Đẩy mạnh cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Techcombank

LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ(DNVVN) thuộc các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là lĩnh vực tư nhân đang phát triển một cách nhanh chóng. Ở Việt Nam hiện nay, DNVVN chiếm tới hơn 90% trong tổng số gần 250.000 doanh nghiệp(DN) tư nhân. Lực lượng đông đảo này đã đóng góp tới 26% trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tạo ra khoảng 49% việc làm trong khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn và 26% lực lượng lao động trong cả nước. Tuy nhiên, tron

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Techcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g quá trình phát triển của chúng vẫn còn gặp phải những khó khăn và thách thức. Khó khăn lớn nhất đó chính là thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thách thức lớn nhất là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Việc phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và nhà nước rất coi trọng, được coi là nhiệm vụ trung tâm trong chiến lược phát triền kinh tê – xã hội của cả nước. Điều đó cho thấy việc đẩy mạnh cho vay đối với các DNVVN hiện nay được coi là một cơ hội của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Techcombank(TCB) nói riêng; nó phù hợp với xu thế phát triển nền kinh tế, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước, giúp cho ngân hàng chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng hóa các danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro và nâng cao vị thế cạnh tranh. Với định hướng phát triển là "Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân và DNVVN”. Trong thời gian vừa qua, TCB đã có sự gia tăng đáng kể về dư nợ cho vay đối với đối tượng này nhưng nó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng cũng như những định hướng mà ngân hàng đã đề ra. Trước tình hình đó, việc đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng TCB là một vấn đề hết sức cần thiết. Chính vì vậy, sau thời gian thực tập tại phòng Doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng TCB, em đã quyết định chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là: ” Đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank”. Với chuyên đề thực tập này, em mong muốn được có cơ hội để tìm hiểu kỹ hơn về họat động cho vay đối với DNVVN. Đồng thời, thông qua đây, em có đóng góp một số ý kiến nhằm mở rộng cho vay đối với đối tượng khách hàng DNVVN. Em hi vọng sẽ đóng góp được phần nào vào việc thúc đẩy hoạt động cho vay đối với đối tượng khách hàng này. Ngoài lời mở đầu và kết luận thì bản chuyên đề được chia làm 3 chương với nội dung sau: CHƯƠNG I: Hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng thương mại. CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank. CHƯƠNG III: Ý kiến đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank. † Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - đối tượng nghiên cứu: chuyên đề đi sâu vào việc nghiên cứu hoạt động cho vay của ngân hàng. - phạm vi nghiên cứu: hoạt động cho vay đối với DNVVN tại ngân hàng Techcombank trong giai đoạn 2005-2007. † Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình thực hiện chuyên đề, các phương pháp thống kê, điều tra chọn mẫu, tổng hợp, so sánh, phân tích..được sử dụng để làm rõ vấn đề. Em xin được chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng -Tài chính, đặc biệt là Th.S Hoàng Hương Lan – giáo viên hướng dẫn khóa luận đã giúp đỡ, chỉ bảo em trong thời gian thực tập qua. Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn các cán bộ nhân viên tại hội sở chính của ngân hàng Techcombank, đặc biệt là các cán bộ tại phòng Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian em thực tập tại ngân hàng. CHƯƠNG I HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. TỔNG QUAN VỀ DNVVN. 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Tiêu chí phân loại DNVVN Nói đến DNVVN là nói đến phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô các doanh nghiệp. Việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào loại tiêu thức sử dụng quy định, giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp.Tuy nhiên, không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNVVN cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế-xã hội mỗi nước khác nhau và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tùy theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, từng vùng lãnh thổ. Việc xác định DNVVN của mỗi nước thường được cân nhắc đối với từng giai đọan phát triển kinh tế, tình hình việc làm nói chung của cả nước và tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Như vậy, xác định DNVVN không có tính cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất họat động, mục đích của việc xác định và trình độ phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở các nước vẫn có một số tiêu thức phân loại chung như: - Số lao động thường xuyên - Vốn sản xuất - Doanh thu - Lợi nhuận - Giá trị gia tăng.. Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô theo các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo hiệu quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và ưu thế riêng. Như vậy, để phân loại DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố đó. Để tiện cho việc so sánh quốc tế, một khái niệm về DNVVN dựa trên tiêu thức lao động được sử dụng có thể là thích hợp nhất, bởi vì nó không dễ dàng chịu ảnh hưởng của những khác biệt các quốc gia về mức thu nhập cũng như những thay đổi trong giá trị của đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kỳ khác nhau. Ngoài tiêu thức lao động, tiêu thức tổng vốn đầu tư cũng được nhiều nước sử dụng. 1.1.1.2. Khái niệm về DNVVN theo quy định ở VN Từ những phân tích khái niệm chung về DNVVN, các tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn các tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới kết hợp với điều kiện cụ thể và những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần và các chính sách, quy định phát triển kinh tế của nước ta. Chúng ta có thể nêu lên được rõ khái niệm như sau: DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất- kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thỏa mãn các quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của chính phủ ngày 23/11/2001 thì DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bính hàng năm không quá 300 người. Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao gồm: - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước. - Các hợp tác xã thành lập và họat động theo Luật Hợp tác xã. - Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh. 1.1.2. Vai trò Xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay, tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Vì thế, lợi thế của các doanh nghiệp có quy mô lớn bị giảm sút. Trong điều kiện như vậy, sự phát triển của chuyên môn hóa và hợp tác hóa đã không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả mà thay vào đó là các DNVVN là vệ tinh của doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp. Như vậy trong điều kiện một nền kinh tế phát triển thì các DNVVN cũng không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp này trong nền kinh tế càng trở nên chặt chẽ. Vai trò của DNVVN lại càng được thể hiện rõ nét hơn trong điều kiện các nước đang phát triển như Việt Nam. Điều đó được thể hiện trên những nét cơ bản : Các DNVVN cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền kinh tế. Các DNVVN của Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 90% tổng số hơn 230.000 doanh nghiệp trên toàn quốc. Tỷ trọng GDP cung cấp cho nền kinh tế của các DNVVN có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu năm 1999 tỷ trọng GDP của các DNVVN chỉ chiếm 8,01%, năm 2002 chiếm 9,02%, đến năm 2004 tỷ lệ này khoảng 24-25,5% và năm 2006 tỷ trọng đóng góp khoảng 26% GDP. DNVVN trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1triệu người đến tuổi lao động nhưng khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp nhà nước lớn ngày càng hạn chế. Thêm vào đó, trong tiến trình đổi mới và cải tạo doanh nghiệp nhà nước đã khiến cho nhiều người lao động bị mất việc. Trong điều kiện như vậy, các DNVVN đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có vai trò quan trọng trong việc thu hút lao động. Năm 2002, cả nước tạo ra được 1,42 triệu việc làm mới thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thu hút được 79,1% tổng số chỗ làm việc.Hàng năm khu vực doanh nghiệp này thu hút hàng chục vạn lao động, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước.Theo số liệu ước tính năm 2006 khu vực DNVVN tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và chiếm từ 25-26% lực lượng lao động trong cả nước. Tuy nhiên, do khu vực sản xuất nông nghiệp ở nông thôn vẫn chiếm một tỉ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế nên xét trên tổng thể thì tổng số lao động trong các DNVVN chiếm tỉ trọng chưa cao trong tổng số lao động xã hội hiện nay. Các DNVVN thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế. Trong năm 2002, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã có 7.600 doanh nghiệp được thành lập mới vơi số vốn đăng ký trên 12.550 tỷ đồng, tăng 11% về số lượng doanh nghiệp và 16% về số vốn so với năm 2001, trong đó doanh nghiệp tư nhân là 1.760 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 915 tỷ đồng; 5.200 công ty trách nhiệm hữu hạn và vốn đăng ký trên 7.600 tỷ đồng; 604 công ty cổ phần với số vốn đăng ký trên 4.000 tỷ đồng. Tình hình trên cho thấy, DNVVN đã thu hút được khá nhiều khoản tiết kiệm trong dân cư. Chỉ tính riêng năm 2002, đầu tư khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 28,8% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội; Tính đến thời điểm 31tháng12năm 2004 số doanh nghiệp thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế là 91.755 doanh nghiệp, trong đó, nếu xét tiêu chí lao động thì có 88.233 DNVVN, nếu xét tiêu chí vốn thì có 79.420 doanh nghiệp. Tính đến tháng 6/2005 cả nước đã có trên 125 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký hơn 240 nghìn tỷ đồng, đưa tổng số doanh nghiệp trong cả nước lên gần 190 với số vốn đăng ký trên 398nghìn tỷ đồng. Riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 52% số doanh nghiệp thành lập mới với 50% tổng số vốn đăng ký so với cả nước. Hoạt động của các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt hiệu quả kinh tế cao. Với quy mô vốn và lao động không lớn, các DNVVN dễ dàng được thành lập, chuyển đổi mặt hàng sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy, các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hóa và cung cấp hàng hóa, dịch vụ bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là những vệ tinh, những xí nghiệp gia công cho những doanh nghiệp lớn cùng hệ thống đồng thời là mạng lưới tiêu thụ hàng hóa cho doanh nghiệp lớn. Hiện nay DNVVN chiếm khoảng 31% tổng sản lượng công nghiệp hàng năm, 78%doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hóa. Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng. Phát triển các DNVVN sẽ giúp các địa phương khai thác các thế mạnh về đất đai, tài nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Đó cũng là lý do cơ bản để Đảng và nhà nước ta đưa ra chính sách hỗ trợ phát triển các DNVVNcũng như kinh tế trang trại và phát triển các ngành nghề truyền thống ở các vùng nông thôn nước ta. Các DNVVN tạo được mối liên kết chặt chẽ với các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn xuyên quốc gia… Mặc dù trong thời gian qua, mối quan hệ này mới chỉ được xác lập bước đầu qua việc cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ và thành lập mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm, song đây là một hướng phát triển mới hết sức quan trọng để thúc đẩy nhanh sự phát triển của các DNVVN nói riêng và sự phát triển chung của nền kinh tế. Như vậy, từ việc khẳng định vị trí và vai trò của DNVVN thì ta thầy việc phát triển DNVVN ở nước ta là một trong những chiến lược quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt trong quá trình hội nhập hiện nay việc hỗ trợ tín dụng cho các DNVVN là điều rất cấp bách. 1.1.3. Lợi thế và khó khăn của DNVVN 1.1.3.1. Lợi thế DNVVN có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thỏa mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hóa, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh chóng thích nghi với nhu cầu và thay đổi của nền kinh tế thị trường, DNVVN có thể bước vào các thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các DN lớn, và sẵn sàng phục vụ những nơi xa xôi nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường vì markerting khối lượng lớn thường là mối quan tâm của các doanh nghiệp lớn. DNVVN là loại hình sản xuất lấy quyền sở hữu phân tán thay cho địa điểm sản xuất tập trung, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ, do vậy nó có nhiều điểm mạnh. Nó được thể hiện cụ thể như sau: Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp khó khăn thì dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ thống nhất. Dễ phát huy bản chất hợp tác DNVVN thường chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường, do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất nếu không sẽ bị đào thải. Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp Các DNVVN do có nguồn vốn ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là nước có lược lượng lao động dồi dào và giá lao động thấp như nước ta, để tiến hành sản xuất kinh doanh phục vụ dân sinh và thường họ đạt được hiệu quả kinh tế- xã hội cao. Không có hặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động. Do quy mô vừa và nhỏ nên sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và người lao động không lớn và bản thân người chủ- người sử dụng lao động luôn sát với công việc của người lao động do vậy nếu có xung đột xảy ra cũng có thể dễ dàng giải quyết. Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh. Các DNVVN thường không có tình trạng độc quyền, họ giễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực. Có thể phát huy được tiềm lực thị trường trong nước Sự phát triển DNVVN ở giai đoạn ban đầu cần phương thức tốt để sản xuất thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển như nước ta chỉ cần lựa chọn một mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và vốn đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của người dân, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường. Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng DNVVN có thể phát triển khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước, lấp vào khoảng trống và thiếu vắng của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng, đây là một chiến lược kinh tế-xã hội quan trọng của đất nước. Có thể nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp DNVVN lấy mục tiêu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu, do vốn đầu tư thấp và thường thu hút nhiều lao động cho nên trong thời gian ngắn tạo được nhiều việc làm, giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở từng địa phương, nâng cao giá nhân công, có lợi cho nhân dân. DNVVN là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển thành doanh nghiệp lớn. Qua thực tế hoạt động sản xuất- kinh doanh, một mạng lưới DNVVN khắp trên mọi miền của đất nước đã đào tạo, sàng lọc nên các nhà doanh nghiệp, có thể nói đây là nơi đào tạo hữu hiệu nhất. Mặt khác quá trình phát triển DNVVN cũng là quá trình tích tụ vốn, tìm kiếm mạng lưới thị trường.. để phát triển doanh nghiệp lớn. Hầu hết các doanh nghiệp lớn ở các nước phát triển đều trải qua quy mô vừa và nhsỏ trừ một số doanh nghiệp lớn của nhà nước. 1.1.3.2. Khó khăn Khó khăn chung Nhìn chung, các DNVVN ở Việt Nam hiện nay đều gặp phải một số khó khăn sau: ¬ Hệ thống đăng ký kinh doanh chưa thống nhất từ trung ương đến cơ sở, chỉ mới thành lập được phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thuộc sở kế hoạch và đầu tư. Vì vậy việc quản lý nội dung kê khai trong giấy chứng nhận kinh doanh và việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp còn hạn chế, chưa sớm được phát hiện những sai phạm của doanh nghiệp trong quản lý kinh doanh và vì vậy việc xử lý bị chậm. ¬ Phần lớn DNVVN có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, thiếu điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, thuê chuyên gia có trình độ. Mặc dù đã có nỗ lực từ phía chính quyền địa phương xong vẫn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần(doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) trong các lĩnh vực như đất đai, mặt bằng sản xuất, vay vốn tín dụng dẫn đến tình trạng DNVVN thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, đổi mới công nghệ. ¬ Thiếu sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn với các DNVVN dẫn đến chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp. ¬ Phần lớn cán bộ quả lý trong các doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh dựa trên kinh nghiệm là chính, chưa được đào tạo qua trường lớp căn bản nên có nhiều hạn chế trong công tác quản lý kinh tế cũng như ảnh hưởng đến việc thực hiện quy định của pháp luật trong quá trình họat động và kinh doanh. ¬ Trình độ tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp chưa được quan tâm đào tạo thường xuyên, phần lớn người lao động được truyền dạy nghề thông qua gia đình hoặc các kỹ thuật viên của doanh nghiệp, do đó tính năng động và sáng tạo trong việc phát huy sáng kiến cải tiến mẫu mã hàng hóa còn chưa cao. Những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng ¬ Các DNVVN lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính trước hết do các DNVVN thiếu tài sản thế chấp ngân hàng trong khi đó mức cho vay dường như vẫn bị hạn chế. Do vậy, các DNVVN hoạt động độc lập có kế hoạch mở rộng sản xuẩt kinh doanh thì họ lại thiếu vốn để đưa các kế hoạch đó vào hiện thực. Hơn nữa hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với lãi suất cao nên các DNVVN vẫn khó khăn khi tìm được nguồn vốn trung và dài hạn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các DNVVN có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên ngoài một cách rộng rãi và ổn định hơn. ¬ Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn tự có cao là đặc trưng chung của hầu hết các DNVVN ở Việt Nam. Chính điều này là nguyên nhân chính làm cho các DN khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. ¬ Khó khăn tiếp theo cũng bắt nguồn từ nguồn vốn hạn hẹp của các DNVVN nên các DNVVN không có điều kiện đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cấp công nghệ sản xuất để mở rộng năng lực sản xuất. Do đó, năng suất lao động nói chung còn thấp, chất lượng sản phẩm nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường. 1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Khái niệm về hoạt động cho vay Hoạt động cho vay là họat động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng thương mại(NHTM) để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có tiền lãi thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại còn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động cho vay có chất lượng, hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra sự ổn định lưu thông tiền tệ. Hoạt động cho vay của NHTM được định nghĩa: “ là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định”. Đây là một trong những hoạt động chính gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của NHTM. NHTM huy động vốn nhàn rỗi của dân cư và các tổ chức kinh tế khác tạo nên nguồn vốn cho vay với lãi suất cao hơn so với lãi suất huy động. 1.2.2. Đặc điểm của cho vay đối với DNVVN so với các đối tượng khác Cho vay đối với DNVVN là một trong những mục tiêu mở rộng tín dụng của các ngân hàng hiện nay. Không chỉ ở các nước đang phát triển như ở nước ta mà ở các nước phát triển thì khách hàng DNVVN cũng là một đối tượng khách hàng cần chú ý vì đây là một thị trường rất tiềm năng khi hầu hết các công ty lớn có uy tín trên thị trường đã chuyển hướng huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Cũng như các đối tượng cho vay khác thì cho vay DNVVN có đầy đủ các phương thức cho vay, tuy nhiên nó có phần nào chặt chẽ hơn về quy trình nghiệp vụ và giám sát. Thông thường cho vay DNVVN có chứa đựng nhiều rủi ro vì tính không ổn định của loại hình doanh nghiệp này, đồng thời các hầu hết DNVVN thiếu các tài sản thế chấp. Chính vì vậy nên các ngân hàng chưa thực sự mặn mà với đối tượng khách hàng nay. Tuy nhiên các món vay này thường nhỏ hơn các món vay của các doanh nghiệp lớn hay các dự án đầu tư dài hạn nên nó phần nào giúp cho các ngân hàng phân tán được rủi ro 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Từ phía ngân hàng Chiến lược kinh doanh của ngân hàng Mỗi một tổ chức ngay từ khi được thành lập ra đã phải có một phương châm hoạt động nhất định và phải có chiến lược kinh doanh phù hợp với các mục tiêu đã đặt ra. Đó là một tiêu chí rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế hiện nay, quá trình cạnh tranh càng ngày càng trở nên gay gắt, mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một phương châm, chiến lược kinh doanh đúng đắn và hiệu quả. Đó là một điều kiện vô cùng quan trọng giúp cho ngân hàng có định hướng nhất quán trong việc khai thác tốt nhất tiềm lực hiện có và có thể thích ứng tốt với những biến đổi của môi trường kinh doanh gay gắt hiện nay. Khi mà chiến lược kinh doanh đặt ra không hiệu quả, không đúng đắn thì mọi hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng không thể phát triển được, thậm chí nó có thể gây nên những tổn thất khôn lường cho ngân hàng. Chiến lược phát triển sẽ tạo ra một định hướng chung về khách hàng mục tiêu của ngân hàng và từ đó xây dựng nên các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với đối tượng khách hàng đó. Để phù hợp với xu thế hiện nay thì các NHTM đang ngày càng quan tâm đến các DNVVN và đang thúc đẩy việc thiết lập chiến lược kinh doanh hướng vào đối tượng này. Chính điều này đã có ảnh hưởng quyểt định đến họat động cho vay nói chung, doanh số cho vay cũng như chất lượng cho vay đối với DNVVN nói riêng trong mỗi một ngân hàng. Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng của một NHTM được xem như là kim chỉ nam trong hoạt động cho vay của ngân hàng đó. Khi mà có một chính sách tín dụng đúng đắn, đồng bộ, khoa học và thống nhất thì nó sẽ xác định cho các cán bộ tín dụng một phương hướng đúng đắn khi thực hiện nhiệm vụ của mình từ đó nâng cao được hiệu quả kinh tế- xã hội của họat động cho vay. Tuy nhiên, khi chính sách tín dụng đặt ra không đầy đủ, đúng đắn, khoa học sẽ tạo ra một định hướng lệch lạc cho họat động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, không đúng mục đích hoặc tạo ra khe hở cho người sử dụng vốn và từ đó sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế thậm chí dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính sách tín dụng bao gồm: Chính sách khách hàng: Do đối tượng khách hàng vay vốn của ngân hàng rất đa dạng vì vậy ngân hàng cần phải tiến hành phân loại khách hàng theo các tiêu chí nhất định nào đó, từ đó mới đem ra các chính sách về lãi suât, tài sản đảm bảo, hạn mức tín dụng.. phù hợp với từng phân đoạn khách hàng. Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng: Ngân hàng cam kết tài trợ cho khách hàng với món tiền và hạn mức nhất định. Giới hạn này ngoài các quy định theo luật thì mỗi ngân hàng còn có quy định riêng về quy mô và giới hạn. Ví dụ như quy mô tối đa cho vay của mỗi giám đốc khu vực, giám đốc chi nhánh, quy mô cho vay dựa trên giới hạn đảm bảo… Chính sách này sẽ được quy định một cách cụ thể trong từng thời kỳ trong năm có tính đến quy mô và tổ chức nguồn vốn của mỗi ngân hàng. Lãi suất tín dụng: Mỗi một ngân hàng đều có các mức lãi suất tín dụng khác nhau phân theo từng kỳ hạn, loại tiền, đối tượng khách hàng. Lãi suất này có thể được cố định trong một thời hạn tín dụng nhưng cũng có thể được thả nổi theo sự biến đổi của lãi suất tham khảo hặc chỉ số làm cơ sở điều chỉnh lãi suât hoặc cũng có thể là sự kết hơp cố định có điều chỉnh sau một khoảng thời gian xác định. Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ: Các thời hạn tín dụng có liên quan trực tiếp đến rủi ro thanh khoản trong hệ thống ngân hàng và chu kỳ kinh doanh của người vay. Các chính sách thời hạn tín dụng được đưa ra phải giải quyểt được mối quan hệ về thời hạn giữa nguồn(chủ yếu do người gửi và do ngân hàng vay quyết định) và thời hạn tài trợ(bắt nguồn từ yêu cầu của người vay do đặc điểm luân chuyển nguồn vốn và quy mô thu nhập quyết định). Kỳ hạn nợ liên quan đến tính toán các nguồn thu của khách hàng có thể dùng để trả nợ. Các khoản đảm bảo: Chính sách đảm bảo gồm những quy định về trường hợp tài trợ cần đảm bảo bằng tài sản, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, danh mục các đảm bảo được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên đảm bảo, đáng giá và quản lý đảm bảo. Chính sách tín dụng về các khoản đảm bảo cũng bao gồm cả việc đánh giá tài sản đảm bảo và mức phán quyết tín dụng dựa trên việc định giá cho tài sản đảm bảo. Chính sách đối với tài sản có vấn đề Các tài sản có vấn đề bao gồm các tài khoản nợ xấu và tài sản có biểu hiện đáng ngờ. Chính sách đối với tài sản có vấn đề gồm các quy định về cách thức xác định nợ xấu và các tài sản đáng ngờ khác, tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận và mức độ xấu của các khoản nợ, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh lý và khai thác. Như vậy, chính sách tín dụng của ngân hàng có ảnh hưởng vô cùng quan trọng tới khả năng tiếp cận tín dụng của các DNVVN. Khi chính sách tín dụng mà linh hoạt, đa dạng thì nó sẽ đáp ứng được nhiều nhu cầu của DNVVN ở các phân đoạn thị trường khác nhau hay nói cách khác là sẽ làm tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các DNVVN. Quy mô nguồn vốn của ngân hàng thương mại: Như ta đã biết, tất cả các hoạt động cho vay của NHTM đều phải tuân theo quy định liên quan đến hoạt động cho vay của pháp luật. Quy định 1627 về quy chế cho vay của một tổ chức tín dụng đối với một khách hàng có quy định ” dư nợ cho vay tối đa đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn ủy thác của chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hay trường hợp khách hàng vay là một tổ chức tín dụng khác”. Do đó, quy mô nguồn vốn của ngân hàng đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu là nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng cho vay của một ngân hàng. Các ngân hàng lớn thường cung cấp các khoản cho vay có giá trị lớn cho các doanh nghiệp còn các ngân hàng nhỏ thường tập trung cho vay các khỏan có quy mô nhỏ- nghiệp vụ tín dụng bán lẻ. Ngoài ra, quy mô của ngân hàng cũng ảnh hưởng đáng kể đối với thu nhập ròng của các loại hình cho vay. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong cho vay, ngân hàng cần cung cấp các loại hình cho vay mà ngân hàng có lợi thế nhất. Ví dụ như, các ngân hàng lớn thường có ưu thế trong cho vay kinh doanh bất động sản và cho vay tiêu dùng trả góp, các ngân hàng có quy mô trung bình thường có lợi thế về các khoản cho vay theo thẻ tín dụng, còn các ngân hàng nhỏ lại có ưu thế trong cho vay thương mại. Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay Đây là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Một ngân hàng sẽ ít có khả năng lớn mạnh, khả năng mở rộng cho vay nếu những sản phẩm cho vay mà nó cung cấp cho khách hàng là đơn điệu, chất lượng hoạt động không cao. Một trong những đặc điểm đặc trưng của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng là không có sự khác biệt, bản quyền khó xác định nên từ đó làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, khốc liệt như ngày nay thì buộc các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, tạo ra tính khác biệt cho sản phẩm ngân hàng để củng cố và mở rộng thị phần, duy trì khả năng cạnh tranh của chính ngân hàng mình. Thông tin tín dụng Là tất cả các thông tin về tài chính, quan hệ tín dụng, đảm bảo tiền vay, tình hình tín dụng và thông tin pháp lý của khách hàng có quan hệ với ngân hàng. Hệ thống thông tin tín dụng được đưa ra nhằm hình thành cơ sở dữ liệu về khách hàng để phục vụ cho quá trình cấp tín dụng, phân tích và quản lý tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng. Mục đích quan trọng nhất của nó là tìm kiếm và phát hiện ra sớm các khoản tín dụng có vấn đề để đánh giá đúng mức độ rủi ro của các khoản nợ đồng thời dự báo trước khả năng một khoản tín dụng có thể chuyển sang nợ xấu. Trên cơ sở thông tin thu được, ngân hàng sẽ quyết định được một cách đúng đắn hơn trong quy trình kiểm tra, giám sát tín dụng. Chất lượng của thông tin tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến khoản cho vay. Khi thông tin tín dụng đầy đủ, chính xác sẽ góp phần hạn chế và ngăn ngừa được phần nào rủi ro tín dụng, rủi ro lựa chọn đối nghịch do thiếu thông tin không cân xứng về đối tượng đầu tư từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động tín dụng. Thông tin tín dụng có thể khai thác từ các nguồn khác nhau. Có thể nguồn bên trong hay bên ngoài hệ thống; chính thức hay phi chính thức. Việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, đầy đủ ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng từ đó ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các DNVVN. Trình độ cán bộ công nhân viên Trình độ của cán bộ làm công tác cho vay có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM. Khi các cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức và hiểu biết sâu rộng thì sẽ có thể phân tích và nắm bắt được tình hình của khách hàng và từ đó đưa ra được quyết định tín dụng chính xác. Ngược lại, khi các cán bộ tín dụng yếu kém về năng lực hoạt động, chưa được đào tạo một cách đầy đủ thì sẽ thiếu khả n._.ăng phân tích và đánh giá một cách chính xác về khách hàng vay vốn, không bao quát được các điểm yếu về mặt pháp lý hoặc các sai sót trong hồ sơ vay vốn của khách hàng nên từ đó đem ra những quyết định thiếu chính xác, gây nên những hậu quả xấu cho ngân hàng. 1.2.3.2. Từ phía DNVVN Năng lực tài chính của DNVVN: Năng lực tài chính của DNVVN là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì tình hình tài chính sẽ vững mạnh từ đó mới có thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng và có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng. Năng lực tài chính được thể hiện ở khối lượng vốn chủ sở hữu và tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn kinh doanh của DNVVN. Vốn chủ sở hữu này sẽ phản ánh khả năng tự chủ tài chính, khả năng chống chọi với hoàn cảnh bất lợi của DN. Khi tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp càng nhỏ chi phí vốn vay càng lớn và đó có thể là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh doanh thua lỗ và mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng của doanh nghiệp. Hiện nay, các DNVVN muốn vay vốn ngân hàng thì phải đảm bảo là có một phần vốn tự có nhất định tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, nếu như vốn sở hữu thấp nhưng nhu cầu đầu tư lớn cũng khó có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng. Phương án sản xuất kinh doanh: Đây là một vấn đề liên quan đến tính hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh một sản phẩm nào đó. Khi tiến hành phương án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ tính toán doanh thu thu được, các chi phí liên quan và lỗ lãi. Từ đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các quyết định là có tiến hành thực hiện các dự án hay không. Đây là một trong những điều kiện vay vốn hàng đầu của DNVVN. Để đảm bảo thu hồi được vốn vay từ các doanh nghiệp, ngân hàng phải chọn những phương án khả thi, có khả năng thực hiện được và thực sự có hiệu quả để tiến hành đầu tư. Do vậy, việc doanh nghiệp có khả năng vay vốn của ngân hàng phụ thuộc một phần vào phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có khả thi hay không. Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ: Khi một doanh nghiệp có đội ngũ quản lý tốt thì sẽ có được chiến lược kinh doanh tốt, khả năng kinh doanh cao và có thể quản lý vốn tôt. Nó được thể hiện ở cách thức tổ chức hoạt động chung, tổ chức hoạt động sổ sách kế toán, quản lý tài chính hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, môi trường kinh doanh. Nó còn thể hiện ở trình độ nhận định thị trường để có được chiến lược kinh doanh năng động và các biện pháp nhằm chống chọi lại những biến động bất lợi của thị trường. Năng lực quản lý này nó ảnh hưởng trực tiếp đến đội ngũ cán bộ, đến sản phẩm của doanh nghiệp, đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, mối quan hệ với các đối tác.. Đây cũng là một tiêu chí quan trọng để ngân hàng đưa ra quyết định có cho DNVVN vay vốn hay không và nếu vay thì với hạn mức là bao nhiêu. Đạo đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp: Đây là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của DNVVN và đây chính là thiện chí trả nợ của chủ DNVVN. Đạo đức kinh doanh của DNVVN thể hiện ở việc doanh nghiệp trung thực, sử dụng vốn đúng mục đích, quản lý tốt, báo cáo thật, đảm bảo hoạt động kinh doanh được lành mạnh, đảm bảo trả nợ được cho ngân hàng. Các DNVVN luôn muốn có thể tiếp cận được nhiều hơn tới nguồn vốn của ngân hàng. Nếu các DNVVN báo cáo một cách đầy đủ, minh bạch, sử dụng vốn đúng mục đích kinh doan, thực hiện vay và trả tốt thì có thể tiếp cận được nhiều hơn đối với nguồn vốn đó. Tuy nhiên, nếu các DNVVN cố tình báo cáo sai lệch các thông tin, sử dụng vốn sai mục đích.. thì sẽ không thể tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Các ngân hàng sẽ mất dần niềm tin đối với các DNVVN từ đó sẽ thắt chặt các biện pháp đảm bảo tiền vay. Như vậy thì sẽ càng hạn chế khả năng tiếp cận vốn của các DNVVN. 1.2.3.3. Từ môi trường bên ngoài Chính sách phát triển kinh tế của đất nước: Chính sách phát triển kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng tín dụng của ngân hàng đối với DNVVN. Sự thay đổi các chính sách vĩ mô của nhà nước sẽ gây nên những biến động lớn đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Dựa trên cơ sở các đường lối, chủ trương, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước thì các doanh nghiệp sẽ xác định mục tiêu kinh doanh của mình, cân đối tài chính để xác định nhu cầu vay vốn ngân hàng. Đồng thời, các ngân hàng thương mại sẽ căn cứ vào các chỉ tiêu này để xác định cơ cấu tín dụng của mình một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay, các chủ trương chính sách vĩ mô của nhà nước thay đổi nhanh chóng đã gây ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu cũng tác động mạnh đến quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng cũng như chất lượng tín dụng của ngân hàng. Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý là một hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến toàn bộ các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Khi một hệ thống pháp luật đồng bộ thì sẽ tạo ra được một hành lang an toàn cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và hoạt động của các ngân hàng nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng, nó như một hành lang pháp lý tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, an toàn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh tế và có tính chất bắt buộc đối với tất cả các chủ thể kinh tế đó. Khi mà hệ thống pháp luật rắc rối, không đồng bộ thì sẽ gây ra những khó khăn cho ngân hàng trong việc thực hiện các hợp đồng tín dụng và sẽ ảnh hưởng đến khả năng mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế. Môi trường chính trị xã hội Đây là một nhân tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định đối với các nhà đầu tư. Khi nền chính trị ổn định thì nó sẽ tạo ra được sự tin tưởng lớn đối với các nhà đầu tư đặc biệt là đầu tư dài hạn. Khi đầu tư tăng lên, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh từ đó hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ. Những biến động bất ổn về chính trị- xã hội không những sẽ làm hạn chế đầu tư, hạn chế các khoản vay mới mà còn tác động tiêu cực đến những khoản vay cũ thông qua những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với hoạt động của các DNVVN và của ngân hàng. Bên cạnh đó, các quan niệm xã hội về sự ưa thích cá nhân, về các ngành nghề lĩnh vực kinh doanh cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp, sự biến động của môi trường có thể làm thay đổi các triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế nó sẽ ảnh hưởng đến họat động tín dụng của doanh nghiệp đó. Thái độ của các cơ quan chính quyền cũng có ảnh hưởng lớn đến họat động của các DNVVN. Nó được thể hiện qua cách xử sự cũng như tinh thần phục vụ và hỗ trợ cho DNVVN. Thái độ của các phương tiện thông tin đại chúng cũng đóng góp tích cực vào sự chuyển biến thái độ tâm lý xã hội đối với các DNVVN. Như vậy, khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các DNVVN chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố, không chỉ từ phía ngân hàng, từ phía DNVVN mà còn các yếu tố như môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, chính trị, xã hội…chính vì vậy, để có thể tăng khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các DNVVN thì cần phải có sự phối hợp một cách nhuần nhuyễn và chặt chẽ giữa tất cả các phía trong tổng thể đó. 1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng thương mại Số lượng DNVVN có quan hệ với ngân hàng Trên thị trường, sự cạnh tranh luôn luôn tồn tại và một yếu tố tất yếu, khách quan, là động lực chung cho sự phát triển. Trong bất cứ ngành nghề kinh doanh nào thì các doanh nghiệp cũng mong muốn có được thị phần lớn nhất có thể có trong phạm vi hoạt động của mình. Ngành ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ với mạng lưới mở rộng khắp cả nước. Có rất nhiều ngân hàng cùng hoạt động trên một địa bàn nên dẫn đến việc số lượng doanh nghiệp có quan hệ vay mượn với từng ngân hàng sẽ giảm đi nếu như mỗi ngân hàng không có những biện pháp để mở rộng thị phần của mình. Xét về chỉ tiêu số lượng DN có quan hệ tín dụng với ngân hàng thì đây là một chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNVVN. Qua mỗi năm, số liệu này sẽ phản ánh sự tăng trưởng về số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng cũng như việc ngân hàng có tiến hành việc đẩy mạnh cho vay đối với đối tượng khách hàng này hay không. Doanh số cho vay Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Nó là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động cho vay đối với các DNVVN của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ ngân hàng họat động tốt và ngân hàng đang mở rộng hoạt động cho vay của mình còn ngược lại, nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ ngân hàng đang hạn chế hoạt động cho vay. Điều đó có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau như khả năng họat động của ngân hàng hay là sự thay đổi trong chiến lược hoạt động của ngân hàng… Doanh số thu nợ Doanh số thu nợ trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng thu lại được từ hoạt động cho vay trong kỳ. Đây là một chỉ tiêu phản ánh lên hiệu quả của hoạt động cho vay. Thu nhập từ hoạt động cho vay Bất kỳ một đơn vị kinh doanh nào, khi đã tiến hành hoạt động đầu tư thì đều kỳ vọng vào một nguồn thu nhập cao trong tương lai và các NHTM cũng không phải là một ngoại lệ. Việc đẩy mạnh họat động cho vay đối với các DNVVN có đạt được hiệu quả thực sự hay không thì cần phải xem xét đến chỉ tiêu này Đây là một chỉ tiêu không thể thiếu được khi đánh giá hiệu quả cho vay của ngân hàng. Khi mà dư nợ cho vay có tăng lên nhưng doanh thu lại không tăng thì chứng tỏ hoạt động cho vay không đạt hiệu quả. Ngoài ra, chúng ta có thể xem xét đến tỷ trọng đóng góp thu nhập của hoạt động cho vay DNVVN trong tổng thu của NHTM để được kết quả của việc đẩy mạnh hoạt động cho vay DNVVN trong các năm. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động cho vay không chỉ được quyết định bởi điều đó. Chính vì vậy nên khi đánh giá hiệu quả của họat động cho vay cần phải kết hợp với các chỉ tiêu khác như: tỷ lệ lãi thực thu từ cho vay DNVVN so với tổng số lãi thu được và các chỉ tiêu về mức sinh lời, chỉ tiêu nợ quá hạn..để có thể đánh giá được một cách chính xác hiệu quả cho vay DNVVN của NHTM. Dư nợ cho vay: Là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Nó phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng cho nền kinh tế nói chung và cho DNVVN nói riêng. Thông qua đây, ta có thể biết được tăng trưởng dư nợ cho vay của DNVVN qua các năm. Mặt khác ta còn tính được tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNVVN. Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNVVN = dư nợ cho vay DNVVN tổng dư nợ cho vay của ngân hàng Nó sẽ phản ánh quy mô tín dụng đối với DNVVN trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. So sánh chỉ tiêu này qua các năm cho ta thấy sự thay đổi cơ cấu tín dụng đối với DNVVN trong tổng dư nợ của ngân hàng. Mặt khác, tỷ lệ này sẽ được khống chế tại một mức nào đó có thể chấp nhận được theo từng giai đoạn của từng hệ thống ngân hàng. Nợ quá hạn Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng cho vay của NHTM. Thông qua nó, ta có thể tính được tỷ lệ nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn = tổng dư nợ quá hạn(gốc hoặc cả gốc+lãi) của DNVVN tổng dư nợ cho vay DN Nếu tỷ lệ này ở mức quá cao thì chứng tỏ chất lượng cho vay của ngân hàng là kém.Nếu tỷ lệ này ở mức quá thấp thì thể hiện quan điểm của ngân hàng khi cho vay là khắt khe. Luôn tuân theo quy tắc tín dụng, nguyên tắc phân tán rủi ro, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của khách hàng. Còn nếu ở mức vừa phải thì thể hiện chiến lược kinh doanh táo bạo của ngân hàng là chấp nhận rủi ro trong một chừng mực nhất định để có thể đạt được lợi nhuận cao. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI NGÂN HÀNG TECHCOMBANK. 2.1. GIỚI THIỆU VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP 2.1.1. Giới thiệu chung về ngân hàng Techcombank Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam được thành lập vào ngày 27/9/1993 có tên giao dịch quốc tế là Techcombank với số vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng và có trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường. Từ đó đến nay đã hơn 14 năm, ngân hàng Techcombank đã có những bước tiến vượt bậc trở thành ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô hoạt động lớn và nằm trong tốp các ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động có hiệu quả nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Techcombank hiện có128 điểm giao dịch trải khắp các tỉnh thành lớn của Việt nam và sẽ tiếp tục mở rộng tới 200chi nhánh và điểm giao dịch vào năm 2010. Techcombank hiện có vốn điều lệ là 1.500 tỉ đồng, tổng tài sản là gần 39.558 tỷ đồng và gần 2900 nhân viên. Tốc độ tăng trưởng về tổng tài sản và doanh thu hàng năm của Techcombank trong nhiều năm qua luôn đạt từ 30% trở lên. Trong 3-5 năm tới, Techcombank sẽ phấn đấu trở thành một trong những ngân hàng tư nhân lớn nhất Việt Nam với vốn điều lệ trên 100 triệu USD và quản lý một tài sản hơn 1,5 tỷ USD. 2.1.2. Đối tượng khách hàng của Techcombank Techcombank hiện đang phục vụ hơn 32.000 khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm khoảng 65% doanh số tín dụng và 90% doanh thu từ các dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng. Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Techcombank hiện đang cung cấp “siêu thị dịch vụ tài chính trọn gói” hỗ trợ tối đa hoạt động kinh doanh trong nước cũng như nước ngoài bao gồm tài khoản, tiền gửi, tín dụng, đầu tư dự án, tài trợ xuất nhập khẩu, quản lý nguồn tiền, bao thanh toán, thuê mua, dịch vụ ngoại hối và quản trị rủi ro, các chương trình cho vay ưu đãi và hỗ trợ xuất nhập khẩu theo các thỏa thuận k‎ý với các tổ chức quốc tế. Với các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có quy mô lớn, hiện chiếm khoảng 8% doanh số tín dụng và 8% doanh thu các dịch vụ phi tín dụng, Techcombank đang cung cấp một loạt các dịch vụ hỗ trợ hiện đại như quản lý ngân quỹ, thu xếp vốn đầu tư dự án, thanh toán quốc tế và các dịch vụ ngân hàng điện tử. Techcombank đang phục vụ gần 100.000 khách hàng dân cư, chiếm 27% doanh số tín dụng của Techcombank. Với khách hàng cá nhân, Techcombank cung ứng trọn bộ các sản phẩm ngân hàng đáp ứng mọi nhu cầu có thể phát sinh của khách hàng bao gồm các sản phẩm tài khoản, tiết kiệm, tín dụng, thanh toán, thẻ, đầu tư, bảo lãnh, bảo quản tài sản trên nền tảng công nghệ hiện đại của hệ thống Globus, rất thuận tiện và có nhiều tiện ích và giá trị gia tăng cho khách hàng, trong đó trụ cột là các nhóm sản phẩm thẻ, tài trợ tiêu dùng và cho vay mua nhà trả góp. Trên thị trường liên ngân hàng, Techcombank hiện là một trong những ngân hàng năng động nhất trong giao dịch với các công ty lớn và tổ chức tài chính khác. Techcombank hiện đang cung ứng các sản phẩm ngoại hối, giao dịch vốn, chiết khấu chứng từ có giá, các công cụ phái sinh và quản trị rủi ro cho rất nhiều khách hàng trong nước trên cơ sở hợp tác với các tổ chức quốc tế và sàn giao dịch lớn trên thế giới . 2.1.3. Thuận lợi và khó khăn ngân hàng đang gặp phải 2.1.2.1. Thuận lợi Trong các năm vừa qua, kinh tế Việt Nam phát triển khả quan trong điều kiện kinh tế vĩ mô khá thuận lợi. Tăng trưởng kinh tế cao, tổng sản phẩm quốc nội GDP tăng liên tục qua các năm. Chính điều đó đã tạo động lực thúc đẩy hoạt động của các thành phần kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính-ngân hàng. Đặc biệt năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, mở ra những vận hội và thách thức mới Họat đông XNK tăng trưởng mạnh. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng tốt qua các năm. Đồng thời các đợt nâng lương tối thiểu cho cho công chức và nhân viên các doanh nghiệp nhà nước trong qua các năm đã khuyến khích tiêu dùng trong nước. Kết quả là sản xuất và chi tiêu trong nước tăng và đi kèm theo đó là nhu cầu về tín dụng và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng khác. Điều này đã và đang tạo điều kiện để các ngân hàng tăng dư nợ tín dụng phục vụ hoạt động đầu tư và tiêu dùng. Trong bối cảnh đó, dư nợ của Techcombank đã gia tăng qua các năm, năm 2007 ước tính là 18681 tỷ đồng, tăng trên 9000 tỷ so với năm 2006 và tăng trên 12000 tỷ so với năm 2005. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh đang tạo cơ hội để cho Techcombank gia tăng hoạt động môi giới, repo, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thu phí như tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần hóa và tài chính doanh nghiệp. Đó chính là những điều kiện thuận lợi của hệ thống ngân hàng nói chung và của Techcombank nói riêng. 2.1.2.2. Khó khăn Trong thời gian qua, sự phát triển mạnh mẽ của TTCK là một trong những nguyên nhân khiến cho việc huy động vốn của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng Techcombank nói riêng trở nên khó khăn hơn. Mặt khác, từ ngày 1/4/2007, theo lộ trình cam kết gia nhập WTO, VN sẽ mở cửa, cho phép các NH ngoại lập NH con 100% vốn nước ngoài tại VN. Sự đổ bộ của các "đại gia" nước ngoài nhiều kinh nghiệm với tiềm lực tài chính vững mạnh đã khiến cho ngân hàng Techcombank cũng như các ngân hàng ở Việt Nam phải có những chuẩn bị để không đánh mất thị phần ngay trên "sân nhà". Vào ngày 1/7/2007, Chỉ thị 03 của NH Nhà nước về hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán có hiệu lực. Các NH trong đó có ngân hàng Techcombank phải rút dư nợ loại này về hạn mức 3% tổng dư nợ theo hạn 31/12/2007. Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% rồi 12% của NH Nhà nước cũng gây nên những ảnh hưởng không nhỏ đối với ngân hàng. Ngoài ra, gần đây do sự đảo chiều tất yếu của chính sách kích thích tăng trưởng dễ dãi trong một thời gian dài cộng với sự thiếu nhạy cảm của ngân hàng nhà nước trong điều hành tiền tệ đã dẫn đến việc các ngân hàng thương mại lâm vào tình trạng khủng hoảng thanh khoản. Những yếu tố trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng Techcombank nói riêng. 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong 3 năm 05,06,07 Trong 3 năm 2005, 2006, 2007, Techcombank đã đạt được những thành công nhất định trong việc thực hiện chiến lược tăng tốc qua việc phát triển tổng tài sản, tín dụng, dịch vụ, mạng lưới, phát triển sản phẩm mới cũng như quan hệ đối với các đối tác chiến lược. † Nếu như năm 2005 tổng tài sản của Techcombank mới chỉ có 10.666 tỷ thì năm 2006 tăng lên gần 18.000 tỷ và đến năm 2007 đã đạt tới con số là 39.558tỷ đồng. Vốn điều lệ năm 2005 là 555 tỷ, 2006 và 2007 tăng lên đến 1.500 tỷ. Như vậy Techcombank đã khẳng định được vị trí là một trong các ngân hàng cổ phần hàng đầu về quy mô và vốn điều lệ. † Lợi nhuận trước thuế năm 2007 đạt đến con số là 800 tỷ đồng, tăng gần 125% so với năm 2006, là ngân hàng có mức lợi nhuận cao trong hàng ngũ các ngân hàng thương mại cổ phần. † Mạng lưới họat động trải dài 22 tỉnh thành trên cả nước với hơn 120 điểm giao dịch. Số lượng cán bộ nhân viên đạt tới hơn 2.034 người. † Doanh thu năm 2007 đạt 2.560 tỷ đồng trong khi năm 2006 đạt 1.398 tỷ đồng còn năm 2005 đạt 698 tỷ. Doanh thu từ khu vực dịch vụ cả năm 2007 đạt 321tỷ VND khẳng định vị trí dẫn đầu của Techcombank trong khối các ngân hàng cổ phần. Doanh thu dịch vụ thuần đạt 302 tỷ đồng, tăng khoảng 82%so với năm 2006, và chiếm 20% tổng doanh thu thuần, nhờ vào sự tăng trưởng đều và mạnh của nhiều loại dịch vụ như: bao thanh toán, bảo lãnh, dịch vụ tín dụng, dịch vụ thẻ… † Hoạt động huy động vốn: tổng nguồn vốn huy động cho cả năm 2007 đạt 35.100 tỷ đồng, tăng hơn 20.000 tỷ đồng so với 2006 và tăng gần 26.000 tỷ so với năm 2005. Trong đó: Huy động từ khu vực dân cư đạt 17.020 chiếm 48% trong tổng huy động Bảng 1.1:Tăng trưởng huy động vốn từ khu vực dân cư Đơn vị: Tỷ VND 2005 2006 2007 3.892 6.684,45 17.020 (Nguồn: báo cáo thường niên hàng năm của Techcombank) Vốn huy động từ dân cư năm 2007 đã tăng gần 150% so với năm 2006 và tăng gần 330% so với năm 2005. Từ đây ta thấy được sự tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động huy động vốn trong khu vực dân cư qua các năm Tổng số vốn huy động từ doanh nghiệp đạt 7599tỷ đồng chiếm 21,2% tổng nguồn vốn huy động từ ngân hàng, đạt mức tăng trưởng so với 2006 là 163% và so với năm 2005 là 219% Bảng 1.2: Tăng trưởng huy động từ doanh nghiệp: Đơn vị: tỷ VND 2005 2006 2007 2382 2882 7599 (Nguồn: báo cáo thường niên hàng năm của Techcombank) Số lượng khách hàng tổ chức kinh tế cũng tăng lên từ 2.037 khách hàng trong năm 2006 lên 3.175 khách hàng trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng là 55,86%. Khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp tục là khách hàng quan trọng của Techcombank, chiếm 45% trong tổng huy động vốn từ các khách hàng DN. † Hoạt động tín dụng: Dư nợ tín dụng năm 2007 đạt trên 18681tỷ đồng, tăng trên 9000 tỷ đồng so với năm 2006 Trong đó, dư nợ cho vay bán lẻ của ngân hàng tiếp tục có sự tăng trưởng đáng kể, tổng dư nợ cho vay khách hàng dân cư đến cuối tháng 12/2007 đạt 5790 tỷ đồng tăng hơn 105%so với năm 2006 Bảng 1.3: Tăng trưởng tín dụng bán lẻ: Đơn vị: tỷ VND 2005 2006 2007 1.560 2.817 5790 (Nguồn: báo cáo thường niên hàng năm của Techcombank) Các sản phẩm bán lẻ có dư nợ lớn là cho vay nhà(chiếm 37.9% tổng dư nợ cho vay bán lẻ), cho vay ô tô, cho vay hộ kinh doanh cá thể và các hình thức cho vay tiêu dùng khác.Tỷ lệ nợ 3-5của khách hàng cá nhân là 1.58% trong năm 2006, giảm 0.42% so với năm 2005. † Tổng dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp đến cuối năm 2007 đạt tỷ đồng, tăng 95% so vơi năm 2006. Chiếm tỷ trọng 68% trong tổng dư nợ cho vay khách hàng của Techcombank. Tỷ lệ nợ 3-5 đối với khách hàng doanh nghiệp là 3.8% tăng 0.7% so với năm 2006. Bảng 1.4: Tăng trưởng tín dụng doanh nghiệp: Đơn vị: tỷ VND 2005 2006 2007 3819 5993 11707 (Nguồn: báo cáo thường niên hàng năm của Techcombank) Trong tổng dư nợ cho vay khách hàng doanh nghiệp, 65% là cho vay ngắn hạn, phần còn lại là cho vay trung và dài hạn. Cho vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động cho vay của ngân hàng(57,9% trong tổng dư nợ khách hàng doanh nghiệp) † Phát triển sản phẩm mới: năm 2007, Techcombank ra mắt nhiều sản phẩm, dịch vụ mới với các tính năng hiện đại như internet banking(F@st i-Bank), cổng thanh toán điện tử(F@st VietPay)…Các sản phẩm này được khách hàng rất quan tâm hưởng ứng và đã gây được những tiếng vang nhất định trên thị trường. † Họat động thanh toán và phát hành thẻ của Techcombank phát triển mạnh mẽ với tổng số thẻ phát hành lũy kế năm 2007 đạt gần 203.933 thẻ, tăng gần 160% so với năm 2006. Tổng số dư trên tài khoản tăng đáng kể, đạt 764,64 tỷ đồng. Năm 2007 là năm khởi sắc đối với công tác phát triển các sản phẩm mới với sự ra mắt thẻ phát hành ngay F@stAcces-I vào đầu năm 2006 † Đối với phân đoạn khách hàng doanh nghiệp, trong năm 2007, Techcombank tiếp tục đẩy mạnh công tác Marketing, quảng bá sản phẩm dịch vụ đến các khách hàng này. Công tác Marketing trực tiếp được đẩy mạnh thông qua các cuộc hội thảo, gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp ngành nghề như : hội thảo doanh nghiệp gỗ, điều, năng lượng..Đặc biệt Techcombank cũng ngày càng chú trọng trong việc cung cấp các sản phẩm “trọn gói, một cửa” cho các DN thông qua các mối liên kết, hợp tác với các đối tác cung cấp dịch vụ logisic như Vinalink, Vinfaco.. † Dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ phi tín dụng khác Thanh toán quốc tế tiếp tục là thế mạnh của Techcombank trong các dịch vụ phi tín dụng, duy trì vị trí một trong các NH TMCP có thị phần cao nhất về thanh toán quốc tế Doanh số thanh toán quốc tế năm 2007 đạt 2160 triệu USD, tăng 52%so với năm 2006. Trong đó doanh số thanh toán nhập khẩu đạt xấp xỉ 1552USD, doanh số thanh toán xuất khẩu đạt 608 triệu USD. Doanh thu từ nhóm dịch vụ này đạt 75 tỷ VND, chiếm 54% doanh thu dịch vụ thuần của Techcombank. Bảng 1.5: Doanh số thanh toán quốc tế Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Doanh số TTQT(triệu USD) 1014 1342 2160 Doanh thu TTQT(tỷ VND) 40 54 86 (Nguồn: báo cáo thường niên hàng năm của Techcombank) 2.2 THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN HÀNG TRONG 3 NĂM 05-07 Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng Techcombank cũng đặc biệt được quan tâm. Ngân hàng luôn chú trọng đến việc thúc đẩy cho vay đối với DNVVN, tập trung việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN làm ăn có hiệu quả, năng lực tài chính tốt, có tín nhiệm trong quan hệ vay trả đối với ngân hàng. † Số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng BIỂU ĐỒ 2.1. SỐ LƯỢNG DNVVN CÓ QUAN HỆ VỚI NGÂN HÀNG Đơn vị: doanh nghiệp Nhìn vào biểu đồ ta thấy, số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng ngày một gia tăng qua các năm. Nếu như trong năm 2005, số lượng DNVVN là 6.486 thì đến năm 2006 nó tăng lên đến hơn 10.000 và đạt tới hơn 32.000 vào năm 2007. Như vậy, số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng với ngân hàng gia tăng một cách nhanh chóng. Điều đó đã chứng tỏ rằng, ngân hàng đang ngày càng chú trọng vào đối tượng khách hàng là DNVVN này và đó là điều phù hợp với định hướng, mục tiêu chung đã được đề ra. Với mục tiêu mở rộng và đẩy mạnh hơn nữa chất lượng tín dụng đối với các DNVVN, trong những năm gần đây, đi đôi với với việc tiếp tục giao dịch đối với những khách hàng truyền thống, tín nhiệm thì Techcombank đã không ngừng mở rộng quan hệ tín dụng đối với các DNVVN mới. Đó là một bước phát triển đáng kể của ngân hàng. † Doanh số cho vay Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Nó là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động cho vay đối với các DNVVN trong một thời kỳ nhất định. Trong thời gian qua, doanh số cho vay của Techcombank đựợc thể hiện cụ thể Bảng 2.1. Doanh số cho vay theo quy mô doanh nghiệp giai đoạn 2005-2007 Đơn vị: tỷ s VNĐ Chỉ tiêu 2005 20006 2006/2005 2007 2007/2006 Doanh số Tỷ trọng(%) Doanh số Tỷ trọng(%) Tăng/ giảm % Doanh số Tỷ trọng(%) Tăng/ Giảm % Tổng 7.751 100 10.964 100 3.213 41,45 23.940 100 12.977 118,36 DN lớn 1.080 13,93 2.219 20,24 1.140 105,55 4.364 18,22 2.145 96,65 DNVVN 3.548 45,77 5.561 50,72 2.013 56,74 14.663 61,26 9.103 163,69 Đối tượng khác 3.124 40,30 3.184 29,04 60 1,95 4.913 20,52 1.729 54,30 ( Nguồn: báo cáo hoạt động tín dụng của Ngân hàng TCB 2005-2007) Biểu đồ 2.2. Doanh số cho vay theo quy mô doanh nghiệp Đơn vị: tỷ đồng Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy doanh số cho vay của Tẹchcombank đối với DNVVN tăng mạnh qua các năm. Cụ thể, trong năm 2006 doanh số cho vay đạt 5.560.752 triệu đồng, chiếm 50,72% và tăng lên 56,74% so với năm 2005. Còn năm 2007doanh số cho vay đã tăng lên tới 14.663.339 triệu đồng, chiếm 61,26% và tăng với tỷ lệ là 163,69% so với năm 2006 Từ đó có thể thấy được rằng việc đẩy mạnh cho vay đối với DNVVN đã được quán triệt và không ngừng được thực hiện và phát huy được thế mạnh. Sự tăng lên về doanh số cho vay đó đã thể hiện được xu hướng phát triển hợp lý, phù hợp với cơ chế thị trường. Nó cũng thể hiện chính sách ưu tiên của ngân hàng đối với đối tượng khách hàng này. Tuy nhiên, nó chưa thực sự là cao, chưa thực sự xứng đáng với tiềm năng hiện có của ngân hàng. Bảng 2.2. Doanh số cho vay DNVVN theo thời hạn 2005-2007 Đơn vị: tỷ VNĐ Chỉ tiêu 2005 2006 2006/2005 2007 2007/2006 Tăng/giảm Tỷ trọng% Tăng/giảm Tỷ trọng% Tổng 3.548 5.561 2.013 56,74 14.663 9.103 163,69 Ngắn hạn 2.454 3.677 1.224 49,87 9.112 5.435 147,8 Trung, dài hạn 1.094 1.883 789 72,14 5.552 3.668 194,76 Biểu đồ 2.3. doanh số cho vay theo thời hạn của ngân hàng Đơn vị: tỷ đồng Thông qua biểu đồ trên, ta thấy rằng doanh số cho vay ngắn hạn của ngân hàng ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động cho vay. Năm 2007cho vay ngắn hạn là 9.112tỷ đồng chiếm tới 62,14% trong tổng cho vay, năm 2006 là 3.677 tỷ đồng và năm 2005 là 2.454 tỷ đồng và chiếm tới 69,16% . Như vậy, cho vay ngắn hạn đối với DNVVN là chủ yếu, tuy nhiên tỷ trọng cho vay ngắn hạn lại giảm dần qua các năm. Nếu như năm 2005, tỷ trọng đó là 69,16% thì năm 2006 giảm xuống còn 66,13% và 62,14% trong năm 2007. Điều đó có thể do ngân hàng bắt đầu có sự chuyển dịch trong cơ cấu cho vay, chú trọng đến các khoản cho vay trung và dài hạn Doanh số cho vay trung và dài hạn của ngân hàng được gia tăng qua các năm và tỷ trọng cũng có chiều hướng gia tăng, năm 2005 là 30,84%, năm 2006 là 33,87% và năm 2007 là 37,86% Điều đó chứng tỏ ngân hàng đang mạnh dạn mở rộng các họat cho vay trung và dài hạn nhằm tăng nguồn thu nhập từ tín dụng. Mặt khác khi tăng cho vay trung và dài hạn thì các doanh nghiệp sẽ có quan hệ hợp tác lâu dài với ngân hàng hơn và sau đó dễ dàng trở thành những khách hàng quen thuộc của ngân hàng. Nó không chỉ đem lại lợi ích trước mắt mà còn cả về lâu dài. Nó tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng với khách hàng, từ đó làm gia tăng số lượng khách hàng truyền thống cho ngân hàng hơn. † Doanh số thu nợ: Thời gian qua, ngân hàng Techcombank luôn cố gắng thực hiện tốt chủ trương chính sách tín dụng của ngân hàng nhà nước đề ra. Bên cạnh việc mở rộng doanh số cho vay đối với các DNVVN thì ngân hàng còn chú trọng đến việc thực hiện thu nợ lành mạnh. Nó cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Doanh số thu nợ tại ngân hàng Techcombank được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.3. Doanh số thu nợ của TCB giai đoạn 2005-2008 Đơn vị: tỷ đồng Đơn vị : triệu VNĐ Năm Chỉ Tiêu 2005 2006 2006/2005 2007 2007/2006 Tăng/giảm % Tăng/giảm % Hoạt động tín dụng 4.341 6.304 1.963 45,24 13.364 7.060 111,99 Chovay DNVVN 2.202 3.566 1.364 61,92 8.172 4.606 129,15 Tỷ trọng (%) 50,74 56,57 - - 61,15 - - ( Nguồn: báo cáo hoạt động tín dụng của Ngân hàng TCB 2005-2007) Biểu đồ 2.4. Doanh số thu nợ của Techcombank Đơn vị: tỷ đồng Qua số liệu này ta thấy tình hình thu nợ DNVVN của ngân hàng Techcombank c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33366.doc
Tài liệu liên quan