trường của công ty. Trên cơ sở đó, Công đoàn chủ động tham gia đóng góp ý kiến với chuyên môn xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh sát với thực tế hơn, góp phần thực hiện các nhiệm vụ đặt ra của công ty. Để làm tốt công tác này, ban thường vụ đã tổ chức Đại hội công nhân viên chức, lấy ý kiến bàn bạc dân chủ và công khai, sau đó tổng hợp lên Công đoàn công ty. Trong những năm qua, Công đoàn công ty đã thực hiện tốt chức năng của mình đó là bảo vệ lợi ích cho công nhân, lao động, tích cực tham gia xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao. Tổng doanh thu năm 2003 đạt 2,5 tỷ đồng - tăng 6,5% so với năm 2002, thu nhập bình quân là 938000 đồng - tăng 2% so với năm 2002. Tạo việc làm và giải quyết tốt việc làm cho công nhân lao động. Công đoàn phối hợp với các phòng chức năng và chuyên môn tìm biện pháp, cải tiến chất lượng mẫu mã sản phẩm; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Kết quả là sản lượng và giá trị sản phẩm đều tăng lên, từ đó nâng cao thu nhập của người lao động. Quan sát bảng dưới đây sẽ cho ta thấy rõ điều này: Bảng 5: Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2001- 2003: 2001 2002 2003 Số lượng Giá trị Số lượng Giá trị Số lượng Giá trị Giá trị TSL theo giá CĐ 12178,6 13500 15500 Dụng cụ cắt kim loại 277351 3914,0 212306 4840,0 291650 43000 Máy kéo và phụ tùng máy 1375,8 1600,0 1700,0 Hàng dầu khí 1697,4 1660,0 1700,0 Sản phẩm các loại 1806,0 1900,0 2000,0 Neo cầu 5623 7000 7000 900,0 Neo kíp 1822 2400 2100 1100,0 Dụng cụ cắt vật liệu hữu cơ 180,0 7000,0 500,0 Các sản phẩm khác 3250,4 2800,0 3300,0 (Nguồn của Phòng kế hoạch) Đạt được kết quả trên, Công đoàn cũng đã tổ chức phong trào: + “Phong trào thi đua nâng bậc, thi đua lao động giỏi” Với mục tiêu đẩy mạnh và phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo việc làm đời sống cho cán bộ công nhân, viên chức và lao động, xây dựng đội ngũ công nhân lao động và tổ chức Công đoàn lớn mạnh. Hàng năm, Công đoàn đã cùng chuyên môn tổ chức nhiều đợt thi đua nhằm vận động công nhân, viên chức và lao động phát huy tính năng động sáng tạo, hăng hái thi đua lao động giỏi với năng suất cao nhất, chất lượng tốt nhất, tiết kiệm nhiều nhất. Công đoàn cùng với Ban giám đốc và các phòng chuyên môn, chức năng tổ chức phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua lao động giỏi. Qua các phong trào này động viên khuyến khích công nhân, lao động hăng say làm việc. Năm 2003 có 15 lao động giỏi cấp cơ sở, 2 lao động giỏi cấp Tổng công ty. Hầu hết ý kiến của anh em công nhân, lao động đều cho rằng: “Chúng tôi mong muốn hàng năm Công đoàn phối hợp với chuyên môn tổ chức được những phong trào thi thợ giỏi, thi nâng bậc… Đó là một việc rất hữu ích, giúp chúng tôi có điều kiện trau dồi kiến thức, học hỏi lẫn nhau để nâng cao tay nghề của mình”. (Anh Nguyễn Văn Dũng, 35 tuổi, bậc thợ 4/7) + “Phong trào lao động sáng tạo” Phong trào này thu hút đông đảo cán bộ công nhân viên toàn công ty, nhất là đội ngũ cán bộ kỹ thuật, tìm tòi phát huy sáng kiến thực hành tiết kiệm, nghiên cứu ứng dụng dây chuyền sản xuất mới vào trong sản xuất: cải tiến trang thiết bị máy móc, giảm phế phẩm, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm 5 - 10% vật tư, năng lượng. Trước kia thị trường truyền thống của công ty là Liên xô, Nhật Bản. Sản phẩm sản xuất đến đâu thì xuất xưởng đến đó. Nhưng vài năm gần đây, sản phẩm chỉ bán được trong nước phục vụ các ngành máy móc như dầu khí, mía đường, bánh kẹo, xi măng… Như vậy, thị trường bị thu hẹp. Công đoàn đã phối hợp với chuyên môn tìm mọi biện pháp mở rộng thị trường, lấy lại uy tín đối với khách hàng, tìm đối tác làm ăn. Đặc biệt là tìm cách tiếp cận với thị trường nước ngoài để sản phẩm của công ty ngày càng mở rộng hơn nữa. Hiện nay, kế hoạch của công ty là xuất khẩu sản phẩm sang thị trường các nước Đông Nam á với sản lượng đạt 10000 tấn sản phẩm/năm c. Công đoàn tham gia công tác tuyển dụng, sử dụng lao động hợp lý, giảm lực lượng lao động dôi dư. Về việc tuyển dụng lao động: đây là việc làm thường xuyên nhằm bổ sung lực lượng lao động cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong đó, tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn tay nghề, có sức khoẻ là điều kiện quyết định chất lượng lao động. Công đoàn căn cứ vào nhu cầu, đối tượng cần tuyển dụng của các phòng, ban, phân xưởng để cùng với chuyên môn xây dựng quy chế tuyển dụng. Hiện nay, đội ngũ công nhân viên trong công ty phần lớn đã lớn tuổi, trung bình độ tuổi là 40 - họ được đào tạo theo chuyên môn khá sâu nhưng thích ứng với sự hoà nhập về công nghệ sản xuất còn chậm. Số lao động trẻ mới được tuyển dụng có trình độ, có sức khoẻ nhưng còn thiếu kinh nghiệm. Công đoàn đã tổ chức những buổi giao lưu để lớp trẻ học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước. Năm 2003, do thực hiện Nghị định 64/2002/NĐ/CP (năm 2002) về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần, số lao động dôi dư giải quyết theo NĐ 41/CP là 90 người, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến mức sống của người lao động và giải quyết việc làm cho số lao động này là vấn đề cấp bách đặt ra cho lãnh đạo công ty cùng tổ chức Công đoàn. Những lao động đã đủ tuổi đời, năm công tác; công ty giải quyết cho nghỉ theo chế độ quy định của Nhà nước, còn số lao động trẻ có nguyện vọng làm việc ở nơi khác, công ty tạo điều kiện thuận lợi về giấy tờ, thủ tục. Số còn lại thì phải tổ chức đào tạo lại để đáp ứng với công việc mà công ty đang cần. Mỗi năm công ty tuyển dụng một số lao động vào làm việc tại công ty bằng nhiều hình thức thi tuyển, thông qua hội chợ việc làm… để thu hút người lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cao. Khi được nhận vào làm việc, công ty mở lớp huấn luyện để họ làm quen với môi trường, công nghệ sản xuất. Bảng 6: Tình hình đào tạo công nhân mới vào làm việc (1999 - 2003) Năm 1999 2000 2001 2002 2003 Số lao động (người) 32 25 20 30 41 (Nguồn của Phòng Công đoàn) Theo chú Nguyễn Sỹ Nghĩa, phó phòng Tổ chức lao động: “Hàng năm, công ty đều tuyển dụng lao động mới vào làm việc, tuy với số lượng không lớn nhưng công ty rất quan tâm đến công tác này. Số lao động này đạt yêu cầu sức khoẻ, trình độ tay nghề để bổ sung kịp thời quá trình sản xuất của công ty”. d. Công đoàn tham gia cải thiện điều kiện làm việc, chăm lo sức khoẻ tới người lao động. Là công ty sản xuất ra sản phẩm công nghiệp: tarô, máy kéo, neo cầu... người lao động phải làm việc trong điều kiện môi trường độc hại, tiếp xúc với hoá chất, với tiếng ồn, bụi… nhất là phân xưởng nhiệt luyện. Do vậy, việc cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân được ủng hộ nhiệt tình. Công ty thường xuyên có những hoạt động kiểm tra. Năm 2003 làm lại trần phòng doa toạ độ; mua gỗ đóng mới gỗ đứng máy, làm mới xe chở nước tưới cho các phân xưởng, hiệu chỉnh lại hệ thống điện chiếu sáng, làm buồng chống rét cho nhân viên giữ xe, sửa chữa, nâng cấp nhà vệ sinh nam, nữ, vệ sinh móng mái, trần nhà xưởng… Qua bảng trưng cầu với câu hỏi “Trong thời gian làm việc Ông (bà) được Công đoàn hỗ trợ những gì?”. Có 90% số người được hỏi cho rằng Công đoàn đã tham gia cải thiện điều kiện làm việc. Như vậy, tổ chức Công đoàn công ty rất quan tâm đến đời sông của công nhân, lao động. e. Công đoàn tham gia đổi mới, phát triển khoa học công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất. Khi mới được thành lập, công ty được lắp đặt các thiết bị của những nước có trình độ máy công cụ tiên tiến như Liên Xô, Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan… Nhưng trải qua thời gian, các thiết bị này đã bị lạc hậu. Để sản phẩm của mình đạt năng suất, chất lượng cao thì đổi mới công nghệ sản xuất là một việc làm cần thiết để tạo việc làm cho công nhân, lao động. Công ty đã lựa chọn và thành lập các tiểu ban nghiên cứu từng vấn đề kỹ thuật cụ thể: tiểu ban nghiên cứu chất lượng của tarô tay hay tarô liên hiệp, tiểu ban quản lý kỹ thuật nhiệt luyện, tổ chức các nhóm đề tài sáng kiến gồm chủ nhiệm đề tài và các công nhân kỹ thuật say mê sáng tạo. Cải tiến công tác kiểm tra từ chỗ chỉ kiểm tra theo công._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0087.doc
Tài liệu liên quan