Đề tài Pháp luật về chế tài thương mại theo quy định của luật thương mại năm 2005 - Thực trạng và giải pháp

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI ------------o0o ------------ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG Pháp luật về chế tài thƣơng mại theo quy định của luật thƣơng mại năm 2005 - Thực trạng và giải pháp Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Kim Thanh Hà Nội, n ăm 2017 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY 4 ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005.. 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 4 1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC

pdf54 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 04/01/2022 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Pháp luật về chế tài thương mại theo quy định của luật thương mại năm 2005 - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU 6 CỦA ĐỀ TÀI. 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước.. 6 1.2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài. 8 1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ TRONG ĐỀ TÀI 9 1.4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.. 10 1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 10 1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 11 1.7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI. 11 CHƯƠNG II: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI 12 THƯƠNG MẠI. 2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA 12 LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005.. 2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài thương mại... 12 2.1.2. Chế tài thương mại theo quy định của Công ước Viên năm 1980 và Luật 14 thương mại năm 2005 – một vài điểm tương đồng và khác biệt 2.2. VAI TRÒ CỦA CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI 15 2.3. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY 17 ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005.. 2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.. 18 2.3.2. Quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm.. 20 2.3.3. Quy định của pháp luật về chế tài buộc bồi thường thiệt hại... 22 2.3.4. Quy định của pháp luật về chế tài ngừng thực hiện hợp đồng.. 23 2.3.5. Quy định của pháp luật về chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng... 24 2.3.6. Quy định của pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng . 24 2.3.7. Quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa các chế tài thương mại.. 26 CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI 31 THƯƠNG MẠI 3.1. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC 31 THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG. 3.2. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI 1 PHẠT VI PHẠM 32 3.3. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI 34 3.4. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI TẠM NGỪNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG 36 3.5. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI HỦY 37 BỎ HỢP ĐỒNG. 3.6. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN 39 HỆ CỦA CÁC LOẠI CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI... 3.7. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUY ĐỊNH CỦA 40 PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI CHƯƠNG IV: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 42 4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG 42 MẠI.. 4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI 44 THƯƠNG MẠI... 4.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng 44 4.2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài phạt vi phạm.. 45 4.2.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài buộc bồi thường 47 thiệt hại ... 4.2.4. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài tạm ngừng thực 48 hiện hợp đồng. 48 4.2.5. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng. 4.2.6. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về mối quan hệ giữa các 48 chế tài thương mại . KẾT LUẬN. 51 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 52 2 LỜI MỞ ĐẦU Sự phát triển của nền kinh tế theo sự phát triển của hoạt động thương mại cùng với sự gia tăng của các loại hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương mại được giao kết và có hiệu lực pháp luật đòi hỏi các bên chủ thể phải tuân thủ đúng như những cam kết mà mình đã thỏa thuận. Việc thực hiện quyền và nghĩa cụ của các bên trong hợp đồng tạo ra tính chất tuân thủ của các chủ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành. Hợp đồng thương mại được thực hiện dưới nhiều mục đích khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là tạo ra mục đích sinh lời cho các bên. Do vậy việc thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung đã được các bên thỏa thuận trước đó là một điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên trên thực tế, không phải hợp đồng thương mại nào được giao kết cũng được các bên chủ thể nghiêm chỉnh tuân thủ. Các bên có thể viện dẫn nhiều lý do khác nhau hoặc cũng có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà hợp đồng thương mại không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Nếu việc thực hiện hợp đồng thương mại rơi vào các trường hợp bất khả kháng hoặc các trường hợp được miễn trách nhiệm thì các bên được loại trừ trách nhiệm. Còn nếu hợp đồng thương mại được xác định không thực hiện xuất phát từ hành vi vi phạm hợp đồng từ 1 bên chủ thể thì việc áp dụng một trong các chế tài thương mại chắc chắn sẽ được đặt ra. Trong trường hợp này, để áp dụng 1 biện pháp chế tài cụ thể phải dựa trên cơ sở các căn cứ cơ bản. Một chủ thể có thể bị áp dụng một chế tài thương mại và cũng có thể bị áp dụng nhiều chế tài thương mại. Chế tài thương mại trong hoạt động thương mại có vai trò vô cùng quan trọng, có tính răn đe, giáo dục cao góp phần đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực hiện trên thực tế ngay cả khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phát sinh. Vì vậy việc nghiên cứu và hoàn thiện chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 là hết sức quan trọng, hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể thứ 3 khác đảm bảo cho hoạt động thương mại được mở rộng hơn nữa và được phát triển toàn diện. 3 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Hoạt động thương mại trong giai đoạn hiện nay đang ngày càng phát triển. Các chủ thể có thể thiết lập với nhau vô số những hoạt động thương mại như mua bán hàng hóa; xúc tiến thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; ủy thác bán hàng hóa; đại lý thương mại Trên thực tế việc thực hiện các hoạt động thương mại nói trên được các chủ thể xác lập trên cơ sở các loại hợp đồng thương mại tương ứng. Các hợp đồng thương mại này được thiết lập trước hết là phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành mà trước hết là các quy định của hợp đồng nói chung trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và một số quy định khác của Luật thương mại năm 2005. Yêu cầu trước hết được đặt ra với các bên tham gia hợp đồng thương mại là phải thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm chỉnh và đầy đủ, trừ trường hợp một trong các bên rơi vào các trường hợp bất khả kháng. Đôi khi việc thực hiện hợp đồng thương mại giữa các bên lại không đáp ứng được mong muốn của các chủ thể làm cho hợp đồng thương mại không được thực hiện hoặc được thực hiện nhưng không dầy đủ. Điều này có thể xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau, có thể là từ nguyên nhân khách quan nhưng cũng có thể từ những nguyên nhân chủ quan. Thông thường việc không thực hiện hợp đồng thương mại xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan, chủ thể các bên trong hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với những gì mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng thương mại thì chủ thể này sẽ bị áp dụng một trong các chế tài thương mại do Luật thương mại năm 2005 đã quy định. Tùy từng trường hợp cụ thể mà chủ thế đó có thể bị áp dụng một trong các biện pháp sau: Buộc phải thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; Đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ hợp đồng hoặc bị áp dụng các biện pháp khác mà các bên thỏa thuận nhưng không trái với quy định của pháp luật Việt Nam. Nếu vì nguyên nhân khách quan mà hợp đồng thương mại không thực hiện được thì các bên có thể tự thỏa thuận với nhau để giải quyết thỏa đáng và bản thân pháp luật cũng có những quy định để miễn thực hiện trách nhiệm cho các bên như trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết. Còn khi hợp đồng thương mại không thể thực hiện do một bên chủ thể thể hiện thái độ cố ý không thực hiện, thì dù 4 chủ thể phía bên kia có cố gắng thỏa thuận thì cũng không đạt được mục đích. Do đó, việc áp dụng chế tài thương mại trong trường hợp này được đánh giá là hết sức cần thiết, không những đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực hiện trên thực tế mà còn làm cho hoạt động thương mại được thông suốt. Chế tài thương mại không phải là một vấn đề mới được quy định trong Luật thương mại năm 2005, nó ra đời gắn liền với hoạt động thương mại, đảm bảo cho hoạt động thương mại phát triển. Trong thực tế đời sống xã hội, các hoạt động thương mại diễn ra thường xuyên và để đảm bảo sự xuyên suốt cho các hoạt động này sẽ có lúc phải cần đến chế tài thương mại. Vì vậy chế tài thương mại được xác định là một vấn đề gắn liền với hoạt động thương mại. Ngoài ra việc áp dụng chế tài thương mại còn có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo được quyền và lợi ích của các các bên chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng thương mại, đặc biệt là khi chủ thể phía bên kia của hợp đồng cố ý không tuân thủ theo đúng những gì mà họ đã thỏa thuận trước đó. Ngoài ra chế tài thương mại trong một chừng mực nào đó có tính răn đe, trừng phạt cao đối với các bên chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Điều này cũng góp phần đảm bảo cho quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại được thực hiện một cách nghiêm túc. Hơn nữa, thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại trong thời gian qua còn tồn tại nhiều vấn đề gây tranh cãi, gây khó khăn cho các cơ quan giải quyết tranh chấp và các bên trong việc xác định hình thức xử lý đối với các bên có vi phạm hợp đồng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này được xác định có thể xuất phát từ những bất cập của quy định của pháp luật hiện hành về chế tài trong thương mại. Vì vậy việc nghiên cứu một cách toàn diện các biện pháp chế tài thương mại là một điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Cho đến nay các công trình nghiên cứu khoa học về tất cả các biện pháp chế tài thương mại lại chưa nhiều, hầu hết tập trung vào việc nghiên cứu các hoạt động thương mại nói chung hoặc hợp đồng thương mại.hoặc có một số công trình nghiên cứu về chế tài thương mại nhưng lại bị bó hẹp trong phạm vi nhỏ (chỉ nghiên cứu một hoặc một vài biện pháp chế tài thương mại điển hình). Trong khi đó chế tài thương mại được quy định trong Luật Thương mại năm 2005 lại có rất nhiều các biện pháp khác nhau được quy định áp dụng trong những trường hợp cụ thể thì chưa được nghiên cứu tổng quát. Với những lý do cơ bản trên, tác giả đã lựa 5 chọn đề tài “Pháp luật chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 – Thực trạng và giải pháp”. Mục tiêu mà đề tài hướng đến là nghiên cứu một cách tổng quát toàn bộ các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại, đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp chế tài này trên thực tế, trong quá trình nghiên cứu và có tiếp thu từ các học giả khác, tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các biện pháp này cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện này và trong thời gian tới. 1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước: Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của hoạt động thương mại và để đảm bảo cho việc thực hiện các hoạt động thương mại này, các bên chủ thể thường thiết lập với nhau một hợp đồng thương mại tương ứng. Các hợp đồng thương mại được hình thành một phần trên cơ sở sự tự thỏa thuận giữa các chủ thể, một phần cũng phải được hình thành trên cơ sở các quy định của pháp luật thương mại. Pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các bên khi những thỏa thuận này thuộc giới hạn cho phép của pháp luật. Sự tôn trọng này của pháp luật là xuyên suốt từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận giao kết hợp đồng cho đến thời điểm các bên chủ thể thực hiện hợp đồng. Thông thường khi hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật, các bên sẽ tự mình thực hiện những cam kết đã được thỏa thuận. Song có những trường hợp vì lý do nào đó một trong các bên tham gia hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì lúc đó cần thiết phải có sự can thiệp của pháp luật. Chế tài tài thương mại được coi là các biện pháp khá hữu hiệu nhằm đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực thi trên thực tế, từ đó các hoạt động thương mại vì thế cũng được thông suốt. Thông qua các biện pháp chế tài, dù muốn hay không các chủ thể cũng phải tôn trọng hợp đồng thương mại do các bên thiết lập, đồng thời tôn trọng pháp luật hiện hành trong các hoạt động thương mại nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tích cực mà các biện pháp chế tài thương mại đem lại cho hoạt động thương mại, thì các biện pháp này cũng có những hạn chế nhất định cần được phân tích và hoàn thiện. Chính vì vậy đến nay, mặc dù không phải là một vấn đề mới nhưng chế tài thương mại đã được rất nhiều các tác giả quan tâm nghiên cứu. Sự nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề lớn, đó là nó được 6 áp dụng cho những trường hợp nào và hiệu quả đã đạt được như các nhà lập pháp mong muốn hay không, từ đó đưa ra quan điểm hoàn thiện, sự đánh giá bản thân cá nhân về các biện pháp này. Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, về cơ bản có 6 biện pháp chế tài thương mại, trong đó chỉ có một số ít công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu toàn diện về cả 6 biện pháp này. Còn lại phần lớn các công trình nghiên cứu về chế tài thương mại dưới trong một phạm vi nhỏ hẹp (thông thường các tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vào một biện pháp chế tài nào đó hoặc hai biện pháp chế tài thương mại). Dù các công trình khoa học nghiên cứu toàn diện hay chỉ một hoặc một số chế tài thương mại thì đều thể hiện được tính khoa học trong nội dung bài viết của mình. Nhìn chung trên cơ sở lý luận cơ bản, các tác giả đều đánh giá được thực trạng thực hiện của các biện pháp chế tài thương mại, từ đó đưa ra quan điểm của cá nhân trong việc hoàn thiện các biện pháp chế tài thương mại cho phù hợp với thực tiễn xã hội. Quan điểm cá nhân được các tác giả đưa ra tương đối đa dạng, mặc dù họ cùng nghiên cứu về các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại. Điều này giúp cho các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại được đánh giá, được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại trong thời gian cũng cần được xem xét cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội và hoạt động thương mại trong thời gian tới. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu về chế tài thương mại trong thời gian qua như : 1) Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ 2) Bình luận về biện pháp phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng thương mại, tác giả Dương Anh Sơn 3) Chế tài trong thương mại – Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện, tác giả Đồng Thái Quang. 4) Mâu thuẫn giữa chế tài dân sự và chế tài thương mại – tác giả Nguyễn Tấn, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh 5) Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt nam, tác giả Mai Phương 6) Chế tài cho việc không thực hiện đúng hợp đồng, TS. Đỗ Văn Đại 7 7) Vấn đề thực hiện không đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam, tác giả Nguyễn Phương, năm 2014 8) Khóa luận tốt nghiệp «Tìm hiểu các chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 » năm 2013 9) Khóa luận tốt nghiệp «Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại», năm 2013 10) Tiểu luận « Phân tích các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản và các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của Luật thương mại », năm 2013. 11) Khóa luận tốt nghiệp «Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Phương Mai, năm 2013 12) Luận văn thạc sĩ « So sánh các chế tài vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và theo Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế », Phạm Thị Ngọc Ánh, năm 2014 13) Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, tác giả Đỗ Văn Đại 14) Bàn về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, TS. Phan Thị Thanh Thủy 1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Không chỉ ở Việt Nam mà ở một số quốc gia khác trên thế giới như Anh, Pháp, Mỹ hoạt động thương mại được đánh giá ngày một phát triển và các hoạt động thương mại này đều được pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật thương mại. Những hoạt động thương mại này được thiết lập thông qua hợp đồng thương mại và được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Trong trường hợp hợp đồng thương mại được thiết lập mà các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì pháp luật ở các quốc gia này sẽ có những biện pháp chế tài phù hợp nhằm đảm bảo tính thực thi của hợp đồng thương mại. Như vậy, cũng có nét tương đồng với pháp luật thương mại Việt Nam, chế tài thương mại ở một số quốc gia trên thế giới cũng được đặc biệt quan tâm. Chế tài thương mại được quy định trong pháp luật thương mại ở các quốc gia này bao gồm các biện pháp buộc thực hiện hợp đồng; bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng và biện pháp hủy hợp đồng. Các biện pháp chế tài này về cơ bản giống với quy định của pháp luật thương mại Việt Nam. Tuy nhiên tùy theo sự phát triển kinh 8 tế - xã hội của mỗi quốc gia mà các biện pháp này được quy định cho phù hợp nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động thương mại nói chung. Đến nay với các quy định của pháp luật về vấn đề chế tài trong hoạt động thương mại, nhiều tác giả khác nhau trên thế giới cũng đã có những nghiên cứu nhất định. Sự nghiên cứu này có thể tập trung vào tất cả các biện pháp chế tài thương mại nói trên, nhưng cũng có những công trình của một số tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một hoặc một vài biện pháp chế tài thương mại. Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều thể hiện được quan điểm, cũng như sự đánh giá của các tác giả về các quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp chế tài. Thông thường định hướng mà các tác giả nghiên cứu là hướng tới dự đoán việc áp dụng các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại. Sau đó đưa ra quan điểm của mình xem những biện pháp này thực chất đã phù hợp hay chưa thật sự phù hợp. Trong trường hợp tác giả xác định nó chưa phù hợp thì nguyên nhân nào sẽ được xác định là nguyên nhân chủ yếu. Từ đó tác giả sẽ đưa ra giải pháp hoàn thiện dựa trên việc xác định các nguyên nhân chủ yếu này. Trong các công trình nghiên cứu của mình họ tập trung nghiên cứu về điều kiện áp dụng các biện pháp chế tài và bình luận có hay không sự phù hợp của chế tài thương mại trong hoạt động thương mại. Cuối cùng là đưa ra các giải pháp hoàn thiện cụ thể cho quy định của pháp luật về các biện pháp chế tài thương mại. Có thể thấy rằng việc nghiên cứu của các tác giả này có sự khác biệt so với các tác giả ở Việt Nam. Các tác giả Việt Nam sau khi nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành sẽ tập trung vào đánh giá thực trạng, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp. Còn các tác giả nước ngoài khi nghiên cứu về các biện pháp chế tài thì lại đưa ra quan điểm mang tính chất dự đoán (hoàn toàn mang tính chủ quan) của con người. Đối với một số quốc gia theo hệ thống pháp luật án lệ (Common Law) thì công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên có một vai trò đặc biệt quan trọng, có thể là một cơ sở pháp lý quan trọng, một tập quán pháp lý quan trọng để áp dụng các biện pháp chế tài thương mại trong hoạt động thương mại nói chung. Các quy định về chế tài thương mại ở các quốc gia này thường mang tính khái quát cao, vì vậy các công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng được thể hiện, nhìn nhận và đánh giá một cách tổng quát. Có thể kể đến một số bài viết, công trình nghiên cứu điển hình như: 1) E.A Vaxilep, Luật dân sự, thương mại ở các nước tư bản 1999 9 2) Albert H. Kritzer. CISG: table of Contracting States, accessed date 14/6/2014 3) Avery W. Kats, Remedies for breach of contract under the CISG. 4) Alexander von Ziegler, The right of suspension and stoppage in transit, Journal of Law and Commerce 5) Urich Magnus, The Remedy of Avoidance of Contract Under CISG – General Remarks and Special Cases. 6) John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008 7) UNCITRAL Digest of case law on the United Nations Convention on the International Sales of Goods, accessed date 2/6/2014 1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ TRONG ĐỀ TÀI Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau: - Những vấn đề lý luận cơ bản trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại, việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các quy định trong Luật thương mại năm 2005 - Nghiên cứu mối quan hệ giữa các chế tài thương mại trong hoạt động thương mại. - Nghiên cứu và so sánh vấn đề chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại với quy định về chế tài thương mại của một số quốc gia khác và Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa - Trên cơ sở lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 - Tử việc tìm ra những điểm hạn chế trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này theo quy định của Luật thương mại năm 2005 1.4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Chế tài thương mại là một trong những quy định quan trọng trong nội dung điều chỉnh của Luật thương mại. Nó có tác động trực tiếp đến hoạt động thương mại nói chung mà cụ thể là hợp đồng thương mại giữa các chủ chể. Do vậy, để nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện hơn thì đề tài tập trung vào 2 hướng mục tiêu cơ bản như sau: 10 + So sánh được các quy định của Luật thương mại với quy định pháp luật về chế tài thương mại của một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa... để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng. Ngoài ra còn nghiên cứu quy định của pháp luật về chế tài thương mại được quy định trong Luật thương mại với quy định của pháp luật hiện hành về chế tài nói chung mà cụ thể là trong quy định của pháp luật Dân sự Việt Nam trong thời gian qua. Đây chính là các mục tiêu đầu tiên mà tác giả đặt ra trước khi nghiên cứu các nội dung cụ thể trong quy định của pháp luật thương mại về chế tài thương mại. Từ đó có sự đánh giá và đưa ra cái nhìn chung nhất liên quan đến việc điều chỉnh của pháp luật về chế tài thương mại ở Việt Nam + Trên cơ sở các mục tiêu nghiên cứu đã được đề ra và trên cơ sở nghiên cứu pháp luật hiện hành về chế tài thương mại, đề tài hướng đến mục tiêu cụ thể là có thể đánh giá một cách toàn diện nhất về vấn đề này, tìm ra những điểm bất cập, hạn chế để từ đó đưa ra một số giải pháp nhất định nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế tài thương mại trong thời gian tới, đảm bảo cho việc áp dụng các quy định của pháp luật về chế tài thật sự được phù hợp với thực tiễn hoạt động thương mại 1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI - Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp chế tài trên cơ sở những quy định của Luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra đề tài còn nghiên cứu chế tài thương mại trên cơ sở có sự so sánh với quy định pháp luật về chế tài thương mại của một số quốc gia khác trên thế giới đặc biệt là giữa công ước Viên năm 1980 với Luật Thương mại năm 2005. - Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại từ năm 2005 đến nay. 1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Đề tài nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: + Phương pháp thu thập tài liệu: Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu và đóng vai trò quan trọng khi nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật liên quan đến chế tài thương mại. Việc thu thập tài liệu bao gồm cả tài liệu trong nước và tài liệu nước ngoài về vấn đề này. 11 Đây là cơ sở quan trọng để có thể đánh giá được những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại, dẫn chiếu các quy định của pháp luật nước ngoài, gợi mở hướng kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chế tài thương mại + Phương pháp so sánh: Ngoài các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến chế tài thương mại, đề tài còn tập trung nghiên cứu pháp luật về chế tài thương mại của một số quốc gia khác như Trung quốc, Pháp, Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế... từ đó tìm ra điểm tương đồng và điểm khác biệt với quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Từ đó rút ra bài học cho pháp luật Việt Nam khi quy định về chế tài thương mại mà các quốc gia khác đã có quy định tiến bộ về vấn đề này. Tuy nhiên, việc rút ra bài học cho pháp luật Việt Nam về vấn đề này phải phù hợp với điều kiện kinh tế ở Việt Nam + Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản, cần đánh giá tổng quát lại những vấn đề cần được nghiên cứu liên quan đến các quy định của pháp luật về chế tài thương mại. Từ đó đưa ra những đánh giá chung nhất, cũng như đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này 1.7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI Đề tài có kết cấu gồm 3 chương: - Chương 1: Những lý luận cơ bản của pháp luật về chế tài thương mại - Chương 2: Thực trạng trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại - Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chế tài thương mại 12 CHƯƠNG II: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI 2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài thương mại 2.1.1.1. Khái niệm chế tài thương mại Để hiểu rõ khái niệm chế tài thương mại thì cần thiết phải làm rõ khái niệm chế tài nói chung. Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể nhất định để đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật. Các biện pháp tác động được nêu trong bộ phận chế tài sẽ được áp dụng với các chủ thể bị coi là vi phạm pháp luật không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã được đưa ra trong phần quy định của quy phạm pháp luật khi rơi vào điều kiện, hoàn cảnh được quy định trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Các hình thức chế tài đa dạng bao gồm chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài kỷ luật. Mỗi một loại chế tài nói trên đều được pháp luật quy định cụ thể từ việc áp với chủ thể nào, ai là người có thẩm quyền áp dụng, bao gồm những biện pháp cụ thể là gì. Chế tài thương mại là một dạng chế tài dân sự theo nghĩa rộng, nên về cơ bản nó sẽ có những nét tương đồng của chế tài nói chung và chế tài dân sự nói riêng. Tuy nhiên, khi áp dụng trong hoạt động thương mại thì chế tài thương mại sẽ có đặc thù riêng có của nó, Luật thương mại năm 2005 không đưa ra khái niệm cụ thể về chế tài thương mại mà chỉ liệt kê các loại chế tài có thể được áp dụng khi có vi phạm hợp đồng thương mại đó là buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ thực hiện hợp đồng và các biện pháp khác do các bên tự thỏa thuận không trái với nguyên tắc của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chế tài thương mại là một loại chế tài phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại hay nói một cách chính xác hơn chế tài thương mại được áp dụng khi một trong hai bên chủ thể vi phạm hợp đồng thương mại. Vi phạm hợp đồng thương mại được Luật thương mại năm 2005 quy định rõ “là việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên” (Khoản 12 Điều 3). 13 Như vậy có thể thấy được Luật thương mại năm 2005 tiếp cận khái niệm chế tài thương mại là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng thương mại. Theo đó, chế tài thương mại được áp dụng với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết trong hợp đồng thương mại và bên có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phải gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Việc áp dụng chế tài thương mại nào được coi là phù hợp thì nó phải tương ứng với mỗi hành vi vi phạm và tính chất của mỗi hành vi vi phạm của các chủ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại. 2.1.1.2. Đặc điểm chế tài thương mại Chế tài thương mại có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng thương mại và mỗi loại chế tài thương mại được áp dụng trong những điều kiện hoàn cảnh riêng biệt. Tuy nhiên trên cơ sở chung nhất, các loại chế tài đều có những đặc trưng cơ bản như sau: - Thứ nhất là, về căn cứ áp dụng (phát sinh): Chế tài thương mại sẽ phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Trong khi các chế tài pháp lý khác được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật nói chung thì chế tài thương mại sẽ phát sinh đối với những hành vi vi phạm các điều khoản trong hợp đồng thương mại do các bên đã thỏa thuận. Sở dĩ có đặc trưng này cũng chính do xuất phát từ tính chất của hợp đồng thương mại là do các bên thỏa thuận thiết lập. Vậy nên khi hợp đồng thương mại có hiệu lực phát luật mà các bên không tôn trọng những gì đã thỏa thuận thì việc bị áp dụng một trong các loại chế tài thương mại là điều tất yếu sẽ xảy ra. - Thứ hai là tính chất tài sản của chế tài thương mại: Yếu tố tài sản xuất hiện khi chế tài thương mại được áp dụng thể hiện rằng, bên vi phạm phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình để thực hiện nghĩa vụ. Nghĩa vụ này phát sinh có thể do sự thỏa thuận của hai bên hoặc do pháp luật quy định. Ngoài ra tính chất tài sản...xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm do các bên có sự thỏa thuận; xảy ra sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. 2.3.6. Quy định của pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng Hủy bỏ hợp đồng là một trong các chế tài thương mại, theo đó một bên chấm dứt hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là hủy bỏ toàn bộ nghĩa vụ của mình trong hợp đồng, còn hủy bỏ một phần hợp đồng là hủy bỏ một vài nghĩa vụ trong hợp đồng, phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực pháp luật. Như vậy hợp đồng bị hủy bỏ hoặc bị hủy bỏ một phần sẽ không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện đối với phần nghĩa vụ đã bị hủy bỏ trong hợp đồng. Căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng khi phát sinh các điều kiện như có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng, vi phạm hợp đồng trước thời hạn và theo thỏa thuận của các bên. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Như vậy khi một vi phạm không là vi phạm cơ bản thì nó là vi phạm không cơ bản. Có thể hiểu, vi phạm không cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên nhưng chưa đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Chỉ khi nào xác định được vi phạm cơ bản thì mới có thể biết được đó có phải là vi phạm không cơ bản hay không và vì vậy, việc làm rõ nội hàm của khái niệm vi phạm cơ bản là cần thiết. Sở dĩ cần phân biệt vi phạm cơ bản và vi phạm 27 không cơ bản để làm căn cứ hủy bỏ hợp đồng bởi khi một hợp đồng bị hủy bỏ sẽ đem lại hậu quả nghiêm trọng; thậm chí có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên chủ thể hợp đồng. Khi các bên tuân thủ đúng hợp đồng thì sẽ đem lại lợi ích cho chính các bên và cả xã hội. Một bên không thể vì thế mà có thể mượn cớ bên kia vi phạm hợp đồng để hủy bỏ hợp đồng của bên kia9 Không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng là căn cứ thứ hai để một trong các bên có thể hủy bỏ hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật, yêu cầu các bên phải thực hiện đúng các nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Yêu cầu này xuất phát từ ý thức tự giác của các bên, vì thế nếu một trong hai bên chủ thể không tôn trọng và nghiêm túc thực hiện vấn đề này thì lẽ đương nhiên là hợp đồng không thể thực hiện trên thức tế. Vì vậy đây cũng là căn cứ quan trọng để các bên đưa ra yêu cầu hủy bỏ hợp đồng thương mại đã được giao kết giữa các bên. Vi phạm hợp đồng thương mại trước thời hạn cũng là căn cứ để một trong hai bên đưa ra yêu cầu hủy bỏ hợp đồng thương mại. Đây là trường hợp mà do các bên đã cùng nhau thực hiện các nghĩa vụ đã được thỏa thuận trong hợp đồng nhưng hợp đồng chưa chấm dứt hiệu lực thì một trong hai bên vi phạm hợp đồng thì bên kia có quyền đưa ra làm căn cứ để hủy bỏ hợp đồng này trên thực tế. Vi phạm hợp đồng thương mại trước thời hạn có thể là do các bên đã thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nhưng thực hiện không đúng theo yêu cầu của các bên về số lượng, chất lượng hàng hóa. Hủy bỏ hợp đồng thương mại cũng được đặt ra nếu như các bên có sự thỏa thuận với nhau. Có thể trong quá trình thực hiện hợp đồng dù không có sự vi phạm hợp đồng mà các bên muốn hủy bỏ hợp đồng thì pháp luật cũng cho phép các bên áp dụng chế tài thương mại này. Việc hủy bỏ hợp đồng thương mại trong trường hợp này được đặt ra khi phía bên kia chấp nhận yêu cầu đó. Hậu quả pháp lý của việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại, sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ 9 28 của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh thêm một vấn đề đó là khi một bên hủy bỏ hợp đồng thương mại thì phải có nghĩa vụ thông báo cho bên kia theo đúng quy định của pháp luật, nếu bên hủy bỏ không thông báo ngay cho bên kia mà gây ra thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường (Điều 315 Luật thương mại năm 2005) 2.3.7. Quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa các chế tài thương mại Xem xét mối quan hệ giữa các chế tài thương mại, nhận thấy trong một chừng mực nhất định chúng mối quan hệ mật thiết bổ sung cho nhau và trong một số trường hợp là không tách rời nhau: - Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các chế tài thương mại khác, Luật thương mại năm 2005 quy định nếu không có thỏa thuận trước trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì “bên có quyền lợi bị vi phạm không được áp dụng chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc hủy hợp đồng” (Khoản 1, Điều 225). Điều này khẳng định rõ khi đã áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì các bên không được đưa ra bất kỳ lý do nào đó để bắt bên kia phải bồi thường thiệt hại hay nộp phạt vi phạm. Ngược lại, nếu bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn ấn định thì “bên có quyền lợi bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình” - Giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại, thì “trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại đối với cùng một hành vi vi phạm” (Điều 234). Như vậy giữa phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại có nhiều điểm tương đồng với nhau hơn so với các chế tài khác, phạt vi phạm được coi là bồi thường thiệt hại ước tính, còn bồi thường thiệt hại phải dựa trên thiệt hại thực tế của bên bị vi phạm. Do đó nếu đã đòi tiền phạt (bồi thường thiệt hại ước tính) thì không được bồi thường thiệt hại thực tế nữa - Chế tài hủy hợp đồng và các chế tài khác. Đối với chế tài này các bên hoàn toàn có thể vừa áp dụng hủy hợp đồng vừa có thể áp dụng đồng thời các 29 chế tài thương mại khác (Điều 237). Các biện pháp này sẽ đóng vai trò hỗ trợ cho nhau để có thể bảo vệ quyền lợi cho các bên khi tham gia hợp đồng thương mại, đặc biệt là bên chủ thể bị vi phạm. Xét các mối quan hệ giữa các chế tài thương mại với nhau thì chúng được pháp luật hiện hành quy định khá cụ thể, nhưng khi tách thành các chế tài riêng biệt thì mỗi một chế tài thương mại đều có căn cứ áp dụng là khác nhau. Mối quan hệ giữa chúng chỉ là bổ sung và hỗ trợ cho nhau, vì vậy việc kết hợp đúng đắn các chế tài thương mại với nhau sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bên bị vi phạm. 30 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI 3.1. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng không chỉ là mong muốn của Nhà nước khi đưa ra quy định của pháp luật về vấn đề này, mà còn là mong muốn của các bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương mại được các bên thực hiện thì cũng có nghĩa mục đích của các bên tham gia hợp đồng thương mại đã đạt được. Vì vậy, khi xảy ra hiện tương vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thì biện pháp chế tài thương mại trước hết được ưu tiên áp dụng vẫn là chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên quá trình áp dụng chế tài này trên thực thế đã gặp một số khó khăn và rào cản lớn nhất cho thấy hiệu quả áp dụng chế tài thương mại này trong thực tế chưa được thể hiện rõ nét, đặc biệt khi chủ thể vi phạm từ chối không thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình đã được đưa ra trong hợp đồng thương mại. Sự vướng mắc trong quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được thể hiện ngay trong khái niệm như thế nào là buộc thực hiện đúng hợp đồng? Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Từ định nghĩa này có thể thấy tính không khả thi khi pháp luật quy định rằng bên vi phạm phải “thực hiện đúng hợp đồng” đặc biệt là trong trường hợp hợp đồng thương mại bi vi phạm về mặt thời gian. Chằng hạn, trong hợp đồng thương mại do hai bên ký kết có thỏa thuận thời gian giao hàng vào lúc 9h ngày 1/2/2017. Nếu quá thời gian này trong ngày 1/2/2017 mà bên giao hàng không thực hiện nghĩa vụ thì bên bị vi phạm cũng không thể yêu cầu bên bị vi phạm “thực hiện đúng hợp đồng” được nữa bởi các bên không thể quay ngược thời gian vào thời điểm ngày 1/2/2017 để thực hiện đúng hợp đồng. Rõ ràng quy định như trên của pháp luật là không sát với thực tế hay nói đúng hơn là không thể thi hành theo đúng yêu cầu đó. Vì vậy tất yếu sẽ dẫn đến sự khó khăn và lung túng trong quá trình áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trên thực tế. 31 Ngoài ra cũng trong nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, pháp luật quy định “trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng chế tài khác để bảo vệ quyền lợi của mình”. Quy định này của pháp luật hướng tới bảo vệ tuyệt đối lợi ích cho bên bị vi phạm, khi lợi ích của mình bị xâm phạm thì pháp luật đưa ra quy định mở này để cho các bên lựa chọn sao lợi ích của bên bị vi phạm dưới khía cạnh nào thì cũng được bảo vệ. Quy định mở cho phép bên bị vi phạm đối chiếu với sự vi phạm của bên kia có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp chế tài khác, hoặc là phạt vi phạm, hoặc là buộc bồi thường thiệt hại, hoặc là tạm ngừng thực hiện hợp đồng, hoặc là đình chỉ thực hiện hợp đồng hay hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên cũng chính quy định này của pháp luật đã dẫn đến một hệ quả là chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng có thể trở thành một biện pháp chế tài thương mại vô nghĩa trên thực tế khi quy định “bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.”. Đây là kẽ hở của pháp luật cần được khắc phục vì có thể bị bên vi phạm lợi dụng để trì hoãn thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng trong khi hành vi vi phạm của người đó có thể chưa hội đủ các yếu tố làm căn cứ để áp dụng các biện pháp chế tài phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ thực hiện hợp đồng. Dẫn đến một thực tế là không đảm bảo đúng lợi ích mà bên bị vi phạm mong muốn ban đầu và quyền lợi của họ cũng không được bảo vệ một cách kịp thời. 3.2. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG Nhìn một cách chung nhất, chế tài phạt vi phạm được đánh giá là một trong những chế tài có nhiều ưu điểm vượt trội so với các chế tài thương mại khác. Nó là công cụ thuận tiện để đền bù những tổn thất, mất mát của người có quyền do hành vi vi phạm hợp đồng của chủ thể phía bên kia. Ngoài ra còn cho phép các thiệt hại được đền bù một cách nhanh chóng. Chỉ cần có sự vi phạm hợp đồng và sự vi phạm này không rơi vào các trường hợp bất khả kháng, các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm thì bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu biện pháp phạt vi phạm hợp đồng. Đặc biệt, chế tài phạt vi phạm còn giúp các bên tránh được chi phí phát sinh trong quá trình chứng minh thiệt hại, mức độ thiệt 32 hại. Việc chứng minh thiệt hại trên thực tế là điều rất khó khăn, có thể phát sinh nhiều chi phí không cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng, đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc nhất định. Cụ thể là: - Áp dụng phạt vi phạm nếu trong hợp đồng giữa các bên có thỏa thuận về điều khoản phạt vi phạm. Điều này là chưa thật sự được hợp lý, bởi nếu các bên chưa có thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại thì họ vẫn có quyền đưa ra một thỏa thuận khác ngoài hợp đồng, độc lập với hợp đồng và có thể giao kết sau khi hợp đồng được ký kết thì vẫn có hiệu lực pháp luật giống với việc áp dụng phạt vi phạm đã được thỏa thuận trong hợp đồng thương mại. - Về mức phạt: Luật thương mại quy định cụ thể mức phạt “do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Việc pháp luật đưa ra mức phạt 8% có bị coi là sự hạn chế quyền tự do thỏa thuận giữa các bên hay không? Và nếu giữa các bên thỏa thuận mức phạt cao hơn 8% và thậm chí là rất cao là 100%, 200% giá trị của hợp đồng thì pháp luật sẽ xử lý ra sao. Bởi thực tế chỉ ra rằng, dù áp dụng ở mức nào 8%, 100% hay 200% thì đó cũng là do xuất phát từ chính sự thỏa thuận của các bên. Hiện nay, về vấn đề này có hai luồng quan điểm khác nhau được đưa ra: + Quan điểm thứ nhất, việc các bên tự thỏa thuận với mức phạt vi phạm là 100%, 200%.. thì thỏa thuận này không được coi là có giá trị (vô hiệu), vì vậy khi giải quyết tranh chấp yêu cầu áp dụng chế tài phạt vi phạm thì coi như hai bên không có thỏa thuận + Quan điểm thứ hai, việc các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm vượt quá 8% thì chỉ vô hiệu một phần đối với phần vượt quá, còn điều khoản phạt vi phạm hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp luật và mức áp dụng cho việc phạt vi phạm tối đa là 8% và đương nhiên phần vượt quá sẽ không được chấp nhận. Từ thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại, các Tòa án thường chấp nhận quan điểm thứ 2 này, áp dụng mức phạt 8% khi xét xử, còn phần vượt quá thì không được xem xét giải quyết 10. Quá trình nghiên cứu về vấn đề này tác giả cũng đồng nhất với quan điểm thứ hai này, cho rằng việc pháp luật quy định mức phạt không quá 8% giá trị của hợp đồng không làm mất đi sự tự do thỏa 10 Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Khóa luận tốt nghiệp, Đào Thị Ngọc Ánh, 2009 33 thuận của các bên. Các bên vẫn có sự thỏa thuận trong đó và vẫn được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Việc pháp luật đưa ra mức trần về phạt vi phạm sẽ giúp Nhà nước kiểm soát được những thỏa thuận trá hình hay những thỏa thuận “trên trời dưới biển” giữa các bên nhằm thu lợi bất chính của một bên liên quan đến nghĩa vụ của mình trong hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, để việc áp dụng mức phạt 8% theo quy định của Luật thương mại năm 2005 thực sự có hiệu quả thì trong thời gian tới cần có sự quy định cụ thể và sát với thực tế hơn nữa trong Điều 301. + Liên quan đến mức phạt 8% do vi phạm hợp đồng, thì có thể hiểu quy định này là mức phạt thực tế mà các bên có thể đưa ra nhưng phải là trên phần nghĩa vụ bị vi phạm. Vì vậy phải xác định được phần nghĩa vụ bị vi phạm để có thể tính toán ra số tiền phạt vi phạm thực tế. Tuy nhiên để chứng minh được “giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm” lại không hề đơn giản. Thực tế cho thấy, trong quá trình giải quyết việc áp dụng chế tài phạt vi phạm, việc xác định giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm lại dựa vào nhận thức chủ quan của Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử. Cụ thể như trường hợp sau đây, công ty Thành Công ký hợp đồng với công ty TNHH quảng cáo Sông Xanh để thực hiện chương trình quảng cáo cho dòng sản phẩm mới của công ty Thành Công với tổng giá trị hợp đồng là 1 tỷ VNĐ. Tuy nhiên khi đang thực hiện hợp đồng thì Công ty TNHH quảng cáo Sông Xanh tự ý không thực hiện tiếp. Trong hợp đồng của hai công ty này có điều khoản phạt vi phạm là 8% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm11. Tuy nhiên để xác định được phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm trong trường hợp này lại không hề đơn giản. Từ những vụ việc phát sinh trên thực tế, pháp luật có nên chăng quy định mức phạt vi phạm trên tổng giá trị hợp đồng để đơn giản hóa vấn đề hay không? 3.3. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI Chế tài buộc bồi thường thiệt hại được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 302 của Luật thương mại năm 2005 “bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Bản chất của chế tài buộc bồi thường thiệt hại là hướng đến khôi phục, 11 Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo luật thương mại năm 2005, tác giả Nguyễn Việt Khoa, Đại học kinh tế TP HCM 34 bù đắp những lợi ích vật chất bị mất cho bên bị vi phạm . Với chức năng chính này, chế tài buộc bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm của một bên chủ thể gây ra thiệt hại trên thực tế. Căn cứ để áp dụng chế tài này là khi có hành vi vi phạm hợp đồng của một bên, có thiệt hại thực tế xảy ra và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại thực tế. Ba căn cứ này đã được thể hiện rõ trên tinh thần của Khoản 2 Điều 302 của Luật thương mại năm 2005 nói trên, trong khi đó các điều kiện này lại được tiếp tục nhắc lại tại Điều 303 của Luật thương mại năm 2005. Theo quan điểm của bản thân, tác giả thiết nghĩ việc quy định lại những căn cứ đã rõ ràng như trên là điều không cần thiết trong khi vấn đề lỗi của bên vi phạm lại không được đề cập đến. Về nguyên tắc một người chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm và hành vi đó cũng phải được xác định là có lỗi của chủ thể. Lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể, thể hiện thái độ chủ quan của con người đối với hành vi của mình và với hậu quả do hành vi của mình gây ra. Vấn đề tâm lý và nhận thức chỉ đặt ra với con người cụ thể. Trong khi đó tham gia hợp đồng thương mại hiện nay còn có các tổ chức kinh doanh. Việc xác định thái độ tâm lý và nhận thức của tổ chức kinh doanh không chính xác nên lỗi khi vi phạm hợp đồng thương mại được gọi là lỗi suy đoán. Lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể, thể hiện thái độ chủ quan của con người đối với hành vi của mình và với hậu quả do hành vi của mình gây ra. Vấn đề tâm lý và nhận thức chỉ đặt ra với con người cụ thể. Bên vi phạm hợp đồng thương mại chứng minh được mình không có lỗi thì được miễn trách nhiệm. Như vậy Điều 303 của Luật thương mại năm 2005 không quy định về yếu tố lỗi là căn cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Do vậy có ý kiến cho rằng khi áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại không cần xem xét bên vi phạm có lỗi hay không. Trong một số điều luật của Luật thương mại năm 2005 lại quy định rõ yếu tố lỗi của chủ thể như Điều 283 quy định giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic, Điều 266 quy định về trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định. Việc quy định không khoa học và thống nhất này đã gây ra nhiều cách hiểu không thống nhất, đơn giả nhất là cách hiểu chỉ có Điều 283 và Điều 266 chỉ các định về lỗi của chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý, còn các trường hợp khác thì không. Vì vậy việc xác định yếu tố lỗi của bên vi phạm nghĩa vụ trong 35 hợp đồng thương mại trong thời gian tới cần được điều chỉnh và quy định rõ ràng hơn, tránh gây ra những các hiểu thiếu thống nhất không đáng có. 3.4. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI TẠM NGỪNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được được quy định tại Điều 308 của Luật thương mại năm 2005, theo đó “Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng”. Thực tế cho thấy khi chế tài thương mại này được áp dụng đối với bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thì hợp đồng thương mại được ký kết giữa các bên vẫn có hiệu lực pháp luật và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu hành vi đó gây thiệt hại cho bên bị vi phạm. Việc áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng về cơ bản không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng thương mại và hợp đồng này sẽ tiếp tục được thực hiện trên thực tế sau khi một bên chủ thể áp dụng xong chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên đáng tiếc là trong Luật thương mại năm 2005 lại không có bất kỳ quy định nào liên quan đến chế tài thương mại này để khẳng định thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng? Liệu có thể coi việc một bên thực hiện xong nghĩa vụ nào đó mà đã đáp ứng được mong muốn của bên bị vi phạm là thời điểm chấm dứt việc áp dụng chế tài ngừng thực hiện hợp đồng hay chưa? Hay căn cứ vào cơ sở nào để một bên yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị tạm ngừng thực hiện? Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện do bên tạm ngừng tự động thực hiện hay theo yêu cầu của bên có hành vi vi phạm? Tất cả các vấn đề này chỉ tồn tại dưới dạng câu hỏi nhất định mà chưa có lời giải đáp chính thức từ các quy định của pháp luật. Vì thế, việc gặp phải những khó khăn, vướng mắc cho việc tiếp tục thực hiện hợp đồng thương mại vẫn còn hiệu lực pháp luật là điều không thể tránh khỏi. Nói đúng hơn là khi chưa có một cơ sở pháp lý rõ ràng mà một bên tự đưa ra ý kiến nhằm giải quyết cho cả ba câu hỏi nêu trên liệu có được phía bên kia chấp nhận hay không? hoặc pháp luật có thừa nhận và đảm bảo cho sự thỏa thuận này được thực hiện trên thực tế hay không? Điều này sẽ khó thực hiện nếu chủ thể bên kia cho rằng, đây mới chỉ là việc anh đưa ra yêu cầu còn được chấp nhận hay không sẽ là câu chuyện khác. Rõ ràng thiếu vắng cơ sở pháp lý quan trọng sẽ làm cho việc tiếp 36 tục thực hiện hợp đồng thương mại sẽ gặp phải những rào cản nhất định khó có thể lường trước được nhất là khi các bên đã có sự thiếu thiện chí đối với nhau 3.5. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG Như đã đề cập trong phần lý luận, chế tài hủy bỏ hợp đồng được quy định trong Điều 312, được hiểu là việc “bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng hoặc bãi bỏ một phần nghĩa vụ của hợp đồng”. Thực tiễn áp dụng chế tài thương mại này cũng gặp phải một số khó khăn, vướng mắc như sau: - Thứ nhất là về hậu quả pháp lý, việc hủy bỏ hợp đồng toàn bộ (hay hủy bỏ một phần) hợp đồng thương mại dẫn đến hậu quả pháp lý là “hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng,” (Khoản 1 Điều 314). Ngoài ra tại khoản 2 và khoản 3 Điều 314 cũng quy định “các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận được thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền” và “bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này”. Quy định tại Khoản 2 và khoản 3 đã gây ra mâu thuẫn với chính Khoản 1 Điều 314 về một số khía cạnh sau: + Việc cho phép các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình là chưa hợp lý bởi khi hợp đồng thương mại bị hủy thì tất cả các phần trong hợp đồng được thực hiện sẽ phải hoàn trả cho bên kia vì Luật thương mại xác định rất rõ hợp đồng bị hủy sẽ “không có hiệu lực từ thời điểm giao kết”. Điều này cho thấy pháp luật hiện hành quan tâm đến hiệu lực của hợp đồng bị hủy toàn bộ trong khi với hợp đồng bị hủy một phần thì phần còn lại của hợp đồng không bị hủy thì không được nhắc đến sẽ được tiếp tục thực hiện ra sao. + Ngoài ra, Luật thương mại còn quy định “nếu các bên không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận được thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền”. Quy định này là chưa thật sự hợp lý, cần xác định rõ lợi ích ở đây là lợi ích gì? Lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Hơn nữa số tiền phải trả trong trường hợp này bao nhiêu là đủ? Như vậy, điều khoản này của Luật thương mại cũng chưa 37 đưa ra được nguyên tắc định giá?12 Và pháp luật cũng chưa đưa ra quy định cụ thể giải quyết vấn đề, nếu các bên thỏa thuận mức giá hoàn trả thì cần có phải nằm trong giới hạn nào hay không (giống như chế tài phạt vi phạm thì mức phạt tối đa là 8%), nếu các bên không có thỏa thuận về mức giá hoàn trả thì mức giá có được tính dựa vào mức giá thị trường tại thời điểm hoàn trả hay không? Đây vẫn là những vấn đề còn được bỏ ngỏ, điều này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể đặc biệt là cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại. - Thứ hai là về căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng. Việc hủy hợp đồng thương mại được đặt ra khi một bên xác định được đã xuất hiện vi phạm nghĩa vụ cơ bản, vi phạm đó làm cho “bên kia đến mức không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Nhưng trên thực tế, để hiểu thế nào là vi phạm cơ bản hay khi giao kết hợp đồng thì các bên có cần nêu rõ mục đích giao kết hợp đồng hay không và nếu có thì có bắt buộc phải ghi rõ trong hợp đồng hay không? thì cho đến nay các quy định của pháp luật hiện hành đều không đưa ra bất kỳ điều khoản nào hay yêu cầu nào buộc các bên chủ thể khi giao kết hợp đồng phải ghi rõ mục đích của giao kết trong hợp đồng. Liên quan đến khái niệm vi phạm cơ bản, chỉ có duy nhất trong Báo cáo số 350/UBTVQH11 ngày 18/5/2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giải thích “một vi phạm được xác định là vi phạm cơ bản phải dựa trên 2 tiêu chí là, phải có gây thiệt hại cho bên kia và mức độ gây thiệt hại cho bên kia không đạt được giao kết của hợp đồng”. Đến nay cũng chưa có cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào có văn bản chính thức hướng dẫn về vấn đề này. Trong pháp luật Dân sự cũng chỉ tìm thấy khái niệm vi phạm nghiêm trọng được đề cập đến tại Khoản 1 Điều 70; Khoản 2 Điều 521; Khoản 2 Điều 550. Trong khi căn cứ áp dụng trong hai khái niệm vi phạm cơ bản và vi phạm nghiêm trọng cũng không thống nhất với nhau. Vi phạm cơ bản là căn cứ để áp dụng chế tài thương mại, còn vi phạm nghiêm trọng là căn cứ để một bên trong giao dịch dân sự đơn phương chấm dứt hợp đồng. Vì vậy các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các giao dịch thương mại và các cơ quan có thẩm quyền là Tòa án, là Trọng tài cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá 12 Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo Luật thương mại năm 2005, tác giả TS. Nguyễn Thị Tình và ThS. Đỗ Phương Thảo, Trường Đại học Thương mại 38 trình giải quyết tranh chấp, nếu như khái niệm vi phạm cơ bản không được giải thích và hướng dẫn rõ ràng cụ thể. 3.6. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC LOẠI CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI Mối quan hệ giữa các loại chế tài thương mại được Luật thương mại quy định rải rác trong một số điều luật. Cụ thể là: - Điều 307 thể hiện mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm với chế tài buộc bồi thường thiệt hại “trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật này có quy định khác” và “trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Điều luật này cho phép chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng đồng thời với chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Trong khi đó, tinh thần này của pháp luật hiện hành cũng đã được quy định tại Điều 316 “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Điều này cũng có nghĩa, chế tài buộc bồi thường thiệt hại có thể được áp dụng cùng một lúc với chế tài khác trong đó có chế tài phạt vi phạm. Vì vậy, việc đặt ra thêm một điều luật riêng để điều chỉnh mối quan hệ giữa hai chế tài này với nhau là điều thật sự không cần thiết. Bên cạnh đó, cũng trong Điều 307 nói trên chưa có quy định rõ ràng về căn cứ áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Để áp dụng chế tài thương mại này thì phải dựa vào căn cứ áp dụng chế tài thương mại nói chung, vì vậy nó đã gây ra sự hiểu nhầm trong quá trình áp dụng chế tài thương mại này trong thực tiễn. - Chế tài hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng và các loại chế tài khác được quy định tại các Điều 309, 311 và Điều 314. Các điều luật này chỉ quy định đến việc áp dụng ba chế tài này nhưng không làm mất quyền áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Quy định này được đánh giá là chưa hợp lý bởi nội dung này đã được đề cập tại Điều 316 và nếu chỉ dừng lại ở quy định như vậy thì sẽ không bao quát hết được việc áp dụng ba chế tài này với chế tài phạt vi phạm, nghĩa là do tồn tại nhiều điều luật quy định về mối quan hệ về các loại chế tài này mà việc áp dụng các loại chế tài thương mại nói trên luôn rơi vào một vòng luẩn quẩn của sự không rõ ràng. Nội 39 dung các điều luật đôi khi bao trùm nhau. Vì sự không rõ ràng, nên việc áp dụng sẽ gặp nhiều lúng túng và khó khăn, do đó mối quan hệ giữa ba chế tài trên cần được quy định thống nhất, giúp việc nghiên cứu vấn đề này được rõ ràng và cụ thể hơn nữa. 3.7. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI Có thể thấy rằng, thực tế tồn tại nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng chế tài thương mại theo quy định của pháp luật hiện hành còn nhiều hạn chế và bất cập. Các nguyên nhân đó có thể là: - Thứ nhất, do vẫn còn chịu sự ảnh hưởng đậm nét trong quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nên các quy định trong Luật thương mại năm 2005 còn tồn tại bất cập và hạn chế và trong đó có cả các chế tài thương mại - Thứ hai, do sự chồng chéo giữa các quy định của Luật Dân sự với Luật thương mại trong đó có các quy định về chế tà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_phap_luat_ve_che_tai_thuong_mai_theo_quy_dinh_cua_lua.pdf
Tài liệu liên quan