Đầu tư nước ngoài

I. ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 1.1. Tổng quan chung về đầu tư nước ngoài Các hình thức huy động vốn đầu tư nước ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI), đầu tư gián tiếp nước ngoài(FII) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA). 1.1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". Về thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI, Bộ kế hoạch và đầu tư cho biết: - Trong 6 tháng đầu năm 2008,tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đạt mức kỉ lục 31,6 tỷ USD. - 8 tháng đầu năm nay, cả nước đã thu hút trên 47 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, tăng 4,5 lần so với cùng kỳ năm 2007 và đã vượt hơn 3 lần kế hoạch của cả năm 2008. - Tính chung trong 9 tháng, các doanh nghiệp nước ngoài đăng ký và được cấp phép đầu tư vào Việt Nam 57,12 tỷ USD, gấp gần 5 lần so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể trong tháng 9, cả nước đã thu hút thêm 113 dự án FDI với tổng vốn đăng kí là 9,9 tỷ, nâng tổng số dự án FDI được cấp phép mới trong cả năm lên 885 dự án với tổng vốn 56,2 tỷ USD, còn lượng tăng vốn cho các dự án đang hoạt động chỉ chiếm 855,7 triệu USD. Vốn đăng ký trong 9 tháng đầu năm nay tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, bất động sản, chiếm 54,68 tỷ USD. Các dự án lớn nhất đều thuộc ngành thép, đáng chú ý là khu liên hợp thép của Lion tại Ninh Thuận gần 9,8 tỷ USD, của Formosa tại Hà Tĩnh 7,8 tỷ USD. Ngoài ra, tập đoàn Tata (Ấn Độ) cùng các đối tác Việt Nam cũng đang xúc tiến cho một khu liên hợp thép 5 tỷ USD. - Hiện Malaysia là đối tác có lượng vốn đăng ký lớn nhất vào Việt Nam, với 14,8 tỷ USD. Tiếp sau là Đài Loan và Nhật với lần lượt 8,6 tỷ USD và 7,2 tỷ USD. - Với dự án thép 9,8 tỷ USD, hiện Ninh Thuận là địa phương có lượng vốn đăng ký lớn nhất. Bà Rịa - Vũng Tàu lùi xuống vị trí thứ hai với 9,3 tỷ USD. Nhiều tỉnh thành khác cũng có lượng vốn đăng ký cao nhờ một loạt dự án quy mô rất lớn như TP HCM với gần 8 tỷ USD từ các dự án bất động sản, Hà Tĩnh với dự án thép, Thanh Hóa từ dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn 6,2 tỷ USD. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và cả nền kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, thì những con số kỷ lục về số vốn FDI đăng kí đã cho thấy niềm tin dài hạn của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Mặc dù trong thời gian gần đây cũng có nhiều dư luận khác nhau về chủ trương đầu tư, thêm vào đó là những ảnh hưởng lớn từ lạm phát, biến động giá nguyên vật liệu tác động xấu đến môi trường kinh doanh nhưng đến nay các nhà đầu tư lớn này vẫn quyết tâm đầu tư vào Việt Nam, chứng tỏ ở tầm trung và dài hạn, họ vẫn tin tưởng thị trường và khả năng điều hành của Chính phủ. Nếu thời gian qua kinh tế Việt Nam không gặp nhiều khó khăn, không phải đối mặt với lạm phát, rất có thể con số thu hút vốn FDI đó còn cao hơn nhiều 1.1.2. Đầu tư gián tiếp nước ngoài Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII= Foreign Indirect Investment) là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài Tuy nhiên, khác với FDI, những nhà đầu tư gián tiếp chỉ đóng góp vào thị trường bất động sản hoặc các công ty cổ phần thông qua thị trường chứng khoán mà không trực tiếp tham gia quản lý điều hành. Khi dòng vốn FII vào ồ ạt với quy mô lớn sẽ gây mất cân bằng về mặt vĩ mô, hoặc nhà đầu tư có thể rút vốn quy mô lớn và đột ngột gây ra sự khủng hoảng và sụp đổ của thị trường tài chính trong nước. Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất, thì FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế… Về thực trạng thu hút và sử dụng vốn FII Vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài (FII) của VN đang được xem rất hấp dẫn nhưng theo thống kê của Bộ Tài chính, việc thu hút nguồn vốn này của VN còn quá khiêm tốn so với các nước trong khu vực cũng như nhu cầu vốn cho sự phát triển. Theo thống kê của Bộ Tài chính: - Vốn FII vào VN chỉ chiếm 3,7% so với vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) năm 2004 và 17,5% vào năm 2005. Trong khi đó, tỷ lệ này ở các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc chiếm từ 30% - 40%. Một trong những kênh dung nạp vốn FII mạnh nhất là thị trường chứng khoán cũng chỉ mới đạt trên 1 tỷ USD, quá nhỏ so với Trung Quốc (480 tỷ USD), Philippines (80 tỷ USD) hoặc Thái Lan (110 tỷ USD). - Năm 2006, đầu tư FII vào Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, thể hiện ở việc đã xuất hiện thêm nhiều quỹ đầu tư mới, cũng như sự cam kết tăng vốn của các quỹ hiện hữu. - Tuy nhiên,từ giữa năm 2007 đến nay, dòng vốn FII chảy vào Việt Nam ngày càng nhiều thông qua thị trường chứng khoán. Vào giữa năm 2007, lúc tổng vốn hóa thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam khoảng 20 tỉ đô la Mỹ (HOSE khoảng 15,5 tỉ, HASTC khoảng 4,5 tỉ), thì giá trị vốn hóa tính riêng cho đầu tư nước ngoài là gần 5 tỉ đô la Mỹ (khoảng 25% tổng thị trường). Đến năm 2007, số quỹ đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam là khoảng trên 6 tỉ, với số vốn mai phục khoảng 6 tỉ đô la. Những thông tin vừa nêu cho thấy nguồn vốn đầu tư tài chính nước ngoài đã tăng nhanh đáng kể. Số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê cho rằng vốn đầu tư tài chính vào thị trường chứng khoán cả năm ước đạt 5,3 tỉ đô la Mỹ. Năm 2007 cũng chứng kiến nhiều thương vụ FII lớn. Nổi bật là việc Công ty Bảo hiểm tập đoàn Tài chính HSBC mua 10% cổ phần Bảo Việt với số tiền lên đến 225 triệu đô la Mỹ. 1.1.3.Hỗ trợ phát triển chính thức Hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA= Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài.Gọi là hỗ trợ vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay. Về thực trạng thu hút và sử dụng vốn: Theo đánh giá của Bộ kế hoạch Đầu tư, công tác vận động thu hút vốn ODA của Việt Nam có nhiều thuận lợi do Việt Nam được đánh giá là một trong những nước sử dụng vốn ODA hiệu quả nhất: NĂM Số vốn ODA kí kết Số vốn ODA giải ngân 2006 3.75 1.8 2007 4.45 2 2008 5.426 2.2(dự kiến) Mức cam kết năm 2008 đạt mức kỉ lục, nâng tổng giá trị ODA cam kết trong 2 năm 2007-2008 đạt gần 9,88 tỷ USD, bằng 49% dự báo cam kết vốn ODA cho cả thời kỳ 2006-2010.Hiện nay các công trình sử dụng vốn ODA đang được triển khai đúng kế hoạch nên khả năng giải ngân năm 2008 hoàn toàn có thể thực hiện đúng tiến độ.   Tính đến hết quý I/2008, tổng giá trị ODA ký kết thông qua các hiệp định cụ thể với các nhà tài trợ đạt 369,06 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó vốn vay đạt 342,69 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại đạt 26,37 triệu USD. Trong số này có những dự án tài trợ lớn như: ADB tài trợ cho dự án “Đường hành lang ven biển phía Nam thuộc tiểu vùng Mê Kông mở rộng” 150 triệu USD; Nhật Bản tài trợ “Chương trình ngân hàng - tài chính III” 75 triệu USD; dự án “Giáo dục trung học cơ sở vùng khó khăn nhất” trị giá 50 triệu USD, “Chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo lần thứ 6” (PRRSC6) trị giá 30,67 triệu USD...     Như vậy trong 5 năm gần đây Việt Nam liên tục đạt kỷ lục trong thu hút vốn ODA. Điều này chứng minh cho thực tế hiện nay Việt Nam đang nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với chính sách phát triển kinh tế. Hy vọng rằng với nỗ lực chung, trong quý 4/2008 sẽ có thêm những chuyển biến tích cực trong thu hút vốn đầu tư ODA. 1.2. Hạn chế và áp lực cải cách trong tiến trình hội nhập Việt Nam đã là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới - WTO vào ngày 7-11-2006. Gia nhập WTO mở ra cho Việt Nam những vận hội mới, nhưng cũng đầy thách thức. Vào WTO là chấp nhận cạnh tranh, xem cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển. Cạnh tranh diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau: Cạnh tranh giữa sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp, nhà nước với nhà nước. Thu hút vốn đầu tư, công nghệ tiến tiến… diễn ra ngày càng gay gắt hơn giữa các quốc gia. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, việc thu hút và sử dụng các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và đặt ra những áp lực cần cải cách trong tiến trình hội nhập 1.2.1 Đối với vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII): - Chưa có chính sách thu hút vốn và quản lý đầu tư gián tiếp nước ngoài hiệu quả. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, các tác động tiêu cực của dòng vốn FII chưa được phân tích, đánh giá đúng vai trò, tiềm năng của nó. Do đó, các nhà hoạch định chính sách còn khá e ngại trước dòng vốn FII biểu hiện thông qua sự phân biệt đối xử, và các quy định nhằm hạn chế ngành nghề, và tỷ lệ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam - Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, doanh nghiệp đang trong quá trình đổi mới, hệ thống pháp lý và các quy phạm chưa hoàn thiện, khả năng quản trị doanh nghiệp của các công ty còn thấp, một số tiêu chí đánh giá chưa theo chuẩn quốc tế, hệ thống kế toán kiểm toán còn nhiều bất cập, hệ thống thông tin còn thiếu và yếu, các báo cáo tài chính doanh nghiệp chưa trung thực… là hàng loạt nguyên nhân dẫn đến thị trường tài chính không minh bạch. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài chuyên nghiệp thì đầu tư vào thị trường tài chính không minh bạch sẽ là một quyết định không khôn ngoan. - Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp còn chậm (khoảng 8% các doanh nghiệp trong tổng số các doanh nghiệp nhà nước phải cơ cấu lại), quy mô của các doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp cổ phần hóa phần lớn chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán. - Các nhà đầu tư trên thế giới chưa có nhiều thông tin và hiểu biết về Việt Nam. - Quy mô và chất lượng các sản phẩm thị trường tài chính Việt Nam còn hạn chế. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến các quỹ đầu tư chưa thật nhiều và chưa tương xứng với tiềm năng thị trường. 1.2.2 Đối với vốn ODA: - Mới chú trọng khâu thu hút ODA Theo tinh thần chung, công việc thẩm định, đánh giá dự án phải được tiến hành thường xuyên, định kỳ và tất cả các cơ quan quản lý nhà nước về ODA đều có trách nhiệm tham gia, nhằm phân tích làm rõ tương quan giữa kết quả đạt được trên thực tế so với mục tiêu cần đạt được, đồng thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc nhằm tìm ra biện pháp khắc phục, phòng ngừa. Quy định là vậy, nhưng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay ở Việt Nam có rất ít kinh nghiệm về thẩm định đánh giá tình hình thực hiện các chương trình dự án ODA ở cấp chủ dự án và ban quản lý dự án. Công tác theo dõi các chương trình, dự án ODA hầu như mới tập trung vào báo cáo tiến độ, tình hình thực hiện và giải ngân dự án, chủ yếu nhằm đáp ứng yêu cầu của cấp trên, của nhà tài trợ để được giải ngân vốn. - Ban quản lý dự án được giao quá nhiều quyền: Trọng trách thực hiện, giám sát và thẩm định hiệu quả dự án, tiến độ thi công phần lớn được phó thác cho chủ đầu tư, mà đại diện là các ban quản lý dự án. Ban quản lý dự án thường được thành lập theo quyết định của cơ quan chủ quản (các bộ hoặc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) ngay sau khi văn kiện chương trình dự án ODA được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Cơ quan này có toàn quyền thay mặt chủ dự án thực hiện các quyền hạn và nhiệm vụ được giao từ khi bắt đầu thực hiện cho đến khi kết thúc dự án, kể cả việc quyết toán, nghiệm thu, bàn giao đưa vào dự án khai thác, sử dụng. Vì được uỷ quyền rất lớn, hơn ai hết, chỉ các ban quản lý dự án mới là nơi nắm sát nhất thực tế triển khai công trình và hiệu quả sử dụng đồng vốn - Giải ngân thấp ảnh hưởng đến tăng trưởng: Mới đây, một nghiên cứu của Tổ công tác ODA của Chính phủ cũng chỉ rõ việc giải ngân ODA chậm đang phát sinh một vòng "luẩn quẩn". Khi các dự án ODA chậm trễ, mức độ giải ngân thấp hơn. Điều này khiến nảy sinh hai vấn đề, thứ nhất là vốn đầu tư cho phát triển giảm xuống, không đạt như dự kiến; thứ hai khi nguồn vốn hiện tại không được sử dụng đúng cam kết các nhà tài trợ sẽ cam kết thấp hơn cho những kỳ tiếp theo. Cả hai yếu tố này tất yếu sẽ khiến tốc độ tăng trưởng không đạt kế hoạch và có thể bị giảm sút. Có nhiều khuyến cáo đã được đưa ra nhưng một tính toán sau đây đủ cho thấy những thiệt hại từ việc chậm giải ngân và nhưng lợi ích có được khi tốc độ giải ngân được tăng lên. Theo tổ công tác ODA của Chính phủ, chỉ cần tăng 1% giải ngân của nhóm 5 ngân hàng phát triển là sẽ có thêm 500 triệu USD vốn đầu tư cho giai đoạn 2006 - 2010, mỗi năm có thêm 100 triệu USD cho các dự án phát triển, nhất là các dự án xoá đói giảm nghèo. 1.2.3 Đối với vốn FDI - Tư duy kinh tế chậm đổi mới. - Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ. - Môi trường đầu tư- kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn FDI tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt. - Định hướng chiến lược thu hút vốn FDI hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam. - Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. -Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. - Sự phối hợp trong quản lý hoạt động FDI giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình FDI vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. - Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh. II. ÁP LỰC CẢI CÁCH THUẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP             Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu khách quan. Theo đó hội nhập quốc tế về thuế ngày càng rộng và càng sâu, nhằm khuyến khích đầu tư, tự do hoá thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Ngoài việc phải xây dựng hệ thống chính sách thuế tương thích, công tác quản lý thuế phải được cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi, đồng nhất về thuế để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Sự hội nhập buộc Chính phủ VN phải làm nhiều nỗ lực trong việc cải cách chính sách, đặc biệt là chính sách thuế. Bởi lẽ, chính sách này liên quan đến nhiều mặt kinh tế xã hội, không những đến sự củng cố nguồn lực tài chính công, kích thích tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế.  2.1. Thực trạng hệ thống Thuế Việt nam Tính đến nay, hệ thống thuế nước ta bao gồm 10 sắc thuế chủ yếu, được chế tài bằng 6 luật, 4 pháp lệnh, áp dụng thống nhất đối với mọi đối tượng nộp thuế của các thành phần kinh tế. Các khoản thu khác có quy mô nhỏ, mang tính chất chi phí, lệ phí như thuế môn bài, lệ phí trước bạ được quy định bởi các văn bản pháp quy có giá trị pháp lý thấp hơn, tạo nên nguồn thu của ngân sách nhà nước. Hệ thống thuế đã từng bước khắc phục những yếu kém của hệ thống cũ trên các mặt sau: - Xóa bỏ sự phân biệt đối xử về thuế giữa các thành phần kinh tế thông qua việc ban hành và áp dụng các chế độ nghĩa vụ khác nhau như chế độ thu quốc doanh, chế độ phân phối, trích nộp lợi nhuận, chế độ thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế công thương nghiệp … - Tăng cường được tính pháp quy của hệ thống thuế. Trước đây hình thức cao nhất chỉ là pháp lệnh về thuế. - Giảm phức tạp cả về phạm vi, đối tượng chịu thuế và cơ sở tính thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm … Do đó, khắc phục tình trạng hiểu luật theo nhiều nghĩa đều có thể đúng, hạn chế tình trạng tùy tiện thỏa thuận các vấn đề về thuế hoặc ban phát sự miễn giảm thuế … - Bước đầu giảm bớt một phần các mục tiêu nhiệm vụ gắn cho thuế, kể cả mục tiêu, nhiệm vụ giải quyết “chính sách xã hội”. Các mục tiêu, nhiệm vụ nhiều khi mâu thuẫn lẫn nhau như vừa nhằm tăng thu ngân sách nhà nước vừa kích thích sản xuất phát triển; bảo hộ sản xuất trong nước và hội nhập quốc tế về thuế; bình đẳng và củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và khuyến khích hợp lý các thành phần kinh tế khác … - Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất … đã có những quy định khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế 2 năm đầu, được giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. Luật thuế giá trị gia tăng tạo điều kiện giảm giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản khoảng 10% so với trước đây vì số thuế này được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu. Thuế giá trị gia tăng còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hóa vì chỉ tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ, nhờ đó khắc phục được nhược điểm đánh thuế trùng của thuế doanh thu trước đây. - Chính sách thuế đã bắt đầu phát huy được tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất đã tạo ra môi trường bình đẳng về pháp luật cho sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính sách thuế từng bước tạo ra sự công bằng về nghĩa vụ nộp thuế giữa các đối tượng khác nhau, góp phần thúc đẩy đầu tư vốn, cải tiến công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành … - Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu không phải chịu thuế giá trị gia tăng, đồng thời được hoàn lại toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở đầu vào. Luật thuế thu doanh nghiệp cũng có quy định khuyến khích đối với doanh nghiệp xuất khẩu lớn: nếu dự án đầu tư có giá trị hàng hóa xuất khẩu trên 30% tổng giá trị được hưởng thuế suất ưu đãi 25%, nếu giá trị hàng hóa xuất khẩu trên 50% thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung. - Chính sách thuế có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tiến bộ. Các luật thuế mới đã khuyến khích việc chuyển hướng sản xuất theo hướng xuất khẩu và hình thành cơ cấu kinh tế mới. Thông qua việc ưu đãi đầu tư, các luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế theo hướng phát triển do nhà nước đề ra. Nhà nước không thu thuế giá trị gia tăng đối với những ngành hàng mà Việt Nam có thế mạnh như nông sản, lâm sản, hải sản do nông dân sản xuất bán ra; đối với các cơ sở kinh doanh thu mua chế biến lại được khấu trừ đầu vào với một tỷ lệ ấn định từ 3-5% như hình thức trợ giá của nhà nước. Các biện pháp này đã có tác dụng tích cực đối với việc sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng này. bvh - Chính sách thuế đã từng bước tương đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Có thể nói, thành tựu nổi bật và bao trùm trong lĩnh vực thuế là việc chuyển hóa thành công từ hệ thống thuế chỉ phù hợp với cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một hệ thống thuế mới thống nhất, có tính pháp quy cao nhưng lại đơn giản hơn và không phân biệt theo thành phần kinh tế. 2.2. Những thách thức trong quá trình cải cách thuế ở nước ta hiện nay Trong quá trình xây dựng và thiết lập hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế, phải đối mặt với những khó khăn sau đây: Một là, cơ cấu nguồn thu bị phụ thuộc quá nhiều vào thuế nhập khẩu: Trong cơ cấu nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí thì thuế nhập khẩu chiếm tỷ trọng tương đối cao. Theo thống kê, trong suốt giai đoạn từ năm 1991 đến nay, mặc dù có xu hướng giảm dần trong vài năm gần đây nhưng thuế xuất, nhập khẩu vẫn chiếm trên 20%/tổng thu Ngân sách Nhà nước, khoản trên dưới 4% GDP, trong số đó trên 90% là thuế nhập khẩu. Điều này, thể hiện tính chưa vững chắc của nguồn thu ngân sách và phản ánh phần nào chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước. Trước xu thế hội nhập, cũng như nhiều nước đang phát triển khác, khi Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại khu vực hay gia nhập Tổ thức Thương mại thế giới, việc phụ thuộc quá nhiều vào thuế nhập khẩu sẽ gây những ảnh hưởng quan trọng không chỉ đối với nguồn thu Ngân sách mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế. Lý do là xu thế hội nhập cũng hàm ý là thuế nhập khẩu sẽ bị hạ thấp, điều đó làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách, ít nhất là trong ngắn hạn, khi chúng ta chưa có thời gian điều chỉnh nhập khẩu. Hai là, cơ cấu nền kinh tế làm giảm khả năng áp dụng và tạo những khó khăn trong việc quản lý một số sắc thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản và thuế giá trị gia tăng. Việt Nam là một nước nông nghiệp, 80% dân số là nông dân, thu nhập của dân cư thấp, thu nhập từ tiền lương chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong tổng thu nhập quốc dân dẫn đến số lượng đối tượng nộp thuế thu nhập còn ít. Tính đến năm 2000, con số này mới chỉ vào khoảng 400.000 người, chiếm khoảng 1% lực lượng lao động và khoảng 3% số người làm việc ở khu vực phi nông nghiệp với số thu từ thuế thu nhập chỉ khoảng 2% tổng thu ngân sách. Thêm vào đó, thu nhập được phân phối không công bằng giữa các tầng lớp dân cư dẫn đến tình thế khó khăn: để có thể thu được số thuế lớn (đạt được sự luỹ tiến hiệu quả đối với thuế thu nhập) thì những người có thu nhập cao cần phải chịu thuế với tỷ lệ cao hơn những người có thu nhập thấp. Nhưng vì quyền lực kinh tế và chính trị thường tập trung vào nhóm người có thu nhập cao, nên việc đạt các mục tiêu cải cách thuế cũng trở nên khó khăn hơn, nhất là khi chương trình cải cách ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Ba là, năng lực quản lý và điều hành thuế còn nhiều hạn chế:  Có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan của vấn đề này. Nguyên nhân chủ quan từ phía cơ quan thuế xuất phát từ chỗ đội ngũ cán bộ thuế còn mỏng, quá trình đào tạo không thường xuyên, chưa theo kịp yêu cầu quản lý kinh tế. Bên cạnh đó là hạn chế về nguồn lực vật chất phục vụ cho công tác quản lý thuế, đặc biệt là hệ thống tin học. Yêu cầu của quản lý thuế trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi không chỉ nối mạng máy tính trong toàn quốc mà còn phải cập nhật và trao đổi thông tin với các nước trên thế giới để đối chiếu, kiểm tra và xử lý thông tin một cách kịp thời. Trong điều kiện hội nhập thì hệ thống mạng máy tính là một trong những công cụ quản lý thuế quan trọng. Nguyên nhân khách quan là do khu vực không chính thức đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế. Các hoạt động "ngầm" làm cho cơ quan thuế và thống kê gặp nhiều khó khăn trong việc thiết lập hệ thống thông tin tin cậy nhằm giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá được những tác động thay đổi về chính sách thuế đến nền kinh tế nói chung và ảnh đến nguồn thu nói riêng. Việc khó lượng hoá những thay đổi về nguồn thu của ngân sách trong điều kiện hạn hẹp thường dẫn tới những rủi ro lớn về khó khăn tài khoá. 2.3. Nội dung cải cách Thuế 2.3.1 Mục tiêu 2.3.1.1. Mục tiêu tổng quát: Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế. 2.3.1.2. Mục tiêu, yêu cầu cụ thể: a) Chính sách thuế, phí và lệ phí (sau đây gọi chung là chính sách thuế) phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, động viên được các nguồn lực, thúc đẩy phát triển nhanh sản xuất; khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. b) Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách nhà nước, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảm bảo tỷ lệ động viên về thuế vào ngân sách nhà nước bình quân hàng năm đạt từ 20% - 21% GDP. c) Chính sách thuế phải thể hiện và tạo ra những nội dung cụ thể phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm được yêu cầu về bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia. d) Chính sách thuế phải tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. áp dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. đ) Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai; tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế. e) Hệ thống thể chế chính sách thuế phải quy định rõ nghĩa vụ trách nhiệm, quyền lợi của các cơ sở kinh doanh trong việc thực hiện các quy định về thuế; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế; Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan. f) Nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững mạnh. 2.3.2. Nội dung cải cách hệ thống thể chế chính sách thuế: 2.3.2.1 Nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế: - Ban hành mới các sắc thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử; thuế bảo vệ môi trường; thuế tài sản; thuế sử dụng đất. Việc ban hành và thực hiện các sắc thuế mới trên đây phải chú ý đến đối tượng, mức độ và thời điểm áp dụng cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo ổn định sản xuất, thị trường và đời sống nhân dân. - Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế hiện hành; tăng dần tỷ trọng các nguồn thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu trong tổng số thu về thuế. Đến năm 2010: Hệ thống thuế của nước ta bao gồm các sắc thuế sau: - Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử, - Thuế bảo vệ môi trường, - Thuế tài sản, - Thuế sử dụng đất, - Thuế giá trị gia tăng, - Thuế tiêu thụ đặc biệt, - Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, - Thuế thu nhập doanh nghiệp, - Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được sửa đổi thành thuế thu nhập cá nhân, - Thuế tài nguyên, - Phí, lệ phí.          2.3.2.2 Ban hành luật quản lý thuế nhằm xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của đối tượng nộp thuế; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế và phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế để quản lý thu thuế đạt hiệu quả cao. 2.3.2.3 Đổi mới thể chế chính sách Thời gian qua, ngành thuế đã nghiên cứu xây dựng và hoàn thành lộ trình sửa đổi, bổ sung các Luật Thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB, Luật Thuế TNDN, đồng thời ban hành Luật Thuế TNCN thay cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Đặc biệt lần đầu tiên Quốc hội ban hành Luật Quản lý thuế (có hiệu lực từ ngày 1/7/2007) quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp luật của cả người nộp thuế và các tổ chức có liên quan nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý thuế. Nội dung sửa đổi, bổ sung các luật thuế đã thực hiện đúng theo định hướng của Đảng và Nhà nước, giảm bớt mức đóng góp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, tăng tích luỹ vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh; khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu; thực hiện bảo hộ có điều kiện và có chọn lọc đối với một số ngành sản xuất hàng hoá, dịch vụ cần khuyến khích phát triển; phù hợp với cam kết quốc tế để hội nhập ngày càng rộng, càng sâu với khu vực và quốc tế; thống nhất về nghĩa vụ thuế giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, theo đó: - Thuế giá trị gia tăng VAT: Thu hẹp đối tượng không thuộc diện chịu thuế VAT, vừa đảm bảo tính trung lập của sắc thuế này, vừa khai thác nguồn thu trong điều kiện hội nhập.     + Hoàn thiện các quy định về thuế suất thuế VAT: Áp dụng phương pháp liệt kê để xác định cụ thể phạm vi áp dụng mức thuế suất phổ thông, nhằm đảm bảo tính đơn giản của chính sách thuế, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế; hướng tới việc áp dụng cơ chế một mức thuế suất giá trị gia tăng + Về thuế GTGT đã bỏ mức thuế suất 20%, mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% - Thuế thu nhập doanh nghiệp: Hạ mức thuế TNDN từ 32% xuống 28%, sắp tới mức thuể này giảm còn 25%, bỏ thuế TNDN bổ sung đối với doanh nghiệp trong nước, bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài, giảm mức thuế suất ưu đãi từ 25%, 20%, 15% xuống còn 20%, 15%, 10%; mở rộng diện ưu đãi thuế cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; bổ sung nhiều khoản chi phí được tính khi tính thuế TNDN; nâng mức khấu hao bằng hai lần, lãi tiền vay bên ngoài bằng 1,2._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21860.doc
Tài liệu liên quan