DOANH NGHIỆP KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO PHÁP LUẬT Việt Nam

mở đầu 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Từ tháng 8 năm 1996, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Việt Nam đã đi vào hoạt động, so với sự xuất hiện của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (cách đây hơn 40 năm) thì đó là khoảng thời gian không dài nhưng bảo hiểm nhân thọ đã có những bước phát triển vượt bậc, đáng ghi nhận. Đặc trưng của hoạt động bảo hiểm nhân thọ là vừa mang tính chất tiết kiệm vừa mang tính chất phòng ngừa rủi ro. Với sự phát triển ổn định của nền kinh tế, th

docChia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1709 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu DOANH NGHIỆP KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO PHÁP LUẬT Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u nhập của người dân ngày càng tăng thì hoạt động này càng có điều kiện phát triển và trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Không chỉ là kênh huy động vốn nhàn rỗi, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã thu hút, tạo việc làm mới cho trên 100.000 lao động có thu nhập ổn định (gồm cán bộ nhân viên và đại lý), hàng loạt sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và các chương trình tài chính rất đa dạng đã được các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp cho thị trường, đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn chi nhiều tỷ đồng cho hoạt động từ thiện, tài trợ cho các hoạt động văn hóa, thể thao, khuyến học... Để phát triển kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, ngay từ khi ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, Nhà nước ta đã xác lập tính đa dạng của các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm bằng việc có những quy định làm tiền đề cho sự ra đời của các công ty bảo hiểm nhân thọ sau này. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã mang lại những lợi ích rất to lớn cho sự phát triển nền kinh tế xã hội và lợi ích của người tham gia bảo hiểm, là công cụ thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng giống như các tổ chức trung gian tài chính khác, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ luôn phải đảm bảo sự vững chắc về tài chính, tạo niềm tin cho hàng triệu khách hàng tham gia. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Quá trình này tất yếu buộc nước ta phải mở rộng cửa thị trường để có thêm các công ty bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam. Vì vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nhân thọ cần phải được kiểm soát hết sức chặt chẽ và phải được điều chỉnh bằng luật pháp, để hoạt động này phát triển lành mạnh phục vụ cho công cuộc phát triển và xây dựng đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu ở các nước có nền kinh tế phát triển, bảo hiểm nhân thọ đã ra đời và phát triển hàng trăm năm nay. Những lợi ích về mặt xã hội mà bảo hiểm nhân thọ mang lại đã tạo cho ngành kinh doanh này có một chỗ đứng rất vững vàng trong đời sống kinh tế xã hội. Vị thế của bảo hiểm nhân thọ ngày càng được thể hiện một cách rõ nét ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới. ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ vẫn còn là mới mẻ, đã có một số công trình nghiên cứu về mặt kỹ thuật bảo hiểm, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhưng chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Trước đây, cũng đã có một số luận văn thạc sĩ đề cập đến những vấn đề liên quan đến pháp luật về kinh doanh bảo hiểm như: + Nguyễn Anh Tú: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng bảo hiểm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001. + Thái Văn Cách: Thực trạng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001. + Vương Việt Đức, Hợp đồng bảo hiểm tài sản, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2003. Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, mà chưa nghiên cứu cụ thể những quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, về doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, một loại hình kinh doanh có thể nói là mới ở thị trường Việt Nam nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ luật học. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Trên thế giới, ở những nước phát triển, hoạt động bảo hiểm nhân thọ đã có lịch sử hàng trăm năm và trở nên vô cùng quen thuộc với đông đảo người dân. Trong khi đó, ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn rất mới mẻ. Quá trình tìm hiểu và xây dựng nghiệp vụ chủ yếu theo hướng vừa làm vừa học, tham khảo tài liệu của nước ngoài. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này thời kỳ đầu còn thiếu và chưa đồng bộ, qua một thời gian hoạt động cùng với trải nghiệm thực tế, Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc hoàn thiện và ban hành mới các văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có được môi trường phát triển thuận lợi. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng, vẫn tồn tại một số quy định pháp luật còn bất cập, gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, mục tiêu đặt ra cho quá trình nghiên cứu luận văn là xem xét một cách tổng quát, toàn diện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đối chiếu với thực tiễn hoạt động, kết quả hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Từ đó đề ra hướng bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ cũng như các quy định pháp luật về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nhằm tạo ra một hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, giúp khuyến khích, thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp dân cư tham gia bảo hiểm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chỉ đạo hoạt động bảo hiểm, để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, bên cạnh việc phân tích các văn bản pháp luật áp dụng vào thực tiễn kinh doanh, luận văn sẽ nhìn nhận vấn đề theo quan điểm duy vật, biện chứng, áp dụng phương pháp lịch sử, lôgic trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các tài liệu pháp lý liên quan, kết hợp so sánh, đối chiếu, tổng hợp với thực tiễn để rút ra kết luận. 5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn những đóng góp của luận văn Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ còn hết sức mới mẻ, vì vậy kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đồng thời chỉ ra những điểm không phù hợp với thực tiễn kinh doanh cần bổ sung, góp phần tạo ra môi trường pháp lý chuẩn mực và lành mạnh hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, thúc đẩy hoạt động bảo hiểm nhân thọ ngày càng phát triển phục vụ đời sống kinh tế, xã hội, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ. Chương 2: Pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Chương 3: Một số nhận xét chung và kiến nghị. Chương 1 Những vấn đề chung về Bảo hiểm Nhân thọ 1.1. Khái luận về Bảo hiểm nhân thọ 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ đã có từ rất lâu, vào năm 1762, Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới được thành lập ở nước Anh, tên là Equitable. Sau đó đến Pháp, là nước thứ hai cho phép bảo hiểm nhân thọ được hoạt động. Vào năm 1787 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên tại Pháp được thành lập mang tên là Công ty bảo hiểm nhân thọ Hoàng gia, sau đó một thời gian ở các nước Châu âu khác cũng dần dần xuất hiện bảo hiểm nhân thọ. ở Châu á, công ty bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên được ra đời ở Nhật Bản, đó là công ty bảo hiểm nhân thọ Meiji đã ra đời và đi vào hoạt động năm 1868. Theo thời gian, bảo hiểm nhân thọ phát triển và trở thành một ngành dịch vụ tài chính, với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau mà tiện ích cơ bản của nó là mang tính tiết kiệm và trợ giúp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người mua bảo hiểm. Xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống của con người là vô giá và không thể có một tổ chức nào có thể cung cấp một giá trị tương đương với một sinh mạng con người, vì lý do đó bảo hiểm nhân thọ là một thỏa thuận dựa trên một số tiền cụ thể chứ không mang tính chất bồi thường như bảo hiểm tài sản khác. Khoản 12 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa: "Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết" [25]. Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm định nghĩa bảo hiểm nhân thọ là sự bảo vệ trường hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho người thụ hưởng - thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ chức. Bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo hiểm một lần khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số tiền bảo hiểm bổ sung nào được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay chưa trả theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ được trả cho người thụ hưởng. Những khoản trợ cấp trả khi còn sống cho người được bảo hiểm dưới hình thức giá trị giải ước hoặc các khoản trợ cấp thu nhập [18, tr. 329-330]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA) cũng nêu định nghĩa bảo hiểm nhân thọ như một loại hình bảo hiểm trả tiền khi phát sinh cái chết của người được bảo hiểm. Trên phương diện pháp lý, bảo hiểm nhân thọ là một thể loại bảo hiểm, trong đó để nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm thông qua một hợp đồng, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hoặc người được bảo hiểm sống đến một thời điểm đã được chỉ rõ trong hợp đồng. Trên phương diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người [45, tr. 31]. Những định nghĩa trên tuy được trình bày khác nhau, nhưng tựu chung lại đều thể hiện những đặc trưng nổi bật của bảo hiểm nhân thọ, đó là: - Bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bảo hiểm thương mại, hay nói cách khác là loại hình kinh doanh thu lợi nhuận (phân biệt với các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội của Nhà nước). - Bảo hiểm nhân thọ có tính đa mục đích, có thể được sử dụng để áp ứng nhiều mục đích khác nhau tùy theo nhu cầu của khách hàng. Do vậy, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thường rất đa dạng (mỗi sản phẩm chỉ đáp ứng được một hoặc một vài nhu cầu) và hoạt động tiếp thị sản phẩm này phải mang tính năng động và linh hoạt cao. - Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm cho hai sự kiện trái ngược nhau là sống và chết. Điều này cũng có nghĩa là, trong tuyệt đại đa số trường hợp, việc doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền với một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là chắc chắn xảy ra (phân biệt với bảo hiểm phi nhân thọ - là loại hình bảo hiểm chỉ trả tiền khi có rủi ro xảy ra). - Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm dài hạn, do đó điều khoản hợp đồng phải được trình bày đầy đủ, khoa học dưới dạng văn bản, làm cơ sở cho sự duy trì quan hệ hợp đồng dài nhiều chục năm, thậm chí là cả đời người. Mặt khác, các thông số kỹ thuật của từng sản phẩm, từng hợp đồng phải được tính toán cẩn thận và công bố rõ ràng tới khách hàng. Đồng thời, dịch vụ khách hàng là khâu quyết định có tính chất sống còn tới việc duy trì hợp đồng bảo hiểm. - Bảo hiểm nhân thọ là loại hình sản phẩm bảo hiểm vô hình. Vì vậy, công ty bảo hiểm phải đặc biệt quan tâm đến việc giải thích cho khách hàng hiểu rõ về sản phẩm. Hơn nữa, việc thực hiện đúng và đầy đủ cam kết là đòi hỏi nghiêm ngặt đối với các công ty bảo hiểm. Có thể thấy bảo hiểm nhân thọ có những đặc điểm cơ bản là: - Đối tượng của bảo hiểm nhân thọ là con người, nhưng không như bảo hiểm sinh mạng hay bảo hiểm tai nạn con người trong bảo hiểm phi nhân thọ, chỉ rủi ro chết hay thương tật toàn bộ vĩnh viễn của đối tượng được bảo hiểm mới thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh đó, mặc dù đối tượng của bảo hiểm nhân thọ là con người nhưng bảo hiểm nhân thọ không đảm bảo những chi phí y tế như trong các loại hình bảo hiểm tai nạn và sinh mạng cá nhân trong bảo hiểm phi nhân thọ. - Bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Đây là một trong những hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư hết sức có hiệu quả; hình thức huy động dần dần, phù hợp với khả năng tích lũy của mọi đối tượng, từ những người có thu nhập thấp đến những người có thu nhập cao. Chính hình thức tổ chức đóng phí bảo hiểm tại nhà, có thể theo tháng, quý‎, 6 tháng hay một năm, có nhiều mức phí tùy theo sự lựa chọn và khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm đã tạo nên sự khác biệt, hình thành ý thức tiết kiệm trong dân cư đã đem lại thành công cho bảo hiểm nhân thọ (xem sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy động vốn qua kênh ngân hàng mục 1.1.3.3 chương 1). - Là loại hình bảo hiểm có thời hạn bảo hiểm dài hạn, nguồn phí bảo hiểm được sử dụng để đầu tư và người tham gia bảo hiểm được hưởng một phần lãi từ hoạt động đầu tư đó vì bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Trong khi đó, bảo hiểm phi nhân thọ mang tính ngắn hạn, chỉ bồi thường khi có tai nạn, rủi ro xảy ra nên các doanh nghiệp bảo hiểm không được phép kinh doanh đồng thời bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ (khoản 2 Điều 60 Luật kinh doanh bảo hiểm). - Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của bảo hiểm nhân thọ với đối tượng bảo hiểm chỉ là con người, pháp luật đã quy định có tính chất ràng buộc, hạn chế có liên quan đến việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Có hai ràng buộc chính được thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm (2000), những ràng buộc vốn đều đã có mặt trong các văn bản pháp luật tương tự ở mọi quốc gia cho phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Thứ nhất, ràng buộc về quyền lợi có thể được bảo hiểm. Khoản 9 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa: "Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm" [25]. Đây là một định nghĩa mang nặng tính pháp lý, phản ánh hình thức pháp lý của quan hệ quyền lợi. Tài liệu của Viện Quản lý Bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA) định nghĩa khái niệm này thiên về yêu cầu của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ là "khả năng người chủ hợp đồng và người thụ hưởng phải chịu những mất mát hoặc thiệt hại lớn nếu sự kiện được bảo hiểm xảy ra" [45, tr. 14]. Lý do của những quy định này xuất phát từ mục đích cơ bản của bảo hiểm là đền bù cho người bị thiệt hại khi một rủi ro xảy ra và như vậy, sự đền bù phải dành cho đúng đối tượng phải chịu thiệt thòi, mất mát thì mới thực sự có ý nghĩa và đạt được mục đích. Mặt khác, nếu không có yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm, hiện tượng trục lợi bảo hiểm trên tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác, đi ngược lại đạo đức và pháp luật sẽ xảy ra phổ biến bởi bất cứ ai cũng có thể ký hợp đồng bảo hiểm đối với tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác và sau đó cố tình gây ra rủi ro để thu lợi bất chính từ tiền bồi thường. Cụ thể hóa yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm, khoản 2 Điều 31 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) chỉ cho phép bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm cho những người sau đây: - Bản thân bên mua bảo hiểm; - Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm; - Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng; - Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quy định những đối tượng được mua bảo hiểm như trên đã trở thành thông lệ quốc tế xuất phát từ quan điểm xã hội cho rằng những người thân thiết, ruột thịt trong gia đình là những người phải chịu đựng mất mát nhiều nhất khi người thân gặp rủi ro. Mặt khác, có một số quan hệ cũng được chấp nhận là đảm bảo quyền lợi này như quan hệ giữa người cho vay và người đi vay (nếu người đi vay gặp rủi ro khi chưa trả hết nợ thì người cho vay phải chịu thiệt hại), quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động (nếu người lao động gặp rủi ro thì người sử dụng lao động bị mất nhân công, nói cách khác là mất chi phí tuyển dụng và đào tạo lao động khác thay thế, chi phí gián đoạn sản xuất…). Quy định này chỉ rõ rằng yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm là yêu cầu bắt buộc ở thời điểm yêu cầu bảo hiểm. Pháp luật nhiều nước còn yêu cầu quyền lợi này hiện diện cả khi thanh toán quyền lợi bảo hiểm (Mỹ, Canađa…) [43]. Quy định này được các doanh nghiệp bảo hiểm tuân thủ triệt để, vì nó góp phần đáng kể bảo vệ doanh nghiệp trước rủi ro bị khách hàng lợi dụng và trục lợi. Thứ hai, ràng buộc về giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp chết. Quy định này cũng là một thông lệ đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên khắp thế giới nhằm bảo vệ tính mạng của đối tượng được bảo hiểm. Điều 38 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) quy định về ràng buộc này như sau: - Khi bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người khác thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản, trong đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và người thụ hưởng. Mọi trường hợp thay đổi người thụ hưởng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm. - Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp cha mẹ, hay người giám hộ của người đó đồng ý bằng văn bản. - Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người đang mắc bệnh tâm thần [25]. Quy định này nhấn mạnh đến yếu tố nhất trí của người được bảo hiểm (trong trường hợp người được bảo hiểm không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ - như bị tâm thần hoặc dưới 18 tuổi - hợp đồng không thể được giao kết hoặc chỉ có thể được giao kết khi có sự đồng ý rõ ràng và hoàn toàn của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp). Nội dung của sự nhất trí này bao hàm hai yếu tố chính: nhất trí về việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trên sinh mạng của mình và nhất trí về người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm không may qua đời. Sự nhất trí của người được bảo hiểm chính là một đảm bảo chắc chắn rằng, người được bảo hiểm biết rõ và chấp nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho mình và rằng, ai sẽ là người được nhận quyền lợi bảo hiểm khi mình chết. Đây chính là cách thức phòng tránh có hiệu quả đối với các trường hợp giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm trục lợi trên sinh mạng của người khác, đặc biệt là những người không hoặc chưa có khả năng nhận thức đầy đủ cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Quy định này cũng góp phần làm trong sạch và lành mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đảm bảo cho nó giữ đúng được giá trị và ý nghĩa nhân văn của bảo hiểm nhân thọ. Trên đây là hai ràng buộc cơ bản mà pháp luật áp đặt đối với việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Những ràng buộc này có thể tìm thấy ở pháp luật về bảo hiểm của mọi quốc gia, là sản phẩm của một quá trình nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực này trong hàng trăm năm của các công ty bảo hiểm. Những quy định này được các doanh nghiệp bảo hiểm ở các nước cũng như Việt Nam tuân thủ triệt để và tinh thần của nó không chỉ được tìm thấy trong điều khoản hợp đồng bảo hiểm của các doanh nghiệp mà còn trong mọi hoạt động tác nghiệp hàng ngày ở các doanh nghiệp. Tóm lại, với những đặc điểm riêng, đã từ lâu, bảo hiểm nhân thọ giữ một vai trò vô cùng quan trọng trên thị trường bảo hiểm thế giới và hiện nay càng ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình trên thị trường bảo hiểm ở Việt Nam. Với các loại hình sản phẩm đa dạng, bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Với mỗi cá nhân, đó là nhu cầu thực hiện có hiệu quả các kế hoạch tài chính dài hạn, nhu cầu chuẩn bị chi phí hậu sự và dành dụm để lại cho con cháu, nhu cầu bổ sung nguồn tài chính khi già cả, mất khả năng lao động tạo ra thu nhập và các nhu cầu bảo đảm về tài chính khi gặp các rủi ro về sức khỏe. Với các cơ quan, tổ chức, đó là nhu cầu bù đắp chi phí tuyển dụng và đào tạo lại nhân công trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc thương tật dẫn đến mất khả năng lao động, đặc biệt là những lao động có kiến thức và trình độ và nhu cầu có nguồn tài chính hỗ trợ người lao động cũng như gia đình của họ vượt qua khó khăn khi gặp phải rủi ro. Với ý nghĩa xã hội to lớn như vậy, bảo hiểm nhân thọ đang ngày càng được cả xã hội quan tâm. 1.1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản Đáp ứng những nhu cầu về bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ được thiết kế gồm năm loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân cơ bản, trong mỗi loại hình lại bao gồm rất nhiều sản phẩm khác nhau, ngoài ra còn có các loại hình bảo hiểm nhóm và bảo hiểm bổ trợ. 1.1.2.1. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân * Bảo hiểm sinh kỳ Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Các đặc điểm của bảo hiểm sinh kỳ là: - Chỉ bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn được quy định trong hợp đồng. - Công ty bảo hiểm sẽ không phải trả tiền bảo hiểm, không hoàn phí bảo hiểm và hiệu lực bảo hiểm sẽ chấm dứt ngay nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm. Mục đích của loại hình bảo hiểm này giúp người tham gia bảo hiểm sống đến một mức tuổi nào đó sẽ nhận được tiền bảo hiểm để đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống. Ví dụ như mua bảo hiểm sinh kỳ cho con tức là sẽ có một khoản tiền để dành cho con dùng vào việc học tập và kết hôn sau này, hoặc là mua bảo hiểm sinh kỳ sống đến tuổi về hưu thì được lĩnh tiền bảo hiểm. * Bảo hiểm tử kỳ Loại bảo hiểm này bảo hiểm cho rủi ro chết xảy ra trong thời gian đã quy định trong hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì việc thanh toán không được thực hiện, chính vì vậy phí bảo hiểm luôn được giữ ở mức thấp nhất. Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp quyền lợi bảo hiểm tử vong nếu người được bảo hiểm chết trong một thời hạn được xác định trước [45, tr. 31]. Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm tử kỳ là: - Chỉ bảo hiểm rủi ro mà không có yếu tố tiết kiệm; - Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng được xác định rõ ngay khi giao kết hợp đồng; - Công ty bảo hiểm có thể không phải trả tiền bảo hiểm (trong trường hợp người được bảo hiểm còn sống đến thời điểm đáo hạn hợp đồng). Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm sinh mạng có hoàn phí; bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm giảm dần, bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm tăng dần. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là cung cấp sự bảo vệ trước rủi ro trong một thời hạn xác định; đồng thời, hợp đồng bảo hiểm loại này còn có thể được sử dụng như một "tài sản thế chấp" trong quan hệ tín dụng. * Bảo hiểm hỗn hợp Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ" [25], trong đó "bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm". Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm, trong đó quyền lợi bảo hiểm được thanh toán khi người được bảo hiểm chết hoặc vào ngày đáo hạn hợp đồng nếu người được bảo hiểm vẫn còn sống vào ngày này [45, tr. 31]. Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm hỗn hợp là: - Vừa bảo hiểm rủi ro và có tính tiết kiệm; - Thời hạn bảo hiểm được xác định trước; - Công ty bảo hiểm chắc chắn phải thanh toán quyền lợi cho khách hàng. Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm hỗn hợp có thời hạn, bảo hiểm hỗn hợp có số tiền bảo hiểm tăng dần, bảo hiểm hỗn hợp trả tiền định kỳ. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là kết hợp giữa việc đề phòng rủi ro và giúp khách hàng tích lũy dần dần để thực hiện các kế hoạch tài chính dài hạn. * Bảo hiểm trọn đời Đây là loại hình bảo hiểm mà số tiền bảo hiểm sẽ được thanh toán cho người được bảo hiểm khi chết. Đây là hợp đồng dài hạn, có yếu tố đầu tư và đến một lúc nào đó hợp đồng chắc chắn được thanh toán. Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ cho suốt cuộc đời của người được bảo hiểm và có yếu tố tiết kiệm [45, tr. 32]. Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm trọn đời là: - Vừa bảo hiểm rủi ro và có tính tiết kiệm; - Thời hạn bảo hiểm không xác định được trước, thời hạn bảo hiểm chấm dứt khi người được bảo hiểm chết; - Công ty bảo hiểm chắc chắn phải thanh toán quyền lợi cho khách hàng. Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm trọn đời biến đổi, bảo hiểm trọn đời phổ thông, bảo hiểm trọn đời chung, bảo hiểm người còn sống cuối cùng. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm rủi ro kết hợp tiết kiệm. Sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng trang trải các chi phí hậu sự mà còn góp phần làm tăng giá trị tài sản khách hàng để lại cho người thân khi qua đời. * Niên kim nhân thọ (bảo hiểm trả tiền định kỳ) Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Các đặc điểm nổi bật của niên kim nhân thọ là: - Quyền lợi bảo hiểm được thanh toán thành nhiều lần theo định kỳ và phương thức nhất định; - Thời hạn bảo hiểm thường không xác định trước, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi người được bảo hiểm chết hoặc người được bảo hiểm đã nhận hết quyền lợi bảo hiểm thỏa thuận. - Công ty bảo hiểm chắc chắn phải trả tiền cho khách hàng. Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: niên kim trả ngay, niên kim hoãn trả, niên kim biến đổi, niên kim thu nhập trọn đời trong thời hạn được đảm bảo. Sản phẩm này chủ yếu được thiết kế nhằm mục đích an sinh xã hội, bảo hiểm hưu trí cho người cao tuổi. Đây chính là một hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện, cung cấp khoản "lương hưu" theo lựa chọn của chính người nhận. 1.1.2.2. Bảo hiểm nhóm Loại hình bảo hiểm này có đặc điểm cơ bản khác với bảo hiểm cá nhân là thay vì bảo hiểm cho một cá nhân theo một hợp đồng, bảo hiểm nhóm bảo hiểm cho một nhóm người theo một hợp đồng. Loại hình này được thiết kế dưới hình thức một loạt sản phẩm tương tự như sản phẩm bảo hiểm cá nhân, nhưng bảo hiểm cho một nhóm người. Các bên trong hợp đồng bảo hiểm là công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm không phải là một bên trong hợp đồng. Ưu điểm của loại hình bảo hiểm nhóm là thủ tục tham gia đơn giản, phí bảo hiểm thấp, loại hình bảo hiểm này giúp góp phần gắn kết, khuyến khích, tăng phúc lợi cho người lao động (khách hàng chủ yếu của bảo hiểm nhóm là người lao động). Tuy nhiên, loại hình bảo hiểm này cũng có một số hạn chế so với loại hình bảo hiểm cá nhân như sản phẩm không đa dạng phong phú như sản phẩm bảo hiểm cá nhân, ít người sử dụng lao động mua cho nhân viên, tập thể của họ. Quyền lợi bảo hiểm của loại hình bảo hiểm này không nhiều (chỉ những quyền lợi cơ bản như chết, thương tật do tai nạn), số tiền bảo hiểm không lớn, thời hạn bảo hiểm thường ngắn (1 năm), phức tạp cho thủ tục và công tác quản lý hợp đồng khi số lượng thành viên của nhóm có sự xáo trộn như tăng hoặc giảm.... Việc phát triển loại hình bảo hiểm nhóm phụ thuộc vào chính sách, chế độ phúc lợi của mỗi tổ chức, bên cạnh đó, cần thiết kế sản phẩm bảo hiểm nhóm phù hợp hơn, hấp dẫn hơn để đáp ứng được yêu cầu của thị trường. 1.1.2.3. Các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ Những sản phẩm này rất đa dạng, trong đó nổi bật phải kể đến bảo hiểm chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm chi phí phẫu thuật, bảo hiểm chi phí nằm viện, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, bảo hiểm từ bỏ thu phí... Các sản phẩm này giúp khách hàng bổ sung và mở rộng quyền lợi bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm nhân thọ. 1.1.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và các hình thức đảm bảo khác 1.1.3.1. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ Theo quy định tại Luật kinh doanh bảo hiểm, Điều 7 chương I, nghiệp vụ bảo hiểm được phân thành 2 nhóm là Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ là bảo hiểm phi nhân thọ chỉ có một mục đích chống lại rủi ro thì bảo hiểm nhân thọ có thể giúp người được bảo hiểm vừa đạt được mục đích chống lại rủi ro vừa có mục đích tiết kiệm. Thời hạn của các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ ngắn, thông thường là một năm, bên cạnh đó có những hợp đồng bảo hiểm kéo dài chỉ vài tháng, thậm chí thời hạn bảo hiểm có thể chỉ là vài giờ (trong bảo hiểm tai nạn hành khách). Trong khi đó, thời hạn bảo hiểm của các hợp đồng nhân thọ thường dài hạn (từ 5 năm trở lên). Trong bảo hiểm phi nhân thọ, có một số nghiệp vụ bắt buộc phải mua bảo hiểm đã được quy định trong luật pháp để giúp phát huy tối đa tác dụng của các nghiệp vụ này và nhằm đạt được mục đích bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, bên cạnh đó khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, sẽ có một cam kết ràng buộc giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ theo đuổi đến cùng, trừ lý do rơi vào các tình huống phải chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, những quy định bắt buộc này không bao giờ áp dụng đối với bảo hiểm nhân thọ, trong bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm có quyề._.n chấm dứt hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào và không cần viện dẫn lý do. Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, người tham gia bảo hiểm chỉ có thể bảo hiểm cho hậu quả của các sự kiện được bảo hiểm chứ không bảo hiểm việc nó không xảy ra. Trái lại trong bảo hiểm nhân thọ, người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm việc xảy ra biến cố tử vong hoặc không xảy ra sự cố tử vong hoặc đồng thời bảo hiểm cho cả hai sự kiện tử vong và không tử vong. Tóm lại, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, mỗi loại hình bảo hiểm đều có những đặc trưng riêng có của mình, nhưng tựu trung lại cả hai loại hình này đều có tác dụng và vai trò rất to lớn, không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia, nhất là với các quốc gia phát triển. 1.1.3.2. Sự khác nhau giữa Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm thương mại) đều là chế độ bảo hiểm nên có những điểm chung về bảo hiểm. Nhưng vì là hai loại hình bảo hiểm khác nhau nên có sự khác nhau về nhiều mặt như sau: Thứ nhất: Về mục đích, nguyên tắc. Bảo hiểm xã hội là một phần của chế độ bảo trợ xã hội bắt buộc thực hiện theo pháp luật của nhà nước, nhằm mục đích đảm bảo đời sống cơ bản cho mọi người trong xã hội, giữ vững ổn định trong xã hội, người được bảo hiểm có quyền lợi được đảm bảo trọn đời. Quá trình hoạt động của bảo hiểm xã hội thể hiện rõ đặc điểm của quan hệ hành chính. Bảo hiểm thương mại là loại hình do mọi người tự nguyện tham gia bảo hiểm, không có sự bắt buộc. Nguyên tắc cần phải tuân theo đó là người nào tham gia bảo hiểm thì người đó được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đây là hoạt động kinh doanh kiếm lời của doanh nghiệp bảo hiểm. Mọi quy tắc, trách nhiệm bảo hiểm đều phải thực hiện một cách chặt chẽ theo đúng quy định của hợp đồng bảo hiểm mà các bên đã thỏa thuận. Bảo hiểm thương mại có luật điều chỉnh riêng. Thứ hai: Khác nhau về đối tượng và chức năng bảo hiểm. Đối tượng của bảo hiểm xã hội là những người lao động trong xã hội. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống cơ bản cho người lao động khi ốm đau, già cả, bị thương, bị tàn phế, mất khả năng lao động... nhằm giữ vững quá trình tái sản xuất sức lao động xã hội. Ngoài ra, còn thực hiện việc nhà nước phân phối lại thu nhập xã hội bằng cách tập trung quỹ bảo hiểm xã hội và thực hiện việc trợ cấp bồi thường thiệt hại, thực hiện chức năng công bằng xã hội. Đối tượng bảo hiểm thương mại thường không có quy định đặc biệt mà áp dụng đối với tất cả các tổ chức, công dân dựa vào nguyên tắc tự nguyện lựa chọn, tự nguyện tham gia bảo hiểm. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm thương mại là bồi thường hoặc chi trả số tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro hoặc khi đáo hạn hợp đồng như đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Việc trả tiền bảo hiểm xã hội xuất phát từ mục đích đảm bảo mức sống cơ bản của người lao động. Mức độ đảm bảo này được dựa trên mức tiêu dùng bình quân của xã hội, các yếu tố tăng giá cả hàng hóa... Đối với mức đảm bảo của bảo hiểm thương mại không xét tới những yếu tố kể trên, hoàn toàn do người được bảo hiểm nộp phí bảo hiểm nhiều hay ít. Thứ ba: Sự hình thành, sử dụng và quản lý quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn sau: + Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia bảo hiểm trong đơn vị, trong đó 10% là quỹ lương hưu, 5% là quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động… + Người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. + Nhà nước hỗ trợ thêm để thực hiện các chế độ bảo hiểm đối với người lao động. + Các nguồn khác… Quỹ bảo hiểm thương mại: Quỹ bảo hiểm thương mại hình thành trên cơ sở thu phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm thể hiện dưới hợp đồng hoặc do luật định. Đây là quỹ bảo hiểm riêng biệt, độc lập với ngân sách nhà nước. Quỹ này không do cơ quan nhà nước quản lý tập trung thống nhất mà do chính các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý và sử dụng theo Luật. Về mặt pháp lý doanh nghiệp bảo hiểm được phép thu phí bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và dùng quỹ tập trung này để chi trả quyền lợi bảo hiểm và bù đắp cho các rủi ro bảo hiểm xảy ra. Nguồn quỹ này chỉ sử dụng vì các mục đích cho đối tượng tham gia, không sử dụng vào các mục đích khác. Nhà nước không được sử dụng quỹ này. 1.1.3.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy động vốn qua kênh ngân hàng Hoạt động bảo hiểm nhân thọ và hoạt động ngân hàng cùng có tính chất giúp người dân tiết kiệm tiền và được hưởng lãi suất từ những khoản tiền tiết kiệm. Nhưng giữa hai loại hình tiết kiệm này có một sự khác biệt lớn, đó là hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn có tính chất đảm bảo rủi ro cho người tham gia trong khi hoạt động ngân hàng không có. Có thể thấy, tiết kiệm ngân hàng chỉ mang tính tiết kiệm đơn thuần trong khi đó bảo hiểm nhân thọ kết hợp cả tiết kiệm với bảo hiểm. Trong quá trình tham gia bảo hiểm nhân thọ (5, 10, 15 năm hoặc dài hơn), số phí đóng bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm đồng thời người tham gia được đảm bảo về quyền lợi khi không may gặp rủi ro. Tính bảo hiểm thấy rõ nhất là trường hợp người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm nhân thọ vừa nộp phí 1 tháng thì không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, theo cam kết người đó sẽ được miễn phí cho toàn bộ thời gian còn lại của thời hạn nộp phí. Số phí đã nộp rõ ràng nhỏ hơn rất nhiều so với quyền lợi người tham gia bảo hiểm sẽ được nhận. Còn nếu gửi tiết kiệm ngân hàng, khi bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, người đó chẳng được quyền lợi gì ngoài số lãi trên số tiền gửi. Với hình thức gửi tiền tại ngân hàng, người gửi tiền phải tự đem tiền đến ngân hàng để gửi. Theo ví dụ dưới đây, trong 15 năm người gửi tiền phải đến ngân hàng 15 lần để gửi tiền, tuy nhiên nếu người đó chọn hình thức gửi tiền theo tháng (tương đương với hình thức nộp phí tháng khi tham gia bảo hiểm nhân thọ) thì người đó sẽ phải đến ngân hàng tổng số 15 x 12 = 180 lần, và nếu thời hạn này dài hơn thì số lần đến ngân hàng sẽ tăng nên gấp bội. Rõ ràng, việc đi gửi tiền như trên rất mất thời gian và dường như không thể thực hiện đều đặn được nếu thực hiện gửi tiền theo tháng. Thêm vào đó, người gửi tiền chỉ có thể gửi tiền với số tiền lớn nhất định; không thể hàng tháng mang mấy chục ngàn đi gửi ngân hàng. Ngược lại, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ, người tham gia không phải đến công ty bảo hiểm để nộp phí mà hoàn toàn có thể nộp phí ở nhà, ở cơ quan hoặc bất kỳ nơi nào tiện lợi; người tham gia cũng có thể nộp phí ngay từ số tiền tiết kiệm hàng tháng là mấy chục ngàn đồng và số tiền này được đầu tư ngay để tích tiểu thành đại. Người tham gia bảo hiểm được nhà bảo hiểm thường xuyên nhắc nhở để họ có thể thực hiện kế hoạch tiết kiệm một cách "có kỷ luật", đồng thời cũng có những cơ chế tạo điều kiện để khách hàng vượt qua khó khăn tài chính tạm thời như khi chưa có tiền nộp phí, người tham gia được gia hạn nộp phí trong vòng 60 ngày mà không phải trả lãi đồng thời mọi quyền lợi bảo hiểm vẫn được đảm bảo. Bên cạnh đó, người tham gia bảo hiểm còn được cho vay phí tự động (thường với lãi suất ưu đãi) khi nợ phí vượt quá 60 ngày như trên mà chưa có tiền đóng phí tiếp (với điều kiện hợp đồng đã có giá trị giải ước và tổng các khoản nợ và lãi phát sinh không vượt quá giá trị giải ước của hợp đồng). Thêm một quyền lợi nữa là trong thời gian tham gia bảo hiểm nếu không may gặp khó khăn về tài chính, người tham gia có thể yêu cầu giảm số tiền bảo hiểm, theo đó số tiền nộp mỗi kỳ cũng sẽ giảm đi hoặc được duy trì hợp đồng với số tiền bảo hiểm giảm, đến lúc đáo hạn vẫn có một khoản tiền tiết kiệm. Các phân tích trên cho thấy khi tham gia bảo hiểm nhân thọ, người tham gia luôn được bảo đảm quyền lợi. Điều này thật dễ hiểu là vì, chỉ khi bảo đảm được quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm nhân thọ mới tồn tại và phát triển được trong môi trường kinh doanh cạnh tranh. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam Bảo hiểm nhân thọ xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1996 trong điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều thuận lợi. Vào thời điểm này, sau một thập kỷ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đời sống người dân được cải thiện dẫn đến có dư thừa, người dân bắt đầu quan tâm đến việc thực hiện các kế hoạch đầu tư dài hạn. Trình độ dân trí được nâng cao cùng với sự phát triển đáng kể của khoa học công nghệ đã tạo những tiền đề thuận lợi cho sự xuất hiện của loại hình dịch vụ như bảo hiểm nhân thọ. Trong bối cảnh đó, Nhà nước cũng đã bước đầu có những chính sách thông thoáng, tạo điều kiện cho bảo hiểm nhân thọ phát triển. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rõ rằng, vào thời điểm này, sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ cũng đồng thời gặp phải một số khó khăn. Nền kinh tế tuy đã có bước phát triển song vẫn còn chậm và ở mức thấp, trong khi giá trị đồng tiền chưa được đảm bảo khiến cho người dân ít có khả năng cũng như tâm lý thực hiện các kế hoạch đầu tư dài hạn như mua bảo hiểm nhân thọ. Đây lại là một loại dịch vụ hoàn toàn mới, chưa từng xuất hiện trên thị trường Việt Nam, do vậy, bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như người tiêu dùng đều chưa có đủ kiến thức và kinh nghiệm về loại hình dịch vụ mới mẻ này. Cũng vì lý do này, các quy định của pháp luật có liên quan còn nhiều bất cập, chưa tạo được một hành lang pháp lý thật sự phù hợp cho bảo hiểm nhân thọ phát triển. Trong bối cảnh như vậy, bảo hiểm nhân thọ đã được ra đời ở Việt Nam sau rất nhiều cố gắng chuẩn bị cả từ phía cơ quan bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm. Sự ra đời của loại hình này được đánh dấu bởi việc ngày 20/3/1996, Bộ trưởng Bộ Tài chính ra Quyết định số 281TC/TCNH về việc triển khai thí điểm bảo hiểm nhân thọ, theo đó, Bộ Tài chính cho phép Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam tổ chức triển khai thí điểm bảo hiểm nhân thọ với hai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm và 10 năm và bảo hiểm trẻ em - chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành. Với quyết định này, Bảo Việt trở thành doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên và duy nhất trên thị trường tại thời điểm đó tiến hành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Ngày 01/8/1996, Bảo Việt phát hành những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên thuộc hai loại hình bảo hiểm này qua kênh phân phối là các đại lý bán hàng trực tiếp phục vụ tại địa chỉ do khách hàng yêu cầu. Từ đó đến nay, dưới tác động của những diễn biến đa dạng và nhanh chóng nhiều mặt về kinh tế, chính trị, xã hội và đầu tư, sự phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã trải qua các giai đoạn phát triển sau đây: - Giai đoạn 1 (tháng 8/1996 - 6/1999): Đây là giai đoạn chỉ có một công ty bảo hiểm duy nhất triển khai bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, đó là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam. Điểm nổi bật nhất của giai đoạn này là sự độc quyền của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) trên thị trường kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Các sản phẩm triển khai thời gian này còn tương đối đơn giản, phản ánh đúng trình độ và khả năng của thị trường ở giai đoạn đầu. Số lượng hợp đồng khai thác được tăng khá nhanh, cho thấy tiềm năng đầy hứa hẹn của thị trường Việt Nam. Theo báo cáo nghiệp vụ của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam, chỉ tính đến hết 6 tháng đầu năm 1999, Bảo Việt đã có tổng số hợp đồng có hiệu lực đạt tới 282.000 với tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt gần 200 tỷ [34]. Tuy nhiên, lúc này số tiền bảo hiểm bình quân còn tương đối nhỏ và phương thức đóng phí tháng là lựa chọn phổ biến của khách hàng tham gia bảo hiểm. Trong giai đoạn này, tổ chức kinh doanh bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt cũng chưa có được sự chuyên nghiệp hóa cao mà chủ yếu dựa vào cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ có sẵn của các công ty thành viên kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ. - Giai đoạn 2 (tháng 6/1999 - năm 2003): Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của thị trường Bảo hiểm Việt Nam với sự tham gia của 4 công ty bảo hiểm nhân thọ đều là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đó là các công ty: Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ Prudential (100% vốn đầu tư nước ngoài có nguồn gốc từ Anh), Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Baominh-CMG (liên doanh giữa Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh - một doanh nghiệp nhà nước Việt Nam và Công ty CMG của úc), Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Quốc tế Mỹ (AIA - 100% vốn đầu tư nước ngoài có nguồn gốc từ Hoa Kỳ) và Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Manulife (100% vốn đầu tư nước ngoài có nguồn gốc từ Canada). Các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài mới vào Việt Nam và tập trung đưa ra thị trường nhiều loại sản phẩm mới, thu hút nhiều sự quan tâm của người tiêu dùng. Kể từ đây, hoạt động bảo hiểm nhân thọ đã có những bước tiến nhanh chóng và vững chắc, quy mô thị trường bảo hiểm nhân thọ được mở rộng từng bước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và đời sống nhân dân. Số lượng sản phẩm bảo hiểm ngày càng tăng với sự phong phú về thời hạn bảo hiểm, phương thức và thời hạn nộp phí, phương thức thanh toán. Điều khoản các hợp đồng cũng được soạn thảo theo hướng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, cung cấp cho chủ hợp đồng (bên mua bảo hiểm) tuyệt đại bộ phận các quyền lợi mà một chủ hợp đồng có thể có được theo thông lệ quốc tế. Theo đó, trình độ nhận thức và hiểu biết của khách hàng về bảo hiểm nhân thọ đã phát triển một cách rõ rệt. Mô hình tổ chức ở tất cả các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ đã thể hiện tính chuyên nghiệp hóa và chuyên môn hóa cao với sự phân tách chi tiết nhiều phòng, ban, bộ phận tương ứng với các chức năng hoạt động. Các doanh nghiệp bảo hiểm luôn đưa ra thị trường bảo hiểm những sản phẩm mới kết hợp với các sản phẩm bổ trợ để người dân lựa chọn, thu hút được nhiều sự quan tâm của người tiêu dùng. Các sản phẩm bảo hiểm từng bước đáp ứng nhu cầu phong phú của nhiều đối tượng khách hàng trong việc bảo vệ bản thân, bảo vệ gia đình cũng như đáp ứng nhu cầu tích lũy tài chính cho những dự án, mục tiêu trong tương lai. Các sản phẩm được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc y tế chất lượng cao, bổ sung thu nhập khi nghỉ hưu, tích lũy và ổn định đảm bảo tài chính cho việc học hành của con cái. Dưới đây là Bảng số liệu thống kê so sánh tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm Nhân thọ và bảo hiểm Phi nhân thọ giai đoạn này [32]. Bảo hiểm nhân thọ Các chỉ tiêu chủ yếu 1996 1999 2002 2003 Tổng số doanh nghiệp 1 3 4 4 Doanh thu phí (tỉ đồng) 1 485 4.368 6.575 Đóng góp vào GDP (%) 0,12 0,81 1,18 Bảo hiểm phi nhân thọ Tổng số doanh nghiệp 6 10 13 14 Doanh thu phí (tỉ đồng) 1.263 1.606 2.624 3.815 Đóng góp vào GDP (%) 0.46 0.40 0.49 0.54 Qua bảng số liệu trên cho thấy, giai đoạn từ cuối năm 1999 đến năm 2003, bảo hiểm nhân thọ đạt mức tăng trưởng về doanh thu bình quân 3,4 lần/năm. So với tốc độ tăng trưởng bình quân của khu vực Nam và Đông á trong cùng thời kỳ (1,11 lần/năm) [32], tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường Việt Nam lớn hơn nhiều. Tỉ lệ doanh thu trên GDP của bảo hiểm nhân thọ tăng mạnh, từ chỗ năm 1999 tỉ lệ là 0,12%, năm 2003 đạt 1,18% (tăng 1,06% GDP), tăng hơn rất nhiều so với doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, mặc dù từ năm 1999 đến 2003, số lượng công ty bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường lớn hơn nhiều so với số lượng công ty bảo hiểm nhân thọ. - Giai đoạn 3 (năm 2004 đến nay): Là giai đoạn thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam dần đi vào ổn định sau cơn bão phát triển bảo hiểm nhân thọ ở giai đoạn trên. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho thấy số hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khai thác mới giảm từ 1.024.802 năm 2003 hợp đồng xuống còn 808.514 hợp đồng năm 2004 và tỉ trọng hợp đồng mới trong tổng hợp đồng giảm từ 60,63% năm 2001 xuống còn 44,85% năm 2004. Tốc độ tăng trưởng của thị trường Việt Nam xuống mức tương đương với tốc độ phát triển của khu vực (16% của Việt Nam so với 9% của khu vực Nam và Đông á trong khoảng thời gian 2003 - 2004) [22]. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đã có thêm 03 công ty kinh doanh bảo hiểm nhân thọ 100% vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép là: Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Prevoir (có nguồn gốc từ Pháp); và 02 Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm là ACE Life và New York Life International (có nguồn gốc từ Hoa Kỳ). Mặc dù vậy, năm 2005 vừa qua là năm tăng trưởng chậm và khó khăn nhất của thị trường bảo hiểm nhân thọ, số lượng hợp đồng khai thác mới năm 2005 chỉ đạt 1.198.000 hợp đồng giảm 33,6% so với năm 2004 (Bản tin Hiệp hội, số 4/2005) do một số yếu tố tác động như giá vàng tăng mạnh, lãi suất ngân hàng cao, số lượng hợp đồng đáo hạn ngày càng lớn... nhưng hy vọng rằng với sự góp mặt của những tên tuổi mới trên, thị trường bảo hiểm nhân thọ sẽ tạo ra một làn sóng phát triển mới cho bảo hiểm nhân thọ trong một vài năm tới. Mặc dù có dấu hiệu chững lại của thị trường nhưng so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam còn nhiều tiềm năng phát triển. Một mặt, nhận thức của người tiêu dùng về tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ ngày càng tăng, tiềm năng khai thác vẫn còn rất lớn với 80 triệu dân và hơn 100 ngàn doanh nghiệp [22]. Số liệu thống kê cho thấy, hiện tại tỷ trọng người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ còn rất thấp (7%), phí bảo hiểm nhân thọ mới chỉ chiếm 1,25% GDP thấp xa so với các nước trong khu vực (2,5% - 7%) (Bản tin Hiệp hội, số 3/2005). Tỉ lệ tiết kiệm trên GDP của Việt Nam năm 2002 là 22,5%. Tỉ lệ này là tương đối thấp so với các nước khác trong khu vực như Trung Quốc (40,1%), Hàn Quốc (33,6%), Singapore (51,7%), Malaysia (47,3%), nhưng lại tương đối so với các nước có thị trường phát triển như Anh, Bỉ, Canada…[22]. Khả năng khai thác bảo hiểm nhân thọ đến năm 2010 theo Chiến lược phát triển bảo hiểm nhân thọ Việt Nam được mô tả ở bảng dưới đây: Chỉ tiêu đánh giá 2006 2007 2008 2009 2010 Tỷ lệ tiết kiệm trên GDP (%) 27% 28% 28% 29% 30% Thị trường tiềm năng % của tiết kiệm 11,50% 13% 13,50% 14% 15% Phí bảo hiểm tiềm năng (tỉ đồng) 22.560 28.009 31.791 36.478 43.250 Tỷ lệ phí có thể khai thác (% của phí tiềm năng) 69% 68% 72% 73% 71% Phí bảo hiểm nhân thọ trên đầu người (US$) 10,85 13,16 15,60 18,05 20,65 Phí bảo hiểm nhân thọ/người (nghìn đồng) 184,41 223,69 265,24 306,93 351,00 Tỷ lệ phí khai thác tổng tiết kiệm (%) 7,89% 8,82% 9,68% 10,25% 10,72% Nguồn: Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam 2003-2010. Nói tóm lại, trải qua 10 năm hoạt động, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam qua các giai đoạn phát triển đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối mạnh mẽ. Có thể thấy rằng, thị trường bảo hiểm phát triển vừa tăng cường ổn định tài chính cho các cá nhân, tổ chức và toàn nền kinh tế, vừa tăng cường huy động tiết kiệm cho đầu tư, vừa tăng cường hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tại thời điểm hiện nay, qua các giai đoạn phát triển và bình ổn, thị trường bảo hiểm nhân thọ vẫn đang hứa hẹn nhiều tiềm năng to lớn đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tham gia thị trường. 1.3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ trong nền kinh tế quốc dân Bảo hiểm nhân thọ ra đời đã có những đóng góp quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có thể thấy rõ một số vai trò quan trọng của bảo hiểm nhân thọ dưới đây: - Góp phần ổn định cuộc sống của con người, kinh tế xã hội: Bảo hiểm nhân thọ ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu ổn định tài chính, khắc phục hậu quả rủi ro xảy ra có thể mang đến những thiệt hại bất thường đối với tính mạng của con người, giúp khách hàng nhanh chóng khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống đồng thời cũng giúp cho khách hàng thực hiện tiết kiệm dài hạn và đều đặn nhằm đạt những kế hoạch đã đề ra, tạo lập một cuộc sống đầy đủ về tài chính, hạnh phúc. Với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ điển hình như sản phẩm bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm trợ cấp y tế, bảo hiểm nhân thọ tiết kiệm, người dân có thể được hưởng thêm nhiều quyền lợi như có tiền trang trải khi ốm đau, tai nạn, gặp hoàn cảnh khó khăn do thiên tai, có kinh phí cho trẻ em đi học, tăng thêm thu nhập khi về hưu hoặc bảo đảm có thu nhập trong trường hợp lao động chính trong gia đình không may bị chết sớm hoặc bị tàn phế. Các quyền lợi này sẽ bổ sung các quyền lợi bảo hiểm xã hội và chế độ phúc lợi mà người lao động đang hưởng, đồng thời góp phần giảm chi tiêu ngân sách nhà nước cho các hoạt động hỗ trợ trong trường hợp xảy ra các thảm họa lớn do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. Số liệu thống kê cho thấy, từ năm 1996 đến nay, bảo hiểm nhân thọ nói riêng và ngành bảo hiểm nói chung đã đóng góp vào ổn định kinh tế - xã hội thông qua số tiền bồi thường và chi trả bảo hiểm cho các đối tượng tham gia bảo hiểm là hơn 10 nghìn tỉ đồng. Số tiền này đã góp phần không nhỏ giúp cho các doanh nghiệp vượt qua được bờ vực của sự phá sản khi không may gặp rủi ro, giúp đỡ các gia đình khắc phục khó khăn về tài chính khi không may những người trụ cột gặp tai nạn... những đóng góp này có ý nghĩa rất lớn góp phần ổn định xã hội. - Tạo việc làm cho xã hội: Bên cạnh ý nghĩa nhân văn của bảo hiểm nhân thọ trong xã hội hiện đại, ngành bảo hiểm nhân thọ đã thu hút hơn 100.000 lao động làm việc tại các doanh nghiệp bảo hiểm, mạng lưới đại lý bảo hiểm, ngoài ra còn tạo việc làm cho các ngành khác có liên quan như giám định sức khỏe, công nghệ thông tin, ngân hàng, in ấn, quảng cáo... giải quyết tình trạng thiếu việc làm cũng như các vấn đề xã hội liên quan. Thêm vào đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động từ thiện, tài trợ các chương trình thể thao, tư vấn y tế, hỗ trợ đào tạo, an toàn giao thông và các hoạt động xã hội khác. - Tập trung nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế: Với vai trò là một trung gian tài chính, bảo hiểm nhân thọ đã thực hiện các hoạt động thu hút, tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tạo nên một kênh huy động vốn quan trọng trong nền kinh tế. Nguồn vốn này không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn, mà còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát. Do đặc thù của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là thời hạn tham gia bảo hiểm dài (từ 5 năm trở lên), vì vậy phần lớn lượng tiền mà doanh nghiệp tập trung được từ phí bảo hiểm có thời gian tạm thời nhàn rỗi, do đó qua hoạt động bảo hiểm nhân thọ, các khoản tiền nhỏ, lẻ, ngắn hạn được tập hợp để hình thành nguồn vốn lớn, tập trung có thể đáp ứng các nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế. Với số tài sản quản lý được tích lũy (dưới hình thức quỹ dự phòng) ngày càng lớn, cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thực hiện những khoản đầu tư lớn dưới các hình thức như góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu, cho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước, gửi tiết kiệm ngân hàng. Hoạt động đầu tư tích cực của các doanh nghiệp bảo hiểm còn có tác dụng tăng quy mô và độ lưu hoạt của thị trường tài chính, kích thích các luồng vốn vận động theo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tăng tính khả thi của những dự án lớn, nâng cao hiệu quả của việc phân bổ các nguồn lực tài chính có hạn trong nền kinh tế. Tổng số tiền mà ngành bảo hiểm đã đầu tư trở lại nền kinh tế tính đến hết năm 2005 là trên 70 nghìn tỉ đồng. Con số này đã góp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng nền kinh tế nói chung. Do đó, việc phát triển và mở rộng các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành thị trường vốn, thúc đẩy hoạt động đầu tư, góp phần tăng tỷ lệ tiết kiệm của dân cư, tạo ra nhân tố thành công cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt "Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010" sẽ tăng tỷ lệ người tham gia bảo hiểm nhân thọ từ 2% dân số năm 2002 lên 10% dân số vào năm 2010 [10]. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, trong xã hội hiện đại ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đời sống con người ngày càng được quan tâm và nâng cao hơn thì bảo hiểm nhân thọ thực sự đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được tại hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ thực sự đóng vai trò rất quan trọng giúp cho hoạt động này ngày càng phát triển. Chương 2 pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ 2.1. Hoạt động bảo hiểm phải tổ chức kinh doanh theo các hình thức doanh nghiệp nhất định Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều hình thức pháp lý doanh nghiệp khác nhau. Thông thường, doanh nghiệp được tổ chức dưới bốn hình thức pháp lý cơ bản là: Doanh nghiệp một chủ chịu trách nhiệm vô hạn; Công ty hợp danh; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty cổ phần; Việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp nào để tổ chức hoạt động thuộc quyền tự do kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Do tính chất trách nhiệm khác nhau nên pháp luật thường có các quy định rất khác nhau đối với mỗi loại hình thức pháp lý của doanh nghiệp. ở tất cả các nước trên thế giới, hoạt động bảo hiểm luôn được coi là một ngành dịch vụ tài chính đặc biệt. Dịch vụ bảo hiểm liên quan đến việc có huy động tiền của dân chúng và đòi hỏi trong một thời gian ngắn, các doanh nghiệp bảo hiểm phải có khả năng thanh toán chi trả các khoản tiền bảo hiểm cho những người được bảo hiểm hoặc những người thụ hưởng vào bất kể thời gian nào, có nghĩa là doanh nghiệp phải thường xuyên có khả năng thanh toán. Cũng chính vì vậy, không phải mọi loại hình doanh nghiệp đều được kinh doanh bảo hiểm. Hầu như trên thế giới, hoạt động bảo hiểm chỉ được giới hạn trong các công ty có cơ chế giám sát chặt chẽ, hiệu quả, có chế độ trách nhiệm tài sản rõ ràng và tính ổn định lâu dài không bị đe dọa, có thể bởi chính sự xung đột giữa các thành viên chẳng hạn. ở hầu khắp các nước trên thế giới, luật pháp đều quy định bảo hiểm là loại hình công ty đối vốn, có cơ chế giám sát chặt chẽ, có chế độ trách nhiệm tài sản rõ ràng, là loại doanh nghiệp có các sản phẩm mang tính huy động tiền từ công chúng, dù không phải là một định chế như ngân hàng, việc huy động thông qua cam kết theo mẫu định sẵn, được cơ quan quản l‎ý nhà nước về bảo hiểm chuẩn thuận, không cần tài sản đảm bảo. Cũng chính việc được phép huy động vốn thông qua cam kết như vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, bên cạnh các quy định về cơ chế quản lý doanh nghiệp, chế độ tài chính… Pháp luật còn đòi hỏi rất cao về tính minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: "Sau khi kết thúc năm tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm phải công bố các báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật" (Điều 104 Luật kinh doanh bảo hiểm). ở hầu hết các nước, loại hình công ty bảo hiểm cổ phần là một trong những loại hình doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về quản trị và giám sát nên trở thành loại hình doanh nghiệp bảo hiểm phổ biến nhất. Luật bảo hiểm Trung Quốc, điều 69 qui định: Chỉ có các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần được kinh doanh bảo hiểm. Luật bảo hiểm Pháp quy định các công ty bảo hiểm cổ phần và các công ty bảo hiểm tương hỗ. Doanh nghiệp nhà nước cũng là loại hình doanh nghiệp có các quy định về giám sát rất chặt chẽ, vì vậy cũng là loại hình doanh nghiệp được luật pháp giành cho quyền kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm. Tuy nhiên, với tính ưu việt của mình cả về cơ chế huy động vốn lẫn linh hoạt trong điều hành và giám sát nên các nước đều có xu hướng tổ chức doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức công ty cổ phần. ở Việt Nam hiện nay, các công ty nhà nước đang nằm trong diện cổ phần hóa để trở thành công ty bảo hiểm cổ phần kể cả các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước lớn như Bảo Việt và Bảo Minh. Các doanh nghiệp một chủ chịu trách nhiệm vô hạn, công ty hợp danh không thật rõ ràng về trách nhiệm tài sản, rất khó trong việc quản lý, giám sát, vì vậy hầu hết các nước đều không cho phép tổ chức kinh doanh bảo hiểm dưới các hình thức này (xem thêm tài liệu tham khảo [17]). Đối với hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, do đặc điểm công ty là không được phát hành chứng khoán ra công chúng để công khai huy động vốn, việc chuyển nhượng vốn lại rất khó khăn, chủ yếu trong nội bộ công ty trong khi hoạt động bảo hiểm đòi hỏi phải công khai và minh bạch, luân chuyển vốn nhanh nên loại hình doanh nghiệp này cũng ít được phép hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. ở Việt Nam, Điều 59 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước; Công ty cổ phần bảo hiểm; Tổ chức bảo hiểm tương hỗ; Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh; Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài [25]. Thời điểm Quốc hội ban hành Luật kinh doanh bảo hiểm thì vẫn tồn tại song song các Luật doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2000 và Luật doanh nghiệp 1999. Vì vậy, trong Luật kinh doanh bảo hiểm, việc pháp luật quy định các loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước; doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng là phù hợp. Các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm trên đã được quy định khá cụ thể trong các luật tương ứng và đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ bản về các loại hình doanh nghiệp này, nhưng riêng đối với loại hình doanh nghiệp bảo hiểm tương hỗ thì còn quá mới mẻ đối với đa số các nhà doanh nghiệp, thậm chí cả đối với các luật gia, vì đây là một loại hình doanh nghiệp mới được nghiên cứu để đưa vào Việt Nam, chưa từng được vận dụng, chưa có khuôn mẫu thực tiễn. Vì vậy, trong luận văn này tác giả chỉ xin trình bày một số nét cơ bản của tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Các vấn đề mâu thuẫn về hình thức tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm phát sinh khi nhà nước ban hành Luật doanh nghiệp 2005 thay thế cho Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2000 sẽ được bàn ở phần sau của luận văn này. ở các nước, đặc biệt là các nước phát triển hình thức công ty bảo hiểm tương hỗ tương đối phổ biến. Ví dụ: Tập đoàn Liberty Mutual, được thành lập vào năm 1912, tập đoàn này có tổng tài sản trị giá 78,8 tỷ đô la và 21.2 tỷ đô la tổng doanh thu vào thời điểm cuối năm 2005 và Liberty Mutual xếp thứ 102 trong số danh sách 500 các công ty lớn nhất Hoa Kỳ. Các công ty bảo hiểm tương hỗ đóng vai trò quan trọng trên thị trường bảo hiểm nhân thọ và chiế._.ành công nghiệp, dịch vụ khác do khách hàng của công ty bảo hiểm đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng chưa nhận được hàng hóa, dịch vụ thực tế, mà mới chỉ nhận được lời hứa. Việc chuyển giao lời hứa từ một công ty sang một công ty khác không thể đơn giản như việc chuyển giao các tài sản hữu hình. Trong trường hợp xấu hơn, công ty không chủ động chấm dứt hoạt động mà trở nên mất khả năng thanh toán. Mặc dù cho đến nay, tại Việt Nam chưa có công ty bảo hiểm nhân thọ nào rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, nhưng vấn đề này cần được quy định đầy đủ và chi tiết trong các văn bản pháp lý. Vì khác với các ngành khác, việc phá sản của một công ty bảo hiểm sẽ ảnh hưởng tới toàn ngành, ảnh hưởng tới nền kinh tế. Có thể thấy, các quy định pháp luật hiện nay đã quy định về biên khả năng thanh toán và quy định các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán, nhưng chưa có quy định chi tiết việc quản lý các công ty mất khả năng thanh toán và việc áp dụng các biện pháp khôi phục. 3.2. Hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ Từ những vấn đề vướng mắc nêu trên, trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ hiện hành và quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ của các nước có dịch vụ này đã phát triển, người viết xin được kiến nghị một số giải pháp khắc phục những vướng mắc nói trên. Những điểm cần sửa đổi, bổ sung của pháp luật: * Việc ban hành các văn bản pháp l‎ý, tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và trong bối cảnh cần xây dựng một thị trường bảo hiểm lành mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, Nhà nước cần đặt các doanh nghiệp trong một sân chơi chung, các quy định pháp luật cần được ban hành theo hướng nhất thể hóa, nghĩa là không có sự ưu ái kể cả vấn đề tổ chức thành lập và hoạt động. Như đã trình bày ở trên thì Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật thống nhất điều chỉnh các hoạt động của chi nhánh các doanh nghiệp bảo hiểm mà không có sự phân biệt đó là chi nhánh của công ty nhà nước hay cổ phần hay 100% vốn nước ngoài. Thực tế các đơn vị trực thuộc của các doanh nghiệp bảo hiểm dù tổ chức dưới hình thức gì hay chăng nữa cũng đều hạch toán phụ thuộc, chỉ là khâu phân phối sản phẩm (bán bảo hiểm) và giải quyết bồi thường trong phạm vi nhất định nào đó (tùy theo phân cấp của doanh nghiệp bảo hiểm đó), cho dù gọi là công ty hay chi nhánh thì bản chất nó chỉ là một chi nhánh vì vậy không thể được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật khác nhau hay có sự ưu ái cho doanh nghiệp này hay doanh nghiệp kia. Vì vậy, tác giả xin kiến nghị sửa đổi Điều 11 Nghị định 42/CP ngày 01/8/2001 hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật kinh doanh bảo hiểm như sau: Điều 11: Đơn vị thành viên, Chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm. 1- Đơn vị thành viên hay chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo quy định của Nghị định này và được quy định trong điều lệ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động của đơn vị thành viên và chi nhánh. Đồng thời, cũng sửa đổi khoản 2 và khoản 3 của điều này quy định về việc Hồ sơ xin thành lập Đơn vị thành viên hay Chi nhánh. Không thể có ngoại lệ là các đơn vị thành viên của các Tổng Công ty thì không phải lập hồ sơ còn các doanh nghiệp cổ phần hay có vốn nước ngoài lại phải trình hồ sơ như quy định hiện hành trong khi về hình thức thì đơn vị thành viên của các Tổng Công ty lại lớn hơn cấp Chi nhánh. Nhà nước cũng cần sớm có quy định việc cho phép các công ty trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nước ngoài được phép hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Hiện nay theo Luật kinh doanh bảo hiểm thì các công ty trách nhiệm hữu hạn không được kinh doanh bảo hiểm (Điều 59), nhưng trước đây Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn tại Việt Nam. Điều này dẫn tới việc đã có 6 công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn đang hoạt động tại Việt Nam. Hiện nay, khi Luật đầu tư nước ngoài được thay thế bằng Luật Đầu tư 2005 thì có sự vênh nhau giữa các quy định pháp luật. Vì vậy, Nhà nước cần sớm có quy định về vấn đề này. Tương tự như vậy, trước đây theo Luật đầu tư nước ngoài thì liên doanh là một loại hình doanh nghiệp giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài (hoặc các bên nước ngoài). Vì vậy trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ cũng có một công ty bảo hiểm liên doanh. Hiện nay, theo Luật đầu tư 2005 thì liên doanh là hình thức đầu tư chứ không còn là loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp thì việc tổ chức lại các công ty này như thế nào, khả năng duy nhất là theo hình thức cổ phần, nhưng phải có hướng dẫn của Nhà nước. * Như đã nêu ở trên, trong thực tế áp dụng, còn tồn tại một số quy định pháp luật chưa thật phù hợp với các nguyên tắc nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, gây ra khá nhiều khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong việc áp dụng trên thực tế và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Việc chỉnh sửa lại những quy định này là một yêu cầu tất yếu và cần được thực hiện một cách nhanh chóng, tăng cường tính hợp lý và hiệu quả của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này. - Xin được quay trở lại ví dụ về một quy định bất hợp lý có liên quan đến việc giải quyết trường hợp kê khai nhầm tuổi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vừa được trình bày tại mục 3.1 của chương 3. Quy định này được xây dựng rõ ràng là thiếu sự tham khảo cần thiết về đặc trưng của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Người phải chịu thiệt thòi trước nhất khi áp dụng quy định này chính là khách hàng mua bảo hiểm (bên mua bảo hiểm). Vì vậy, việc sửa đổi quy định pháp luật này là rất cần thiết, góp phần thể hiện rõ tinh thần của pháp luật là trước hết và trên hết bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. - Bên cạnh đó, những quy định pháp luật còn chưa thống nhất trong Luật kinh doanh bảo hiểm và phù hợp với Luật gốc (Bộ luật dân sự) như quy định về việc "bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm" (khoản 2 Điều 34), hành vi "cố ý cung cấp thông tin sai nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm" (điểm a khoản 2 Điều 19) và việc "bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm" (điểm d khoản 1 Điều 22) sẽ khiến cho các doanh nghiệp và cơ quan tố tụng lúng túng trong cách giải quyết, vì xét về bản chất thì việc cố ý cung cấp thông tin sai sự thật của người mua bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thực chất cũng là một hành vi lừa dối, trong trường hợp bên mua bảo hiểm "cố tình" thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng cũng là một hành vi lừa dối. Do đó, kết luận đúng đắn của các bản án phụ thuộc phần lớn vào "sự linh động" và "công tâm" của các nhà "cầm cân nảy mực"chứ không phải là đảm bảo nguyên tắc tố tụng "xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Do đó, các hậu quả pháp lý của các hành vi trên dẫn đến việc đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng vô hiệu trong Luật kinh doanh bảo hiểm cần được rà soát lại nhằm đảm bảo việc áp dụng các quy định được rõ ràng và chính xác. * Về nghĩa vụ cung cấp thông tin và giải thích hợp đồng bảo hiểm Pháp luật qui định khi giao kết hợp đồng các bên phải cung cấp thông tin cho nhau liên quan đến các nội dung, yêu cầu của hợp đồng bảo hiểm, giao kết, khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm và hậu quả pháp lý trong trường hợp các bên không thực hiện các nghĩa vụ này. Tuy nhiên, khi áp dụng các qui định này trong thực tiễn thì đòi hỏi phải có hướng dẫn giải thích rõ hơn về: + Các trường hợp nào thì coi là doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp sai thông tin nhằm giao kết hợp đồng? + Các thông tin này là những thông tin gì? Thực tế, Luật kinh doanh bảo hiểm qui định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm các điều kiện, điều khoản bảo hiểm... nói chung là các nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Theo qui định của luật, nghĩa vụ giải thích của doanh nghiệp bảo hiểm tương ứng với quyền yêu cầu giải thích của bên mua bảo hiểm (được qui định tại khoản 1(a) Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm. Trường hợp bên mua bảo hiểm không yêu cầu thì doanh nghiệp bảo hiểm có phải giải thích hay không? Thực tế các nội dung của hợp đồng bảo hiểm là các nội dung có sẵn, công khai, và doanh nghiệp bảo hiểm không thể giấu giếm nội dung (các điều khoản bảo hiểm này chịu sự quản lý chặt chẽ về nghiệp vụ của Bộ Tài chính thông qua việc các doanh nghiệp bảo hiểm phải báo cáo, đăng ký các điều khoản bảo hiểm đang áp dụng). Như vậy, bên mua bảo hiểm hoàn toàn có thể tham khảo toàn bộ nội dung hợp đồng trước khi giao kết, trong trường hợp không hiểu cần giải thích thì ngay tại thời điểm đó phải yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích, nếu không có yêu cầu giải thích thì coi như bên mua bảo hiểm đã hiểu và chấp nhận toàn bộ nội dung của hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, vấn đề này cần có hướng dẫn và qui định cụ thể (hoặc cho phép các bên tự thỏa thuận) về thời điểm hoặc khoảng thời gian cụ thể để các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ này; nếu quá thời điểm đó mà các bên không thực hiện thì coi như mặc nhiên không có tranh chấp về vấn đề này. Quy định này là rất cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, tránh trường hợp bên mua bảo hiểm lợi dụng quy định này để lẩn tránh nghĩa vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm không thể chứng minh ngược lại được. * Để hướng tới một thị trường bảo hiểm nhân thọ phát triển bền vững và tăng trưởng trong tương lai, có những quy định mang tính nghiệp vụ cao đã được pháp luật tất cả các nước khác ghi nhận nhưng lại chưa có trong văn bản pháp luật nước ta cần được quan tâm xem xét với mức ưu tiên cao. Đa phần những quy định như vậy là kết quả đúc rút từ những bài học thu được trong thực tiễn kinh doanh và đều hướng tới mục đích tốt đẹp thức đẩy sự phát triển của ngành kinh doanh đầy tính nhân văn này. Quy định sau đây nên được quan tâm, bổ sung ngay, đó là: - Quy định về thời gian tự do xem xét. Đạo lý của quy định này, như đã trình bày ở trên, chính là việc tạo điều kiện cho người mua bảo hiểm có thể xem xét lại hợp đồng bảo hiểm mà mình đã lựa chọn. Điều khoản và các phụ lục ghi nhận các điều kiện cụ thể của hợp đồng (như số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, người thụ hưởng…) chỉ đến tay bên mua bảo hiểm sau khi họ đã nộp phí bảo hiểm đầu tiên và hợp đồng bảo hiểm đã phát sinh hiệu lực. Nhưng cũng phải đến lúc này, họ mới được tạo điều kiện để nghiên cứu một cách thật kỹ lưỡng sản phẩm mình đã chọn qua các tài liệu hợp đồng (trước đó, họ chỉ biết về sản phẩm qua lời giới thiệu của đại lý khai thác). Do vậy, thật hợp lý khi cho rằng bên mua bảo hiểm cần có một khoảng thời gian nhất định sau khi hợp đồng đã phát sinh hiệu lực và đã đến tay họ để xem xét lại xem hợp đồng đã được phát hành có đúng với khả năng tài chính, mong muốn và dự kiến của mình hay không. Nếu câu trả lời là không, khách hàng được quyền từ chối tham gia bảo hiểm và nhận lại phần phí mình đã đóng, đương nhiên là sau khi đã trừ đi các chi phí mà doanh nghiệp bảo hiểm phải bỏ ra để khai thác hợp đồng. Điều này cũng nhằm đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và tự do ý chí - một nguyên tắc cơ bản của việc giao kết và thực hiện mọi hợp đồng dân sự nói chung. Tuy nhiên, thời hạn này cũng phải đảm bảo không quá dài để có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm, không đưa doanh nghiệp vào tình thế bất lợi vì bị khách hàng lợi dụng. Trên cơ sở cân nhắc tất cả các yếu tố này, các doanh nghiệp bảo hiểm trên khắp thế giới đã cùng nhau lựa chọn và hầu hết đều chọn khoảng thời gian 14 ngày kể từ ngày hợp đồng phát sinh hiệu lực. Các nhà lập pháp ở các quốc gia cũng nhận thấy tính hợp lý của thời hạn này, do vậy, pháp luật các nước đều ghi nhận nội dung tương tự. Ví dụ như Luật bảo hiểm của Singapore, chương 142, phụ lục D6, phần VII quy định rõ: các công ty bảo hiểm phải dành 14 ngày "tự do xem xét" cho người sở hữu đơn bảo hiểm kể từ khi nhận được đơn bảo hiểm. Đối với điều kiện thị trường nước ta, một quy định như vậy lại càng là vô cùng cần thiết vì nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ còn quá mới mẻ và trình độ hiểu biết của người dân nói chung về bảo hiểm nhân thọ còn thấp. Điều khoản này sẽ phát huy vai trò tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm. Bên cạnh đó, với thực tế quy trình kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, có thể nói thời hạn 14 ngày và tính từ thời điểm hợp đồng phát sinh hiệu lực là khoảng thời gian phù hợp nhất cho bên mua bảo hiểm thực hiện quyền tự do xem xét lại hợp đồng của mình. Khoảng thời gian này là vừa đủ cho việc hợp đồng được phát hành và chuyển tới tay cho khách hàng nghiên cứu, lại cũng không quá dài để có thể gây biến động thường xuyên, ảnh hưởng đến sự ổn định kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. Việc quy định vấn đề này bằng một quy phạm pháp luật còn giải quyết được vấn đề bức xúc hiện nay là tình trạng thiếu thống nhất khi xây dựng và vận dụng quy định này giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường nước ta. Sự chủ động, linh hoạt là quyền riêng có trong kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, tuy nhiên nếu không được định hướng thì sự linh hoạt quá đà có thể gây rối loạn trên thị trường và có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm. * Do người tiêu dùng cá nhân còn rất thiếu kinh nghiệm sử dụng bảo hiểm, khi nghiên cứu các điều khoản của bảo hiểm thì cũng không nghiên cứu được sâu do có quá nhiều thuật ngữ chuyên môn khó hiểu. Vì vậy, quy định pháp luật về chuẩn hóa các thuật ngữ sử dụng trong hợp đồng bảo hiểm và các tài liệu đi kèm là hết sức quan trọng. Thực tế kinh doanh cho thấy, khách hàng thường không có kinh nghiệm nhiều về bảo hiểm nên trong quá trình ký kết hợp đồng, nhiều khi tin tưởng tuyệt đối vào đại lý và cũng không nghiên cứu kỹ điều khoản hợp đồng bảo hiểm hoặc nếu có nghiên cứu thì cũng không hiểu rõ hết do có quá nhiều thuật ngữ chuyên môn khó hiểu. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm cần ban hành quy định chuẩn hóa các thuật ngữ phù hợp với quy định của luật để các công ty bảo hiểm cùng sử dụng thống nhất nhằm tạo điều kiện cho người mua bảo hiểm đọc, hiểu và so sánh được các hợp đồng bảo hiểm của các công ty bảo hiểm khác nhau, giúp khách hàng có thể hiểu rõ ràng ý nghĩa của các điều khoản và điều kiện bảo hiểm, tránh việc hiểu sai, hiểu lầm trong tương lai. * Vấn đề một công ty bảo hiểm rút lui khỏi thị trường hoặc trở nên mất khả năng thanh toán cần được pháp luật quy định chi tiết và cụ thể hơn. Vì hiện nay, các quy định hiện hành có đề cập tới việc chuyển giao các hợp đồng bảo hiểm nhưng không đề cập cụ thể tới trường hợp một công ty bảo hiểm chủ động chấm dứt hoạt động trên thị trường. Quy định pháp luật cũng đã liệt kê những biện pháp nhằm phục hồi khả năng thanh toán của một công ty bảo hiểm, việc thành lập ban giám sát nhằm kiểm soát các công ty mất khả năng thanh toán, nhưng chưa quy định cụ thể các biện pháp này cần được thực hiện như thế nào, ban giám sát được thành lập và hoạt động ra sao. Luật kinh doanh bảo hiểm (Điều 83) cũng đã dẫn chiếu đến Luật phá sản doanh nghiệp: "Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, sau khi áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán mà vẫn mất khả năng thanh toán thì việc phá sản doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp". Nhưng công ty bảo hiểm không giống như bất kỳ công ty nào khác, quyền lợi của người mua bảo hiểm phải được ưu tiên bảo vệ. Nếu áp dụng thủ tục phá sản doanh nghiệp thông thường, thứ tự ưu tiên nhận thanh toán có thể không đảm bảo được quyền lợi của người mua bảo hiểm. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với các nhà lập pháp là cần phải rà soát kỹ các văn bản pháp lý có liên quan để đảm bảo các nguyên tắc của Luật phá sản doanh nghiệp vẫn được tuân thủ, trong khi quyền lợi của người mua bảo hiểm vẫn được bảo vệ tối đa. Bên cạnh đó, có thể học kinh nghiệm ở một số nước, trong hoạt động của Hiệp hội bảo hiểm (là tổ chức dân sự nghề nghiệp hoạt động trên cơ sở tham gia tự nguyện và đóng góp kinh phí của hội viên là các doanh nghiệp bảo hiểm) thường có các thỏa thuận nhằm hạn chế những ảnh hưởng bất lợi của tình trạng phá sản doanh nghiệp bảo hiểm, chẳng hạn việc thống nhất thỏa thuận: Các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh cùng loại nghiệp vụ bảo hiểm có trách nhiệm chia sẻ hậu quả của việc phá vỡ cam kết đối với những người mua sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm bị phá sản. Bên cạnh các quy định pháp luật cần được sửa đổi bổ sung như đã nêu ở trên, tác giả xin kiến nghị thêm một số vấn đề sau mà các nhà làm luật cần nghiên cứu quan tâm, xem xét: - Theo Luật kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể sử dụng vốn nhàn rỗi để cho vay phù hợp với Luật các tổ chức tín dụng. Nhưng hiện nay, sự không đồng bộ trong các quy định pháp luật hiện hành khiến các công ty bảo hiểm chưa thể cho vay vốn trực tiếp. Vì theo quy định trong Luật các tổ chức tín dụng, việc cấp phép cho phép các công ty bảo hiểm tiến hành hoạt động tín dụng thuộc thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiện tại, Chính phủ chưa có nghị định hướng dẫn về việc cho vay của các doanh nghiệp bảo hiểm nên chưa có văn bản pháp quy nào của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cụ thể về việc cấp phép cho các công ty bảo hiểm tiến hành hoạt động tín dụng. Do đó, trong lĩnh vực này, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chưa có một hành lang pháp lý rõ ràng để tiến hành đầu tư. - Đối với ngành bảo hiểm, thị trường chứng khoán vừa đóng vai trò là kênh huy động vốn, vừa đóng vai trò là nơi đầu tư nhàn rỗi của các doanh nghiệp bảo hiểm. Cho đến nay, một phần do các hạn chế của quy định pháp luật, một phần do sự hạn chế về khả năng tài chính cũng như sự minh bạch của tình hình tài chính doanh nghiệp nên chưa có một doanh nghiệp bảo hiểm nào được niêm yết trên thị trường chứng khoán, do đó thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực hiện được vai trò huy động vốn cho các công ty bảo hiểm. Về mặt đầu tư, thị trường chứng khoán với quá ít sản phẩm, hàng hóa niêm yết, việc công bố thông tin còn chậm, chưa cập nhật, chính xác, mức độ minh bạch của thị trường còn ở mức trung bình khiến các sản phẩm, hàng hóa có độ rủi ro cao hơn như cổ phiếu của các công ty niêm yết chưa đủ sức hấp dẫn các công ty bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo hiểm có vốn nước ngoài. Hiện nay, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu tập trung vào trái phiếu chính phủ, tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Mặc dù đây là hình thức đầu tư an toàn, nhưng mức độ sinh lời thấp, làm giảm hiệu quả hoạt động, cũng như hạn chế chức năng tài chính trung gian của các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo một số nghiên cứu cho thấy, trong tương lai, tại Việt Nam, ngân hàng sẽ không còn đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, và thị trường vốn cần phải được cải thiện nhằm đảm bảo đủ vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các nhà lập pháp phải nghiên cứu, cải thiện các quy định pháp lý nhằm trợ giúp các công ty bảo hiểm đầu tư vào thị trường chứng khoán được thuận lợi, biến thị trường chứng khoán thành nơi cung cấp các cơ hội đầu tư tốt cho các công ty bảo hiểm. - Hiện tượng đặt ra mối quan ngại chung cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là hiện nay, theo đà phát triển của lĩnh vực kinh doanh này, thì hiện tượng khách hàng có hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm diễn ra ngày càng phổ biến. Để ngăn chặn, hạn chế các hành vi trục lợi bảo hiểm của khách hàng và sự thông đồng của cán bộ bảo hiểm, Nhà nước ta đã ban hành Nghị định 118/2003/NĐ-CP ngày 13/10/2003 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong đó có quy định xử phạt về hành vi trục lợi trong việc tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm. Tuy nhiên, với mức xử phạt bằng tiền thấp như quy định hiện nay thì việc xử phạt hành chính chưa có ý nghĩa răn đe khách hàng cũng như cán bộ có hành vi trục lợi bảo hiểm. Thực tế cho thấy, nếu việc xử lý các trường hợp vi phạm không nghiêm minh, thỏa đáng thì không một luật lệ nào thực sự đảm bảo được hiệu lực lâu dài. Chỉ có sự giám sát, kiểm tra thường xuyên của cơ quan chức năng đi đôi với việc xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm bằng cách đề ra những biện pháp, chế tài đủ mạnh mới đảm bảo được sự công bằng, và ngành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ mới có một môi trường lành mạnh, trong đó các chủ thể tham gia thị trường đều hoạt động trên cơ sở tôn trọng pháp luật, cùng tồn tại và phát triển bền vững, vì lợi ích của cộng đồng và xã hội. Nói tóm lại, bên cạnh những mặt tích cực trong việc sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, vẫn tồn tại một số quy định pháp luật còn bất cập cần được rà soát nhằm điều chỉnh các quy định chưa phù hợp, bổ sung các quy định còn thiếu hoặc chưa rõ ràng nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên trong quan hệ hợp đồng, cũng như lợi ích chung của toàn ngành và toàn xã hội. Có như vậy, pháp luật mới thực sự đóng vai trò môi trường pháp lý cần thiết và hữu hiệu, giúp cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phát triển. kết luận Bảo hiểm nhân thọ ra đời xuất phát từ nhu cầu trong cuộc sống, việc ra đời của bảo hiểm nhân thọ đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc thực hiện và giải quyết các nhu cầu tài chính liên quan tới con người. ở Việt Nam, sự ra đời, phát triển của bảo hiểm nhân thọ gắn liền với những thay đổi của đất nước, bảo hiểm nhân thọ mới đi vào hoạt động được 10 năm sau thời kỳ đổi mới kinh tế và nghiệp vụ này đến nay có thể nói vẫn còn là mới mẻ, nhưng cũng rất hấp dẫn và đầy hứa hẹn ở Việt Nam. Trong hơn mười năm vừa qua, hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ đã tạo được việc làm cho hơn 100.000 lao động, đóng góp cho ngân sách hàng năm khá cao. Nghiệp vụ này cũng đã tạo ra một hướng đi mới để phát triển an sinh xã hội ở nước ta, mang lại sự bảo vệ cho hàng triệu người trước những rủi ro không mong đợi, nhưng thường là những rủi ro nặng nề nhất mà cuộc đời một con người phải hứng chịu, đó là chết và thương tật. Đồng thời, bảo hiểm nhân thọ góp thêm một tiếng nói để mở rộng các hình thức dịch vụ tài chính, huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để đầu tư trở lại cho nền kinh tế, thúc đẩy giao lưu tài chính và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Do đặc trưng nghiệp vụ của mình, bảo hiểm nhân thọ còn tạo thêm cơ hội để thúc đẩy phát triển công nghệ, kỹ thuật cao trong nước. Chính vì có ý nghĩa trên nhiều mặt như vậy, bảo hiểm nhân thọ đang được Nhà nước ta quan tâm đầu tư phát triển bằng nhiều biện pháp, trong đó là việc tạo cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tham gia vào thị trường có một hành lang pháp lý thông thoáng để phát triển hoạt động kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp bảo hiểm đã nhận được sự quan tâm từ phía Nhà nước bằng việc Nhà nước ta đã lần lượt ban hành bổ sung, sửa đổi các quy định pháp luật phù hợp điều chỉnh lĩnh vực hoạt động này. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực cũng còn tồn tại một số quy định pháp luật bất cập gây khó khăn cho các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong quá trình hoạt động và gây thắc mắc trong khách hàng khi tham gia bảo hiểm, điều này cũng sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Chính vì vậy, cần quan tâm đến việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ phát triển, cụ thể là: - Bổ sung quy định pháp luật về loại hình doanh nghiệp bảo hiểm được phép kinh doanh trên thị trường, sửa đổi những nguyên tắc nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ chưa phù hợp trong thực tiễn kinh doanh, để pháp luật thực sự đáp ứng đúng những nhu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong cuộc sống; - Bổ sung một số quy định pháp luật còn thiếu trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần nâng cao hiệu quả tác động của pháp luật; - Củng cố và đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước về bảo hiểm nhân thọ trên nhiều mặt, để hoạt động bảo hiểm nhân thọ hoạt động theo đúng định hướng của Nhà nước, mang lại lợi ích thiết thực cho mỗi khách hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế - xã hội đất nước; đồng thời đấu tranh kiên quyết và không khoan nhượng với các biểu hiện vi phạm pháp luật, lừa dối khách hàng hoặc trục lợi bảo hiểm để hoạt động bảo hiểm nhân thọ phát triển lành mạnh và vững chắc về chất; - Tăng cường việc đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý cho ngành để đảm bảo hiệu quả quản lý trước mắt cũng như về lâu về dài. Đồng thời, cần có sự quan tâm thích đáng đến việc tuyên truyền, giáo dục người dân những kiến thức chung về bảo hiểm nhân thọ, nâng dần mặt bằng hiểu biết xã hội về nghiệp vụ này nhằm phát triển bảo hiểm nhân thọ trên diện rộng cũng như tăng cường sự quan tâm chung đến các bảo đảm an toàn xã hội. Đi lên cùng với sự phát triển toàn diện mọi mặt nền kinh tế - xã hội đất nước, vấn đề tăng cường an sinh xã hội đang ngày càng thu hút được sự quan tâm sâu sắc và rộng khắp của cả Nhà nước cũng như mỗi người dân. Đó chính là cơ hội và là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, sự phát triển này sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực cho đời sống của người dân và sự phát triển của đất nước. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thời cơ và những thách thức mới đang mở ra. Hơn lúc nào hết, đây là thời điểm Nhà nước ta cần phải rà soát lại các quy định pháp luật về lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ để các quy định này phù hợp với pháp luật quốc tế, tạo đà cho sự phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. danh mục Tài liệu tham khảo Bản tin của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, số 1 (2003). Bản tin của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (2005). Bộ Tài chính (2003), Quyết định số 153/2003/QĐ-BTC ngày 22/9 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu giám sát doanh nghiệp bảo hiểm, Hà Nội. Bộ Tài chính (2004), Thông tư 98/2004/TT-BTC ngày 19/10 hướng dẫn thi hành Nghị định 42/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ, Hà Nội. Bộ Tài chính (2004), Thông tư 99/2004/TT-BTC ngày 19/10 hướng dẫn thi hành Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ, Hà Nội. Chính phủ (1993), Nghị định 100/CP ngày 18/12 về kinh doanh bảo hiểm, Hà Nội. Chính phủ (1997), Nghị định 74/ CP ngày 14/6 sửa đổi Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm, Hà Nội. Chính phủ (2001), Nghị định 42/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Hà Nội. Chính phủ (2001), Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8 qui định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, Hà Nội. Chính phủ (2003), Quyết định 175/2003/QĐ-TTg ngày 29/8 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt "Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến 2010", Hà Nội. Chính phủ (2003), Nghị định số 118/2003/NĐ-CP ngày 13/10 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Hà Nội. Công ty bảo hiểm/ bảo hiểm nhân thọ Châu á (1998), Khái quát về Luật kinh doanh bảo hiểm tại Singapore và Malaysia, Tài liệu hội thảo ngày 22/5. David Bland (Học viện bảo hiểm Hoàng gia Anh), Bảo hiểm, nguyên tắc và thực hành, Nxb Tài chính, Hà Nội. Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh (2000), Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. Giáo trình Lý thuyết bảo hiểm (2005), Nxb Tài chính, Hà Nội. Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Nguyễn Am Hiểu (2003), "Hình thức pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ luật so sánh", Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 37-42. Trương Mộc Lâm (Chủ biên) (2001), Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội. Trương Mộc Lâm - Lưu Nguyên Khánh (2001), Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội. Luật bảo hiểm một số nước trên thế giới (1999), Nxb tài chính, Hà Nội. Một số điều khoản và sản phẩm bảo hiểm Nhân thọ tham khảo của các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị trường. Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác động của tự do hóa thương mại dịch vụ tại Việt Nam: Ngành bảo hiểm (2006), Dự án VIE. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự Việt Nam, Hà Nội. Quốc hội (1999), Luật doanh nghiệp, Hà Nội. Quốc hội (2000), Luật kinh doanh bảo hiểm, Hà Nội. Quốc hội (2000), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội. Quốc hội (2003), Luật doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự Việt Nam, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật đầu tư, Hà Nội. Tạp chí Bảo hiểm (Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam). Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2005 (2006), Nxb Tài chính, Hà Nội. Thông tin thị trường bảo hiểm - tái bảo hiểm (2002), số 1, 2, 3, 4, 8. Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam, Báo cáo về tình hình kinh doanh bảo hiểm nhân thọ qua các năm, Hà Nội. Trung tâm Đào tạo Bảo Việt (2004), Nguyên tắc kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, Nxb Thống kê, Hà Nội. Trung tâm Đào tạo Bảo Việt (2004), Hoạt động trong công ty bảo hiểm nhân thọ, Nxb Thống kê, Hà Nội. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2000), Giáo trình bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2003), Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nxb Thống kê, Hà Nội. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tài chính, Hà Nội. Trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội (1999), Giáo trình bảo hiểm, Nxb tài chính, Hà Nội. Trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội và Liên đoàn các công ty Bảo hiểm Pháp, "Bảo hiểm con người", Trong cuốn: Kỹ thuật Bảo hiểm, Tập VI. Tiếng anh Liberty Mutual Group - AR 2005. Life and Health Insurance Law - Muriel L. Crawford - Life Management Institute LOMA, USA, 1998. Life Insurance and Law - Satoru Takeuchi - Oriental Life Insurance Cultural Development Center, Tokyo, Japan, 1995. Principles of Insurance: Life, Health, and Annuities của LOMA (Life office Management Association, Inc). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2671.doc
Tài liệu liên quan