Đánh giá tình hình sử dụng đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Mục lục Lời mở đầu Đất đai là một tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại và phát triển của con người, các sinh vật khác trên trái đất. Đối với mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp, đất đai là nguồn tài nguyên, nguồn lực, và là yếu tố hàng đầu vào rất quan trọng không thể thiếu đươc. Đất đai được sử dụng cho nhiều ngành kinh tế khác nhau và cho cả cuộc sống con người. Trên thế giới và đối với mỗi một quốc gia, đất đai là nguồn tài nguyên và nguồn lực có hạn, việc sử dụng t

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá tình hình sử dụng đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài nguyên đất đai và và việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước một cách tiết kiệm để đảm bảo hiệu quả cao là vấn đề vô cùng quan trọng và có ý nghĩa rất lớn. Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn nhưng vô cùng quan trọng và quý giá đặc biệt đối với Thủ đô Hà Nội nói riêng. Để trở thành một thành phố hiện đại xanh sạch đẹp, sử dụng đất đai có hiệu quả cao trong tương lai, nhu cầu sử dụng đất đai cho các ngành. Mục đích phát triển Thủ đô, dân cư, xây dựng các cụm Công nghiệp, dịch vụ- du lịch, hạ tầng cơ sở, đất nông - lâm nghiệp. Để chuyển đổi mục đích sử dụng cho mục đích nào đó tăng lên thì mục đích khác sẽ giảm đi bởi vì đất đai ở Thành phố Hà Nội có giới hạn về diện tích. Vì vậy việc bố trí sử dụng đất đai đáp ứng cho nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng có hiệu quả hơn, một cách hợp lý tạo điều kiện phát triển mọi mặt cho Thành phố là một vấn đề lớn và bức bách, đòi hỏi các nhà quản lý và người sử dụng đất phải sử dụng đúng mục đích được giao, bên cạnh đó xác định mục tiêu sử dụng đất trong những năm tới. Để góp phần hoàn thiện hơn về việc sử dụng đất hợp lý, là một sinh viên thực tập tại Sở Địa chính- Nhà đất Hà Nội, em chọn đề tài: “Đánh giá tình hình sử dụng đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của chuyên ngành kinh tế và quản lý địa chính- Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Báo cáo đề tài ngoài phần đặt vấn đề và phần kết luận còn có những nội dung sau: Chương I: Cơ sở khoa học của việc sử dụng đất đai. Chương II: Thực trạng sử dụng đất đai Thành phố Hà Nội hiện nay. Chương III: Một số kiến nghị về tình hình sử dụng đất đối với các cơ quan quản lý cấp trên. Mục tiêu của đề tài này: Kiểm tra, đánh giá thực trạng tiềm năng đất, tình hình sử dụng đất theo kế hoạch và bên cạnh đó chỉ ra được phương án xây dựng đầu tư hợp lý, các loại đất theo các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Do tính chất phức tạp của đất đai và điều kiện khó khăn thực tế trên địa bàn Hà Nội. Do trình độ và năng lực có hạn nên báo cáo chuyên đề này không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I Cơ sở khoa học của việc sử dụng đất I. Khái niệm và vai trò đất đai. 1. Khái niệm. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch sử phát triển kinh tế xã hội, đất đai là điều kiện chung của lao động. Về bản chất, đất đai là vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập, lâu đời do kết quả của quá trình hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình thành gồm: Đá, thực vật, động vật, khí hậu và thời gian. Do đất đai có vị trí đặc biệt trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi con người và của mỗi quốc gia. Đất đai cùng với các điều kiện là một trong những cơ sở quan trọng để hình thành các vùng kinh tế của đất nước, của mỗi lãnh thổ quốc gia. Đất đai có vị trí cố định và tính giới hạn. Đất đai không thể sản sinh ra mà cùng thời gian đất đai có thể bị mất đi. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng đất đai một cách hợp lý là một trong những vấn đề mà mọi quốc gia đều quan tâm. ở Việt Nam việc quản lý đất đai đã được thực hiện ngay trong những ngày đầu giành được độc lập. Theo luật đất đai năm 1993 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi:” Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý gía, là tư liệu sản xuất, đặc biệt là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay”. 2.Vai trò đất đai trong đời sống kinh tế xã hội. đất đai là một trong những bộ phận lãnh thổ của mỗi quốc gia. Nói đến chủ quyền của mỗi quốc gia là phải nói đến những bộ phận lãnh thổ trong đó có đất đai. Tôn trọng chủ quyền của mỗi quốc gia, trước hết phải tôn trọng lãnh thổ của quốc gia đó vì thế đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, xã hội loài người. Nếu không có đất đai thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, một quá trình lao động sản xuất nào cũng như không thể có sự tồn tại của loài người. Đất đai là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá của loài người, điều kiện sống và sự sống của động thực vật và con người trên trái đất. Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất ngày càng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đất đai trở thành nguồn của cải vô tận của con người.Thông qua các hoạt động khai thác đất đai như trồng trọt, chăn nuôi mà con người có thể làm ra những sản phẩm cần thiết phục vụ nhu cầu của con người. Đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Không có đất đai thì không có sự tồn tại của con người ngày nay, không có bất kỳ ngành sản xuất nào. Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, công trình,công nghiệp, giao thông...Đất đai cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp như gạch ngói, xi măng, gốm sứ...Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất. Tuy vậy, đối với từng ngành cụ thể của nền kinh tế quốc dân, đất đai có vị trí khác nhau. Đất đai là nguồn của cải, là tài sản cố định, là thước đo nguồn lực giàu có của mỗi con người, của mỗi quốc gia, là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính thông qua sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và là nguồn lực cho các mục đích sản xuất và tiêu dùng. Đất đai gắn liền với khí hậu, môi trường trên phạm vi toàn cầu cũng như từng vùng, từng miền lãnh thổ. Trải qua lịch sử hàng triệu năm của trái đất, khí hậu (môi trường) nhiều biến động do những nguyên nhân tự nhiên hoặc do tác động của con người thông qua quá trình khai thác và sử dụng đất, con người đã tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến môi trường sống của mình, làm biến đổi khí hậu đồng thời cũng không ngừng chinh phục được thiên nhiên giúp cho xã hội ngày càng phát triển. Đất đai có vị trí và vai trò khác nhau trong từng ngành kinh tế quốc dân.Trong ngành công nghiệp, đất đai làm nền tảng, làm địa điểm để tiến hành các hoạt động sản xuất, làm nền móng để xây dựng các nhà máy, công xưởng, kho tàng, bến bãi, các công trình giao thông và các công trình khác đòi hỏi cần có sự cải tạo nó cho hoạt động sản xuất. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp, là sự phát triển các ngành khác nhau như xây dựng các công trình dân cư phát triển đòi hỏi xây dựng nhà ở và hình thái các khu dân cư, khu đô thị mới. Đồng thời với nó là sự phát triển ngày càng cao của hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho nhu cầu đi lại và sinh hoạt của dân cư. Những nhu cầu này ngày càng tăng làm cho nhu cầu về đất đai các ngành đó cũng tăng theo. Trong nông nghiệp, đất đai có vị trí hết sức quan trọng, là yếu tố hàng đầu của ngành sản xuất này. Đất đai trong nông nghiệp vừa là tư liệu sản xuất vật chất vừa là đối tượng lao động. Đất đai không chỉ là chỗ ở, chỗ đứng để lao động mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng, mọi tác động của con người đều dựa vào đất đai và thông qua đất đai. Vì vậy, dù quá trình sản xuất nông nghiệp hay sản xuất kinh doanh các sản phẩm khác thì đều là quá trình khai thác hoặc quá trình sử dụng đất. Vì thế, không có đất đai thì các hoạt động khác đều không xảy ra. Vì đất đai có vị trí cố định, không di chuyển được, đất đai không thể sản sinh ra và bị giới hạn bởi vụng hành chính lãnh thổ, quốc gia và theo đặc tính của đất đai, tính hai mặt của đất đai được thể hiện có thể tái tạo nhưng không thể sản sinh ra đất đai. Bên cạnh đó, trong các yếu tố cấu thành môi trường: đất đai, nguồn nước, khí hậu, cây trồng, vật nuôi, hệ sinh thái... thì đất đai đóng vai trò quan trọng. Những biến đổi, những phá vỡ hệ sinh thái ở vùng nào đó trên trái đất ngoài tác động ảnh hưởng của tự nhiên thì ngày nay con người cũng là nguyên nhân gây nên rất lớn: lũ lụt do phá rừng, canh tác bất hợp lý, đắp sông ngăn đập... Tất cả những việc đó đều ảnh hưởng đến môi trường. Việc sử dụng hợp lý và hiệu quả đất đai có vai trò không nhỏ trong việc bảo vệ môi trường, hệ sinh thái. Sử dụng đất đai hiệu quả và hợp lý giúp cho đất đai tránh được xói mòn, bảo vệ môi trường sinh thái và đạt hiệu quả kinh tế cao. Trong thời kỳ hiện nay, nước ta đang đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế làm cho nhu cầu sử dụng đất tăng lên đáp ứng cho các hoạt động và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Các hoạt động nói trên làm thay đổi mục đích sử dụng đất đai mà trong khi đó đất là điều kiện quan trọng nhất của loài người. Bất kỳ một nước nào cũng nắm nắm lấy đất đai để hướng đất đai phục vụ theo yêu cầu của mình. Yêu cầu phải quản lý đất đai một cách đầy đủ và chặt chẽ, đảm bảo được sử dụng hợp lý, đầy đủ và có hiệu quả. Vì vậy phải tổng hợp đầy đủ các số liệu về đất đai, phản ánh đúng hiện trạng sử dụng đất đai, thông qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng đất. Sử dụng đất đai hiệu quả và đúng pháp luật: Đất đai là cơ sở cần thiết cho việc phân bố các nguồn lực sản xuất nhằm sử dụng đầy đủ, hợp lý lực lượng sản xuất vào khai thác khả năng của đất đai. 3. Phân loại đất. Theo Điều 11 Luật Đất đai, toàn bộ đất được phân làm 6 loại. - Đất nông nghiệp bao gồm đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản (kể cả các loại đất khác được đưa vào sản xuất nông nghiệp trong năm và đất đã có quy hoạch sử dụng vaò mục đích nông nghiệp). - Đất lâm nghiệp bao gồm đất có rừng đang dùng chủ yếu vào sản xuất hoặc nghiên cứu thí nghiệm về lâm nghiệp: đất có rừng tự nhiên, đất có rùng trồng và đất ươm cây giống lâm nghiệp. - Đất chuyên dùng: đất được sử dụng vào mục đích không phải là nông nghiệp- lâm nghiệp, làm nhà ở gồm: đất xây dựng, đất giao thông, đất thuỷ lợi và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, đất di tích lịch sử- văn hoá, đất quốc phòng an ninh, đất khai thác khoáng sản, đất làm nguyên vật liệu xây dựng, đất làm muối, đất nghĩa trang, nghĩa địa và đất chuyên dùng khác. - Đất khu dân cư nông thôn là đất phục vụ cho khu dân cư nông thôn: đất ở nông thôn, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp. - Đất đô thị là đất phục vụ ở đô thị. - Đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá là toàn bộ diện tích đất các loại chưa sử dụng vào mục đích nào. Như vậy trong quá tình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để đạt được sự quản lý và sử dụng đất đai tốt nhất, có hiệu quả nhất, tránh lãng phí đất đai có thể xảy ra thì vẫn phải thực hiện các yêu cầu sau. + Phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, của cả nước đã được phê duyệt đồng thời tuân thủ theo đúng pháp luật, phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn sử dụng đất và các điều kiện kinh tế- xã hội tự nhiên của mỗi địa phương, từng vùng. + Phù hợp trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương đối với từng loại đất đã được quy hoạch, tránh sử dụng đất không đúng khả năng của loại đất đã quy hoạch gây tốn kém, lãng phí đất đai. Để đảm bảo thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Việc bố trí các công trình công cộng, khu giao thông, đất ở, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải được bố trí vào các vị trí thuận lợi nhất phục vụ yêu cầu của người dân. + Sử dụng tiết kiệm đất đai, có hiệu quả đất đai. Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, nó không thể di chuyển, sản sinh thêm được. Vì vậy phải sử dụng đất cần hết sức tiết kiệm, gây thất thoát phá huỷ đất đai.Đặc biệt hạn chế việc chuyển đổi mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp sang loại đất khác. Vì đất nông nghiệp đâu phải chỗ nào cũng tốt, cũng có thể sản xuất nông nghiệp được thuận lợi. Bên cạnh đó, cũng hạn chế việc chuyển đất lâm nghiệp sang loại đất khác đặc biệt là đất có rừng, tránh tình trạng phá huỷ rừng gây xói mòn đất đai. Phải chú ý đến cải tạo, bảo vệ môi trường. Khi sử dụng đất, ta cần bồi dưỡng, cải tạo môi trường trong sạch, nâng cao canh tác thâm canh đất đai, hướng sự phát triển bền vững của đất đai. II. Nội dung quản lý sử dụng đất 1. Nắm vững tình hình sử dụng đất đai a. Điều tra, khảo sát, đánh giá và phân hạng đất - Để sử dụng đất đai hợp lý, hiệu quả sử dụng cao thì cần nắm được toàn bộ vốn đất về số lượng, chất lượng đất đai. Từ đó phát hiện được năng lực sử dụng đất đai, tiêu chuẩn hoá các loại đất phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Điều tra, khảo sát là biện pháp đầu tiên phải thực hiện trong công tác quản lý đất đai. Thực hiện tốt công việc này giúp cho ta nắm được số lượng phân bố, cơ cấu, chủng loại đất đai. Đây là công việc bắt buộc đã được quy định rõ trong điều 13, 14, 15 của luật đất đai. Việc điều tra, khảo sát đất đai tuỳ thuộc vào nội dung sử dụng của đất đai. Điều tra hiện trạng sử dụng đất được tiến hành theo quy định của pháp luật trên đơn vị của xã phường, thông qua đó biết được diện tích, hiện trạng phân bố sử dụng đất. Dựa trên tình hình sử dụng đất thông qua địa bạ xác định được vị trí, gianh giới, diện tích và mục đích sử dụng từng loại đất. Xác định chủ sử dụng đất là ai. Bên cạnh đó, trên cơ sở đăng ký biến động đất đai, thu thập xử lý các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế của đất: Thổ nhưỡng, thảm thực vật, khí tượng, thuỷ văn, địa chất. Vị trí của khu vực về điều kiện giao thông, vị trí thuận lợi sử dụng các công trình công cộng... từ đó phân bố đất đai sử dụng hiệu quả cao. - Phân hạng đất và đánh giá đất: Theo Nghị định 73/CP ngày 25/10/1993, Nhà nước quy định phân hạng đất theo 5 tiêu chuẩn sau: + Độ phì nhiêu của đất. + Vị trí của mảnh đất. + Địa hình. + Khí hậu. + Điều kiện tưới tiêu. Cây hàng năm: 6 hạng đất. Cây lâu năm: 5 hạng đất. Dựa trên hạng đất Nhà nước quy định để tính giá trị của đất, xác định được mức thuế của đất. Giá trị của đất đai được hiểu là giá trị hiện hành của các luồng thu nhập mang lại từ đất đai đó. Giá đất sẽ phụ thuộc vào mục đích có thể sử dụng và mang lại từ hoạt động đó đặc biệt là vị trí và sự thuận lợi của lô đất. Thông thường giá trị cao nhất tại trung tâm kinh doanh của thành phố, càng ra xa trung tâm giá trị càng thấp. Ngoài ra, giá đất còn phụ thuộc rất lớn vào quan hệ cung cầu. Đối với các thành phố có các hoạt động kinh tế sầm uất, có tốc độ tăng dân số cao thì giá đất cũng cao. Giá đất được sử dụng chung cho việc tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền sử dụng đất khi giao đất, thu tiền cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi Nhà nước giao đất, đền bù thiệt hại về đất khi Nhà nước thu hồi đất. Là cơ sở cho quá trình cải cách chế độ sử dụng đất và thúc đẩy thị trường đất đai phát triển lành mạnh. b. Thống kê đất đai Là chế độ điều tra, tập hợp phân tích về số lượng, chất lượng đất. Tình trạng phân bố sử dụng đất và quyền sử dụng đất, cung cấp các nhiên liệu thống kê cho các cơ quan quản lý nhà đất. Là công tác quan trọng nhằm xác định, nắm vững được tình hình biến động đất đai trong các giai đoạn, các thời kỳ để cung cấp các thông tin cần thiết về biến động sử dụng đất đai, giúp công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cũng như công tác quản lý khác tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai đạt hiệu quả cao. c. Đăng ký đất đai Là biện pháp có tính pháp luật mà Nhà nước dùng để xác định được quyển sở hữu, quyền sử dụng đất cũng như để tiến hành theo luật định việc xin phép cấp đất, giao đất, thẩm tra ghi sổ đăng ký và xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giúp cho Nhà nước nắm vững được quỹ đất đai, tình hình biến động về đất đai, từ đó làm cơ sở để phân bổ đất đai một cách hợp lý. Giúp cho việc chứng nhận quyền sử dụng đất đúng mục đích phân bố. Trên cơ sở đó, phát hiện được việc sử dụng đất đai sai trái trong quá trình sử dụng. Giúp Nhà nước nắm vững được tỷ lệ chiếm hữu và sử dụng đất đai của từng thành phần, từng ngành kinh tế. d. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Là chứng từ pháp lý xác định hợp pháp quyền sử dụng đất giữa Nhà nước với người được giao đất. Thông qua việc nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được thực hiện các quyền sử dụng đất của mình mà Nhà nước đã quy định: Chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, chuyển đổi, góp vốn liên doanh. Các quyền này chỉ được thực hiện trong thời gian giao đất và phải đúng mục đích sử dụng được giao. Trên cơ sở giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có thể yên tâm đầu tư thâm canh đất đai tạo cho hệ số sử dụng đất cao hơn, hiệu quả hơn. 2. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và phân phối đất đai a. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai Quy hoạch đất đai là một bộ phận của quy hoạch không gian có mục tiêu trọng tâm là nghiên cứu vấn đề về phát triển và quy hoạch xây dựng đất đai, các điểm dân cư. Quy hoạch đất đai có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học chuyên ngành nhằm giải quyết tổng hợp những vấn đề về tổ chức sản xuất, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần và nghỉ ngơi giải trí của nhân dân, tổ chức hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện pháp của Nhà nước thể hiện đồng thời về kinh tế, kỹ thuật, pháp chế. Việc tổ chức sử dụng đất đai đầy đủ hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất và tổ chức sử dụng đất đai như tư liệu sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường. - Quy hoạch đất đai là loại văn bản có tính pháp lý cao nhất bắt buộc các đối tượng sử dụng phải tuân thủ, chỉ được phép sử dụng trong phạm vi ranh giới của mình. Do đó, Nhà nước có cơ sở để quản lý về đất đai và nhà ở, giải quyết các tranh chấp, vướng mắc của các đối tượng sử dụng. - Quy hoạch giúp Nhà nước kiểm soát mọi diễn biến về tình hình đất đai làm cơ sở để Nhà nước tiến hành giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đầu tư pháp triển sản xuất. Thông qua đó Nhà nước có thể dễ dàng kiểm tra, theo dõi tình hình sử dụng, xây dựng đất đai, ngăn chặn tình trạng sử dụng lãng phí, bừa bãi, sử dụng không đúng mục đích. - Quy hoạch đất đai tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai hợp lý: Lợi ích là công cụ điều hoà các mâu thuẫn trong việc sử dụng đất đai, xây dựng nhà ở. Quy hoạch đất đai và nhà ở dựa trên sự phát triển hài hoà của cả cộng đồng, không vì mục đích riêng lẻ của cá nhân này mà làm ảnh hưởng đến mục đích của cá nhân khác, đẩy lùi sự phát triển của cả cộng đồng. Quy hoạch đất đai và nhà ở là một phương tiện đặc biệt được cấu thành bằng luật pháp để hướng việc sử dụng đất đai, xây dựng nhà ở vào các mục tiêu làm tăng lợi ích của cả cộng đồng. Trên cơ sở đất đai, nhà ở đã được phân hạng, Nhà nước bố trí sắp xếp các loại đất đai và nhà ở cho các đối tượng quản lý và sử dụng. Do đứng trên phương diện lợi ích tổng thể của cả cộng đồng nên việc bố trí sắp xếp này sẽ hợp lý hơn, mang lại hiệu quả cao hơn, sẽ sử dụng tiết kiệm được các yếu tố đất đai phù hợp với các điều kiện thực tế của các nguồn lực. Mặt khác, khi có quy hoạch đất đai và nhà ở, các đối tượng sử dụng, quản lý, sở hữu đất đai và nhà ở sẽ hiểu rõ được phạm vi ranh giới và chủ quyền trên mảnh đất của họ. Do đó, họ sẽ yên tâm đầu tư các phương tiện cần thiết để khai thác triệt để các lợi ích từ phần đất của mình dẫn đến hiệu quả sử dụng đất được nâng lên. Quy hoạch đất đai tạo điều kiện cho việc tính thuế, xác định giá cả các loại đất đai hợp lý. Thông qua công tác quy hoạch các thông tin về các loại đất đai được thu thập xử lý, tổng hợp và được thể hiện trên bản đồ quy hoạch. Những thông tin này có thể là loại đất, quy mô của các chủ sử dụng, mục đích sử dụng của từng thửa đất (quy hoạch đất đai cấp xã thể hiện rõ thông tin này). Từ đó cơ quan tài chính có thể dựa vào các thông tin này để tiến hành định giá đất, xác định mức thuế của từng hộ sử dụng phải nộp (vì thuế suất đối với từng mục đích sử dụng là khác nhau). b. Về giao đất Là việc Nhà nước đem quyền sử dụng đất thuộc quyền sở hữu Nhà nước giao cho chủ sử dụng đất trong một niên hạn nhất định và chủ sử dụng đất phải thực hiện trả tiền hoặc không trả tiền tuỳ theo quy định của pháp luật về quyền sử dụng đất. Dựa trên quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt để tiến hành giao đất. Dựa vào yêu cầu sử dụng đất đã được ghi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp duyệt, chấp thuận bằngvăn bản về địa điểm, diện tích hoặc đơn xin giao đất. Các tổ chức sử dụng đất được giao theo đúng mục đích, yêu cầu trong luận chứng kỹ thuật. c. Cho thuê đất Người có quyền sử dụng đất cho thuê quyền sử dụng đất trong một thời gian nhất định. Tạo điều kiện cho người có đất nhưng chưa hoặc không sử dụng đến đem cho thuê và sử dụng theo đúng mục đích được giao. d. Về chuyển quyền sử dụng đất Chuyển quyền sử dụng đất được hiểu là việc có quyền sử dụng đất hợp pháp chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho người khác, tuân theo các quy định của Bộ Luật Dân sự và pháp luật về đất đai. Công tác quản lý đất đai phải thường xuyên nắm bắt, cập nhật được các biến động về chủ sở hữu để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người sử dụng. Mặt khác, tạo điều kiện tăng cường công tác quản lý đất đai được điều chỉnh kịp thời chính xác. Hơn nữa làm tốt công tác quản lý chuyển quyền sử dụng đất sẽ ngăn chặn được tình trạng lợi dụng quyền tự do chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các hành vi đầu cơ, buôn bán đất đai kiếm lời, tăng cường các nguồn thu tài chính thích đáng đối với các hoạt động buôn bán, kinh doanh đất đai. Theo quy định của Luật đất đai và Bộ Luật Dân sự thì chuyển quyền sử dụng đất gồm: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn kinh doanh quyền sử dụng đất. e. Thu hồi đất và đền bù khi thu hồi đất Để phục vụ cho nhu cầu xây dựng, phát triển đất đai đô thị, Nhà nước có quyền thu hồi phần diện tích đất đai đã giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng hiện đang nằm trong vùng quy hoạch xây dựng phát triển. Đối tượng được đền bù thiệt hại khi thu hồi đất bao gồm: Các hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất hợp pháp; các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đang sử dụng đất hợp pháp và đã nộp tiền sử dụng đất mà tiền đó không thuộc nguồn vốn của ngân sách nhà nước. Ngoài ra, còn một số trường hợp khi bị thu hồi đất tuy không được hưởng tiền đền bù thiệt hại về đất nhưng được hưởng đền bù thiệt hại về tài sản và trợ cấp vốn hoặc xem xét cấp đất mới. Với quỹ đất có hạn trong khi xã hội ngày càng phát triển với tốc độ cao, nhu cầu sử dụng đất ngày càng nhiều, bên cạnh đó tình hình sử dụng đất còn thiếu hiệu quả chưa theo đúng quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước và thực trạng của việc đền bù đất khi thu hồi để giao đất sử dụng vào mục đích khác. Ta nhận thấy công tác đền bù đất chính là giải pháp để sử dụng đất đai hợp lý, hiệu quả theo đúng yêu cầu và quan điểm của Đảng và Nhà nước. Nó góp phần làm tăng quỹ đất đưa vào sử dụng và tăng hiệu quả sử dụng đất. Với quan điểm đền bù đất theo đúng quy hoạch tổng thể của Nhà nước và kế hoạch của từng dự án được phê duyệt từ đó đảm bảo sử dụng quỹ đất đai hợp lý, hiệu quả tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, người dân ổn định sản xuất, mở rộng quỹ đất canh tác, giảm diện tích chưa sử dụng đến mức thấp nhất. Trường hợp đất bị thu hồi được quy định ở điều 26 Luật Đất đai năm1993. Nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp: - Tổ chức, cá nhân bị giải thể, phá sản hoặc chuyển đi nơi khác. - Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước. - Đất không sử dụng trong 12 tháng liền. - Người sử dụng đất không thực hiện đúng nghĩa vụ của Nhà nước. - Đất sử dụng không đúng mục đích. - Đất được giao không đúng thẩm quyền. Đất công ích được quy định trong Điều 45- Luật đất đai năm 1993 như sau: Mỗi xã (phường, thị trấn) được để lại khôngquá 5% quỹ đất nông nghiệp của địa phương để phục vụ nhu cầu công ích của địa phương. Trên cơ sở quỹ đất này mà thực hiện đền bù đất cho người bị thu hồi trên nguyên tắc đền bù đất đúng bằng diện tích đất bị thu hồi, đúng hạng đất, loại đất, mục đích sử dụng và tương ứng với giá trị ban đầu của đất thì tuỳ theo loại đất mà thu thêm tiền sử dụng đất hoặc không thu thêm tiền sử dụng đất phần dư ra. Việc thu hồi đất được dựa trên quy hoạch đã được Nhà nước phê duyệt, các dự án xây dựng kinh tế, phát triển đất nước. Do vậy, việc đền bù đất cũng được dựa trên cơ sở quy hoạch tổng thể của đất nước, của địa phương, mỗi khu vực nên đền bù đất đai khi thu hồi đất là một cách tốt để sử dụng đất đai hợp lý và hiệu quả hơn. Quỹ đất của chúng ta là có giới hạn, rất đa dạng cho vấn đề sử dụng nhất là quỹ đất nông nghiệp rất hạn chế. Do đó, khi thu hồi đất cần phải cân nhắc và nghiên cứu thật kỹ trên cơ sở quỹ đất hiện có. Thu hồi đất và thực hiện đền bù sẽ giúp Nhà nước thực hiện việc thanh tra, kiểm tra vấn đề sử dụng đất đai. Dựa trên nguyên tắc đất sử dụng đúng mục đích, có đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định trong Nghị định 22/1998/NĐ-CP của Chính Phủ thì khi Nhà nước thu hồi đất mới được đền bù đất. Như vậy, đất không đủ giấy tờ hợp lệ thì Nhà nước có thể lấy lại phần đất đó mà không cần bồi thường thiệt hại. Mặt khác, hiện nay vấn đề sử dụng đất đai sai mục đích còn xảy ra ở nhiều nơi. Do đó, khi đền bù đất thì phần đất đó được sử dụng theo đúng mục đích của nhà nước và Nhà nước có thể dễ dàng quản lý đất đai. Điều này giúp sử dụng đất đai hợp lý và hiệu quả hơn. 3. Ban hành các chính sách và lập kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng khi sử dụng đất đai a. Ban hành các chủ trương chính sách Để điều chỉnh hành vi, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất cũng như tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình thì hệ thống văn bản pháp luật, các chủ trương chính sách của Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng. Điều 17 và Điều 18 Hiến pháp năm 1992 khẳng định lại nguyên tắc ”Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý...”. Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Việc ban hành các chính sách mới ra đời có thể làm tăng hoặc giảm nhu cầu về đất đai, ngoài ra nó còn ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi của người sử dụng đất. Vì vậy, vấn đề ban hành các văn bản, các chủ trương chính sách làm sao cho hợp lý, hiệu quả và cần thiết. b. Xây dựng cơ sở hạ tầng khi sử dụng đất đai Tổ chức, cá nhân phải xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất được nhà nước giao theo đúng quy hoạch và dự án đầu tư được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Việc sử dụng quỹ đất tạo vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng và việc giao đất cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo dự án các đô thị do Thủ tướng Chính phủ quy định. Luật pháp là công cụ tạo điều kiện cho công cụ quản lý khác, các chế độ chính sách của Nhà nước thực hiện có hiệu quả hơn thông qua việc giám sát, kiểm tra, khen thưởng, công cụ pháp luật với chức năng xử lý điều chỉnh sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý sử dụng đất đai đạt hiệu quả cao. 1. Thanh tra, kiểm tra, giám sát giải quyết các khiếu nại, tranh chấp, tố cáo và xử lý các vi phạm về đất. Trong quá trình sử dụng đất đai, các tổ chức không tránh khỏi những sai phạm do mục đích tư lợi từ cá nhân..... Vì vậy, để phát hiện những vi phạm, những bất hợp lý trong sử dụng đất đai, thực hiện pháp luật về đất đai thông qua thanh tra, kiểm tra giám sát, khiếu nại, tranh chấp về đất đai. Căn cứ vào pháp luật và chính sách hiện hành cần xử lý các trường hợp vi phạm, giải quyết tốt các vấn đề này..... Chương II Thực trạng sử dụng đất thành phố Hà Nội hiện nay I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của Thành phố Hà Nội. 1.Điều kiện tự nhiên, tài nguyên, cảnh quan môi trường. 1.1. Điều kiện tự nhiên. a. Vài nét về lịch sử Hà Nội. Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam, đã tồn tại gần một nghìn năm tuổi. Chiếu dời đô từ Hoa Lư- Ninh Bình về Đại La của Lý Thái Tổ (1010- 1028) có viết” Đất Thăng Long nằm giữa đồng bằng đông dân, trù phú, lại ở đầu mối giao thông trọng yếu, là nơi hội tụ và toả rộng của mạng lưới giao thông, là vị trí chính giữa Bắc-Nam-Đông- Tây, chỗ hội tụ của bốn phương ”. Trong suốt quá trình lịch sử phát triển, về mặt địa lý, thường thì Hà Nội gồm hai khu vực: nội thành và ngoại thành. Quy mô cả về nội thành và ngoại thành đều thay đổi tuỳ theo yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, của từng thời kỳ. Có thời gian đầu của thế kỷ XIX, nhà Nguyễn dời đô vào Huế, Hà Nội chỉ còn là một tỉnh gồm bốn Phủ và 15 huyện. Từ năm 1888 đến năm 1899 khi thực dân Pháp lấy Hà Nội làm trung tâm thì Hà Nội không có ngoại thành. Ngày 20/4/1961 Nghị quyết của Quốc hội và quyết định số 78/CP ngày 31/5/1961 của Hội Đồng Chính Phủ mở rộng Thành phố Hà Nội thêm một phần diện tích của các Tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phú, Hưng Yên tạo thành 4 Quận và Huyện: Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh. Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VI ngày 29/12/1978, Quyế định Hà Nội được mở thêm các Huyện: Mê Linh, Sóc Sơn(Thuộc Vĩnh Phú) hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Thạch Thất, Ba Vì,Thị xã Sơn Tây và một số xã của các Huyện Chương Mỹ, Quốc Oai, Thường Tín của Tỉnh Hà Sơn Bình, nâng ngoại thành lên 12 Huyện, thị xã với tổng diện tích tự nhiên là 2.131,5km2; diện tích đất nông nghiệp 107,423 ha. Dân số 2.450.600 người, dân số nông nghiệp 1.277.000 người chiếm 52,1%. Năm 1991, do yêu cầu tập trung điều tra, yêu cầu tập trung đầu tư và tăng cường quản lý và phát triển thủ đô, Hà nội được điều chỉnh lại quy mô còn 4 Quận và 5 huyện với diện tích tự nhiên 927,4 km2, gồm 84 phường, 12 thị trấn và 128 xã. Căn cứ thực trạng và yêu cầu đô thị hoá, ngày 28/10/1995 Chính Phủ có Nghị định số 69/CP về việc thành lập Quận Tây Hồ, ngày 22/11/1996 có Nghị định số 74/CP, về việc thành lập Quận Thanh Xuân và Quận Cầu Giấy. Do đó, hiện nay b. Vị trí địa lý. Thành phố Hà nội có 7 quận và 5 huyện. Bảy Quận gồm: Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, 5 Huyện gồm: Gia Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Đông Anh, Từ Liêm. Thành phố Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, trong khoảng toạ độ địa lý từ 20 độ 54 phút vĩ độ Bắc, từ 105 độ 42 phút đến 106 độ 00 phút kinh độ đông, phía Bắc giáp tỉnh bắc Giang, Thái Nguyên, phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hưng Yên, phía nam giáp tỉnh Hà tây, phía Tây giáp tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc. Vị trí này rất thuận lợi do ở giữa đồng bằng đông dân, trù phú có các đầu mối giao thông trọng yếu, là nơi quy tụ và to._.ả rộng của các mạng lưới giao thông, là vị trí chính giữa Bắc- Nam- Đông – Tây, chỗ hội tụ của bốn phương. Hà Nội có diện tích 927,40km2, khoảng cách từ Bắc xuống Nam dài trên 50 km và từ Tây sang Đông gần 30 km, bao gồm 7 quận nội thành có 102 phường với 82,78 km2, chiếm 9,14 % diện tích toàn thành phố và 5 huyên ngoại thành có 118 xã và 8 thị trấn với diện tích là 844,61 km2 chiếm 90.86% diện tích toàn thành phố. Từ Hà Nội có thể đi khắp mọi miền đất nước bằng một hệ thống giao thông thuận tiện. Về hàng không, có sân bay Quốc tế Nội Bài (Thuộc huyện Sóc Sơn, cách trung tâm Hà Nội khoảng 40 km). Hà Nội cũng là đầu mối giao thông đường sắt liên vận quốc tế sang Bắc Kinh (Trung Quốc) rồi đi các nước khác. Về đường bộ và đường thuỷ, Hà Nội cũng là một đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. Hà Nội là” trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật và giao dịch quốc tế lớn của cả nước“, với hàng nghìn cơ quan, trụ sở trung tâm thương mại, ngoại giao, cơ sở công nghiệp quan trọng, nhiều ngành nghề truyền thống, trên 30 trường đại học và cao đẳng, trên 80 viện nghiên cứu khoa học và nhiều trường đào tạo công nhân kỹ thuật. c. Về địa hình, địa mạo. Nằm trong vùng đồng bằng Châu thổ sông Hồng, độ cao trung bình 5-20 m so với mực nước biển. Khu vực đồi núi phía bắc và tây Bắc của huyện sóc Sơn có độ cao 20- 400 m với đỉnh cao nhất là núi Chân chim 462 m. Nhìn chung địa hình thấp đần từ Bắc xuống Nam và tư Đông sang Tây. - Các vùng địa hình: +Vùng đồi núi độ dốc trên 80, cao trung bình 50-100m gồm hai tiểu vùng núi và tiểu vùng đồi. + Vùng đồng bằng cao trung bình 4-10m gồm 3 tiểu vùng: tiểu vùng thềm tích tụ, tiểu vùng đồng bằng tích tụ và tiểu vùng bồi tích sông hiện đại hay có thể hiểu là bãi bồi ngoài đê. - Vùng núi đồi chỉ thích hợp cho việc phát triển các cây trồng lâm nghiệp. Vùng Đồng bằng có thể phát triển các cây lương thực, rau màu và cây công nghiệp. Do cấu tạo địa chất nên phía Tây quốc lộ I, đất có khả năng chịu rét tốt, phía Nam nền đất yếu hơn nên xây dựng nền móng cho các công trình cũng tốn kém hơn. d. Khí hậu. Nhiệt đới gió mùa chủ yếu trong năm: mùa nóng và mùa lạnh. Các tháng 4;10 được coi như những tháng chuyển tiếp tạo cho Hà Nội 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu và Đông. Nhiệt độ trung bình năm 23,9 độ. Nắng trung bình năm 1.640 giờ. Bức xạ mặt trời trung bình 4.272 kcal/m2/tháng. Lượng mưa trung bình năm 1.600- 1.700 mm. Lượng bốc hơi trung bình năm 938mm. Độ ẩm không khí trung bình các tháng trong năm 80-88%. Trong năm có 2 mùa gió chính: Gió mùa Đông Nam và gió mùa Đông Bắc. Hàng năm chịu ảnh hưởng trực tiếp của khoảng 5-7 cơn bão. Bão mạnh nhất lên tới cấp 9, cấp 10 làm đổ cây cối, gây thiệt hại lớn chio mùa màng. Bão thường trùng với thời kỳ nước sông Hồng lên cao đe doạ không chỉ sản xuất nông nghiệp mà cả đời sống người dân. Do chịu tác động mạnh mẽ của gió mùa nên khí hậu Hà Nội biến động thất thường ảnh hưởng sâu sắc tới mùa vụ trong sản xuât nông nghiệp và cả quá trình sinh trưởng của các loại cây trồng. Hà Nội có mùa đông lạnh và khô nhưng chỉ trong thời gian ngắn đầu mùa đông, đầu mùa xuân nhiệt độ không khí đã ấm lên, có mưa phùn và độ ẩm cao, phù hợp với các loại cây rau, quả ôn đới phát triển. Nếu đảm bảo các điều kiện vật tư, kỹ thuật có thể phát triển cây vụ đông rải rác trên diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội. e. Thuỷ văn. * Mạng lưới thuỷ văn: + Hệ thống sông ngòi: khá dày đặc, có mật độ 0,5 km/km2 các sông lớn. Sông Hồng, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ, sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Sét, sông Kim Ngưu... + Hồ, đầm: Có nhiều hồ, đầm tư nhiên với diện tích hiện nay còn khoảng 3600 ha. Các hồ, đầm lớn có: Hồ Tây(500 ha), hồ Bảy mẫu, hồ Hoàn Kiếm, hồ Linh Đàm, đầm vân Trì... * Chế độ thuỷ văn. Các sông ở Hà Nội có 2 mùa rõ rệt: mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 10 và mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 5. + Đặc điểm thuỷ chế của một số sông lớn: Sông Hồng: Lưu lượng nước trung bình khoảng 1,220*109m3 trong đó mùa lũ lưu lượng nước chiếm tới 72,5%, vào tháng 7 mực nước trung bình là 9,2m, lưu lượng là 5.990 m3/s (lúc lớn nhất lên tới 22.200 m3/s) trong khi đó mức nước trung bình của năm là 5,3m với lưu lượng 2.309 m3/s. Nước lũ của sông Hồng là một hiểm hoạ đối với người sản xuất nông nghiệp. Trong mùa lũ nước sông Hồng lên rất to, có nơi mặt sông rộng 2-3 km, mực nước cao hơn mặt rưộng khoảng 6-7m. Vào mùa nước cạn, mực nước trung bình là 3,06 m với lưu lượng 927 m3/s. Sông Cầu: Mực nước trong mùa lũ từ 3-5m vào mùa cạn mực nước xuống thấp hơn mặt ruộng. Sông Nhuệ: Lưu lượng ở đầu nguồn từ 26-150m3/s, mực nước ở hạ lưu đập Hà Đông từ 4,5 m-5,2m. + Các hồ đầm: Phần lớn các hồ, đầm trong nội thành là hồ tù, đọng bùn lâu ngày, nước mưa và nước thải sinh hoạt không được làm sạch từ thành phố chảy vào hồ. 1.2. Các nguồn tài nguyên. a. Tài nguyên đất. Toàn thành phố có 18 loại đất chính. Trong đó: Đất phù sa có diện tích 36.769 ha chiếm 56%, đất bạc màu 16.819 ha chiếm 26%, các loại đất còn lại 12.019 ha chiếm 18%. Nhìn chung các loại đất trong nhóm đất phù sa phân bố khắp nơi trên địa bàn của thành phố, nhưng tập trung nhiều ở các huyện Từ Liêm, Gia lâm và Thanh Trì được hình thành do phù sa của các sông: Hồng, Đuống và sông Cầu. Nhóm đất bạc màu tập trung chủ yếu ở 2 huyện Sóc Sơn và Đông Anh ven theo các đồi núi thấp, hình thành những giải rộng nhỏ, hẹp, bậc thang, hay dốc thoải. b. Tài nguyên nước. Nguồn mặt nước: có tổng số 19 sông lớn nhỏ với tổng diện tích mặt nước là 32,6 km2 và 3.600 ha ao, hồ, đầm. Với trữ lượng nước mặt rất lớn, lưu lượng nhỏ nhất vào mùa khô của các sông là 571,3 m2/s (49,36 triệu m3/ngày) dung tích nước của các hồ đạt 10,66 triệu m3. Tuy nhiên nguồn mặt nước chỉ sử dụng được ở một số nơi cho sản xuất còn lại đa dạng bị ô nhiễm nặng, đặc biệt các sông và hồ, đầm trong khu vực nội thành. Mặt khác do tính chất của địa hình dốc thoải, nước mặt lại hoạt động theo mùa nên có ảnh hưởng đến việc sử dụng mặt đất Hà Nội như ngập, hạn hán, sụt lở. Nguồn nước ngầm: Có mỏ nước ngầm với trữ lượng lớn, chất lượng nói chung tốt và có tầng bảo vệ chống ô nhiễm. Lượng nước ngầm phổ cập: 123.2.000m3/ ngày đêm, lượng nước đang khai thác sử dụng hiện nay: 538.000 m3/ ngày đêm. c. Tài nguyên rừng Có 6.128 ha đất lâm nghiệp chiếm 6.65% diện tích trong đó chủ yếu là diện tích đất rừng trồng, phân bố chủ yếu ở huyện Sóc Sơn với cá loại cây như: bạch đàn, thông, keo sơn, giò, quế... d. Tài nguyên kháng sản. Nhóm nhiên liệu: có than bùn ở Đông Anh, Sóc Sơn, Đống Đa với trữ lượng C2 ở Đông Anh là 659.661 tấn. Nhóm kim loại quý hiếm: có vàng sa khoáng ở Minh Trí (Sóc Sơn) phân bố kéo dài xấp xỉ 500m với bề rộng 30-50 m, kèm theo là một vành thiếc sa khoáng bậc một có diện tích 2,2 km2. Nhóm vật liệu xây dựng và nguyên liệu cho các ngành công nghiệp: gồm có kaolin ở Đông Anh, Sóc Sơn, sét gạch ngói ở Sóc Sơn, Gia Lâm, sét dung dịch ở Đống Đa có trữ lượng 4.060.000 tấn, đá ong khu vực núi Dõm có trữ lượng cấp P2= 2,5 triệu m3, cát xây dựng có ở các mỏ Phủ Lỗ, Hồ Tây, Phù Đổngvà các giải lớn dọc theo sông Hồng. e. Tài nguyên nhân văn. Lịch sử hình thành và phát triển của người Hà Nội bắt đầu từ vài nghìn năm trước. Từ thời vua Hùng dựng nước Văn Lang, tổ tiên chúng ta đã đến làm ăn sinh sống ở vùng Hà Nội đến đầu thế kỉ 11 khi vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long- Hà Nội thì quy mô mới được xây dựng. Hình thành khu trung tâm kinh tế -chính trị-văn hoá lớn nhất nước. Là nơi tập trung các danh nhân của đất nước: An Dương Vương (trước Công nguyên), Lý Nam Đế (thế kỷ VI), Ngô Quyền (898-944), Lý Thái Tổ (974-1028)...và đến những năm cuối thế kỷ 20 có một người khi nhắc đến Hà Nội không thể vắng Người đó là Hồ Chủ Tịch. Các danh nhân của Hà Nội không sinh ra ở Hà Nội song tất cả đều được cái nôi của Hà nội nuôi dưỡng, hun đúc mà thành. Chính những con người đó tạo nên cái hào khí Thăng Long - Đông Đô- Hà Nội. Ngày hôm nay, trong công cuộc Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá cùng với nhân dân Hà nội đang mở rộng cửa đón bạn bè từ khắp nơi trên thế giới đến thăm và làm việc. Tiếp thu những cái mới nhưng người Hà nội vẫn không mất đi bản sắc dân tộc từ ngàn xưa. 1.3. Cảnh quan môi trường. Hà Nội là thành phố lớn nhiều hồ nước rộng và nhiều công viên và đường phố có cây xanh mát mẻ, tuy chưa phải là “ một thành phố ô nhiễm” nhưng những tồn tại thực tế lại rất đáng lo ngại bởi phạm vi và mức độ ảnh hưởng kể cả đối với môi trường đất, nước và không khí. Mật độ dân số quá cao 2.919 người/km2 chung của thành phố và 16.995 người/ km2 ở khu vực 7 quận nội thành. Chất thải rắn chỉ thu gom được 70-75% tương đương 900-1100 tấn/ngày. Chất thải lỏng 350.000 m3/ngày đêm trong đó 1/3 là rác thải công nghiệp, hầu hết chưa được xử lý trước khi ra khỏi nơi sinh thải. ở những nơi nhà máy có nồng độ bụi trong không khí thường cao hơn 4-14 lần tiêu chuẩn cho phép. Ô nhiễm đất và nước ở nghĩa trang Văn Điển, sạt lở đất ở ven sông...để khẵc phục tình trạng trên cần có một giải pháp như: đóng cửa các bể rác và ngừng đổ lấp ao hồ trong khu trung tâm bằng rác thải. Nạo vét một số sông rạch, cống ngầm và lập đồ án cải tạo, xây dựng hệ thống thoát nước thải thành phố về lâu dài. Giải toả các công trình, nhà cửa lấn chiếm hoặc gây ảnh hưởng đến thoat nươc phòng chống lũ của nhiều sông rạch, cầu cống, đê điều, cắm mốc chỉ giới an toàn dọc đê sông Hồng. Bố trí lại một số điểm khai thác cát, sỏi trên sông Hồng. Chuyển việc chôn cất người lên vùng Thanh Tước, Bát Bạt. Có phương án phát triển các khu công nghiệp tập trung mới an toàn về môi trường để chuyển một số cơ sở sản xuất không đảm về an toàn vệ sinh, môi trường ở khu vưc trung tâm hiện nay. 2. Khái quát tình hình phát triển kinh tế. Biểu số 01: Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các thời kỳ Đơn vị tính % Năm 1986-1991 1991-1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2001 Tốc độ tăng trưởng 8 9 12,6 13,4 15 13 12,5 12,6 6,5 10,03 Nguồn: Niên giám thống kê 1986- 2001 Thời kì 1986- 1991 tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 8% và tăng lên gần 9% năm 1991-1992, (tốc độ tăng trưởng của cả nước cùng thời kỳ là 7,2%) và từ năm 1993 đến nay tốc độ tăng trưởng kinh tế Hà Nội diễn ra như sau: năm 1993 là 12,6%; năm 1994 là 13,4%; năm 1995 là 15%; năm 1996 là 13%; năm 1997 là 12,5%; 1998 là 12,6%; 1999 là 6,5%; năm 2001 là 10,03%. Có thể thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội giảm dần sau năm 1995 và giảm mạnh vào năm 1999 và sau đó lại tiếp tục tăng đến năm 2001. Nguyên nhân chính là sự thu hút vốn đầu tư trong giai đoạn 1995- 1999 giảm mạnh dặc biệt sau cuộc khủng hoảng khu vực, nhưng đến nay nền kinh tế Hà Nội đang dần phục hồi và đang trên đà phát triển mạnh, GDP năm 2001 là 10,03%. Hiện tại cơ cấu kinh tế chính của Hà Nội là: Thương mại, dịch vụ- công nghiệp, xây dựng- nông lâm nghiệp. Tỷ trọng giữa các khu vực trong GDP biểu hiện ưu thế của những ngành mũi nhọn ở khu vực III: Trong đó: Khu vực I (nông- lâm nghiệp, thuỷ sản) chiếm 2,67%. Khu vực II (công nghiệp, xây dựng) chiếm 40,04%. Khu vực III (dịch vụ, thương mại) chiếm 59,96%. Những năm qua cơ cấu kinh tế của Hà Nội đã có sự thay đổi theo xu hướng giảm tương đối ở khu vực I và tăng tương đối ở khu vực II trong GDP. Thực tế tăng trưởng kinh tế Hà Nội cho thấy GDP của các khu vực qua các năm đều tăng tuyệt đối, nhưng tốc độ tăng giữa chúng khác nhau. Tăng nhất ở khu vực II, khu vực III tiếp đến là khu vực I. Nền kinh tế Hà Nội trong những năm qua tăng theo hướng lấy khu vực II làm chủ đạo, then chốt và khu vực III làm mũi nhọn đột phá. Trong những năm qua đã đạt được những thành tựu sau: Ngành nông-lâm nghiệp- thủy sản năm 2001 tạo giá trị sản xuất 1.733,147 tỷ đồng trong đó nông nghiệp tạo ra 1.642,696 tỷ đồng; lâm nghiệp đạt 16,503 tỷ đồng. Trong ngành nông nghiệp trồng trọt vẫn giữ vai trò chính chiếm 65,7% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi 32,3% còn lại 2% là dịch vụ nông nghiệp. Mặc dù chăn nuôi chưa thành ngành chính trong nông nghiệp nhưng tốc độ phát triển trong những năm qua có sự chuyển dịch: Tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản và cây công nghiệp, hiện có 100 trang trại phát triển khá. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, tỷ trọng GDP nông nghiệp hàng năm giảm. Năm 1998: 67,7%, năm 1999:14,7%, năm 2000:3,5%, năm 2001: 2,67%. Nhìn chung sản xuất nông nghiệp của Hà Nội phát triển với tốc độ chậm, chuyển dịch cơ cấu trong nội ngành chưa mạnh, năng suất thấp: Năm 1999 đạt 38,5 tạ/ha, năm 2001 đạt 38,7 tạ/ha và của các tỉnh đồng bằng sông Hồng là 51,3 tạ/ha. Hiện nay Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá với tốc độ cao, các nhu cầu sử dụng đất ở mọi lĩnh vực đều rất lớn, đặc biệt là trong xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị, các công nghiệp, nhu cầu do những dự án liên doanh với nước ngoài...Hầu hết các nhu cầu này đều lấy vào đất nông- lâm nghiệp. Chỉ tính riêng đất lúa từ 1995 đến nay đã giảm 2.301ha, trung bình mỗi năm giảm 420ha trong đó số khẩu nông nghiệp vẫn tăng liên tục trung bình 2%/năm. Số lao động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ ở các huyện ngoại thành ít và mang tính tự phát. Đất nông nghiệp Hà Nội hiện tại 43.612ha. Dự kiến đên 2005 còn lại 38.370ha, năm 2010 còn lại 33.000ha, giảm 10.000ha so với năm 2000, trung bình mỗi năm giảm khoảng 2,3% trong khi đó dân số nông nghiệp vẫn tăng lên khoảng 3,2%/năm đang gây nên sức ép lớn đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói riêng để bảo đảm tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người về nông nghiệp/năm thời kỳ 2002- 2010 là 6-8%/năm. Công nghiệp và tiểu thủ Công nghiệp: Hà Nội là địa bàn tập trung công nghiệp vào loại lớn nhất ở Bắc Bộ và là khu trung tâm công nghiệp lớin thứ hai của cả nước sau Thành phố Hồ Chí Minh. GDP công nghiệp Hà Nội chiếm 9-10% ngành công nghiệp của cả nước và 35% so với công nghiệp vùng Đồng Bằng Bắc Bộ, tài sản cố định chiếm 30% tài sản cố định của vùng Đồng Bằng Bắc Bộ và 50% vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Tỷ trọng GDP công nghiệp Hà Nội chiếm hơn 32% toàn thành phố và đang có xu hướng tăng lên, tăng lên từ 29% năm 1991 lên 39,6% năm 2001, bình quân mỗi năm tăng 1%. Giá trị sản xuất công nghiệp mở rộng tăng 12,6%, đáng chú ý là công nghiệp địa phương có sự chuyển biến mạnh, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 19,7%. Công nghiệp quốc doanh tăng 21,9% (là mức tăng cao nhất tong 5 năm qua). Đến năm 2001 thành phố Hà Nội có 273 doanh nghiệp nhà nước (gồm 167 doanh nghiệp công nghiệp trung ương và 106 doanh nghiệp công nghiệp địa phương) và 14.938 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó: Hợp tác xã 262 đơn vị; Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần 670 đơn vị; Doanh nghiệp tu nhân 79 đơn vị; Kinh tế cá thể, hộ 14.080 đơn vị. Ngoài ra thành phố Hà Nội còn có 135 doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các ngành công nghiệp hiện có trên địa bàn Hà Nội gồm 19 ngành nghề, tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất sau: công nghiệp thực phẩm đồ uống, công nghiệp dệt- may, chế biến gỗ, công nghiệp giầy, công nghiệp hoá chất, công nghiệp phi kim loại, công nghiệp kim loại cơ bản, chế tạo máy, chế tạo kim loại, các ngành khác. Các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã thu hút 185.098 lao động và tạo ra giá trị sản xuất năm 2001 17.912,886 triệu đồng. Dịch vụ và thương mại: Năm 2001 GDP của ngành dịch vụ, thương mại chiếm 59,96% của toàn thành phố, thu hút khoảng 12,8% số lao động việc làm trong khu vực Nhà nước và 68,7 nghìn hộ kinh doanh thương nghiệp dịch vụ cá thể. Ngành đang sử dụng khoảng 3,9 triệu m2 mặt bằng (trong đó thương nghiệp quốc doanh chiếm 80% và thương nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 20%). Thương nghiệp ngoài quốc doanh có 207 doanh nghiệp tạo ra hơn 60% tổng doanh thu thương nghiệp cuả thành phố, kinh doanh những mặt hàng có vốn và có ý nghĩa quan trọng như xăng, dầu, kim khí, thiết bị hoá chất. Nhiều doanh nghiệp quốc doanh đã thực hiện các liên doanh với các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Hiện tượng cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đang diễn ra mạnh. Thương nghiệp ngoài quốc doanh khoảng 1.500 công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân và công ty cổ phần, khoảng 68.700 hộ kinh doanh cá thể. Mặt hàng chủ yếu của thương nghiệp ngoài quốc doanh là thực phẩm, vải sợi may mặc, xe máy, điện máy, điện tử... với tổng doanh thu chiếm khoảng 40% doanh thu của thương nghiệp toàn thành phố. Trong cơ chế thị trường mới, thương nghiệp quốc doanh đã gần thích nghi và từng bước kinh doanh có hiệu quả, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm lực vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động hiện có. Thương nghiệp ngoài quốc doanh tỏ ra năng động hơn, nhưng cũnh ít ổn định hơn. Trong những khó khăn của thị trường vừa qua, một số quốc doanh đã bị phá sản. 3. Khả năng phát triển du lịch. Nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, là nơi hội tụ của 6 tuyến đường sắt, 8 tuyến đường bộ. Tất cả đều là trục giao thông lớn của miền Bắc và cả nước, nối liền với các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh của các tỉnh (thành phố) trong cả nước, phát triển cho dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó Hà Nội còn là điểm du lịch đầy hấp dẫn. Trải qua gần một ngàn năm lịch sử, người dân Hà Nội đã tạo dựng lên từ đây những di sản văn hoá to lớn và nhiều di tích lịch sử thiêng liêng. Hà Nội và những vùng phụ cận còn là nơi bảo tồn nhiều ngành nghề thủ công truyền thống và những lễ hội đầy bản sắc dân tộc. Hệ thống cơ sở hạ tầng nói chung và và các cơ sở phục vụ du lịch nói riêng ở Hà Nội khá phát triển vơí mạng lưới khách sạn, nhà nghỉ, khu vui chơi giải trí và các chợ phục vụ mọi tầng lớp nhân dân và khách vãng lai. Với vị trí thuận lợi, cơ sở hạ tầng khá phát triển, cảnh quan đẹp, các điểm danh lam thắng cảnh đa dạng và phong phú, kiến trúc đô thị độc đáo, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc... cùng với bề dày lịch sử Hà Nội rất có điều kiện phát triển ngành dịch vụ du lịch. Năm 2001 doanh thu từ ngành du lịch là 1.735 tỷ đồng tăng 375 tỷ đồng so với năm 1999 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8,9%/ năm. Các doanh ngiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch quốc doanh sử dụng 1.233, 4 nghìn m2 chiếm 0,17% đất của các doanh nghiệp quốc doanh sử dụng đất trên địa bàn Hà Nội thu hút trên 11.500 lao động. Trên địa bàn thành phố có 277 khách sạn, nhà nghỉ. Tốc độ tăng trưởng khách sạn, nhà nghỉ trong những năm gần đây giảm đi, nhưng lượng bồng đạt tiêu chuẩn tăng lên. Nhìn chung cơ sở kỹ thuật còn nghèo nàn, quản lý phân tán, tổ chức kinh doanh yếu chưa thích ứng với thị trường. Tiềm năng phát triển dịch vụ du lịch của thành phố Hà Nội rất lớn.Tuy nhiên thực trạng phát triển kinh tế- xã hội đang làm biến đổi cảnh quan của phố cổ, thu hẹp các hồ, đầm làm biến đổi dòng chảy huỷ hoại nhiều di tích lịch sử, văn hoá... đang làm giảm sức hấp dẫn các điểm dânh lam thắng cảnh của thành phố. II. Khái quát tình hình quản lý đất đai của Hà Nội. 1. Về địa giới hành chính. Năm 1994 thành phố đã cho thực hiện chỉ thị 364-CT ngày 6/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng về giải quyết những tranh chấp đất có liên quan đến địa giới hành chính các cấp tỉnh, huyện, xã. Năm 2000 thành phố đã kiểm kê đất đai theo chỉ thị 224/TTg diện tích đất đai được chỉnh lý, bổ sung trưên cơ sở địa giới hành chính được hoạch định theo chỉ thị 364. Thành phố có tổng diện tích tự nhiên là 92.097 ha bao gồm 7 quận, 5 huyện với 102 phường, xã và 8 thị trấn. 2.Về đo đạc lập bản đồ địa chính. Đến nay thành công tác đo đạc lập bản đồ địa chính cho 126 xã, thị trấn khu vực ngoại thành, cơ bản hoàn thành đo vễ bản đồ địa chính khu vực I nội thành và đang triển khai ở khu vực II ngoại thành. Toàn bộ bản đồ địa chính khu vực ngoại thành tỉ lệ 1:1000 khu vực thổ cư và 1:2000 khu vực còn lại cũng như bản đồ địa chính của 108 phường, khu vực nội thành tỉ lệ 1:200 đã được bàn giao cho UBND các phường, xã, thị trấn. Bước đầu ngành địa chính của thành phố đã tiến hành áp dụng công nghệ vào lĩnh vực như công tác cập nhật bản đồ, bàn giao mốc giới, xây dựng hồ sơ ngành địa chính và trích lục bản đồ gắn việc quản lý đất đai với việc quản lý nhà nước và đã tiến hành nhiều công trình thí điểm về đo đạc lập sổ địa chính theo các phương pháp quản lý ở một số phường. 3.Về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện chỉ thị 245/CP. Giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp theo nghị định 64/CP: Đã có 70 xã duyệt xong, phương án giao đất đạt 59,3%. Đến nay đã có 118/118 xã đã và đang tổ chức giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, trong đó 41 xã đợt I đã cơ bản hoàn thành, đã có 64.189 hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp với diện tích là 12.823,5 ha đạt 34,66%. Đã có 32.000 hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và vườn liền kề. Công tác cấp giấy chứng ngận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở theo Nghị định 60/CP và Nghị định 61/CP: năm 2001 toàn thành phố Hà Nội đã bán nhà theo Nghị định 61/CP đạt 369 tỷ đồng, cấp 9.747 giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đạt 168% kế hoạch năm, trong đó thu nộp ngân sách 164 tỷ đồng, đạt 234% kế hoạch năm. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở theo Nghị định 60/CP đạt 73.101 hộ đạt 106,24%. Tính đến nay tổng số giấy chứng nhận đã cấp trên địa bàn thành phố là 75.575 hộ đạt 38,75%. Về giao đất, cho thuê đất đối với các tổ chức, hộ gia đình. Theo báo cáo tổng hợp về kết quả thực hiện chỉ thị 15/2001/CT-UB của các quận huyện. UBND các quận huyện đã chỉ đạo tổ chức kiểm tra sử dụng đất của 5.983 tổ chức với tổng diện tích đất 6.865 ha, trong đó phát hiện 1.412 trường hợp vi phạm về quản lý sử dụng, với diện tích là 472,8 ha đất và 1.774 trường hợp hộ gia đình, cá nhân lấn chiếm đất công với diện tích 21,88 ha đất. Trong đó số tổ chức để đất hoang hoá hoặc chưa sử dụng là 129,8 ha đất chiếm 27,45% diện tích đất vi phạm. Trong số 1.412 trường hợp vi phạm quản lý sử dụng đất, đa số kê khai đăng ký thực hiện Chỉ thị 245/TTg thành phố mới triển khai ký hợp đồng thuê đất và thu tiền thuê đất đối với các tổ chức sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh. Đối với các dạng vi phạm trong quản lý sử dụng đất chưa được giải quyết xử lý. Về công tác thanh tra giải quyêt khiếu nại tố cáo, tranh chấp... về đât đai. + Năm 1995: Xử lý 67% trong tổng số 71 đơn vị khiếu nại, tố cáo, kiểm tra 8 vụ, 6 vụ tham gia theo công trình. + Năm 1996: Thanh tra và có kết luận 64/78 đơn vị đạt 82,5%. + Năm 1997: Thanh tra 11 cuộc theo công trình và theo chuyên đề. Nhận đơn, xét khiếu tố 128 trường hợp, phát hiện xử lý có 77 trường hợp vi phạm việc sử dụng đất đai trong đó có 61 trường hợp dân sự và 16 trường hợp đất an ninh quốc gia. + Năm 1999: Thanh tra 18 địa điểm theo công trình và chuyên đề; thanh tra xử lý các vi phạm lấn chiếm đất đai, sử dụng không phép ven đường Láng - Hoà Lạc và vành đai 3, thanh tra 32 đơn vị sử dụng đất có vi phạm tại quận Tây Hồ, giải quyết dứt điểm tranh chấp khiếu nại kéo dài về nhà đất tại một số điểm nóng trong khu vực nội thành, phát hiện 68 doanh nghiệp chưa ký hợp đồng thuê đất theo quy định của pháp luật. + Năm 2001: Theo chỉ thị 245/ TTg kiểm tra 5.983 tổ chức với diện tích 6.865 ha thì phát hiện vi phạm sử dụng đất như: Quận Hai Bà Trưng có 230 trường hợp, Quận Hoàn Kiếm 208 trường hợp, huyện Thanh Trì 162 trường hợp, Quận Ba Đình 162 thị trườngường hợp, huyện Từ Liêm 155 trường hợp, huyện Gia Lâm 133 trường hợp, Quận Đống Đa 101 trường hợp, Quận Thanh Xuân 91 trường hợp, Quận Tây Hồ 51 trường hợp, Quận Cầu Giấy 47 trường hợp, huyện Sóc Sơn 45 trường hợp, huyện Đông Anh 24 trường hợp III. Hiện trạng quỹ đất đai và biến động đất đai. Biểu số 02: Tình hình sử dụng và biến động đất đai thời kỳ 1995-2000 Thành phố Hà Nội Đơn vị tính: ha Loại đất Tình hình sử dụng Biến động tăng (+), giảm (-) Năm 1995 Năm 2000 Diện tích % Diện tích % Diện tích % Tổng diện tích 91807 100,00 92097 100,00 1. Đất nông nghiệp 43865 47,78 43612 47,36 -253 -0,58 - Đất trồng cây hàng năm 40087 91,39 39.066 89,58 -1.021 -2,61 + Đất ruộng lúa, lúa màu 34941 87,16 32.840 84,06 +2.101 +6,40 Đất ruộng 3 vụ 6.539 19,91 Đất ruộng 2 vụ 22.678 69,07 Đất ruộng 1 vụ 3.054 9,30 Đất chuyên mạ 569 1,73 + Đất trồng cây hàng năm 5146 12,84 6.226 15,94 +1.080 +17,35 Đất chuyên màu và cây công nghiệp 4.156 66,75 Đất chuyên rau 1.441 23,14 Đất trồng cây lâu năm khác còn lại 629 10,10 + Đất vườn tạp 524 1,19 510 1,17 -14 -2,75 - Đất trồng cây lâu năm 266 0,61 765 1,75 +499 178,95 + Đất trồng cây công nghiệp lâu năm 1 0,03 + Đất trồng cây ăn quả 747 97,65 + Đất trồng cây lâu năm khác 8 1,05 + Đất trồng cây giống 9 1,17 - Đất trồng cây cỏ dùng vào công nghiệp 101 0,23 +13 +14,77 - Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 2900 6,61 3.170 7,27 +270 9,31 + Chuyên nuôi cá 3.065 77,89 + Nuôi trồng thuỷ sản khác 105 2,67 2. Đất lâm nghiệp 6717 7,32 6.128 6,65 -589 -9,61 - Đất rừng trồng 6696 99,69 6.109 99,60 -560 -9,17 + Đất rừng sản xuất 2504 37,40 1.709 27,98 -759 -44,40 + Đất rừng phòng hộ 4153 62,02 2.995 49,03 -1.158 -38,66 + Đất rừng đặc dụng 39 0,58 1.405 23,00 +1.360 +98,60 - Đất ươm cây giống 21 0,31 19 0,31 -2 -10,35 3. Đất chuyên dùng 19306 21,03 20.533 22,30 +1.227 +6,36 - Đất xây dựng 5401 27,98 5.558 27,07 +157 +2,91 - Đất giao thông 4962 26,70 5.618 27,36 +656 +13,22 - Đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 5082 26,32 5.585 27,20 +503 +9,90 - Đất di tích lịch sử, văn hoá 237 1,23 262 1,28 -25 -9,54 - Đất an ninh quốc phòng 1918 9,93 2.061 10,04 +143 +7,46 - Đất khai thác khoáng sản 17 0,09 7 0,03 -10 -142,86 - Đất làm nguyên vật liệu xây dựng 515 2,67 327 1,74 -158 -30,68 - Đất nghĩa trang, nghĩa địa 748 3,87 752 3,66 -4 -0,53 - Đất chuyên dùng khác 426 2,21 333 1,62 -93 -27,93 4. Đất khu dân cư nông thôn 15.989 17,36 - Đất nông nghiệp 1.572 9,83 - Đất lâm nghiệp 212 1,33 - Đất chuyên dùng 4.990 31,21 -93 -21,83 - Đất ở 9081 78,90 8.817 54,14 -264 -2,99 - Đất chưa sử dụng 398 2,49 5. Đất đô thị 9.856 10,07 - Đất nông nghiệp 1.989 20,18 - Đất lâm nghiệp 24 0,24 - Đất chuyên dùng 4.008 40,66 - Đất ở 2428 21,10 2.872 29,14 +444 +15,46 - Đất chưa sử dụng 963 9,78 6. Đất chưa sử dụng sông suối, núi đá 10410 11,34 10.135 11,01 -257 -2,54 - Đất đồng bằng chưa sử dụng 578 5,55 1.051 10,37 +473 +45,01 - Đất đồi núi chưa sử dụng 1252 12,03 1.700 16,77 +448 +26,35 - Đất mặt nước chưa sử dụng 1342 12,89 938 9,26 +404 +43,07 - Sông suối 6290 60,42 5.915 58,36 -375 -6,34 - Núi đá không có rừng cây 103 0,99 64 0,63 -378 -60,98 - Đất chưa sử dụng khác 845 8,12 467 4,61 -378 -80,94 Nguồn: Niên giám thống kê năm 1991-2001- Cục Thống kê thành phố Hà Nội Diện tích đất đai phân theo đơn vị hành chính Thành phố Hà Nội. + Nội thành: 8.430 ha bằng 9,15 diện tích tự nhiên của toàn thành phố Gồm các Quận: Hoàn Kiếm 529 ha; Ba Đình 925 ha; Đống Đa 996 ha; Hai Bà Trưng 1.465 ha; Tây Hồ 2.401 ha; Cầu Giấy 1.204 ha; Thanh Xuân 910 ha. + Ngoại thành: 83.667 ha bằng 90,85% diện tích tự nhiên toàn thành phố, gồm các huyện: Gia lâm 17.432 ha; Đông Anh 18.230 ha; Sóc Sơn 30.651 ha; Thanh Trì 9.822 ha; Từ Liêm 7.532 ha bằng 9,01%. Như vậy, diện tích đất đai của thành phố tuy không nhiều nhưng tính chất sử dụng đa dạng và khá phức tạp; các tổ chức trong nước sử dụng đất trên địa bàn 12 Quận, huyện ở cả 228 phường xã, thị trấn với mức độ khác nhau. Theo thống kê năm 200 diện tích đất do các cơ quan đơn vị đang quản lý sử dụng là 15.779,16 ha chiếm 17,15% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó: diện tích đất sử dụng trước năm 1996 và các trường hợp được giao đất, cho thuê đất sau năm 1996 là 9.933,69 ha chiếm 10,8% diện tích đã kê khai theo chỉ thị 245/TTg của Thủ tướng Chính Phủ: 5.845,47 ha chiếm gần 6,35% diện tích đất tự nhiên với 6.410 tổ chức đang sử dụng 9.878 thửa đất trong đó có 2.750 tổ chức và cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước với tổng diện tích đất sử dụng là 2.778,6 ha không phải hợp đồng thuê đất; 3.660 tổ chức kinh tế sử dụng 4.305 thửa đất: 3.066,87 ha trong đó 1452 tổ chức thuộc Trung Ương quản lý 2.208 tổ chức do thành phố và các quận huyện quản lý. Có 1.903 tổ chức sử dụng đất có giấy tờ hợp pháp 1.757 tổ chức sử dụng đất không có giấy tờ hợp pháp: kết quả là đã có 1500 thửa đất ký hợp đồng chiếm 39,3%; 1200 thửa đất có vướng mắc nên chưa ký hợp đồng chiếm 31,4%; 1.116 thửa đất trên 1000 tổ chức đã nhận hợp đồng thuê đất và thông báo của Sở Địa chính- Nhà đất (chiếm 29,2%) nhưng chưa ký hợp đồng. Theo số liệu của cục thuế Hà Nội với 1.500 tổ chức đã ký hợp đồng thuê đất, hàng năm thu được 90-95 tỷ đồng tiền thuê đất nộp ngân sách Nhà nước nhưng chỉ tính trong các năm từ 1996-2000 các tổ chức này còn nợ đọng 95,6 tỷ đồng. Từ năm 1996-2000 có 250 tổ chức được thuê đất mới với tổng số 2.454.991,2 m2; Các trường hợp này được thuê đất theo dự án đầu tư được duyệt và theo quy trình giao đất chặt chẽ nên về cơ bản sử dụng đất đúng mục đích và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. 1. Biến động đất đai giai đoạn 1995-2000. Tổng diện tích tự nhiên theo địa giới hành chính của toàn Thành phố năm 2000 là 92.097 ha tăng 290 ha so với năm 1993. Về cơ bản địa giới hành chính của Thành phố không có gì thay đổi, chỉ có sự thay đổi địa giới hành chính giữa các quận, huyện trong Thành phố cụ thể là: Quận Tây Hồ là đơn vị hành chính mới được thành lập và chính thức hoạt động từ ngày 1/1/1996, được tách ra từ các phường của huyện Từ Liêm và quận Đống Đa, quận Thanh Xuân và quận Cầu Giấy là hai đơn vị hành chính mới được thành lập từ ngày 1/1/1997, được tách ra từ các quận Đống Đa, huyện Từ Liêm, Thanh Trì. Sự sai lệch về tổng diện tích tự nhiên của Thành phố Hà Nội trong những năm qua là do chất lượng thống kê, kiểm kê đất đai hành năm (gọi là nguyên nhân thống kê). a. Đất nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp năm 1995 là 43.865 ha, đến năm 2000 là 43.612 ha giảm 253 ha. Nguyên nhân chủ yếu làm giảm đất nông nghiệp trong những năm vừa qua là do chuyển sang các mục đích sử dụng khác nhau như: chuyển sang đấ._.chưa sử dụng khác 3 ha. Đến năm 2010 đất cỏ dùng vào chăn nuôi có diện tích là 646 ha phân bố ở các huyện: Gia Lâm 273 ha, Đông Anh 200 ha và Sóc Sơn 173 ha. 5. Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Năm 2000 có diện tích 3.170 ha, trong những năm tới giảm 783 ha do chuyển sang đất xây dựng 451 ha; đất giao thông 61 ha; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng khác 85 ha; đất chuyên dùng khác 10 ha; đất ở đô thị 154 ha; đất ở nông thôn 22 ha; đồng thời tăng thêm 437 ha lấy từ đất lúa, đất màu 155 ha; đất có mặt nước chưa sử dụng 282 ha;. Đến năm 2010 diện tích đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 2.824 ha; phân bố ở các huyện Gia Lâm 253 ha, Đông Anh 317 ha, Sóc Sơn 412 ha, Thanh Trì 741 ha, Từ Liêm 328 ha và các quận nội thành 773 ha. Như vậy đến năm 2010 tổng diện tích đất nông nghiệp còn lại 33.605 ha, giảm 10.007 ha so với năm 2000. 6. Đất lâm nghiệp. a. Đất rừng sản xuất Năm 2000 có diện tích 1.709 ha, trong những năm tới giảm đi 13 ha do chuyển sang đất giao thông 5 ha, còn lại 1.696 ha đến năm 2010 phân bố ở huyện Gia Lâm 59 ha, Đông Anh 5 ha, Sóc Sơn 7.620 ha, Từ Liêm 16 ha và các quận huyện nội thành 3 ha. b. Đất rừng phòng hộ. Năm 2000 có diện tích 2.995 ha, trong những năm tới giảm 112 ha do chuyển sang đất xây dựng 44 ha; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 33 ha; đất làm nguyên vật liệu xây dựng 16 ha; đất nghĩa trang, nghĩa địa 4 ha; đất chuyên dùng khác 15 ha; đồng thời tăng thêm 170 ha lấy từ đất đồi núi chưa sử dụng 1.668 ha; đất chưa sử dụng khác 32 ha. Đến năm 2010 diện tích đất rừng phòng hộ là 4.583 ha trong đó có huyện gia Lâm 59 ha, Sóc Sơn 4. 524 ha. c. Đất có rừng đặc dụng. Năm 2000 có 1.405 ha và được giữ nguyên đến năm 2010 ở huyện Sóc Sơn. d. Đất ươm cây giống. Hiện có 19 ha và được giữ nguyên đến năm 2010, trong đó ở huyện Từ Liêm có 16 ha, còn 3 ha nằm trong các quận nội thành. Đến năm 2010 tổng diện tích đất lâm nghiệp sẽ là 7.703 ha tăng 1.575 ha so với năm 2000. 7. Đất khu dân cư nông thôn. Diện tích đất khu dân cư nông thôn đến năm 2010 được xác định trên cơ sở hiện trạng đất khu dân cư nông thôn năm 2000, diện tích đất khu dân cư nông thôn phải được chuyển sang mục đích khác do bị đô thị hoá, do phát triển công nghiệp, giao thông... diện tích đất cần thiết để tái định cư số hộ giải toả do lấy đất phát triển công nghiệp, giao thông... tiêu chuẩn giao đất theo từng huyện khoảng chừng 140- 200 m2/ hộ. Số dân nông thôn năm 2001 toàn thành phố là 1.140.000 người, trong những năm tới có 164.580 người sẽ chuyển thành dân đô thị, còn lại 975.420 người. Số dân nông thôn năm 2010 là 1.120.900 người tăng thêm 145.480 người tương đương với 34.625 hộ, số hộ có nhu cầu đất ở mới là 27.900 hộ, số hộ bị di dời, giải toả phải tái định cư lại (không kể số hộ sẽ được bố trí trong đô thị) là 1.500 hộ. Như vậy tổng số hộ có nhu cầu đất ở mới là 29.400 hộ, trong đó huyện Sóc Sơn có 7.720 hộ, huyện Đông Anh 5.920 hộ, huyện Gia Lâm 6.540 hộ, huyện Thanh Trì 5.770 hộ và huyện Từ Liêm 3.450 hộ. Theo định mức giao đất ở của huyện từ Liêm và huyện Thanh Trì là 140 m2/ hộ, của huyện Đông Anh và huyện Gia Lâm là 150 m2/hộ và của huyện Sóc Sơn là 200 m2/ hộ, đồng thời khi giao đất ở mới phải tính thêm 10% đất giao thông nội bộ. Theo đó diện tích đất khu dân cư tăng lên 470,4 ha trong đó đất ở nông thôn tăng thêm 425 ha lấy vào các loại đất lúa, lúa màu 328 ha; đất trồng cây hàng năm khác 36 ha; đất vườn tạp 1 ha; đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 8 ha; đất xây dựng 3 ha; đất làm nguyên vật liệu xây dựng 5 ha; đất bằng chưa sử dụng 9 ha; đất đồi núi chưa sử dụng 12 ha; đất chưa sử dụng khác 1 ha. Đồng thời trong những năm tới ở nông thôn giảm 1.338 ha do chuyển sang các loại đất xây dựng 96 ha; đất giao thông 115 ha; đất chuyen dùng khác 1ha; đất ở đô thị 1.126 ha. Tổng diện tích đất ở nông thôn đến năm 2010 là 7.904 ha, giảm 913 ha so với năm 2000. Tổng diện tích đất nông thôn đến năm 2010 là 13.741 ha. 8. Đất ở đô thị. Đến năm 2010 sẽ có 2.079.100 người sống trong các đô thị của thành phố Hà Nội tăng thêm 531.600 người so với năm 2001. Để đảm bảo nhu cầu ở cũng như những hoạt động kinh tế, chính trị xã hội của Thủ đô, đất đô thị của thành phố sẽ mở rộng như sau: (Xem biểu 08) Biểu 08: Định hướng sử dụng đất đô thị Thành phố mở rộng đến năm 2010 Đơn vị tính: ha Khu phát triển đô thị Hiện trạng năm 2000 Sử dụng đến năm 2010 Đất đô thị Đất ở đô thị Đất đô thị Đất ở đô thị 1. Khu vực thành phố thành thị 9.684 2.813 18.903 4.911 -Khu vực 7 quận nội thành 8.430 2.442 8.430 2.485 -Khu vực mở rộng sang H.Gia Lâm 558 213 3.506 602 -Khu vực mở rộng sang H.Từ Liêm 213 049 1.726 607 -Khu vực mở rộng sang H. Thanh Trì 0 0 1.002 337 -Khu đô thị Bắc Thăng Long 0 0 2.640 406 -Khu đô thị Cổ Loa 0 0 300 100 -Khu đô thị Đông Anh 453 109 1.300 374 2. Khu đô thị Trâu Quỳ 0 0 409 98 3. Khu đô thị Văn Điển-Tứ Hiệp 009 32 230 88 4. Khu đô thị Sóc Sơn 082 27 3.264 778 Tổng số 9.856 2.872 22.807 5.875 Nguồn: Báo cáo chuyên đề “Định hướng sử dụng đất thời kỳ 2000-2010” một số nghành lĩnh vực của thành phố Hà Nội Như vậy diện tích đất đô thị đến năm 2010 tăng thêm 12.951 ha lấy vào các loại đất lúa, lúa màu 5.789 ha; cây hàng năm khác 355 ha; vườn tạp 51 ha; cây lâu năm 37 ha; đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 619 ha; đất cỏ dùng cào chăn nuôi 5 ha; đất rừng trồng sản xuất 499 ha; đất xây dựng 1.365 ha; đất giao thông 796 ha; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 819 ha; đất di tích lịch sử văn hoá 53 ha; đất làm nguyên vật liệu xây dựng 26 ha; đất chuyên dùng khác 60 ha; đất ở nông thôn 1.397 ha; đất bằng chưa sử dụng 42 ha; đất mặt nước chưa sử dụng 79 ha; sông suối 258 ha; đất chưa sử dụng khác 19 ha. Diện tích đất đô thị năm 2000 là 2.872 ha, trong những năm tới giảm 232 ha do chuyển sang đất xây dựng khác 27 ha; đất giao thông 205 ha; đồng thời tăng thêm 3.235 ha lấy từ đất đồng lúa, lúa màu 1.649 ha; đất trồng cây hàng năm khác 172 ha; đất vườn tạp 19 ha; đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 154 ha; đất xây dựng 11 ha; đất giao thông 4 ha; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 73 ha; đất làm nguyên vật liệu xây dựng 7 ha; đất nghĩa trang, nghĩa địa 6 ha; đất ở nông thôn 1.126 ha; đất bằng chưa sử dụng 14 ha;. Đến năm 2010 diện tích đất ở đô thị sẽ là 5.875 ha. 9. Đất chuyên dùng. * Đất các công trình công nghiệp. Đến năm 2010 sẽ mở rộng diện tích khu công nghiệp: Biểu 09: Định hướng mở rộng đất khu Công nghiệp đến năm 2010 Đơn vị tính: ha STT Khu Công nghiệp Diện tích tăng thêm 1 Văn Điển- Pháp Vân 11 2 Cầu Bươu 39,6 3 Cầu Diễn- Mai Dịch 50 4 Đức Giang 42 5 Bắc Thăng Long 305 6 Chế xuất Nội Bài 330 7 Gia Lâm 447 Nguồn:Báo cáo chuyên đề “Định hướng sử dụng đất thời kỳ 2000-2010” một số nghành lĩnh vực của thành phố Hà Nội Xây mới khu công nghiệp Nam Thăng Long với diện tích 260 ha, khu công nghiệp Đông Anh 155 ha các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở huyện Gia Lâm 20 ha, huyện Thanh trì 20 ha, huyện Từ Liêm 25 ha, huyện Sóc Sơn 61,5 ha. Ngoài ra còn dành 27,3 ha cho các cơ sở công nghiệp khác ở 5 huyện ngoại thành. Tổng diện tích đất dành cho công nghiệp đến năm 2010 là 3.686 ha, mở rộng thêm 1.793 ha so với năm 2000. * Đất các công trình kinh doanh dịch vụ thương mại. Đến năm 2010 mở rộng, xây mới các công trình sau: Bảy siêu thị với tổng diện tích 4,45 ha. Năm trung tâm thương mại với tổng diện tích 68,20 ha. Bốn cửa hàng miễn thuế với tổng diện tích 1,15 ha ở hàng cỏ quận Đống Đa. Mạng lưới xăng dầu gồm 190 điểm với tổng diện tích 17 ha. Mạng lưới giết mổ gồm 5 điểm với tổng diện tích 3,5 ha. Mạng lưới chợ gồm 23 chợ với tổng diện tích 24,60 ha. Tổng diện tích đất dành cho các công trình dịch vụ thương mại đến năm 2010 mở rộng thêm 117,9 ha. *Đất trụ sở cơ quan. Tổng diện tích đất dành cho trụ sở các cơ quan đến năm 2010 sẽ mở rộng thêm 58,82 ha. *Đất các cơ sở y tế. Tổng diện tích đất các cơ sở y tế đến năm 2010 mở rộng thêm 17,46 ha. * Đất trường học. Hệ thống trường học của thành phố Hà Nội đến năm 2010 sẽ được mở rộng, xây mới như sau. - Hệ thống trường Mầm Non gồm 318 trường với tổng diện tích mở rộng thêm là 90,21 ha, hệ trống trường tiểu học gồm 148 trường với diện tích mở rộng thêm là 105,80 ha; hệ thống trường trung học cơ sở gồm 143 trường với diện tích mở rộng thêm là 104,76 ha; hệ thống trường phổ thông trung học gồm 24 trường với diện tích mở rộng thêm là 40,82 ha. - Phân bố mở rộng thêm các trường học theo các quận, huyện: (Xem Biểu 10) Biểu số 10: diện tích đất tăng thêm khi mở rộng một số trường học đến năm 2010 Đơn vị tính: ha TT Quận, huyện Diện tích tăng thêm (ha) Trường mầm non Trường tiểu học Trường THCS Trường PTTH Trung tâm GDTX Trung tâm dạy nghề Trường ĐH,CĐ 1 Ba Đình 0,32 2,04 1,60 2 Hoàn Kiếm 0,83 3 Đống Đa 2,09 3,70 3,28 4 Hai Bà Trưng 2,42 4,17 7,04 2,00 0,42 0,50 5 Tây Hồ 1,16 1,63 1,97 0,86 0,80 6 Thanh Xuân 0,20 1,88 0,50 0,50 1,00 7 Cầu Giấy 6,18 5,60 3,78 3,86 8 Thanh Trì 9,48 14,78 17,40 4,30 2,31 9 Đông Anh 28,17 28,90 31,10 12,11 0,90 8,32 10 Gia Lâm 10,49 11,97 3,98 5,54 3,00 11 Từ Liêm 11,53 13,34 13,37 89,00 12 Sóc Sơn 17,34 17,39 21,74 11,55 Tổng cộng 90,21 105,80 104,76 40,82 7,43 9,82 89,00 Nguồn: Báo cáo chuyên đề “Định hướng sử dụng đất thời kỳ 1997-2010” một số nghành lĩnh vực của thành phố Hà Nội - Hệ thống trung tâm giáo dục thường xuyên gồm 7 trường với tổng diện tích mở rộng thêm 7,43 ha; trong đó có 1 trường ở quận Thanh Xuân, 1 trường ở Tây Hồ, 3 trường ở huyện thanh Trì, 1 trường ở huyện Đông Anh và 1 trường ở huyện Gia Lâm. - Hệ thống trung tâm dạy nghề gồm 6 trung tâm với tổng diện tích mở rộng thêm 9,82 ha trong đó có 1 trung tâm ở Tây Hồ, 2 trung tâm ở Cầu Giấy, 3 trung tâm ở huyện Đông Anh. Các trường đại học và cao đẳng sẽ tập trung ở Tây Mỗ- Đại Mỗ thuộc huyện Từ Liêm trong 1 khu vực với tổng diện tích 89 ha. Như vậy đến năm 2010 diện tích đất các trường học sẽ mở rộng thêm 444,84 ha. * Đất cho công trình thể dục- thể thao. Các công trình thể dục- thể thao đến năm 2010 sẽ được mở rộng, xây mới thêm ở 140 công trình với tổng diện tích mở rộng thêm là 478,59 ha Tháp truyền hình Trung ương: Được xây dựng ở Xuân La- Xuân Đỉnh huyện Từ Liêm với diện tích 0,6 ha. Trạm biến thế: Xây mới 29 trạm với tổng diện tích 5,65 ha. Mở rộng, xây mới nhà máy nước cho các khu vực đô thị với tổng diện tích tăng thêm 3,92 ha. Xây dựng nhà máy xử lý chất thải rắn, nhà máy chế biến phân compót với tổng diện tích 12,5 ha. Các trạm xử lý chất thải gồm 15 trạm với tổng diện tích 81,17 ha. Xây dựng 5 tượng đài với tổng diện tích chiếm đất là 2,10 ha. Xây mới 26 công viên cây xanh với tổng diện tích 1.231 ha. Các công trình đầu mối giao thôngđược mở rộng và xây mới 4 bến xe khách liên tỉnh với tổng diện tích tăng thêm 9,50 ha, 5 bến xe tải với tổng diện tích tăng thêm 20,00 ha, 47 ra- đề- pô, bến đỗ xe với tổng diện tích tăng thêm 41,13 ha, 10 cảng sông với tổng diện tích tăng thêm 54,5 ha. Mở rộng sân bay Nội Bài thêm 89 ha nữa. Tổng diện tích các công trình đầu mối giao thông đến năm 2010 mở rộng thêm 675,57 ha. Xây mới 8 trạm bơm với tổng diện tích tăng thêm là 0,33 ha. Khu ngoài giao đoàn: Được xây mới ở huyện Từ Liêm với diện tích 62,8 ha trong đó đất xây dựng là 27 ha. Đất xây dựng trung tâm vùng, tiểu vùng với tổng diện tích toàn thành phố đến năm 2010 là 78,55 ha. Các công trình công cộng xây dựng mới trong khu ở của các đô thị với tổng diện tích đất xây dựng mới đến năm 2010 tăng thêm 245,09 ha. Như vậy tổng diện tích đất xây dựng đến năm 2010 sẽ tăng thêm 5.467 ha lấy vào các loại đất lúa, lúa màu 3.841 ha; đất trồng cây hàng năm khác 510 ha; đất vườn tạp 20 ha; đất trồng cây lâu năm 33 ha; đất cỏ dùng vào chăn nuôi 5 ha; đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 451 ha; đất có rừng phòng hộ 44ha; đất giao thông 9 ha; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 166 ha; đất an ninh quốc phòng 29 ha; đất làm nguyên vật liệu xây dựng 23 ha; đất nghĩa trang, nghĩa địa 20 ha; đất chuyên dùng khác 27 ha; đất ở đô thị 27 ha; đất ở nông thôn 96 ha; đất bằng chưa sử dụng 36 ha; đất đồi núi chưa sử dụng 20 ha; đất có mặt nước chưa sử dụng 32 ha; đất sông suối 71 ha; đồng thời trong những năm tới đất xây dựng giảm đi 123 ha do chuyển sang đất giao thông 108 ha; đất chuyên dùng khác 1 ha; đất ở đô thị 11 ha; đất ở nông thôn 3 ha. Tổng diện tích đất xây dựng năm 2010 là 10.902 ha. 10. Đất giao thông. a. Quốc lộ. Mở rộng quốc lộ 1A với tổng diện tích đất mở rộng thêm là 29 ha. Làm quốc lộ 2 dài tránh sân bay dài 6,3 km; rộng 12 m; diện tích 8 ha. Quốc lộ 3 với tổng diện tích lấy đất 122 ha. Làm mới quốc lộ 18 dài 13,5 km; rộng 33 m; diện tích 45 ha. Mở rộng quốc lộ 32 từ đường cao tốc Thăng Long đến Nhổn dài 5,75 km; rộng từ 14-18 m lên 58 m; diện tích 24 ha. Làm mới quốc lộ 5 đoạn từ quốc lộ 1A (phía Bắc) đến đường cao tốc Thăng Long dài 14,5 km; rộng 60 m; diện tích 87 ha. Tổng diện tích đất dành cho mở rộng, làm mới các quốc lộ là 315 ha. b.Tỉnh lộ. Đến năm 2010 tổng diện tích tăng thêm do mở rộng các Tỉnh lộ là 52,35 ha. c. Đường vành đai. Mở rộng các đường vành đai 1; 2; 3 với tổng diện tích tăng thêm do mở rộng, làm mới các vành đai là 417,77 ha. d. Các đường hướng tâm. Đến năm 2010, tổng diện tích tăng thêm của các đường hướng tâm là 61,29 ha. e. Đường liên quận huyện. Đến năm 2010 diện tích tăng thêm do mở rộng, làm mới đường liên quận- huyện là 146,41 ha. f. Giao thông nội bộ các quận- huyện. Ngoài các đường giao thông trên là giao thông nội bộ trong các quận, thị trấn của các huyện, giao thông liên thôn, liên xã, giao thông trong các khu ở được tổng hợp liên tiếp tới các quận huyên. Theo đó tổng diện tích tăng thêm đến năm 2010 do mở rộng, làm mới giao thông nội bộ các quận, huyện là 3.360,8 ha. g. Đường sắt. Đến năm 2010 sẽ làm mới một số đường sắt nằm trong huyện Thanh Trì dài 9,69 km; đoạn nằm trong huyện Gia Lâm dài 14,25 km; đoạn nằm trong huyện Đông Anh dài 8,25 km. Các tuyến đường sắt có chiều rộng trung bình 6 m, tổng diện tích chiếm đất là 19,31 ha. h. Các nút giao thông. Đến năm 2010 sẽ cải tạo, làm mới 33 nút giao thông với tổng diện tích tăng thêm do các nút giao thông là 112,01 ha. Như vậy, tổng diện tích giao thông đến năm 2010 tăng thêm 3.484 ha lấy vào các loại đất: lúa, lúa màu 2.765 ha; cây hàng năm khác 139 ha; đất vườn tạp 5 ha; đất trồng cây lâu năm 5 ha; đất có mặt nước nôi trồng thuỷ sản 61 ha; đất có rừng sản xuất 5 ha; đất xây dựng 108 ha; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 20 ha; đất an ninh quốc phòng 5 ha; đất nghĩa trang, nghĩa địa 3 ha; đất ở đô thị 205 ha; đất ở nông thôn 115 ha; đất bằng chưa sử dụng 3 ha; đất có mặt nước chưa sử dụng 45 ha. Đồng thời trong những năm tới đất giao thông cũng giảm 14 ha do chuyển sang đất xây dựng 9 ha; đất chuyên dùng khác 1 ha; đất ở đô thị 4 ha. Tổng diện tích đất giao thông năm 2010 là 9.088 ha. 11. Đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng. Đến năm 2010 thực hiện các dự án kéo dài kênh rạch, mở rộng, xây mới các kênh mương phục vụ cho tưới tiêu, thoát cấp nước ở các huyện. Tổng diện tích đất dành cho thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng tăng thêm là: huyện Sóc Sơn 138,53 ha; huyện Đông Anh 55,76 ha; huyện Gia Lâm 27,58 ha; huyện Thanh Trì 91,86 ha; huyện Từ Liêm 1 ha. Như vậy đến năm 2010 diện tích đất dành cho thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng toàn thành phố tăng thêm 315 ha lâý vào các loại đất lúa, lúa màu 145 ha; đất trồng cây hàng năm khác 26 ha; đất vườn tạp 2 ha; đất có mặt nước chưa sử dụng 23 ha; đất chưa sử dụng khác 1 ha. Đồng thời giảm đi 259 ha do chuyển sang đất xây dựng 166 ha; đất giao thông 20 ha; đất ở đô thị 73 ha. Tổng diện tích đất dành cho thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng của thành phố đến năm 2010 là 5.641 ha. 12. Đất di tích lịch sử- văn hoá. Năm 2000 có 262 ha và vẫn giữ nguyên trong những năm tới. 13. Đất an ninh quốc phòng. Năm có 2.106 ha, trong những năm tới giảm 34 ha do chuyển sang đất xây dựng 29 ha, đất giao thông 5 ha, còn lại 2.072 ha vào năm 2010. 14.Đất khai thác khoáng sản. Hiện có 7 ha và vẫn giữ nguyên đến năm 2010. 15. Đất làm nguyên vật liệu xây dựng. Tổng diện tích đất làm nguyên vật liệu xây dựng của thành phố tăng thêm 46 ha: lấy vào đất lúa, lúa màu 12 ha; đất trồng cây hàng năm khác 3 ha; đất có rừng phòng hộ 16 ha; đất bằng chưa sử dụng 5 ha; và đất chưa sử dụng khác 10 ha, đồng thời trong những năm tới, những nơi đã khai thác hết nguyên liệu sẽ hoàn trả cho mục đích sử dụng khác, do đó diện tích làm nguyên vật liệu xây dựng đến năm 2010 giảm 35 ha do chuyển sang đất xây dựng 23 ha; đất ở đô thị 7 ha; đất ở nông thôn 5 ha. Tổng diện tích đất làm nguyên vật liệu xây dựng đến năm 2010 là 368 ha. 16. Đất nghĩa trang, nghĩa địa. Mở rộng nghĩa trang, nghĩa địa ở 12 xã của huyện Gia Lâm với tổng diện tích đất nghĩa trang, nghĩa địa đến năm 2010 tăng thêm 86 ha lấy vào các loại đất: đất lúa, lúa màu 69 ha; đất trồng cây hàng năm khác 13 ha; đất có rừng trồng 4 ha; đất có rừng phòng hộ 4 ha; đồng thời trong những năm tới giảm 29 ha do chuyển sang đất xây dựng 20 ha; đất giao thông 3 ha; đất ở đô thị 6 ha. Tổng diện tích đất nghĩa trang, nghĩa địa năm 2010 là 809 ha. 17. Đất chuyên dùng. Mở rộng bãi chôn lấp chất thải rắn ở Nam Sơn huyện Sóc Sơn thêm 57,78 ha, xây mới bãi chôn lấp chất thải rắn ở xã Việt Hùng huyện Đông Anh với diện tích 5 ha. Tổng diện tích đất chuyên dùng khác tăng thêm 63 ha lấy vào các loại đất: đất lúa, lúa màu 31 ha; đất vườn tạp 3 ha; đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 10 ha; đất rừng phòng hộ 15 ha; đất xây dựng 1 ha; đất giao thông 1 ha; đất ở nông thôn 1 ha; đất sông suối 1 ha; đồng thời trong những năm tới đấ chuyên dùng khác sẽ giảm 27 ha do chuyển sang do chuyển sang đất xây dựng. Tổng diện tích chuyên dùng lưu chuyển hàng hoá năm 2010 là 369 ha. Đất chuyên dùng của thành phố bao gồm đất xây dựng, đất giao thông, đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng, đất di tích lịch sử- văn hoá, đất an ninh quốc phòng, đất khai thác khoáng sản, đất làm nguyên vật liệu xây dựng, đất nghĩa trang nghĩa địa, đất chuyên dùng khác đến năm 2010 sẽ có tổng diện tích là 29.473 ha. 18. Đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá không có rừng cây. a. Đất chưa sử dụng. Trong những năm tới sẽ chuyển sang đất cỏ dùng vào chăn nuôi 330 ha; đất xây dựng 36 ha; đất giao thông 3 ha; đất làm nguyên vật liệu xây dựng 5 ha; đất ở đô thị 14 ha; đất ở nông thôn 9 ha; đến năm 2010 còn lại 654 ha. b. Đất có mặt nước chưa sử dụng. Trong những năm tới chuyển sang trồng rừng phòng hộ 1.668 ha; đất xây dựng 20 ha; đất ở nông thôn 12 ha; đến năm 2010 cơ bản không còn đất đồi núi chưa sử dụng. c. Đất có mặt nước chưa sử dụng. Chuyển sang đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 282 ha; đất xây dựng 32 ha; đất giao thông 45 ha; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 23 ha; còn lại 556 ha đến năm 2010. d. Đất sông suối. Chuyển sang đất xây dựng 71 ha, sang đất nghĩa địa 1 ha; còn lại 5.843 ha dến năm 2010. e.Núi đá không có rừng cây. Giữ nguyên đến năm 2010 bới 564 ha. f. Đất chưa sử dụng khác. Giảm 47 ha do chuyển sang đất cỏ dùng vào chăn nuôi 3 ha; rừng phòng hộ 32 ha; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng 1 ha; đất làm nguyên vật liệu 10 ha; đất ở nông thôn 1 ha; đến năm 2010 còn lại 420 ha. Đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá không có rừng cây của thành phố đến năm 2010 có tổng diện tích 7.537 ha. Như vậy dến năm 2010 diện tích cơ cấu các loại đất như sau: Biểu 11: Diện tích cơ cấu các loại đất đến năm 2010 Đơn vị tính: ha Loại đất Năm 2000 Năm 2010 Diện tích Tỷ trọng (%) Diện tích Tỷ trọng (%) Tổng diện tích tự nhiên 92.097 100,00 92.097 100,00 I. Đất nông nghiệp 43.612 47,35 33.605 36,49 Trong đó đất lúa, lúa màu 32.840 75,30 21.602 64,28 II. Đất lâm nghiệp 6.128 6,65 7.730 8,36 III. Đất chuyên dùng 20.533 12,69 13.779 32,00 IV. Đất ở 11.689 12,69 5.875 14,95 - Đất ở đô thị 2.872 24,57 - Đất ở nông thôn 8.817 75,43 V. Đất CSD và SS, núi đá không có rừng cây. 10.135 11,02 7.537 8,20 Biểu 12: Diện tích cơ cấu đất đai theo 6 loại đất (Đất nông nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dùng, chưa sử dụng nằm ngoài khu vực dân cư): Đơn vị tính: ha Loại đất Năm 2000 Năm 2010 Diện tích Tỷ trọng (%) Diện tích Tỷ trọng (%) Tổng diện tích tự nhiên 92.097 100,00 92.097 100,00 I. Đất nông nghiệp 40.051 43,49 30.583 33,21 Trong đó đất lúa, lúa màu 31.861 79,55 20.670 67,59 II. Đất lâm nghiệp 5.892 6,40 6.940 7,54 III. Đất khu dân cư nông thôn 15.989 17,36 13.826 15,01 Trong đó đất ở 8.817 55,14 7.904 57,17 IV. Đất ở đô thị 9.856 10,70 22.806 24,76 Trong đó đất ở 2.872 29,14 5.875 25,76 V. Đất chuyên dùng 11.535 12,52 11.868 12,89 VI. Đất CSD và SS, núi đá không có rừng cây 8.774 9,53 6.074 6,59 Nguồn: Báo cáo chuyên đề “Định hướng sử dụng đất thời kỳ 1997-2010” một số nghành lĩnh vực của thành phố Hà Nội III- Một số giải pháp. Trên cơ sở kết quả thực hiện Chỉ thị 15/CT-UB, phân loại vi phạm, tiến hành xử lý từng bước vững chắc, kiên quyết theo đúng pháp luật. Trước mặt Sở Địa chính Nhà Đất trình UBND Thành phố trong tháng 12/2001 quyết định thu hồi ngay 13 trường hợp vi phạm điển hình theo đề nghị của UBND các quận huyện để tổng hợp rút kinh nghiệm, triển khai thực hiện Chỉ thị 15/CT-UB trên toàn địa bàn Thành phố. Kiến trúc sư trưởng thành phố kết hợp với Sở Địa chính- Nhà Đất để có ý kiến về thoả thuận quy hoạch kiến trúc các khu đất đã thu hồi, đồng thời tập trung chỉ đạo lập dự án sử dụng đất có hiệu quả với các diện tích đất đã thu hồi công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để lựa chọn chủ đầu tư đủ năng lực thực hiện nhằm đưa đất vào sử dụng một cách có hiệu quả. Tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai ở cấp quận huyện nhằm kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và xử lý dứt điểm các vi phạm trên địa bàn. Tăng cường và thường xuyên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện phương châm “ phòng bệnh hơn chữa bệnh” với mục tiêu quản lý chặt chẽ sử dụng để phát triển. Thường xuyên nâng cao chất lượng tập huấn cho cán bộ Điạ chính- Nhà đất các cấp, đặc biệt là cán bộ Địa chính cấp phường, xã, tuyên truyền các chính sách pháp luật về quản lý sử dụng đất đai sâu rộng từng người dân và các tổ chức sử dụng đất. Tiếp tục giải quyết dứt điểm các trường hợp có vi phạm trên địa bàn thành phố, kiên quyết thu hồi đất để giao cho các quận huyện quản lý chống lấn chiếm, lập phương án sử dụng đất có hiệu quả, đúng pháp luật. Tập trung khẩn trương hoàn chỉnh và trình UBND thành phố ban hành các chính sách quản lý và khuyến khích sử dụng đất đai có hiệu quả nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Những chính sách và biện pháp nhằm bảo vệ và phát triển quỹ đất nông nghiệp: + Ưu tiên phát triển nông nghiệp + Bảo vệ người dân có đất ổn định, lâu dài. + Khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tạo ra các sản phẩm nông nghiệp quý có giá trị cao. + Đền bù thoả đáng để đảm bảo nguời dân mất đất có thể chuyển đổi nghành nghề. Những chính sách và biện pháp nhằm tiết kiệm sử dụng đất đai + Nghiên cứu, ban hành các định mức sử dụng các loại đất. + Chính sách về tận dụng không gian trong quy hoạch xây dựng công nghiệp và đô thị + Chính sách phát triển các điểm dân cư như thế nào theo hướng đô thị hoá tại chỗ + Chính sách khuyến khích tiết kiệm diện tích đất nghĩa trang, nghĩa điạ. Chính sách và biện pháp sử dụng hợp lý các loại đất mang tính chất đặc thù. Chính sách ưu tiên giành đất cho những nhu cầu bắt buộc về an ninh quốc phòng và những chính sách khác về đất quốc phòng sử dụng vào mục đích làm kinh tế, đất ở của gia đình quân nhân. Chính sách và biện pháp về ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ và duy trì cải thiện môi trường trong việc khai thác sử dụng đất đai. + Chính sách khuyến khích áp dụng các kỹ thuật công nghệ phù hợp với phát triển đa dạng sinh học trong phát triển nông nghiệp. + Chính sách ưu tiên để đón trước các công nghệ tiên tiến hiện đại trong đầu tư xây dựng. + Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển xây dựng cơ bản vào đất đai nhất là ở khu vực nông thôn. + Chính sách đánh thuế vào những hưởng thụ do môi trường đem lại để tăng vốn tái tạo, cải thiện môi trường. + Chính sách để phạt những hành vi tổn hại đến môi trường. Tập trung xây dựng hoàn chỉnh hồ sơ Địa chính quản lý sử dụng đất đai từ thành phố đến quận huyện, phường xã để làm cơ sở cho công tác quản lý chặt chẽ quỹ đất trên điạ bàn. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai, nâng cao kiến thức pháp luật về đất đai cho cán bộ chính quyền cơ sở, cán bộ Địa chính - Nhà đất và nhân dân. IV. Một số kiến nghị về tình hình sử dụng đất đối với các cơ quan cấp trên. Đất đai là tài nguyên thiên nhiên có hạn nhưng vô cùng quan trọng đặc biệt đối với thành phố Hà Nội, vì vậy, để thực hiện sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao cần phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong những năm tới, cần: *Cấp giấy chứng nhận: Việc cấp giấy thiết lập hồ sơ địa chính là căn cứ quan trọng để cơ quan địa chính theo dõi chỉnh lý biến động đất đai, người sử dụng đất thực hiện các quyền thông qua cấp chính quyền. Giấy chứng nhận cũng là cơ sở pháp lý để các nhà đầu tư yên tâm đầu tư, khuyến khích đầu tư trong nhân dân và thu hút đầu tư của các tổ chức kinh tế và nước ngoài. - Ngành địa chính cần có sự phối hợp chặt chẽ với UBND các cấp trên cơ sở pháp luật và các nghị định của chính phủ để thực hiện công tác cấp giấy chứng nhận hoạt động có hiệu quả. - Nhanh chóng tổng kết các văn bản nghị định hướng dẫn kịp thời để giải quyết vướng mắc về chính sách đất đai, đề ra chính sách hợp lý, tạo điều kiện công tác cấp giấy chứng nhận hoạt động tích cực hơn. - Tăng cường công tác qui hoạch để làm căn cứ hoàn thiện hồ sơ địa chính thực hiện đăng ký biến động. - Đổi mới hồ sơ cấp giấy chứng nhận để đáp ứng yêu cầu của nhân dân. - Các địa phương chú trọng triển khai công tác biến động đất đai. - Cơ quan nhà nước tăng cường quản lý, tạo điều kiện kinh phí từng địa phương tiến hành đo vẽ bản đồ địa chính và cấp giấy chứng nhận. *Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và quản lý đất đai. - Thường xuyên tiến hành thanh tra kiểm tra, kiểm soát và quản lý đất đai. Trên cơ sơ đó xác định được các sử dụng đất có sử dụng đúng mục đích được giao hay không. Nếu vi phạm thì tiến hành rà soát xem nguyên nhân vi phạm và từ đó xử lý theo đúng pháp luật qui định. - Đề nghị HĐND, UBND thành phố chỉ đạo tập trung thống nhất kiên quyết thu hồi các trường hợp vi phạm theo đề nghị của các cấp dưới. - Căn cứ pháp luật và chính sách hiện hành cho phép hướng xử lý các trường hợp vi phạm như: + Đối với chủ sử dụng đất để hoang hoá hoặc chưa sử dụng gây lãng phí đất đai đề nghị UBND các quận, huyện quản lý và tổ chức lập phương án sử dụng đất có hiệu quả theo đúng qui hoạch, đúng pháp luật đồng thời công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. + Đối với chủ sử dụng đất tự chia làm nhà ở: Nếu phù hợp với quy hoạch thì cho phép xử lý các hộ gia đình hợp thức và cấp giấy chứng nhận sử dụng đất ở, các hộ gia đình có nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất theo quy định. Nếu không phù hợp với quy hoạch thì chính quyền địa phương quản lý nguyên trạng, thông báo cho tổ chức sử dụng đất vi phạm biết và thực hiện lập phương án di chuyển, báo cáo cơ quan chủ quản. + Đối với chủ sử dụng đất vi phạm vào mục đích khác(cho thuê, liên doanh, liên kết sai mục đích sử dụng...) đất không có nguồn gốc xác định. Nếu phù hợp với quy hoạch thì tiếp tục cho sử dụng còn nếu không phù hợp với quy hoạch thì lập hồ sơ thu hồi. * Xây dựng hệ thống quản lý địa chính ở địa phương một cách có khoa học, tổ chức đến cấp cơ sở. Cán bộ địa chính địa phương phải được đào tạo chuyên môn. Thường xuyên tổ chức kiểm tra điều chỉnh hiện trạng sử dụng đất. KếT LUậN Sử dụng đất đai hợp lý - hiệu quả có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội. Đất đai là tài nguyên thiên nhiên có hạn tuy nhiên tình hình sử dụng đất đai thành phố Hà Nội hết sức phức tạp, vì thành phố Hà Nội là thủ đô của đất nước, là trung tâm phát triển kinh tế -xã hội của đất nước, là nơi tập trung các cơ quan đầu não, các khu công nghiệp… Do vậy việc nghiên cứu và xây dựng thành phố Hà Nội phát triển trong thời gian tới nhằm góp phần thúc đẩy CNH-HĐH và thúc đẩy sự sử dụng đất đai hợp lý, hiệu quả, phản ánh tình hình sử dụng đất ở Hà Nội một cách đầy đủ. Phản ánh được tầm quan trọng của thực trạng quản lý sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố chuyên đề đã thực hiện được một số ý kiến sau: Về lý luận: trình bày lý luận chung về tình hình sử dụng đất từ đó nêu khái niệm, vai trò của đất đai trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội, nội dung, căn cứ tình hình sử dụng đất. Về thực tiễn: đi sâu vào đánh giá thực trạng phát triển kinh tê - xã hội, thực trạng về quản lý và sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội, phương hướng sử dụng đất đến năm 2010. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, ở phần 3 trình bày một số quan điểm, giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự sử dụng đất đai hiệu quả, hợp lý trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tài liệu tham khảo 1-Giáo trình “Quy hoạch nông thôn’ của PGS.Ts khoa học Lê Đình Thắng -Trường đại học Kinh tế Quốc dân 2-Giáo trình “Quản lý Nhà nước về đất đai và nhà ở ”của PGS.Ts khoa học Lê Đình Thắng -Trường đại học Kinh tế Quốc dân 3-Giáo trình “Kinh tế tài nguyên”của GS Ngô Đức Cát Trường đại học Kinh tế Quốc dân 4-Những định hướng phát triển nông nghiệp Hà Nội tới năm 2010 5-Quy hoạch phát triển Giáo dục -Đào tạo thủ đô Hà Nội đến năm 2010 6-Niên giám thống kê năm 1991-2001-cục Thống kê thành phố Hà Nội 7-Báo cáo chuyên đề “Định hướng sử dụng đất thời kỳ 2000-2010” một số nghành lĩnh vực của thành phố Hà Nội 8-Báo cáo tổng kết công tác địa chính thành phố Hà Nội năm1997 và phương hướng công tác năm1998-Sở Địa chính Hà Nội. 9-Tạp chí địa chính số 6/1997; 9,10,12/2001 - Tổng cục địa chính 10-Hiện trạng sử dụng đất đai thành phố Hà Nội. 11-Tình hình sử dụng và biến động đất đai thành phố Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0123.doc
Tài liệu liên quan