Giải pháp mở rộng & nâng cao chất lượng tín dụng trung & dài hạn tại Ngân hàng Công thương Ba Đình

Lời mở đầu Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, nước ta đã bước đầu đạt được những thành tựu to lớn như : tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, lạm phát được kiềm chế và đời sống nhân dân ngày một được cải thiện. Tuy nhiên do xuất phát điểm của chúng ta không cao, nền sản xuất ở mức độ thấp, trang thiết bị và công nghệ còn lạc hậu. Vì thế vấn đề quan trọng hiện nay đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải chú trọng đầu tư mua sắm tài sản cố định, mở rộng cơ sở sản xuất, đầu tư theo chiề

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1191 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng & nâng cao chất lượng tín dụng trung & dài hạn tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u sâu nhằm hiện đại hóa kỹ thuật công nghệ, hoàn thành và nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Muốn thực hiện được điều này, các doanh nghiệp phải sử dụng đến một khối lượng vốn khá lớn và trong khoảng thời gian tương đối dài. Nguồn vốn mà các doanh nghiệp dùng để đầu tư có thể là Nguồn vốn tự có, vốn do Ngân sách Nhà nước cấp, vốn liên doanh liên kết, vốn cổ phần, vốn vay Ngân hàng… Trong điều kiện nước ta hiện nay thì tín dụng trung dài hạn của các Ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu về vốn đầu tư của các doanh nghiệp. Trong suốt chặng đường hơn 10 năm thành lập và đổi mới, bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHCT Ba Đình vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn còn chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng dư nợ; hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHCT Ba Đình vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp. Trong khi rất nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn có nhu cầu vay ngân hàng thì ngân hàng lại thừa vốn không cho vay được phải điều chuyển lên Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Những tồn tại và hạn chế này do những nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra, đòi hỏi NHCT Ba Đình phải nhanh chóng xem xét và khắc phục. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tín dụng Ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn, qua tìm hiểu tình hình thực tế hoạt động tín dụng của NHCT Ba Đình tôi quyết định chọn đề tài : “ Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo Chuyên đề thực tập bao gồm 3 chương: Chương I : Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình. Chương III: Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình. Do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên những khía cạnh đề cập tới trong chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong rằng sẽ nhận được những đóng góp bổ ích từ phía các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ trong ngân hàng để có thể bổ sung, hoàn thiện hơn vốn kiến thức của mình. Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Thạc sỹ Nguyễn Viết Mạnh cùng toàn thể các cô chú, anh chị cán bộ trong ngân hàng đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực tập và thực hiện Chuyên đề. Chương I: Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. I.1. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn của NHTM. I.1.1. Khái niệm. Tín dụng là quá trình chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của một tổ chức hay cá nhân này cho một tổ chức hay cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc hoàn trả. Qua định nghĩa trên ta có thể thấy rằng trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ nhượng quyền sử dụng cho người vay sau một thời gian nhất định đã thỏa thuận nào đó, người đi vay phải hoàn trả lại cho người cho vay cả vốn lẫn lãi trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng có lợi cho cả hai bên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của quan hệ tín dụng. Tuy vậy nó vẫn giữ nguyên bản chất ban đầu của quan hệ tín dụng nói chung. Tín dụng ngân hàng biểu hiện quan hệ vay mươn trên cơ sở hoàn trả có lãi giữa ngân hàng và các thành phần kinh tế trong xã hội. Tín dụng ngân hàng được hình thành trên cơ sở các nghiệp vụ ngân hàng. Các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng rất phong phú và đa dạng như các ngân hàng, các đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân… Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, đem lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng nhưng nó cũng là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro cho ngân hàng. Chính vì thế để tiện cho việc quản lý các khoản vay các ngân hàng thường phân loại tín dụng theo nhiều tiêu chí khác nhau như mục đích vay, thành phần kinh tế, đối tượng tín dụng, hình thái giá trị của tín dụng…và theo một tiêu chí không thể thiếu được đó là phân loại theo thời hạn. Mục đích của việc phân loại tín dụng theo kỳ hạn là để xem xét, đánh giá trạng thái lỏng, khả năng chuyển hóa thành tiền mặt nhanh và mức độ rủi ro của các khoản cho vay trong tổng tài sản có. Tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng được phân loại theo kỳ hạn. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là các khoản cho vay của ngân hàng có thời hạn trên một năm nhưng không dài hơn thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành bằng vốn vay ngân hàng. Việc phân chia cụ thể tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn tuỳ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia * Tín dụng trung hạn : các nước trên thế giới quy định tín dụng trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 7 năm, riêng ở Việt Nam quy định loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ và mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. * Tín dụng trung hạn : hầu hết các nước quy định cho vay dài hạn có thời hạn trên 7 năm, riêng Việt Nam quy định loại tín dụng này có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, mua sắm các thiết bị, phương tiện có quy mô lớn, xây dựng xí nghiệp có quy mô lớn và thời gian hoạt động dài. I.1.2. Tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Tín dụng trung và dài hạn là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Mối quan hệ này được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên tham gia dựa trên nguyên tắc cùng có lợi. Như vậy rõ ràng việc tham gia vào quan hệ tín dụng này là hoàn toàn tự nguyện và nó đem lại lợi ích cho cả hai bên tham gia là ngân hàng và khách hàng. Không chỉ có vậy, ngân hàng và doanh nghiệp là hai chủ thể quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế quốc dân, do đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hai chủ thể này sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Ngày nay với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các NHTM , ta có thể thấy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng như thế nào đối với sự vận hành của một nền kinh tế, trong đó tín dụng trung và dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng trong cho việc phát triển kinh tế của đất nước. Tóm lại, việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là cần thiết khách quan, nó đem lại lợi ích cho cả ba chủ thể là ngân hàng , doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung. * Đối với ngân hàng: Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu nhất của một NHTM, nó chiếm một tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản có của ngân hàng và đây là khoản mục đem lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập từ tiền cho vay được biểu hiện dưới dạng tiền lãi cho vay và phụ thuộc chủ yếu vào thời hạn của khoản vay theo nguyên tắc thời hạn cho vay càng dài thì lãi suất cho vay càng lớn. Chính vì thế nếu một ngân hàng mở rộng cho vay trung và dài hạn thì điều đó có nghĩa rằng ngân hàng đã làm tăng thu nhập của mình. Tuy nhiên đối với các khoản vay có thời hạn dài thì rủi ro tiềm ẩn cũng càng cao và đó là lý do vì sao mở rộng quy mô phải luôn đi kèm với nâng cao chất lượng tín dụng. Hơn nữa, việc đáp ứng tốt nhu cầu tín dụng trung và dài hạn cũng đem lại cho ngân hàng một vũ khí cạnh tranh lợi hại trên thị trường. Khả năng mở rộng tín dụng trung và dài hạn thể hiện tiềm lực mạnh về vốn của ngân hàng, chất lượng tín dụng cao thể hiện năng lực quản lý của lãnh đạo, năng lực chuyên môn của cán bộ ngân hàng. Điều đó sẽ tạo nên uy tín ngày càng cao cho ngân hàng. Bên cạnh đó, khi ngân hàng đầu tư tín dụng trung và dài hạn trong doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp mới thì thường hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với ngân hàng, mọi nhu cầu về vốn lưu động phục vụ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh, các nhu cầu thanh toán bảo lãnh, tư vấn của doanh nghiệp đều qua ngân hàng nhờ vậy ngân hàng có thể tăng thêm thu nhập cho mình. Còn đối với các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất nhu cầu về vốn lưu động cho các chu kỳ sản xuất sau đó sẽ tăng lên và như vậy tín dụng ngắn hạn và các dịch vụ của ngân hàng sẽ được các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn và vì thế thu nhập của các NHTM sẽ được tăng thêm. * Đối với doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường ở mỗi thời kỳ nhu cầu về vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp luôn là một đòi hỏi cấp thiết. Các doanh nghiệp mới thành lập thì cần vốn để mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như nhà xưởng, kho bãi và đáp ứng một phần vốn lưu động. Các doanh nghiệp đang hoạt động thì luôn có nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng sản xuất khi gặp cơ hội kinh doanh thuận lợi. Để làm được điều đó có doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn lớn và thời gian sử dụng tương đối dài. Mỗi doanh nghiệp có thể có nhiều nguồn khác nhau để đáp ứng các nhu cầu đó của mình, song một trong những nguồn quan trọng nhất thường được các doanh nghiệp sử dụng là nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Đặc biệt trong điều kiện đang phát triển của Việt Nam nhu cầu cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn tự tích lũy của các doanh nghiệp lại rất thấp, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất dồi dào nhưng việc đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp còn khá xa lạ đối với họ, thị trường chứng khoán đã ra đời song mới chỉ ở thời kỳ sơ khai nên là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Trong điều kiện như vậy thì vốn tín dụng ngân hàng là một sự lựa chọn hiệu quả nhất. Trong môi trường nền kinh tế cạnh tranh gay gắt các chủ thể kinh doanh luôn phải chủ động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp để làm cho sản phẩm có được chỗ đứng trên thị trường. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, đầu tư trang thiết bị hiện đại, mở rộng dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển trên thị trường. Do đó vấn đề đầu tư cho phát triển sản xuất được đưa ra như một yêu cầu bức thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Mục đích của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp là đầu tư vào mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng mua sắm trang thiết bị công nghệ hiện đại, tức là đầu tư theo chiều sâu nên ta có thể thấy tác động trực tiếp của tín dụng trung và dài hạn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ hình thành từ vốn vay dài hạn sẽ được cải tạo nâng cấp và hiện đại hóa làm cho năng suất lao động được nâng cao, giảm giá thành sản phẩm, dẫn đến sản phẩm sản xuất ra có sức hấp dẫn thu hút khách hàng sẽ thúc đẩy chiếm lĩnh thị trường. Từ đó làm tiền đề cho việc tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp. * Đối với nền kinh tế: Nền kinh tế của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, dù đó là một quốc gia chậm phát triển, đang phát triển hay phát triển thì nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển đều rất cần thiết. Đối với các nước chậm phát triển hoạt động đầu tư chủ yếu là theo chiều rộng dưới hình thức xây dựng mới, các nước phát triển thì chủ yếu đầu tư chiều sâu theo hướng hiện đại hóa, còn các nước đang phát triển thì cần phải kết hợp đầu tư vừa theo chiều rộng vừa theo chiều sâu. Nhưng dù là đầu tư theo cách nào thì cũng đều cần đến nguồn vốn và phải là nguồn vốn trung và dài hạn. Nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư này có thể khai thác từ nhiều kênh khác nhau trong đó kênh tín dụng ngân hàng luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế, tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đã thu hút những nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng nền kinh tế. Phát triển tín dụng trung và dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, giảm các khoản bao cấp từ Ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản, góp phần giảm bớt thâm hụt Ngân sách, hơn thế nữa hiệu quả mang lại cũng tỏ ra cao hơn. Bởi lẽ đồng vốn lúc này đã gắn kết chặt chẽ quyền lợi và trách nhiệm của ngân hàng cũng như doanh nghiệp xin vay vốn. Đối với ngân hàng để bảo toàn vốn nên mỗi dự án xin vay ngân hàng sẽ phải xem xét kỹ lưỡng tính khả thi của dự án trước khi ra quyết định cho vay. Ngay cả sau khi đã giải ngân các ngân hàng cũng phải giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay để có biện pháp điều chỉnh kịp thời trước những vấn đề nảy sinh và trong các trường hợp cần thiết các ngân hàng còn phải tư vấn cho doanh nghiệp, đưa ra những lời khuyên bổ ích giúp cho việc đảm bảo an toàn và sinh lời của vốn vay. Về phía các doanh nghiệp lãi suất tín dụng trung và dài hạn là một chi phí khá lớn, do vậy các doanh nghiệp cũng sẽ phải tính toán kỹ lưỡng để sử dụng vốn vay một cách hợp lý và hiệu quả nhất. Vì vậy tín dụng trung và dài hạn là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó tín dụng trung và dài hạn cũng có thể được sử dụng như một công cụ tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo những định hướng có lợi nhất. Thông qua việc mở rộng cho vay đối với những lĩnh vực cần khuyến khích và hạn chế cho vay đối với những lĩnh vực không cần đẩy mạnh, các ngân hàng đã tham gia tích cực vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế một cách chủ động và tích cực. Đối với Việt Nam do xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, nên nền kinh tế nước ta gặp vô vàn khó khăn trong công cuộc Công nghiệp hóa _ Hiện đại hóa. Trước mắt là nhu cầu về vốn nhất là vốn trung và dài hạn để đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, chuyển dịch nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại với cơ cấu Công nghiệp - Nông nghiệp - Dịch vụ hợp lý, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng và chiều sâu. Nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên bài học kinh nghiệm từ các nước trong khu vực trong thời gian qua đã cho thấy việc quá lạm dụng vào vốn nước ngoài sẽ đưa đất nước đến những biến động về tài chính tiền tệ không thể kiểm soát nổi. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của vốn trong nước nên tại Đại hội Đảng lần VIII đã khẳng định: “ Vốn nước ngoài là quan trọng, vốn trong nước là quyết định” . Đối với nguồn vốn trong nước thì nguồn vốn cấp phát từ Ngân sách Nhà nước rất hạn hẹp, không thể đầu tư dàn trải cho nhiều lĩnh vực mà chủ yếu tập trung xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng và một số công trình công nghiệp lớn. Nguồn vốn tự tích lũy của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay quá nhỏ bé, không thể đáp ứng nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất. Chỉ có nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là khá dồi dào song việc huy động được nguồn vốn này lại không phải là dễ dàng. Các hình thức đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp vẫn còn rất xa lạ với đại bộ phận công chúng. Thị trường chứng khoán mới ra đời và chưa phát triển hoàn thiện do đó việc huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu gặp phải nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó thì hiện tại và thời gian tới vốn tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò quyết định cho tiến trình Công nghiệp hóa_ Hiện đại hóa đất nước. Vì vậy mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là điều kiện cần thiết góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. I.1.3. Một số vấn đề cơ bản của tín dụng trung và dài hạn. * Nguồn cho vay trung và dài hạn: Nguồn vốn cho vay trung và dài hạn được hình thành từ các nguồn sau: ã Phần vốn tự có dôi ra sau khi ngân hàng dùng vốn tự có để mua sắm tài sản cố định, hùn vốn, góp vốn liên doanh liên kết và bù đắp những khoản nợ khê đọng khó đòi ã Vốn huy động trong nước và nước ngoài từ 1 năm trở lên bằng cách phát hành kỳ phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn. ã Một phần vốn huy động ngắn hạn trong nước có thể dùng để cho vay trung và dài hạn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ này phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định. ã Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội ở trong và ngoài nước để cho vay trung và dài hạn. * Đối tượng cho vay trung và dài hạn: Đó là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo khôi phục, đổi mới kỹ thuật ứng dụng khoa học và công nghệ đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và được ngân hàng cho vay chấp thuận. Cụ thể bao gồm 3 nhóm chi phí sau: ã Nhóm chi phí xây dựng : bao gồm chi phí nguyên vật liệu; chi phí nhân công; chi phí mua hoặc thuê máy móc thi công. ã Nhóm chi phí thiết bị: bao gồm tiền mua thiết bị; chi phí lắp đặt; vận chuyển; bảo dưỡng thiết bị; tiền thuê hoặc mua máy móc phục vụ cho việc lắp đặt thiết bị. ã Nhóm chi phí khác gồm có: chi phí khảo sát thiết kế; chi phí giải phóng mặt bằng; chi phí đào tạo nhân công kỹ thuật, thuê chuyên gia; chi phí chạy thử máy; chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ thi công công trình; giá trị của các phát minh sáng chế công nghệ mới; tiền thuê hoặc mua đất đai; chi phí khánh thành công trình... Mức cho vay đối với một dự án đầu tư được tính bởi công thức : Mức cho vay tối đa Tổng giá trị dự toán Vốn tự có, tự huy động đối với dự án của công trình dùng cho XDCBtham gia Tuy nhiên mức cho vay tối đa đối với dự án này không được phép vượt quá 70% giá trị của tài sản được dùng làm vật cầm cố thế chấp và cũng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng đó. * Thời hạn cho vay trung và dài hạn: Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Thời hạn cho vay trung hạn được quy định từ 12 tháng đến 60 tháng. Thời hạn cho vay dài hạn được quy định từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời gian hoạt động còn lại theo quyết định thành lập của giấy phép kinh doanh đối với pháp nhân, không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống. * Các hình thức tín dụng trung và dài hạn: Ngày nay, về mặt hình thức, tín dụng trung và dài hạn không chỉ đơn thuần là việc phát tiền vay với thời hạn trên 1 năm mà nó ẩn dưới rất nhiều hình thức, trong đó có thể kể ra các hình thức khá phổ biến sau: ã Cho vay theo kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của doanh nghiệp là loại cho vay được thực hiện theo phương pháp cho vay thông thường dựa trên cơ sở nhu cầu vốn vay của từng công trình, hạng mục công trình được xác định trong kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của mỗi doanh nghiệp. ã Cho vay theo dự án là một phương pháp cho vay dựa trên một văn bản hoàn chỉnh về vay vốn và trả nợ được nghiên cứu soạn thảo, xét duyệt, ký kết giữa người đi vay và ngân hàng, đồng thời dựa trên những căn cứ khoa học kỹ thuật phù hợp với pháp luật và đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước. ã Tín dụng tuần hoàn : là phương thức cho vay dựa vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được coi là tín dụng trung và dài hạn khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài trên 1 năm và khi đó người vay có thể rút tiền bất cứ khi nào miễn là phải cam kết trả nợ ngay khi có nguồn thu trong thời gian hợp đồng có hiệu lực. ã Tín dụng thuê mua : là một trong những hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn nhưng bằng tài sản thay vì bằng tiền trong đó ngân hàng chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho doanh nghiệp thuê sử dụng, doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và có thể được sở hữu tài sản thuê hoặc được quyền mua lại tài sản thuê hoặc được thuê tiếp theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua. * Điều kiện vay vốn trung và dài hạn: ã Người vay vốn phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. ã Người vay vốn sản xuất kinh doanh phải có lãi vì chỉ có họ mới có thể trả nợ được cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cũng cho các đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ vay vốn như đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ nhưng chiều hướng kinh doanh có lãi, có phương án khắc phục khả thi; đơn vị sản xuất kinh doanh lỗ theo kế hoạch nhưng các đơn vị này khi muốn được vay vốn phải có kế hoạch lỗ một cách rõ ràng, phải được cơ quan tài chính có thẩm quyền cam kết bù lỗ kịp thời đầy đủ. ã Người vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, vốn tín dụng của ngân hàng chỉ để bổ sung vào tổng mức vốn đầu tư của dự án, đồng thời người vay vốn phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải khả thi, có hiệu quả. ã Doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh về quản lý tài chính và hạch toán kế toán đồng thời tình trạng tài chính của doanh nghiệp phải lành mạnh, đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng. ã Người vay vốn phải thực hiện đảm bảo tín dụng theo đúng quy định của Chính phủ và quy chế của Ngân hàng như cầm cố, thế chấp tài sản hoặc được sự bảo lãnh của bên thứ ba. * Quy trình thẩm định dự án đầu tư: ã Thu thập tài liệu, thông tin cần thiết cho việc đánh giá phân tích. ã Xử lý thông tin, đánh giá phân tích. ã Nội dung thẩm định dự án đầu tư gồm: + Thẩm định tư cách pháp nhân vay vốn. + Phân tích tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp trong những năm gần đây( ít nhất là 3 năm liên tục gần đây) gồm: ă Phân tích tình hình tài chính. ă Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư. ă Thẩm định về phương diện kỹ thuật như thẩm định về quy mô, về mặt công nghệ và trang thiết bị, về phương diện tổ chức, quản lý vận hành của dự án. ă Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính. Đặc biệt phải tính toán kỹ lưỡng 2 chỉ tiêu quan trọng nhất là : Giá trị hiện tại ròng NPV và tỷ suất thu hồi vốn nội tại IRR. + Sau khi đã xem xét thẩm định dự án phải lập tờ trình kết quả thẩm định các dự án đầu tư. I.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM và các nhân tố ảnh hưởng. I.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro rất cao và nghiệp vụ tín dụng là một trong những lĩnh vực có nhiều rủi ro nhất. Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam, hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo, chiếm tỷ trọng từ 85-95% doanh thu nên việc đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của NHTM. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu, tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu, đồng thời là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi NHTM. Chất lượng tín dụng có thể được hiểu một cách đơn giản là hiệu quả của việc cho vay ( hay đầu tư, bảo lãnh ) mang lại, là khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn cả vốn gốc lẫn lãi ( hoặc phí ) theo dự định. Hiệu quả và khả năng thu nợ càng lớn thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Điều đó có nghĩa là muốn nâng cao chất lượng tín dụng phải giảm thiểu được rủi ro tín dụng. Với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động chủ yếu và thường xuyên nhất là nhận tiền gửi và cho vay. Do vậy chất lượng tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM. Chất lượng tín dụng đương nhiên được tạo nên bởi chất lượng của từng khoản tín dụng, song nếu bó hẹp khái niệm chất lượng tín dụng đồng nghĩa với chất lượng của một khoản tín dụng thì rõ ràng là không đầy đủ và không phản ánh được hết tính đa dạng và phức tạp của hoạt động tín dụng ngân hàng. Do đó ta có thể hiểu một cách đầy đủ khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn như sau: Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là một khái niệm phản ánh khả năng mở rộng cho vay trung và dài hạn của ngân hàng phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng, yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Các món cho vay của ngân hàng được xem là có chất lượng tốt khi khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay vào đúng các danh mục tài sản xin vay và trong quá trình hoạt động các tài sản này mang lại hiệu quả cao, trên cơ sở đó ngân hàng thu được cả gốc và lãi, còn doanh nghiệp vừa trả được nợ ngân hàng đúng thời hạn vừa bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Xét về tổng thể, ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội. Chất lượng tín dụng chỉ là một khái niệm có tính tương đối, vừa cụ thể được thể hiện qua các chỉ tiêu có thể đánh giá, tính toán được vừa mang tính trừu tượng thể hiện qua sự tác động tới nền kinh tế, xã hội, môi trường… I.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn. * Các chỉ tiêu định tính: Qua sự phân tích ở trên ta có thể thấy chất lượng tín dụng trung và dài hạn thể hiện qua khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng gắn liền với đáp ứng tốt nhu cầu của doanh nghiệp vay vốn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Về mặt định tính các tiêu chí này có thể được đánh giá qua một số khía cạnh sau: ă Trước hết, khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào uy tín của ngân hàng đó. Nếu một ngân hàng có uy tín nó sẽ có khả năng thu hút nhiều khách hàng hơn. Bên cạnh đó, nếu một ngân hàng có đội ngũ khách hàng đông đảo là những doanh nghiệp làm ăn có uy tín thì đó là một trong những dấu hiệu cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng là khả quan. Chất lượng tín dụng còn thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Đối với doanh nghiệp thì điều này trước hết biểu hiện ở chỗ thủ tục đơn giản, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo những nguyên tắc an toàn tối thiểu cần thiết; cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời, an toàn. Nhờ đó doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là sẽ không bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh tốt. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những yêu cầu ban đầu, trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và đầy biến động thì đòi hỏi các NHTM phải năng động hơn nữa mới có thể mong đợi có được chất lượng tín dụng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên cả về chất và lượng của khách hàng. Để đạt được điều đó thì ngoài việc đáp ứng nhanh chóng kịp thời nhu cầu vốn, ngân hàng phải thực sự trở thành người bạn của doanh nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với họ. Chẳng hạn, trong quá trình xét duyệt cho vay nếu thấy dự án vay vốn của doanh nghiệp có những điểm chưa hợp lý, không khả thi thì thay vì từ chối cho vay ngân hàng có thể góp ý, tư vấn cho doanh nghiệp để họ xem xét điều chỉnh lại cho hợp lý. Trong quá trình kinh doanh nếu doanh nghiệp gặp phải những khó khăn bất khả kháng thì ngân hàng có thể xem xét giúp đỡ để cùng tháo gỡ. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể là người cung cấp các thông tin bổ ích về thị trường, về tiến bộ khoa học công nghệ cho doanh nghiệp. Làm được như vậy thì nguồn vốn tín dụng ngân hàng sẽ thực sự phát huy được vai trò đòn bẩy giúp doanh nghiệp cải tiến thiết bị, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh. Và một khi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì ngân hàng cũng sẽ tránh được những rủi ro, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của chính mình. ă Yêu cầu thứ hai để có chất lượng tín dụng tốt là phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Nói cách khác hoạt động tín dụng phải mang lại cho ngân hàng thu nhập đủ để trang trải các chi phí liên quan và có lãi, hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro. Điều này không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng mà còn phụ thuộc rất lớn vào doanh nghiệp vay vốn. Một khoản tín dụng chỉ có thể coi là có hiệu quả khi các nguyên tắc cho vay được tuân thủ triệt để: sử dụng vốn vay đúng mục đích có hiệu quả kinh tế cao; hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn. Việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín dụng vừa là điều kiện cần thiết vừa là biểu hiện của chất lượng tín dụng tốt. Mục đích sử dụng vốn vay đã ký kết trong hợp đồng tín dụng đã được cả hai bên ngân hàng và doanh nghiệp phân tích, đánh giá kỹ lưỡng cả về hiệu quả, tính khả thi cũng như mức độ phù hợp với chính sách phát triển kinh tế – xã hội chung của ngành, của địa phương và của cả nước. Do đó, sử dụng vốn vay đúng mục đích là một trong những điều kiện đảm bảo đạt được mục tiêu đã đề ra ban đầu. Sử dụng vốn vay đúng mục đích, cộng với sự năng động, nhạy bén trong kinh doanh của doanh nghiệp và sự giúp đỡ hiệu quả của ngân hàng sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp đạt được kết quả kinh doanh cao nhất và đó chính là tiền đề để doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. ă Một yêu cầu nữa đối với hoạt động tín dụng ngân hàng là phải đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội của vùng, của địa phương và của đất nước. Điều này là hệ quả tất yếu đạt được khi cả doanh nghiệp và ngân hàng đều hoạt động có hiệu quả. Nó được biểu hiện ở sự ổn định của nền tài chính-tiền tệ quốc gia, giúp nâng cao năng lực sản xuất, năng lực công nghệ cho doanh nghiệp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư. Tuy nhiên, khi đánh giá tiêu thức này cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể trong từng thời kỳ chứ không thể có một tiêu chuẩn chung cho tất cả các trường hợp. Chẳng hạn những dự án cải tạo nâng cấp trang thiết bị, đổi mới công nghệ giúp doanh nghiệp tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng đồng thời lại thu hẹp công ăn việc làm cho người lao động, hoặc có những dự án hiệu quả nhất thời không cao nhưng lại có ý nghĩa rất lớn trong tương lai. Trong những trường hợp đó để đánh giá chính xác chất lượng tín dụng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng nhiều mặt liên quan. Tóm lại, chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng là một chỉ tiêu tổng hợp, được đánh giá trên quan điểm của cả ba chủ thể : ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những căn cứ để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng một cách khái quát. Để có đượ._.c những kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể, bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến ngân hàng và các chỉ tiêu liên quan đến doanh nghiệp. Còn về phía nền kinh tế thì rất khó có thể đo lường tác động cụ thể của từng chủ thể riêng biệt đến sự phát triển chung. Do vậy ngoài các chỉ tiêu định tính nêu trên người ta còn phải xem xét các chỉ tiêu định lượng. * Các chỉ tiêu định lượng: ă Xét trên giác độ Ngân hàng: Các NHTM thường xem xét qua: ã Chỉ tiêu về doanh số và tốc độ tăng doanh số cho vay trung và dài hạn: Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng còn tốc độ tăng doanh số thể hiện khả năng mở rộng quy mô cho vay qua các thời kỳ. Doanh số cho vay lớn và tốc độ tăng nhanh cho thấy khả năng mở rộng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là rất tốt, tuy nhiên như trên đã phân tích đó mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để khẳng định chất lượng tín dụng của ngân hàng mà cần phải kết hợp xem xét tổng hợp các chỉ tiêu khác. ã Chỉ tiêu về dư nợ: Dư nợ cho vay trung và dài hạn Tổng dư nợ cho vay Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn so với tổng dư nợ cho vay của ngân hàng, tức là phản ánh quy mô của tín dụng trung và dài hạn trong mối tương quan với quy mô tín dụng ngắn hạn. Tỷ lệ này cao và ngày càng tăng cho thấy ngân hàng chú trọng đến việc mở rộng cho vay trung và dài hạn, tuy nhiên cần phải lưu ý rằng tỷ lệ này càng cao cũng có thể là hậu quả của công tác thu nợ không được thực hiện tốt. Nói chung các ngân hàng đều mong muốn có tỷ lệ này cao do tín dụng trung và dài hạn là các hoạt động mang lại thu nhập lớn hơn so với tín dụng ngắn hạn. Hơn nữa, mở rộng tín dụng trung và dài hạn sẽ giúp ngân hàng nâng cao uy tín, mở rộng thị trường tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, do đặc tính rủi ro cao của các khoản tín dụng trung và dài hạn nên thông thường các ngân hàng sẽ căn cứ vào đặc điểm riêng về nguồn vốn, về khả năng quản lý, trình độ chuyên môn của mình để xác định tỷ lệ này cho phù hợp. ã Chỉ tiêu Dư nợ cho vay trung và dài hạn Tổng tài sản Chỉ tiêu này phản ánh trong quan hệ so sánh về quy mô cho vay trung và dài hạn so với tổng tài sản của ngân hàng, đồng thời cho phép đánh giá tính hợp lý trong cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này cao chứng tỏ các khoản cho vay trung và dài hạn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng. Điều này là tích cực nếu như ngân hàng có tiềm năng dồi dào về nguồn vốn trung và dài hạn, đồng thời việc quản lý các khoản vay được thực hiện tốt, bảo đảm an toàn. Ngược lại, nếu tỷ lệ này cao trong khi ngân hàng không có được tiềm lực vốn trung và dài hạn dồi dào và khả năng quản lý tốt thì có nghĩa là ngân hàng đang ở vào tình thế nguy hiểm có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán bất cứ lúc nào. Thông thường các ngân hàng thường thích phân tán rủi ro bằng cách đa dạng hóa các tài sản sinh lời của mình hơn là tập trung vào một loại tài sản sinh lợi cao nhưng nguy cơ rủi ro cũng cao như tín dụng trung và dài hạn. ã Chỉ tiêu cân đối vốn : Dư nợ cho vay trung và dài hạn Tổng nguồn vốn trung và dài hạn Trong chỉ tiêu này tổng nguồn vốn trung và dài hạn bao gồm nguồn vốn trung và dài hạn, các khoản đầu tư trung và dài hạn, giá trị tài sản cố định. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng về nguồn vốn của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn. Hầu hết các NHTM đều sử dụng nguồn vốn trung và dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định, cho vay trung và dài hạn và đầu tư trung và dài hạn. Như vậy nếu tỷ lệ trên càng gần 1 thì chứng tỏ hầu hết các khoản cho vay trung và dài hạn của ngân hàng được tài trợ bởi nguồn vốn trung và dài hạn, điều đó đảm bảo cho ngân hàng một cơ cấu vốn tối ưu xét về mặt phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên do đặc điểm các nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng có sự gối đầu nhất định nên ngân hàng có thể tận dụng nguồn này một cách hợp lý để cho vay trung và dài hạn. Do đó, trong thực tế tỷ lệ về cân đối vốn nói trên thường lớn hơn 1 và mỗi ngân hàng sẽ có một mức riêng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Ngoài ra khi c hơn về khả năng nguồn vốn của ngân hàng, bởi lẽ tỷ lệ cân đối vốn gần 1 cũng có thể là hệ quả của đồng thời 2 nguyên nhân : cả nguồn vốn trung và dài hạn và quy mô cho vay đều nhỏ bé. ã Chỉ tiêu về vòng quay vốn: Doanh số cho vay trung và dài hạn Dư nợ trung và dài hạn bình quân Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa doanh số cho vay trung và dài hạn với dư nợ trung và dài hạn bình quân, qua đó có thể thấy được khả năng mở rộng cho vay cũng như hiệu quả của công tác thu nợ của ngân hàng. Chỉ tiêu này thông thường nhỏ hơn 1 do thời hạn cho vay dài nên dư nợ bình quân trong một năm sẽ lớn hơn doanh số cho vay trong cùng năm đó. Chỉ tiêu này càng gần 1 chứng tỏ hoạt động cho vay và công tác thu nợ của ngân hàng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn là rất tốt, bởi lẽ điều đó chỉ có thể đạt được khi quy mô cho vay được mở rộng và hầu hết các khoản vay đến hạn trong năm đó đều được thu hồi đầy đủ. Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ hoạt động cho vay hay thu nợ hoặc cả hai đều gặp khó khăn. ã Chỉ tiêu Nợ quá hạn: Nợ quá hạn tín dụng trung và dài hạn Tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên vay không đủ tiền để trả và không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh mặt trái của chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Nợ quá hạn rõ ràng là điều không mong muốn của các ngân hàng nhưng nó cũng không phải là thước đo chuẩn để căn cứ vào đó ngân hàng đánh giá chất lượng tín dụng của món vay. Không phải cứ nợ quá hạn cao thì đã đánh giá chất lượng tín dụng là không tốt, không có khả năng thu hồi nợ và ngược lại. Trên thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng hạ đến mức thấp nhấp tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ này dưới 3% là có thể chấp nhận được. ã Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi: NQH khó đòi trung và dài hạn Tổng dư nợ trung và dài hạn Nếu tỷ lệ này cao thì khoản tín dụng có chất lượng thấp, không những thế nếu tỷ lệ này bao hàm toàn bộ gốc và lãi của hợp đồng tín dụng thì vốn đầu tư của ngân hàng đã bị lãng phí một cách vô ích. Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng này do vậy yêu cầu đặt ra đối với cán bộ tín dụng là phải kiểm soát, kiềm chế tỷ lệ này ở mức thấp nhất có thể. ã Chỉ tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn. Lợi nhuận ở đây phải hiểu là chênh lệch giữa chi phí đầu vào tức lãi suất huy động và thu nhập từ lãi suất cho vay của tín dụng trung và dài hạn. Xét cho cùng thì khoản tín dụng dù không có nợ quá hạn, nợ quá hạn khó đòi thì cũng chỉ nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng đối với các ngân hàng chưa phát triển các dịch vụ ngân hàng thì thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Tổng lợi nhuận Chỉ tiêu này cho phép thấy rõ hơn vị trí của tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động của ngân hàng. Thu từ khoản tín dụng có chất lượng cao sẽ đóng góp vào thu nhập của ngân hàng. Nếu khoản tín dụng có chất lượng tồi thì thu không được nợ gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của ngân hàng, nên sẽ kéo lợi nhuận giảm. Tuy nhiên đối với một số dự án đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước thì chỉ tiêu này tỏ ra không đầy đủ để phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Vì mục tiêu kinh tế xã hội hay chiến lược phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn, những ngành công nghiệp mới thì đôi khi mục tiêu lợi nhuận không phải là hàng đầu. Lúc này lợi nhuận không phản ánh thực chất chất lượng khoản tín dụng. Nói tóm lại, khi xem xét đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn ta không thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể mà phải sử dụng tổng hợp một hệ thống các chỉ tiêu trên cơ sở xem xét tổng hợp các mục tiêu của dự án vay vốn trung và dài hạn để có thể đưa ra kết luận một cách chính xác. ă Xét trên giác độ khách hàng: Khách hàng là người trực tiếp quản lý sử dụng vốn vay trung và dài hạn. Đối với khách hàng thì chất lượng tín dụng biểu hiện ở một số chỉ tiêu sau: ã Mức tăng năng suất lao động nhờ thực hiện dự án. ã Doanh thu tăng từ dự án vay vốn tín dụng trung và dài hạn. ã Lợi nhuận tăng từ dự án vay vốn tín dụng trung và dài hạn. ã Lao động tăng lên từ dự án vay vốn tín dụng trung và dài hạn. Có thể nói đây là những chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng tốt hay xấu. Một khoản tín dụng tốt đối với ngân hàng thường là tốt đối với doanh nghiệp và ngược lại. Từ nguồn vốn vay ngân hàng mà doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh, củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, cải thiện điều kiện làm việc và góp phần nâng cao đời sống của công nhân viên…. Xét cho cùng, mục tiêu cho vay trung và dài hạn của ngân hàng không chỉ đơn thuần là để thu lãi mà thông qua nguồn vốn đó, ngân hàng kích thích được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cơ sở cho sự phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi và lại muốn đầu tư vào dự án mới. Cứ như vậy, ngân hàng cấp vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp lại trả lãi cho ngân hàng, cả doanh nghiệp và ngân hàng cùng phát triển trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Tóm lại, chỉ tiêu chất lượng tín dụng phải luôn được xem xét phân tích cả hai mặt định tính và định lượng, cả về lợi nhuận thuần túy và lợi ích kinh tế xã hội cả trên quan điểm ngân hàng và khách hàng. I.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn. * Nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng: ă Quy mô và cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn NHTM: Muốn cho vay được thì điều kiện trước tiên là ngân hàng phải có vốn. Nhưng chỉ có vốn thôi thì chưa đủ, do yêu cầu phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng cần phải được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn trung và dài hạn, bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên và các nguồn vốn huy động có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn định cao trong thời gian dài. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, không ổn định thì không thể mở rộng cho vay trung và dài hạn được. Các nguồn vốn mà một NHTM có thể sử dụng để cho vay trung và dài hạn có quy mô và cơ cấu khác nhau trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Quy mô các nguồn vốn này là một trong những nhân tố quyết định quy mô cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. ă Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định các dự án: Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng là vốn và lãi vay được hoàn trả đúng kỳ hạn. Điều này sẽ không thể có được nếu như việc thực hiện dự án không đạt hiệu quả như mong muốn, hoặc doanh nghiệp không có thiện chí, cố tình lừa đảo. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông thường, công tác thẩm định khách hàng được tiến hành trước và chủ yếu tập trung vào xem xét các mặt: tư cách pháp lý, khả năng tài chính, khả năng quản lý điều hành sản xuất kinh doanh, năng lực sản xuất kinh doanh, mức độ tín nhiêm. Nếu khách hàng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu do ngân hàng đặt ra thì dự án đầu tư sẽ được tiếp tục xem xét để quyết định có cho vay hay không. Vấn đề đặt ra ở đây là thủ tục và các điều kiện, tiêu chuẩn được sử dụng làm căn cứ để đánh giá khách hàng và dự án đầu tư có hợp lý hay không. Nếu thủ tục rườm rà, các điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra quá khắt khe, không phù hợp với thực tế thì sẽ có rất ít các doanh nghiệp bảo đảm thoả mãn được yêu cầu của ngân hàng. Điều đó gây cản trở cho ngân hàng trong việc thu hút thêm khách hàng, mở rộng quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu quy trình điều kiện đặt ra không chặt chẽ có thể sẽ khiến cho ngân hàng sai lầm trong việc ra quyết định cho vay, dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động các NHTM phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện công tác thẩm định của mình. ă Năng lực giám sát và xử lý các tình huống tín dụng của ngân hàng: Cho dù công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng được tiến hành tốt, giúp cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng tốt, những dự án khả thi có khả năng sinh lời cao song đó chưa phải là sự đảm bảo chắc chắn để có được chất lượng tín dụng cao, đặc biệt là với tín dụng trung và dài hạn. Bởi lẽ hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian dài luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn không thể lường trước được. Bản thân dự án trong quá trình thực hiện cũng làm nảy sinh những tình huống ngoài dự kiến. Chính vì vậy mà công tác giám sát và xử lý các tình huống tín dụng sau khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề như: sự tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp; tình hình hoạt động thực tế của dự án; tiến độ trả nợ; quá trình sử dụng, bảo quản và biến động tài sản của doanh nghiệp; những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp ngân hàng phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực như sử dụng vốn sai mục đích, âm mưu tẩu tán tài sản, lừa đảo ngân hàng. Đồng thời, qua việc luôn bám sát hoạt động của doanh nghiệp thì ngân hàng có thể có biện pháp giúp đỡ doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin bổ ích, kịp thời, đưa ra các lời khuyên hoặc trực tiếp giúp đỡ các doanh nghiệp khi gặp khó khăn bằng cách gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, cho vay thêm nhằm giúp cho việc thực hiện dự án của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất, qua đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. ă Chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng của ngân hàng là một hệ thống các biện pháp nhằm liên quan đến việc mở rộng hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng đó trong từng thời kỳ. Với ý nghĩa như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trước hết là về mặt quy mô tín dụng, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nào đó là hạn chế tín dụng trung và dài hạn thì có nghĩa là quy mô tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đó sẽ bị thu hẹp. Khi đó không thể nói chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là tốt ít ra là về mặt quy mô. Ngoài ra, chính sách tín dụng của ngân hàng còn bao gồm một loạt các vấn đề như quy định về điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng, lĩnh vực tài trợ, biện pháp bảo đảm tiền vay, quy trình quản lý tín dụng, lãi suất…Nếu chính sách tín dụng được xây dựng và thực hiện một cách khoa học và chặt chẽ, kết hợp được hài hòa lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và của xã hội thì sẽ hứa hẹn một chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại, nếu việc xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng không hợp lý, không khoa học thì chắc chắn chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng của ngân hàng sẽ không cao thậm chí rất thấp. ă Thông tin tín dụng: Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước hết phải có thông tin về dự án, về khách hàng đó, để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay cũng cần có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời thì càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác kịp thời đầy đủ còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. ă Công nghệ ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật cũng là một nhân tố tác động tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại được trang bị các phương tiện kỹ thuật chất lượng cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn. ă Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng: Cho dù khoa học kỹ thuật hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hóa trong nhiều lĩnh vực song nhân tố con người vẫn luôn giữ vai trò quyết định. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động phức tạp, có liên quan đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội thì vai trò của con người lại càng quan trọng. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại chỉ có thể trợ giúp chứ không thể thay thế được sự nhạy cảm hay kinh nghiệm của người cán bộ tín dụng. Do đó vấn đề nhân sự là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi ngân hàng, trong đó nổi bật lên hai vấn đề : chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự. Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ đơn thuần đề cập đến trình độ chuyên môn mà còn bao gồm cả lương tâm, đạo đức, tác phong, kỷ luật lao động của người cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Chất lượng nhân sự tốt, biểu hiện ở sự năng động sáng tạo trong công việc, tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao của các cán bộ, trong một chừng mực nào đó có thể giúp ngân hàng bù đắp lại những hạn chế về công nghệ, kỹ thuật, nhờ đó mà ngân hàng vẫn có thể tồn tại và phát triển được cho dù phải cạnh tranh với những đối thủ có tiềm lực mạnh hơn về công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật. Bên cạnh chất lượng nhân sự thì công tác quản lý nhân sự cũng cần đặc biệt chú ý, bởi lẽ không phải cứ có cán bộ tín dụng giỏi là có chất lượng tín dụng cao. Mỗi cán bộ tín dụng đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, điều quan trọng là phải bố trí, sắp xếp công việc của họ sao cho phát huy hết thế mạnh và hạn chế điểm yếu của từng người, đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động của từng thành viên trong một guồng máy thống nhất cùng hướng tới một mục tiêu chung là nhu cầu chất lượng tín dụng ngân hàng. * Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng: ă Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp: Bất kỳ loại hàng hóa hay dịch vụ nào muốn tiêu thụ được thì cần phải có người mua. Tín dụng ngân hàng cũng vậy, ngân hàng không thể cho vay nếu như không có người vay. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển luôn là cần thiết nhưng với từng NHTM thì không phải lúc nào cũng như vậy. Do số lượng doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng là có hạn và có những lúc nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp này không cao, chẳng hạn trong giai đoạn hoạt động kinh doanh gặp khó khăn các doanh nghiệp thường có xu hướng thu hẹp sản xuất. Trong trường hợp đó nhu cầu vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp sẽ không cao và do đó ngân hàng sẽ gặp khó khăn nếu muốn mở rộng tín dụng. ă Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng: Để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro khi cho vay, các NHTM thường đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm phân loại, chọn ra những khách hàng có thể hay không thể cho vay. Chỉ những khách hàng nào đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng thì mới được xem xét cho vay. Những điều kiện tiêu chuẩn này có thể rất khác nhau tuỳ theo ngân hàng cụ thể, song nhìn chung các ngân hàng đều quan tâm tới một số vấn đề sau: tính hợp lý, hợp pháp của mục đích sử dụng vốn, năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tính khả thi của dự án, các biện pháp bảo đảm. Rõ ràng khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi nếu đa số các khách hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng, có thể do điều kiện đặt ra quá khắt khe, không thực tế hoặc do khả năng của các doanh nghiệp quá thấp, thì ngân hàng không thể mở rộng cho vay trong khi vẫn bảo đảm an toàn tín dụng. ă Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay có hiệu quả: Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố cần thiết để đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, trong đó có một số nhân tố giữ vai trò quyết định như vị thế, năng lực thị trường của doanh nghiệp, năng lực công nghệ, chất lượng đội ngũ nhân sự, trình độ quản lý của doanh nghiệp. * Nhóm nhân tố thuộc về môi trường: ă Môi trường tự nhiên : Nói chung môi trường tự nhiên không tác động trực tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mà hoạt động của chúng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng. ă Môi trường kinh tế : Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường này. Sự biến động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động theo. Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế. Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng hoặc tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. ă Môi trường chính trị, xã hội: Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một căn cứ quan trọng để ra quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các nhà đầu tư sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng trung và dài hạn tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì họ sẽ tìm cách thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng cũng giảm theo. ă Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý không chặt chẽ nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Môi trường pháp lý không chặt chẽ và thiếu sự ổn định cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh do đó hạn chế nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng. ă Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và các cơ quan chức năng: Sự ổn định và hợp lý của các đường lối, chính sách, các quy định, thể lệ của Nhà nước và các cơ quan chức năng sẽ tạo hành lang thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng cũng như doanh nghiệp, đó là tiền đề rất quan trọng để ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng của mình. Tóm lại, với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng của các ngân hàng có liên quan đến nhiều đối tượng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Có những nhân tố thuộc bản thân ngân hàng, có những nhân tố thuộc về phía khách hàng, cũng có những nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của cả hai. Việc nghiên cứu nắm rõ vai trò và cơ chế tác động của từng nhân tố sẽ giúp các ngân hàng có biện pháp thích hợp để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, phát huy tối đa vai trò đòn bẩy phát triển kinh tế của mình. Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHCT Ba Đình. II.1. Tổng quan về NHCT Ba Đình II.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển. Ngân hàng Công Thương Ba Đình tiền thân là chi nhánh Ngân hàng Nhà nước được thành lập từ năm 1959 để quản lý Nhà Nước trên lĩnh vực tiền tệ và kinh doanh tiền tệ trên địa bàn quận Ba Đình. Sau nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/3/1988 thì Ngân hàng Nhà nước quận Ba Đình trở thành một chi nhánh của Ngân hàng Công Thương Việt Nam hoạt động theo mô hình tổ chức ngân hàng 2 cấp : Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một NHTM lớn trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam được thành lập trên cơ sở tín dụng công nghiệp và tín dụng thương nghiệp tại các Ngân hàng Nhà nước, tỉnh, thành phố và các chi nhánh ngân hàng Nhà nước quận, thị xã. Hiện nay Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã trở thành một hệ thống bao gồm Hội sở chính, gần 100 chi nhánh và 500 điểm giao dịch. Ngân hàng Công Thương chi nhánh quận Ba Đình là một đơn vị thành viên phụ thuộc Ngân hàng Công Thương Việt Nam hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực Tiền tệ – Tín dụng - Dịch vụ ngân hàng. Trải qua hơn 10 năm đổi mới hoạt động của Ngân hàng Công Thương thì Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Khu vực Ba Đình đã phát triển liên tục, toàn diện và rộng lớn cả về quy mô hoạt động, về tổ chức bộ máy và mạng lưới hoạt động. Hoạt động kinh doanh không ngừng được mở rộng và ngày càng nâng cao, uy tín của Chi nhánh được đánh giá cao bởi nhiều bạn hàng và sự ghi nhận đóng góp với ngành ngân hàng nói riêng cũng như đóng góp với sự nghiệp đổi mới và quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung. Hoạt động kinh doanh của Chi nhánh luôn luôn đảm bảo ổn định vững chắc thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, chế độ thể lệ của Ngành. Xây dựng mối đoàn kết thống nhất cao trong nội bộ, không để phát sinh tiêu cực, vụ việc nổi cộm, kinh doanh an toàn, hiệu quả và phát triển theo đúng định hướng, đúng pháp luật. Hiện nay NHCT Ba Đình đã khẳng định được vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hóa các dịch vụ kinh doanh tiền tệ. Mặt khác ngân hàng còn thường xuyên tăng cường việc huy động vốn và sử dụng vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ngân hàng. NHCT Ba Đình hiện có 350 nhân viên làm việc tại trụ sở chính với 9 qũy tiết kiệm, 5 tổ cho vay ngoài quốc doanh nằm rải rác trên địa bàn quận. Ngoài ra NHCT Ba Đình còn có 1 cửa hàng kinh doanh vàng bạc đá quý nằm ngay tại trụ sở ngân hàng và 1 phòng giao dịch Cầu Diễn đặt trên địa bàn huyện Từ Liêm. Là chi nhánh của một NHTM, NHCT Ba Đình hoạt động trên các lĩnh vực Tiền tệ – Tín dụng – Dịch vụ ngân hàng với các chức năng sau: * Nhận tiền gửi thông qua các hình thức : Tài khoản thanh toán, tiền gửi cá nhân, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế – xã hội trong nước bằng VND và ngoại tệ tự do chuyển đổi. * Huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua các hình thức: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, kỳ phiếu trái phiếu bằng VND và ngoại tệ. * Nhận giữ hộ, cầm hộ các loại tài sản, vàng bạc, đá quý, trái phiếu, trái phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hàng thương mại, kỳ phiếu ngân hàng, sổ tiết kiệm … * Cho vay vốn ngắn hạn đối với cá nhân và các tổ chức kinh tế - xã hội thuộc mọi thành phần kinh tế để phục vụ sản xuất, kinh doanh, thi công, xây lắp, sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu... * Cho vay vốn trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để đầu tư phát triển, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất… * Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế và chiết khấu bộ chứng từ có giá. Cung cấp làm dịch vụ thu đổi ngoại tệ, thanh toán séc ( như séc lĩnh tiền, séc bảo chi, séc chuyển khoản, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi…), dịch vụ mở L/c, thanh toán L/c, dịch vụ chi trả kiều hối, séc du lịch, mua bán ngoại tệ tự do chuyển đổi, thu chi tiền mặt, chuyển tiền cho khách hàng trong và ngoài nước qua mạng vi tính Viễn thông Quốc tế. * Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, cung cấp các các dịch vụ tư vấn tài chính - đầu tư phát triển, thẩm định dự án và các dịch vụ ngân hàng khác. Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Khu vực Ba Đình có địa bàn hoạt động chính tại quận Ba Đình - trung tâm chính trị ngoại giao của cả nước. Đó là nơi hội tụ các cơ quan cao nhất của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy an ninh trật tự xã hội luôn được đảm bảo tuyệt đối an toàn. Bên cạnh đó NHCT Ba Đình còn được sự quan tâm đặc biệt của cấp ủy, chính quyền địa phương. được sự chỉ đạo chặt chẽ kịp thời của NHCT Việt Nam, NHNN thành phố Hà Nội và sự giúp đỡ có hiệu quả của các Ban ngành cũng như tinh thần đoàn kết nhất trí, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ của Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên NHCT Ba Đình. Tuy nhiên NHCT Ba Đình cũng gặp phải một số khó khăn đó là hoạt động trên một địa bàn không thật sự thuận lợi về môi trường kinh tế. Trong quận không có nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh lớn. Kinh tế ngoài quốc doanh và một số ngành nghề truyền thống phát triển chậm chưa đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy khách hàng của NHCT Ba Đình nằm rải rác ở nội, ngoại thành và đây là một yếu tố hết sức khó khăn trong kinh doanh ngân hàng. Đồng thời trong những năm gần đây hoạt động của ngân hàng cũng gặp phải rất nhiều khó khăn bởi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng cùng kinh doanh trên một địa bàn trong điều kiện chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra ngày càng thu hẹp. Tuy vậy bằng những cố gắng không ngừng, NHCT Ba Đình đã đạt được những thành tựu to lớn. Với những kết quả đã đạt được NHCT Ba Đình liên tục được NHCT Việt Nam công nhận là đơn vị kinh doanh xuất sắc và giỏi trong hệ thống NHCT Việt Nam. Lợi nhuận hạch toán hàng năm luôn đạt ở mức cao nhất trong hệ thống các chi nhánh của NHCT Việt Nam. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHCT Ba Đình bao gồm: 1 Ban Giám đốc và phòng nghiệp vụ, ngoài ra còn có 1 Phòng giao dịch Cầu Diễn và có thể biểu diễn qua sơ đồ sau: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ngân hàng công thương ba đình Ban Giám đốc Phòng._.ủ… tất cả đều có thể dẫn đến phương án vay vốn đưa ra thiếu tính khả thi. Trong điều kiện cạnh tranh giữa các NHTM trong nước cũng như với các ngân hàng nước ngoài ngày càng quyết liệt. Nếu NHCT Ba Đình chỉ mong đợi những dự án khả thi, không biết biến dự án thiếu tính khả thì thành những dự án hiệu quả hơn thì không thể đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung và dài hạn của mình được. So với một số doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hoạt động nhỏ… thì NHCT Ba Đình chắn hẳn phải có ưu thế hơn về kinh nghiệm chuyên môn trong một số lĩnh vực như xác định tính khả thi của dự án, khả năng thu nhập, xử lý thông tin, kinh nghiệm quản lý…Hơn nữa, ngân hàng với những cán bộ tín dụng được bố trí chuyên trách trong một số lĩnh vực, ngành nghề nhất định, có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn sâu về thẩm định dự án cùng với cán bộ chuyên trách việc thu thập, xử lý thông tin kinh tế, pháp luật sẽ phải có những ý kiến đóng góp bổ ích cho doanh nghiệp. Những cán bộ này sẽ gợi ý, tư vấn cho doanh nghiệp những bất hợp lý trong phương án vay vốn, phân tích ảnh hưởng của môi trường kinh doanh, các nhân tố khác có liên quan đến dự án. Trên cơ sở đó cùng doanh nghiệp tính toán tỷ mỷ kết quả kinh doanh, lập một phương án vay vốn mới có tính khả thi hơn. trong những trường hợp cần thiết ngân hàng còn có thể cử người cùng tham gia vào quá trình thực hiện dự án. Làm được điều này ngân hàng mới có thể trở thành người cộng sự đắc lực của khách hàng để thực hiện thành công chiến sách khách hàng, quán triệt phương châm kinh doanh: “Vì sự thành đạt của mọi người- mọi nhà- mọi doanh nghiệp”. III.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn: III.2.2.1. Tăng cường huy động vốn trung và dài hạn: Như đã nêu ở phần trên, nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn bao gồm: ã Phần vốn tự có dôi ra sau khi ngân hàng dùng vốn tự có để mua sắm tài sản cố định, hùn vốn, góp vốn liên doanh liên kết và bù đắp những khoản nợ khê đọng khó đòi. ã Vốn huy động trong nước và nước ngoài từ 1 năm trở lên bằng cách phát hành kỳ phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn. ã Một phần vốn huy động ngắn hạn trong nước có thể dùng để cho vay trung và dài hạn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ này phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định. ã Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội ở trong và ngoài nước để cho vay trung và dài hạn. Hiện nay, nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của NHCT Ba Đình chủ yếu lấy từ nguồn vốn ngắn hạn có kỳ hạn chuyển sang. Để có thể tạo ra sự ổn định của nguồn vốn cho vay trung và dài hạn và để hạn chế rủi ro trong thanh toán thì ngân hàng cần kết hợp cả nguồn huy động ngắn hạn và nguồn trung và dài hạn để cho vay. Trong đó nguồn vốn trung và dài hạn là cơ bản, nguồn vốn ngắn hạn chỉ để bổ sung cho nguồn vốn trung, dài hạn. khi tiền tệ ổn định là điều kiện để ngân hàng có thể huy động vốn nguồn vốn có kỳ hạn dài nhưng cũng cần phải gắn hoạt động huy động vốn với hoạt động sử dụng vốn để đảm bảo kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng nên chủ động tìm kiếm những dự án trung và dài hạn khả thi để đầu tư nhằm tránh huy động thừa vốn trung và dài hạn gây lãng phí vì chi phí huy động nguồn này cao, cũng như không bỏ phí nguồn vốn ngắn hạn có kỳ hạn ổn định vì chi phí huy động vốn thấp hơn. Vì NHCT Ba Đình đóng tại vị trí thuận lợi nên ngân hàng có thế mạnh về huy động vốn. Nếu ngân hàng hoàn thiện và phát triển các công cụ huy động gắn với chính sách lãi suất hợp lý thì chắc chắn nguồn vốn huy động được sẽ ngày càng tăng và ổn định. Để tăng cường tiềm lực về vốn, tạo tiền đề cho việc thực hiện các dự án đầu tư trung và dài hạn ngân hàng cần : ă Hoàn thiện các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm truyền thống gắn với các hình thức động viên như: quà lưu niệm, gửi tiết kiệm ở một nơi có thể rút ra ở nhiều nơi… ă Đa dạng hóa các công cụ huy động vốn như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Tùy từng loại thích hợp có thể huy động vốn với kỳ hạn : 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng … với nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. ă Để khuyến khích người gửi tiền thì ngân hàng cần nâng cao công nghệ ngân hàng, hiện đại hóa khâu thanh toán, tạo sự luân chuyển vốn nhanh, thuận tiện, đảm bảo an toàn cho khách hàng quan hệ gửi tiền, rút tiền cũng như vay vốn. Có như vậy ngân hàng mới tạo được lòng tin cho khách hàng từ đó khách hàng sẽ đến giao dịch với ngân hàng ngày càng nhiều. III.2.2.2. Nâng cao chất lượng thông tin: Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xác, kịp thời hơn, người đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Thông tin đầy đủ nhiều chiều với độ tin cậy cao sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Hiểu rõ điều này nên tất cả các ngân hàng thương mại đều có phòng chuyên trách thông tin ngừa rủi ro, các chi nhánh ngân hàng cơ sở thì có các bộ phận chuyên trách về công tác này. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng bỏ tiền ra trên cơ sở chủ yếu là lòng tin. Lòng tin đó có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng các thông tin có được. Để việc đầu tư tín dụng có chất lượng, hiệu quả, giảm thiểu rủi ro, ngân hàng phải có được và phân tích, xử lý chính xác rất nhiều thông tin liên quan. Cụ thể có 2 nhóm thông tin sau: * Thông tin phi tài chính: là những thông tin không phải là từ các cuốn sổ sách, số liệu tài chính. Chúng có rất nhiều loại phong phú và bao gồm cả thông tin trực tiếp và thông tin gián tiếp. Thông tin trực tiếp là những thông tin của chính đơn vị xin vay vốn như tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực sản xuất, kinh doanh, quan hệ xã hội, gia đình, kinh tế… của người vay vốn hoặc người được bảo lãnh. Thông tin gián tiếp là những thông tin bên ngoài đơn vị xin vay vốn như tình hình kinh tế, xã hội, thông tin về xu hướng phát triển, khả năng cạnh tranh của ngành nghề, những yếu tố có thể thay đổi hay ảnh hưởng đến khu vực, dự án … trong tương lai. * Thông tin tài chính: là những thông tin liên quan đến tình hình tài chính như khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, kết quả sản xuất kinh doanh của phương án, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp… Yêu cầu của thông tin là chính xác, đầy đủ, kịp thời. Để đạt được yêu cầu đó, phải có nhiều kênh thông tin khác nhau. Trong thực tế, ở Việt Nam chúng ta rất khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin một cách chính xác, kịp thời. Đã có nhiều khoản đầu tư bị rủi ro, thất thoát vốn do thiếu thông tin như khách hàng dùng một tài sản, thậm chí một dự án để đi xin vay cùng một lúc nhiều NHTM; khách hàng dùng giấy tờ giả, hợp đồng giả, phương án giả để xin vay; khách hàng thông đồng với nhau để đảo nợ, thành lập các công ty con hoặc công ty chỉ có danh nghĩa để lừa đảo và chiếm đoạt vốn vay ngân hàng…. Một NHTM có được mạng lưới thông tin sâu rộng chất lượng cao chắc chắn sẽ phát triển tốt. Song để có được chúng, không phải là công việc một sớm một chiều mà phải trải qua quá trình lâu dai với bao khó khăn, vướng mắc. thành công chỉ đến với các NHTM coi đó là chiến lược lâu dài, thường xuyên, phải được đầu tư xứng đáng và phải có các bước thực hiện phù hợp. III.2.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định: Trên cả lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy công tác thẩm định được thực hiện tốt thì chất lượng của khoản tín dụng được nâng lên rất nhiều, những rủi ro từ phía chủ quan hầu như không có. Từ những nguồn thông tin đã thu thập được cán bộ tín dụng phải tiến hành phân tích và thẩm định. Nội dung cơ bản của phân tích và thẩm định tín dụng tập trung vào hai vấn đề chủ yếu sau: * Phương án vay vốn phải đầy đủ các điều kiện cho vay, nguyên tắc cho vay theo chế độ quy định cụ thể đối với loại cho vay đó đảm bảo khả năng cho vay thu hồi được gốc và lãi đúng thời hạn. * Hồ sơ thủ tục vay vốn phải đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp theo chế độ quy định, nếu xảy ra tranh chấp tố tụng thì đảm bảo an toàn về pháp lý cho ngân hàng. Tuỳ theo từng nhu cầu vay vốn cụ thể, cán bộ tín dụng cần xác định nội dung và phương pháp thẩm định thích hợp vừa phải đảm bảo chất lượng và thời gian thẩm định cho một món vay bình thường. Theo quy định đối với cho vay trung và dài hạn thì thời gian thẩm định không quá 45 ngày làm việc. Như vậy, nội dung của thẩm định bao gồm rất nhiều vấn đề mà thời gian lại ngắn. Vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định đòi hỏi ngân hàng phải thành lập phòng hoặc nhóm chuyên trách thẩm định dự án. Cán bộ tín dụng tham gia thẩm định phải có trình độ chuyên môn cao, mỗi cán bộ đảm nhiệm một lĩnh vực nhất định như xây dựng, sản xuất…Đối với nhiều dự án mang tính chất chuyên môn sâu vào một ngành, một lĩnh vực cụ thể nào đó mà cán bộ tín dụng không thể nắm bắt, hiểu một cách cặn kẽ thì ngân hàng cần mời các chuyên gia, các cán bộ có kinh nghiệm về ngành hay lĩnh vực đó tới giúp đỡ, tư vấn về mặt chuyên môn kỹ thuật. Việc phân công rõ ràng như vậy sẽ giúp cho công việc được thực hiện chuyên sâu, cán bộ được tiếp xúc với nhiều dự án sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm bổ ích. Sự thành thạo trong việc thực hiện các công đoạn thẩm định của cán bộ chuyên trách sẽ giúp rút ngắn được thời gian thẩm định và hơn hết là nâng cao được chất lượng của thẩm định dự án. III.2.2.4. Tăng cường công tác giám sát tiền vay: Giám sát quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc giám sát sẽ giúp ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nếu giám sát không được thường xuyên chặt chẽ, nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng tiền vốn vào những mục đích phiêu lưu làm phát sinh rủi ro tín dụng. Để giám sát tiền vay, các cán bộ tín dụng sẽ xem xét các báo cáo tài chính mới nhất của khách hàng, một số giấy tờ hóa đơn liên quan. Ngoài ra, định kỳ mỗi quý một lần cán bộ tín dụng phải đến cơ sở kiểm tra. Thực hiện việc giám sát như vậy có thể sẽ không phát hiện kịp thời những biến cố rủi ro có thể xảy ra nhất là khi các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp đưa đến ngân hàng là những báo cáo sai. Hơn nữa việc xuống cơ sở kiểm tra không thường xuyên và không mang tính đột xuất thì có thể khiến cho khách hàng lợi dụng sơ hở thực hiện những hành vi trái với những thoả thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng. Chính vì vậy, cán bộ tín dụng đôi khi phải kiểm tra đột xuất. Bên cạnh việc kiểm tra quá trình sử dụng tiền vay, cán bộ tín dụng cũng đặc biệt phải lưu ý tới tài sản thế chấp theo giá hiện hành để yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp khác hoặc giảm dư nợ cho tương ứng với giá trị tài sản thế chấp hiện hành. Các cán bộ tín dụng phải nắm rõ các nguồn thu của khách hàng và yêu cầu khách hàng thực hiện việc thanh toán cho đơn vị qua ngân hàng. Thường xuyên kiểm tra tài khoản của khách hàng là một phương thức để đánh giá tình trạng tài chính của khách hàng có lành mạnh không. Nếu trong một thời gian nhất định ở giai đoạn dự án đi vào khai thác mà khách hàng không có một khoản thu đáng kể nào để chứng tỏ khách hàng có tiêu thụ sản phẩm thì cần xem xét kỹ lưỡng hơn về tình trạng sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của khách hàng để xem có vấn đề gì xảy ra gây rủi ro cho khoản vay không? Nếu phát hiện tình trạng xấu đi, ngay lập tức cán bộ tín dụng phải bàn bạc với khách hàng yêu cầu điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất kinh doanh hoặc phải tìm biện pháp để thu nợ ngay. Vấn đề ở đây là cán bộ tín dụng không được để tình cảm hoặc lợi ích vật chất đối với riêng mình chi phối trong công việc, tránh tình trạng khi khách hàng gặp nhiều khó khăn thì lại cho vay thêm mà phải kiên quyết xử lý một cách đúng đắn hợp lý để đảm bảo việc thu hồi nợ. III.2.2.5. Xử lý nhanh chóng dứt điểm nợ quá hạn. Trong quá trình hoạt động kinh doanh các NHTM không thể tránh khỏi vấn đề nợ quá hạn. Hiện nay, tỷ lệ nợ quá hạn tại NHCT Ba Đình là khá thấp song ngân hàng vẫn phải tích cực thu hồi số nợ cũ, kiên quyết không để nợ quá hạn mới pháp sinh hạn chế mức thấp nhất tỷ lệ này và xử lý nợ quá hạn một cách nhanh chóng để giải phóng nguồn vốn kinh doanh bị ứ đọng trong tài sản thế chấp. Đối với khoản nợ quá hạn đang tồn tại, ngân hàng cần tiến hành phân loại theo khả năng thu hồi và phân tích nguyên nhân đưa đến nợ quá hạn căn cứ vào hồ sơ xin vay vốn, tình hình sản xuất kinh doanh thực tế, quá trình sử dụng vốn vay rồi đưa ra kết luận do yếu tố khách quan hay chủ quan. Qua đó, ngân hàng sẽ có những biện pháp xử lý cụ thể. Hiện nay khi tiến hành thu hồi nợ quá hạn ngân hàng áp dụng hai phương pháp chủ yếu sau: * Sử dụng các biện pháp khai thác: phương pháp này được sử dụng khi người vay có ý muốn và tích cực tìm các biện pháp để tiến hành trả nợ cũng như đủ khả năng trả nợ, lúc này ngân hàng cho phép khách hàng được tự khắc phục những khó khăn về tài chính để hoàn trả nợ càng sớm càng tốt. Ngân hàng có thể hướng dẫn tư vấn cho khách hàng trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo ra lợi nhuận cho họ. Ngân hàng có thể gia hạn nợ, điều chỉnh hợp đồng tín dụng cho tương ứng với kỳ hạn có thể thu được lợi nhuận của người vay. Có thể tìm ra giải pháp tiếp tục cho khách hàng vay, để tạo thêm năng lực tài chính khôi phục sản xuất kinh doanh. Đề nghị người vay cắt bớt những khoản chi không cần thiết, nhanh chóng giải quyết hàng tồn đọng. Khi cần thiết, ngân hàng có thể tham gia điều hành doanh nghiệp cho đến khi thu hồi hết nợ. * Sử dụng biện pháp thanh lý đối với tài sản thế chấp: Phương pháp này sử dụng khi ngân hàng thấy việc tổ chức khai thác không thể đem lại hiệu quả, không thể thu hồi hết nợ. Tuy nhiên việc xác định giá trị tài sản thế chấp gặp rất nhiều khó khăn, thủ tục phát mại phức tạp và kéo dài đồng thời chi phí phát mại rất tốn kém. Chính vì lý do đó mà đây là biện pháp cuối cùng và khi không có sự lựa chọn nào khác để thu hồi nợ thì nó mới được sử dụng. III.2.2.6. Trích lập quỹ bù đắp rủi ro: Như trên đã phân tích, chất lượng tín dụng được hình thành từ hai phía người đi vay và người vay. Ngân hàng lựa chọn và quyết định cho vay với hy vọng nắm trong tay những khoản cho vay có chất lượng tốt. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dưới tác động của nhiều yếu tố, dự án sản xuất kinh doanh của người vay có thể trở thành kém hiệu quả. Lúc này mức độ rủi ro của các khoản cho vay tăng lên đe doạ khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Vì thế để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh, ngân hàng phải lập lên những lá chắn bảo vệ bằng cách trích lập quỹ bù đắp rủi ro. Bởi vì, trong một nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt, lợi nhuận cao luôn kèm theo độ rủi ro cao đặc biệt là hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Qũy dự phòng bù đắp rủi ro được trích lập trên cơ sở khả năng mất vốn của khoản vay một mặt sẽ giúp ngân hàng khắc phục được những hậu quả thiệt hại, mặt khác sẽ tăng cường sức mạnh tài chính, khả năng thanh toán của ngân hàng, từ đó nâng cao được chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng. III.2.2.7. Chuyên môn hóa và nâng cao trình độ cán bộ tín dụng: Trong mọi lĩnh vực, con người luôn là yếu tố quyết định. Việc đảm bảo chất lượng tín dụng trước hết phải do chính những cán bộ tín dụng quyết định. Cán bộ tín dụng hàng ngày phải xử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế; gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng; đối mặt với nhiều loại cám dỗ; có nhiều cơ hội có thể thực hiện những hành vi để vụ lợi cho riêng mình. Vì thế người cán bộ tín dụng cần phải được tuyển chọn cẩn trọng, được bố trí hợp lý, được quan tâm giáo dục, rèn luyện thường xuyên. Hiện nay, ở NHCT Ba Đình và đa số các NHTM khác, việc phân công cán bộ tín dụng chỉ dựa trên cơ sở số khách hàng, mức dư nợ và thành phần kinh tế. Một cán bộ tín dụng khi đó sẽ vừa phải cho vay kinh doanh; dịch vụ, thương mại, vừa phải cho vay xây dựng cơ bản, chế biến, vận tải…Như vậy cán bộ tín dụng sẽ rất khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin. Vì thế thực hiện việc chuyên môn hóa với từng cán bộ tín dụng bằng cách chia khách hàng theo từng nhóm các đặc điểm riêng là một việc làm cần thiết. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực, sở trường và kinh nghiệm của từng cán bộ tín dụng hay nhóm cán bộ tín dụng để phân công thực hiện cho vay đối với từng nhóm khách hàng nhất định. Để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng có thể hiểu biết về khách hàng một cách sâu sắc, việc thay đổi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay vốn khách hàng trong quá trình sắp xếp phân công lại nhân viên cũng cần đặc biệt hạn chế. Việc chuyên môn hóa cán bộ tín dụng như vậy khắc phục được mâu thuẫn giữa chuyên môn hóa và đa dạng hóa, làm tăng chất lượng và độ tin cậy của thông tin tín dụng, tạo cơ sở cho việc xây dựng các mối quan hệ khách hàng lâu dài. Đồng thời nó cũng làm giảm chi phí trong công tác điều tra tìm hiểu khách hàng, thẩm định và phân tích tín dụng, giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng tiền vay. Bên cạnh việc thực hiện chuyên môn hóa ngân hàng phải không ngừng nâng cao kiến thức cho các cán bộ tín dụng. Có nhiêu cách để nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng có thể tổ chức những lớp tập huấn bổ sung kiến thức cho các cán bộ hoặc cử những cán bộ có năng lực đi học tập tại nước ngoài. Ngân hàng cũng có thể tạo điều kiện về giờ giấc, học phí để giúp cán bộ tham gia các lớp học nâng cao trình độ. Trong quá trình bồi dưỡng tập huấn phải gắn lý luận thực với thực tiễn để các cán bộ tín dụng có thể vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong thực tế. Bên cạnh kiến thức chuyên môn các cán bộ tín dụng cần phải thường xuyên được trang bị thêm các kiến thức về pháp luật, thị trường, kinh tế ngành, tin học đồng thời thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức, tác phong nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động và nhất là về văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng. Trong công tác đào tạo, ngân hàng nên chú trọng tới chất lượng hơn là số lượng. Các cán bộ sau khi được ngân hàng cử đi học cũng phải chịu trách nhiệm thực hiện các công việc cụ thể, hết sức tránh căn bệnh trọng hình thức, ngân hàng bỏ tiền cho cán bộ đi học nhưng khi học về lại không phục vụ được thêm gì cho ngân hàng. Tất cả những biện pháp đó đều nhằm một mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng của NHCT Ba Đình. III.3. Một số kiến nghị với Nhà nước, NHNN và NHCT Việt Nam. III.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước: III.3.1.1. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho hoạt động tín dụng NHTM. Về mặt pháp lý trong thời gian qua vướng mắc lớn nhất trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là vấn đề tài sản thế chấp. Theo quy định của Chính phủ thì chỉ những tài sản nào có đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng thì mới đủ điều kiện làm tài sản thế chấp nhưng trong thực tế việc tổ chức đăng ký quyền sở hữu tài sản của các doanh nghiệp còn rất nhiều khó khăn. Thực tế đã cho thấy có đến 80% giá trị tài sản của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay không đủ điều kiện làm tài sản thế chấp. Cũng liên quan đến tài sản thế chấp, việc xử lý tài sản thế chấp khi có rủi ro xảy ra cũng là một vấn đề nan giải đối với NHCT Ba Đình. Các quy định của pháp luật không rõ ràng, sự thiếu hợp tác của các cơ quan thực thi pháp luật khiến cho việc phát mại tài sản thế chấp gặp nhiều khó khăn, gây ra tình trạng đóng băng vốn của ngân hàng. Để giải quyết tình trạng này đề nghị Chính phủ trong thời gian tới cần xúc tiến các công việc sau: ă Tổ chức nghiên cứu để sớm cho ra đời Luật sở hữu quy định chi tiết về việc đăng ký quyền sở hữu tài sản của các doanh nghiệp và đưa vào thực hiện luật này càng sớm càng tốt. ă Hoàn thiện các quy định về tịch biên, phát mại tài sản thế chấp. Chỉ đạo các cơ quan thực thi pháp luật nỗ lực hơn nữa trong việc giúp đỡ các ngân hàng xử lý tài sản thế chấp, xử lý những khách hàng vay cố tình không trả nợ, lừa đảo ngân hàng. ă Thành lập một tổ chức chuyên môn mua bán nợ nhằm giúp đỡ các ngân hàng xử lý các khoản nợ không lành mạnh, xử lý tài sản thế chấp. Hoạt động chủ yếu của các tổ chức này là mua lại các khoản nợ có vấn đề của ngân hàng sau đó thực hiện các biện pháp khai thác hoặc thanh lý để thu hồi nợ. Đặc điểm của tổ chức này là họ có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong việc quản lý kinh doanh, mua bán bất động sản cùng với nhiều biện pháp khai thác, thanh lý khác nên công việc thu hồi nợ sẽ được tiến hành nhanh chóng và hiệu quả hơn. III.3.1.2. Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động & vay vốn ă Để khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn vào phát triển sản xuất trước tiên Nhà nước cần phải tạo lập được một hệ thống cơ sở pháp lý, cơ chế, chính sách ổn định và hợp lý. Mọi quyết định của Chính phủ đưa ra đều phải cân nhắc kỹ càng, tránh tình trạng đưa ra những quyết định mới một cách vội vàng rồi lại điều chỉnh, sửa đổi liên tục khiến cho các doanh nghiệp các nhà đầu tư hoang mang không dám bỏ vốn đầu tư. ă Chính phủ cần có thái độ dứt khoát trong việc rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước chỉ giữ lại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp mà Nhà nước thực sự cần phải nắm giữ để đảm bảo vai trò định hướng nền kinh tế. Các doanh nghiệp khác có thể xử lý bằng cách cho giải thể, sáp nhập hoặc tiến hành cổ phần hóa nhằm tăng vốn, tăng năng lực sản xuất kinh doanh. Với những doanh nghiệp giữ lại Nhà nước cần cung cấp đầy đủ vốn theo điều lệ đã được duyệt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động và vay vốn ngân hàng. ă Kiểm soát nghiêm ngặt các luồng hàng từ bên ngoài đưa vào để ngăn chặn hàng nhập lậu. Đây là một trong những vấn đề nhức nhối nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt. ă Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp có phương án đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu hoặc hàng hóa xuất khẩu, thông qua nguồn cho vay ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục xuất nhập khẩu. III.3.1.3. Thành lập cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm. Cơ quan này sẽ có trách nhiệm thu thập, xử lý, phân tích thông tin về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có đăng ký để tiến hành đánh giá, xếp hạng tín nhiệm đối với những doanh nghiệp đó. Trên cơ sở bảng xếp hạng của tổ chức này, các NHTM sẽ tham khảo để có được những đánh giá chính xác về doanh nghiệp vay vốn. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của tổ chức này, Chính phủ có thể quy định bắt buộc chỉ những doanh nghiệp nào có đăng ký tại cơ quan xếp hạng tín nhiệm mới được ngân hàng xem xét cho vay vốn. Bằng cách làm này, các doanh nghiệp sẽ phải tự giác tham gia đăng ký xếp hạng để có được giấy chứng nhận nếu muốn vay vốn ngân hàng. Ngoài tác dụng giúp đỡ ngân hàng trong việc thẩm định khách hàng, hoạt động của tổ chức này còn tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tự hoàn thiện, nâng cao năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, uy tín của mình để có được vị trí xếp hạng cao. Đó cũng là cách để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. III.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước: III.3.2.1. Bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời đầy đủ cho các NHTM. Thông tin ở đây bao gồm hai loại đó là thông tin về doanh nghiệp và thông tin có tính chất định hướng cho hoạt động của NHTM. Những thông tin về doanh nghiệp sẽ được thu thập và cung cấp qua trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, bao gồm thông tin về khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh, hệ số an toàn vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM, với các doanh nghiệp khác. Đây sẽ là những căn cứ đáng tin cậy để các NHTM sử dụng trong quá trình thẩm định khách hàng. Cùng với thông tin về doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước còn phải nắm vững để cung cấp cho các NHTM những thông tin về phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, của từng vùng, từng khu vực trong từng thời kỳ, tư vấn cho các NHTM về những lĩnh vực, những ngành mũi nhọn cần tập trung đầu tư vốn tín dụng nhằm góp phần thực hiện những chủ trương đường lối phát triển chung, đồng thời phát huy hiệu quả đồng vốn, bảo đảm an toàn tín dụng cho các NHTM. III.3.2.2. NHNN cần tăng quyền tự chủ cho các NHTM, chi nhánh NHTM Sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước chỉ nên dừng lại ở những vấn đề vĩ mô, những vấn đề chung nhất mang tính định hướng chứ không nên đưa ra những quy định quá cụ thể, chi tiết liên quan đến những vấn đề mang tính đặc thù riêng của mỗi ngân hàng, bởi lẽ điều kiện hoạt động của các NHTM không giống nhau, nếu đưa ra những quy định cụ thể áp dụng chung cho mọi ngân hàng thì sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thích ứng với môi trường kinh doanh cụ thể của mình. Vai trò quản lý vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước là cần thiết song ở một mức độ nhất định cần bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh cho các NHTM để họ phát huy hết sự sáng tạo, linh hoạt nhằm thích ứng với môi trường kinh doanh. III.3.3. Những kiến nghị với Ngân hàng Công Thương Việt Nam : III.3.3.1. Tăng cường công tác thông tin cho các chi nhánh trong hệ thống Từ tháng 9/1997 Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã triển khai áp dụng chương trình phần mềm “ Thông tin phòng ngừa rủi ro”. Sau hai năm thực hiện chương trình đã vận hành tương đối tốt, đảm bảo truy cập, phân tích, lưu trữ và cung cấp thông tin về 13.000 khách hàng vay vốn của NHCT đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ thành viên với Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước. Trong thời gian tới một mặt phát huy những mặt tích cực đã đạt được, mặt khác Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của NHCT Việt Nam nên phát triển nghiệp vụ lên một bước cao hơn nữa, không chỉ thu thập, phân tích, lưu trữ thông tin mà thực hiện luôn việc xếp hạng tín nhiệm đối với các khách hàng là khách hàng của NHCT. Trong khi chờ đợi tổ chức xếp hạng tín nhiệm của Nhà nước được thành lập, bảng xếp hạng này sẽ là căn cứ để các chi nhánh NHCT có được đánh giá chính xác hơn về khách hàng vay vốn. Bên cạnh những thông tin về doanh nghiệp, NHCT Việt Nam cần cung cấp thêm cho các chi nhánh những thông tin về hoạt động của ngành như lợi nhuận bình quân, những tiến bộ về công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng; chủ trương, chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước; các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, tình hình hoạt động của các ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống. Xây dựng mối quan hệ mua bán thông tin giữa NHCT và các ngân hàng khác, với các cơ quan thông tin và tư vấn nhằm tăng thêm những thông tin cần thiết cho quá trình xét duyệt và giám sát cho vay của các Chi nhánh NHCT Việt Nam. III.3.3.2. Hỗ trợ các chi nhánh trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Hình thức hỗ trợ có thể là mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ; mời các chuyên gia, những người có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng để tổ chức các buổi nói chuyện, trao đổi học tập nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm cho các cán bộ tín dụng. Ngân hàng Công Thương Việt Nam cũng có thể hỗ trợ kinh phí, cử cán bộ đi học ở các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu kinh tế, khoa học trong và ngoài nước. Cung cấp đầy đủ các tư liệu, văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn và các quy định khác có liên quan của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công Thương Việt Nam để cán bộ tín dụng tự tham khảo và nghiên cứu. III.3.3.3. Có chính sách khuyến khích các chi nhánh NHCT mở rộng, đa dạng hóa các hình thức cho vay trung và dài hạn. Trong thời gian qua hoạt động cho vay nói chung và cho vay trung và dài hạn nói riêng của các chi nhánh NHCT được NHCTVN quản lý khá chặt chẽ. Các khoản cho vay của chi nhánh NHCT đối với tổ chức tín dụng khác đều phải thực hiện thông qua NHCTVN. Ngoài hình thức cho vay theo dự án, các hình thức cho vay trung và dài hạn khác như cho vay đồng tài trợ, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay trả góp đều phải có sự xem xét chỉ đạo bằng văn bản của Tổng giám đốc NHCTVN thì mới được thực hiện. Các chi nhánh NHCT cũng được chỉ đạo không cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu không có tài sản thế chấp. Những quy định này là nhằm đảm bảo an toàn cho các chi nhánh song chúng cũng phần nào hạn chế khả năng mở rộng cho vay trung và dài hạn của Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng và các chi nhánh của NHCT nói chung. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các chi nhánh NHCT trong việc mở rộng cho vay trung và dài hạn, Ngân hàng Công Thương Việt Nam nên khuyến khích các chi nhánh thực hiện các hình thức cho vay mới. Kết luận Tín dụng trung và dài hạn đã và đang giữ một vị trí quan trọng trong sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn tuy còn nhỏ bé mà NHCT Ba Đình cung cấp cho nền kinh tế đã và đang góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn có ý nghĩa quan trọng quyết định đến sự thành công trong hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình. Tuy nhiên việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn còn phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của NHCT Ba Đình. Làm được như vậy thì hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình mới ngày càng phát triển, hiện đại để hoà nhập với xu thế chung của thời đại. Qua việc nghiên cứu tình hình hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHCT Ba Đình chuyên đề tốt nghiệp đã đề cập đến một số nội dung sau: ă Đưa ra những lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn. ă Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHCT Ba Đình qua các năm 1998- 2000 để thấy được những điểm mạnh cần phát huy, những yếu điểm cần khắc phục và nguyên nhân của chúng. ă Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHCT Ba Đình trong thời gian tới. Hy vọng rằng những vấn đề được đề cập trong Chuyên đề này có thể đóng góp một phần nhỏ bé cho việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng và chất lượng nói chung của NHCT Ba Đình. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0084.doc
Tài liệu liên quan