Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI giai đoạn 2005 - 2009

LỜI MỞ ĐẦU Cùng với tiến trình hội nhập và phát triển của cả nền kinh tế thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những bước phát triển rất tốt trong những năm gần đây và trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đất nước. Trong đó bảo hiểm vật chất xe cơ giới được xem là thị trường có nhiều tiềm năng tại Việt Nam, đây là nghiệp vụ bảo hiểm mà hầu hết các DNBH phi nhân thọ đều muốn chiếm lĩnh thị phần. Là một DNBH phi nhân thọ, từ khi PTI được thành lập vào năm 1998, PTI luôn tíc

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI giai đoạn 2005 - 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h cực triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và đã đạt được tốc độ tăng doanh thu đáng kể trong thời gian qua.Tuy nhiên sau 2 năm gia nhập WTO, sự xuất hiện của các DNBH quốc tế lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, trình độ quản lý tốt và sự ra đời của các DNBH mới đã làm tăng sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, trong đó có bảo hiểm xe cơ giới. Điều này đã gây sức ép lớn về bài toán hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới không chỉ với PTI mà còn cả đối với các DNBH phi nhân thọ khác. Xuất phát từ lý do đó nên sau một thời gian thực tập tại PTI em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI giai đoạn 2005-2009” làm chuyên đề thực tập của mình. Nội dung của đề tài gồm 3 phần: Chương I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI Chương II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH BHVCXCG TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN PTI GIAI ĐOẠN (2005-2009) Chương III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH BHVCXCG TẠI PTI Em xin chân thành cảm ơn cô T.S Phạm Thị Định đã giúp đỡ và hướng dẫn tận tình em trong suốt quá trình nghiên cứu hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Em cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị trong công ty Bảo hiểm Bưu điện đã giúp đỡ chỉ bảo và tạo điều kiện cho em nghiên cứu, hoàn thành chuyên đề này. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.1.1. Vai trò của xe cơ giới đối với nền kinh tế Giao thông vận tải đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi nước, giao thông vận tải đường bộ góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Bên cạnh đó nó còn đóng góp lớn cho ngân sách qua nhiều loại thuế và những dịch vụ đi theo được phát triển tạo thêm hàng triệu việc làm cho người lao động. Thông qua đó góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp và những tiêu cực xấu trong xã hội. Sự phát triển của giao thông vận tải đường bộ cũng là sự huy động nguồn vốn về đầu tư trong xã hội rất lớn mà không phải ngành nghề nào cũng có được. Vì vậy, các nhà kinh tế học đã ví rằng: “Nếu nền kinh tế là một cơ thể sống, trong đó hệ thống giao thông là các huyết mạch thì vận tải là quá trình đưa các chất dinh dưỡng đến nuôi các tế bào của cơ thể sống đó”. Trong giao thông vận tải đường bộ, xe cơ giới là phương tiện chủ yếu nhất có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bởi vì: Xe cơ giới là phương tiện có tính cơ động cao, việt dã tốt trong quá trình tham gia vận tải, nó có thể tham gia vào quá trình vận chuyển giữa các vùng miền, thậm chí ngay cả những nơi có địa hình xấu mà các phương tiện vận tải khác không tham gia được. Nhờ tính cơ động của mình, xe cơ giới góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế, văn hóa ở những vùng núi xa xôi, củng cố tính thống nhất của nền kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước. Với chi phí rẻ hơn so với các loại phương tiện vận tải khác nên xe cơ giới rất được ưa chuộng và ngày càng phát triển trong quá trình chuyên chở hàng hóa, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, giúp cho các hoạt động sinh hoạt được thuận tiện. Sự phát triển một cách nhanh chóng của nền kinh tế đã làm gia tăng nhu cầu vận tải giữa các vùng. Chính vì vậy, lượng xe cơ giới tham gia lưu thông ngày càng tăng, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước.Tuy nhiên, sự gia tăng xe cơ giới ngày càng nhiều đã làm nảy sinh một số vấn đề như: tai nạn giao thông ngày càng tăng, tình trạng ách tắc giao thông…những vấn đề này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế. 1.1.2. Tình hình giao thông đường bộ và hậu quả của tai nạn giao thông Tai nạn giao thông hiện đang liên tục tăng trên toàn cầu, khu vực Đông Nam Á cũng không ngoại lệ. Tại Việt Nam, ở nước ta, tình hình tai nạn giao thông từ năm 2005 – 2009 được thống kê trong bảng 1.1: Bảng 1.1 – Tình hình tai nạn giao thông nước ta từ 2005 - 2009 Năm Số vụ TNGT (vụ) Số người chết (người) Số người bị thương (người) 2005 14.141 11.184 11.760 2006 14.161 12.373 11.097 2007 14.642 13.200 10.546 2008 11.522 10.397 7.413 2009 12.492 11.516 7.914 ( Nguồn : Ủy ban an toàn giao thông quốc gia) Đây là kết quả của sự gia tăng dân số, hiện đại hóa, khi lượng xe cộ tăng lên đột biến không đồng hành với những biện pháp giao thông an toàn. Hạn chế về ý thức của người dân, cũng như công tác tuyên truyền về an toàn giao thông chưa mạnh mẽ khiến số vụ tai nạn giao thông không giảm nhiều. Giao thông ở Việt Nam từ lâu đã được xem là vấn đề bức xúc vì gây tai nạn chết người và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Theo thống kê, mỗi năm trung bình tại Việt Nam, tai nạn giao thông khiến trên 12.000 người chết và gần 30.000 người bị chấn thương sọ não với nhiều di chứng để lại. Tai nạn giao thông ngày càng tăng trên thế giới đã gây nên ngoài thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai táng người chết, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục, tai nạn giao thông còn gây nên những tác động tâm lý lâu dài đối với nhiều người. Nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra tai nạn giao thông quá nhiều sẽ gây nên hiện tượng bất an cho cư dân ở đó. Ở Việt Nam, theo thống kê của Ngân hàng Phát triển Châu Á(ADB), tổn thất vật chất hàng năm do tai nạn giao thông là khoảng 885 triệu USD. Con số này còn cao hơn cả giá trị tiền thuốc sử dụng cho cả 84 triệu dân Việt Nam trong năm 2005 (817 triệu USD). Nếu so sánh với tổng thu ngân sách cả nước được báo cáo tại Quốc hội thì con số 885 triệu USD chiếm hơn 5,5% tổng thu ngân sách cả nước/năm. Và nếu so với tổn thất toàn cầu do TNGT đường bộ khoảng 518 tỷ USD/năm (số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, WHO) thì con số tổn thất gần 1 tỷ USD/năm của Việt Nam là quá nghiêm trọng. Ngày càng nhiều số vụ tai nạn giao thông thảm khốc và đe dọa đến sự phát triển bền vững của đất nước. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do cơ sở hạ tầng yếu kém không đạt tiêu chuẩn, luật pháp chưa nghiêm, nhất là do ý thức chấp hành luật giao thông của quần chúng còn thấp. Trước tình hình đó, đã có nhiều biện pháp ra đời để khắc phục tình trạng tai nạn giao thông như: tăng mức xử phạt đối với những người vi phạm luật an toàn giao thông, tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân khi tham gia giao thông, bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy. Tuy nhiên, những biện pháp này cũng chỉ góp một phần rất hạn chế, tình trạng tai nạn giao thông ở nước ta vẫn ở mức cao. Bên cạnh các biện pháp nhằm ngăn chặn, phòng ngừa tai nạn giao thông thì việc triển khai bảo hiểm vật chất xe cơ giới lại là một biện pháp nhằm khắc phục và giảm thiểu một phần hậu quả của tai nạn giao thông, nâng cao ý thức của người dân khi tham gia giao thông cũng đã góp phần quan trọng trong công tác khắc phục tình trạng tai nạn giao thông, và đây cũng là một phần trong lưới đảm bảo an sinh xã hội. 1.2. Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới Góp phần ổn định tài chính, ổn định hoạt động kinh doanh của chủ xe Tai nạn, rủi ro là điều mà không một cá nhân hay tổ chức nào mong muốn bởi vì khi nó xảy ra sẽ gây nên những hậu quả khôn lường: thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của cá nhân, của tổ chức, và có thể còn gây thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được công ty bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh. Tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông đường bộ Khi đã tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới người dân sẽ nâng cao ý thức chấp hành luật lệ giao thông của mình hơn bởi vì cùng việc triển khai nghiệp vụ này các công ty bảo hiểm còn thực hiện các công tác tuyên truyền, quảng cáo giúp người dân thấy được vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới và những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra đối với bản thân và phương tiện từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành luật lệ giao thông vì lợi ích của bản thân.Bên cạnh đó các công ty bảo hiểm còn đóng góp một phần tài chính của mình của mình để xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng, xây dựng các biển báo, tín hiệu… trên các tuyến đường hay xảy ra tai nạn nhằm góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông. Góp phần xoa dịu bớt căng thẳng giữa chủ xe với phía nạn nhân trong các vụ tai nạn. Khi xảy ra tai nạn giao thông không chỉ có người điều khiển phương tiện bị thiệt hại mà có khi còn gây thiệt hại cho người thứ ba khi đó DNBH sẽ đứng ra đóng vai trò như là người đại diện cho bên tham gia bảo hiểm để thu xếp giải quyết tranh chấp, quyền lợi giữa chủ xe và nạn nhân một cách khách quan, minh bạch và thỏa đáng từ đó giảm bớt căng thẳng giữa các bên. Góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà Nước để từ đó có điều kiện đầu tư trở lại để nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng mới cho giao thông, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Các doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình kinh doanh có nghĩa vụ phải đóng góp vào Ngân sách Nhà Nước thông qua các loại thuế:thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp…tức là tăng thu cho ngân sách. Bên cạnh đó, nhờ có tham gia bảo hiểm mà Ngân sách Nhà nước không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro thay vào đó DNBH sẽ bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính, nhanh chóng ổn định đời sống, ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. II.Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 2.1.Đối tượng được bảo hiểm Đối tượng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tất cả những chiếc xe còn có giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Đặc điểm của xe cơ giới là một loại xe chạy trên đường bộ, bằng động cơ của chính nó và có ít nhất một chỗ ngồi cho người lái xe. Xe cơ giới bao gồm rất nhiều các loại xe khác nhau: xe môtô 2 bánh, xe mô tô 3 bánh, xe ô tô chở người, xe ô tô chở hàng hóa, xe ô tô vừa chở người vừa chở hàng hóa và các loại xe chuyên dùng khác. Để có thể trở thành đối tượng bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới, những chiếc xe này phải đảm bảo những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành: Người chủ xe phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định về an toàn kỹ thuật và môi trường. Khi tham gia bảo hiểm xe cơ giới, người ta thường chia xe cơ giới thành các tổng thành. Chủ xe có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ xe hoặc tham gia từng bộ phận xe.Thông thường đối với xe môtô nhà bảo hiểm tiến hành bảo hiểm toàn bộ xe, còn đối với xe ôtô người tham gia có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm từng tổng thành của xe, xe ôtô được chia ra thành 7 tổng thành sau: Tổng thành thân vỏ Tổng thành động cơ Tổng thành hộp số Tổng thành cầu trước Tổng thành trục sau Tổng thành hệ thống lái Tổng thành săm lốp 2.2. Phạm vi Bảo hiểm Trong quá trình xe cơ giới lưu hành có rất thể gặp rất nhiều rủi ro, tai nạn, và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.Từ những yếu tố khách quan như là thời tiết, địa hình, chất lượng đường xá cho đến những yếu tố chủ quan từ phía chủ xe, lái xe, người tham gia giao thông (tình trạng quản lý, bảo dưỡng xe của chủ xe, ý thức, kinh nghiệm, kỹ năng của lái xe…) Trước hàng loạt rủi ro, tai nạn, việc xác định phạm vi bảo hiểm và qui định loại trừ trong những mẫu đơn bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm rất cần thiết, để đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và pháp lý trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. 2.2.1. Rủi ro được bảo hiểm Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm thông thường bao gồm: Những rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của xe: Đâm va, lật đổ Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác (cháy nổ…) Những rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên: Bão, lũ, lụt, sụt lở, sét đánh, động đất, mưa đá… Rủi ro khách quan có nguồn gốc xã hội: mất cắp, đập phá… Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm 2.2.2 .Rủi ro loại trừ Loại trừ những tổn thất không phải là hậu quả của những sự cố ngẫu nhiên, khách quan, những tổn thất liên quan tới yếu tố chủ quan của chủ xe trong việc quản lý, bảo dưỡng xe như: Hao mòn tự nhiên, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc thiết bị, kể cả máy thu thanh, điều hòa nhiệt độ, săm lốp bị hư hỏng mà không phải do tai nạn gây ra Loại trừ những trường hợp vi phạm pháp luật hoặc độ trầm trọng của rủi ro tăng lên: Hành động cố ý gây tai nạn của chủ xe, lái xe, lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ. Lái xe sử dụng và bị ảnh hưởng của rượu bia, ma túy hoặc các chất kích thích khác trong khi điều khiển xe (nồng độ cồn trong máu hoặc trong hơi thở của lái xe vượt quá quy định). Xe không có giấy chứng nhận đăng kiểm và bảo vệ môi trường hợp lệ (giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường). Xe chở chất cháy, nổ trái phép. Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định. Xe đi vào đường cấm, đi đêm không đèn. Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử. Loại trừ rủi ro có tính “chính trị” với hậu quả lan rộng: Chiến tranh. Những quy định loại trừ khác. Chẳng hạn như loại trừ những thiệt hại gián tiếp, tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước CH XHCN Việt Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng). Loại trừ thiệt hại do mất cắp bộ phận của xe.Vấn đề này tùy thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của người bảo hiểm, và những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo hiểm. Những thiệt hại là hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, mất giảm thu nhập do ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác. Ngoài ra công ty bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường trong trường hợp chủ xe có những vi phạm sau: Một là: Cung cấp không đầy đủ, không trung thực các thông tin ban đầu về đối tượng bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm. Hai là: Khi xảy ra tai nạn, không thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm. Không áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất hoặc tự ý tháo dỡ, sửa chữa xe mà không có sự đồng ý của doanh nghiệp bảo hiểm. Ba là: Không làm các thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong việc gây ra thiệt hại cho cho chiếc xe được bảo hiểm. 2.3. Giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, Phí bảo hiểm 2.3.1. Giá trị bảo hiểm Trong nghiệp vụ BH VCXCG, xác định đúng giá trị thực tế của xe cơ giới là một công việc rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của của các bên trong hợp đồng bảo hiểm Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế của xe trên thị trường tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Xác định giá trị thực tế của xe thực chất là xác định giá bán của nó trên thị trường vào thời điểm người tham gia mua bảo hiểm. Để có thể đánh giá chính xác giá trị bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm phải kiểm tra xe trước khi nhận bảo hiểm sau đó sẽ đánh giá giá trị thực tế của chiếc xe tham gia bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm thường dựa trên các nhân tố sau để xác định giá trị xe: Doanh nghiệp bảo hiểm cùng với chủ xe tiến hành kiểm tra xe để xác nhận tình trạng của xe tại thời điểm tham gia bảo hiểm, xem chiếc xe này trong tình trạng như thế nào? Đã bị thiệt hại, tổn thất lần nào chưa, việc kiểm tra này được thực hiện bằng cách quan sát hiện trạng bên ngoài xe, các vết tỳ, xước va chạm (nếu có) đồng thời nhân viên khai thác bảo hiểm sẽ hỏi thêm thông tin về tình trạng của xe và chủ xe phải có nghĩa vụ trả lời trung thực. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng với chủ xe thảo luận để xác định giá trị của xe, trong những trường hợp cụ thể doanh nghiệp bảo hiểm cần phải thực hiện giám định tình trạng thực tế của xe trong quá trình mà người chủ xe đã sử dụng chiếc xe đó. Đối với những xe mới bắt đầu đưa vào sử dụng, việc xác định giá trị của chúng không quá phức tạp, doanh nghiệp bảo hiểm có thể căn cứ vào một trong những giấy tờ sau đây để xác định giá trị bảo hiểm: Giấy tờ, hóa đơn mua bán giữa nhà máy lắp ráp, đại lý phân phối với người mua, hoặc giữa những người bán nước ngoài và người nhập khẩu. Hóa đơn thu thuế trước bạ Đối với xe nhập khẩu miễn thuế, giá trị bảo hiểm được tính như sau: GTBH=CIF(100%+T1)(100%+T2) Trong đó:T1 là thuế suất thuế nhập khẩu T2 là thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt Đối với những xe đã qua sử dụng, việc xác định giá trị bảo hiểm đòi hỏi nhiều công đoạn phức tạp hơn so với xe mới.Việc xác định giá trị của xe được căn cứ theo các yếu tố sau đây: Giá mua xe lúc ban đầu Giá mua bán trên thị trường của những chiếc xe cùng chủng loại, có chất lượng tương đương. Tình trạng hao mòn thực tế của xe. Sự hao mòn của xe được tính toán dựa trên cơ sở sau: Số km mà chiếc xe đã lưu hành trên thực tế, số năm đã sử dụng xe, mục dích sử dụng xe, đặc điểm địa hình của vùng mà xe thường xuyên hoạt động… Tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của xe trên thực tế. Căn cứ vào các tiêu thức đã nêu ở trên, công ty bảo hiểm và chủ xe sẽ thảo luận và đi đến thống nhất về giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên việc xác định giá trị bảo hiểm này không thể nào nhận được một kết quả tuyệt đối chính xác. Giá trị bảo hiểm của xe chỉ được xác định một cách tương đối chính xác, hợp lý. Trong thực tế, để phục vụ cho việc xác định giá trị bảo hiểm của xe, hằng năm các doanh nghiệp bảo hiểm đã xây dựng bảng giá theo nguồn gốc sản xuất và có cập nhật danh sách một số loại xe mới, mác xe, năm sản xuất, dung tích xi lanh… 2.3.2. Số tiền bảo hiểm Trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm, người ta phân chia xe cơ giới thành các tổng thành. Dựa vào cơ sở phân chia đó, công ty bảo hiểm có thể bảo hiểm cho toàn bộ giá trị chiếc xe, bảo hiểm cho một phần giá trị của xe hoặc bảo hiểm bộ phận cho chiếc xe được bảo hiểm. Khi chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ giá trị thì số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào giá trị thực tế của chiếc xe vào thời điểm ký kết hợp đồng, đây là trường hợp bảo hiểm đúng giá trị. Như vậy, để đảm bảo cho quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thì việc xác định đúng giá trị thực tế của xe có ý nghĩa rất quan trọng. Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị cũng được các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận, tuy nhiên thường kèm theo quy định về tỷ lệ tối thiểu giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm. Đối với xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị, trừ khi có thỏa thuận khác, nếu thiệt hại xảy ra thì quy tắc tỷ lệ sẽ được áp dụng đẻ xác định số tiền bồi thường. Còn nếu chủ xe tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị thực của chiếc xe thì được gị là bảo hiểm trên giá trị. Trên thực tế, không ít chủ xe tham gia bảo hiểm một hoặc một số tổng thành cho chiếc xe của mình. Trong số các tổng thành của xe thì tổng thành thân vỏ thường chiếm tỷ trọng lớn về mặt giá trị và cũng chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi hậu quả của những vụ tai nạn vì thế nếu chọn một tổng thành để tham gia bảo hiểm thì chủ xe thường chọn tổng thành này. Đối với trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm bộ phận, số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào tỷ lệ giữa giá trị của bộ phận được bảo hiểm và giá trị toàn bộ xe (tỷ lệ này là khác nhau ở những chủng loại xe khác nhau, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có những bảng tỷ lệ về giá trị của các bộ phận so với giá trị của từng loại xe). Ngoài việc bảo hiểm cho phần thiệt hại vật chất xảy ra đối với chiếc xe được bảo hiểm, người bảo hiểm còn có thể đảm bảo cho một số chi phí liên quan như là chi phí hạn chế tổn thất, chi phí cẩu xe, kéo xe từ nơi bị tai nạn tới nơi sửa chữa, chi phí giám định tổn thất. 2.3.3. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ xe tham gia bảo hiểm có trách nhiệm phải thanh toán cho bên bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi người tham gia bảo hiểm đóng phí hoặc chấp nhận đóng phí theo quy định. Mức phí của hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới được xác định bằng tỷ lệ phí bảo hiểm nhân với số tiền bảo hiểm. Tỷ lệ phí cơ bản thường áp dụng cho thời hạn một năm hợp đồng cùng với tỷ lệ phí cơ bản đó là quy định về tỷ lệ giảm phí đối với những hợp đồng có thời hạn bảo hiểm dưới một năm. P=STBH*R Trong đó: STBH:Số tiền bảo hiểm R:tỷ lệ phí bảo hiểm Tỷ lệ phí ở công thức này do Bộ Tài Chính quy định và nó phụ thuộc vào các yếu tố sau: Xác suất thống kê những vụ tai nạn giao thông xảy ra Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn giao thông xảy ra Thời hạn bảo hiểm (ngắn hạn hoặc dài hạn) Nhìn chung tỷ lệ phí bảo hiểm cũng được xác định dựa trên phương pháp thống kê, kết quả tính toán về tần suất xảy ra tổn thất và chi phí trung bình /1 vụ tổn thất và định mức chi phí quản lý của người bảo hiểm. Như vậy phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe cũng có thể được tính theo công thức sau: P=f+d Trong đó: P: phí thu đầu mỗi xe f: phí bồi thường d: phụ phí Tuy nhiên, việc tính mức phí cụ thể cho các hợp đồng,phải bao quát được mọi yếu tố có ảnh hưởng đến lớn đến khả năng phát sinh trách nhiệm của người bảo hiểm. Vì vậy việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản sau: Một là: Những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử dụng xe gồm có: Loại xe (xác định bởi mác và năm sản xuất…): Loại xe sẽ liên quan đến trang thiết bị an toàn, chống mất cắp, giá cả chi phí sửa chữa, phụ tùng thay thế… Mục đích sử dụng xe Phạm vi địa bàn hoạt động Thời gian xe đã qua sử dụng, giá trị xe Hai là: Những yếu tố liên quan đến người được bảo hiểm, người điều khiển xe: Giới tính,độ tuổi lái xe Tiền sử của lái xe (liên quan tới các vụ tai nạn phát sinh, các hành vi vi phạm luật lệ an toàn giao thông) Kinh nghiệm của lái xe Quá trình tham gia bảo hiểm của người được bảo hiểm Ba là: Việc tính phí bảo hiểm còn tùy thuộc vào sự giới hạn phạm vi bảo hiểm và có sự phân biệt giữa bảo hiểm lẻ và bảo hiểm cả đội xe. Cơ chế thưởng bằng việc giảm phí bảo hiểm cũng được áp dụng như là một biện pháp chăm sóc khách hàng. Các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỉ lệ giảm giá này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Ở việt Nam hiện nay, tỷ lệ phí của các công ty bảo hiểm nhìn chung đều có sự phân biệt giữa xe mô tô và xe ô tô, giữa cách thức bảo hiểm toàn bộ và bộ phận xe. Tỷ lệ phí cũng được điều chỉnh cho những trường hợp mở rộng phạm vi bảo hiểm (ví dụ cho rủi ro mất cắp bộ phận xe, bảo hiểm không khấu trừ khấu hao thay mới, bảo hiểm thân xe theo rủi ro đầu tiên…); trường hợp áp dụng mức miễn thường tăng lên và theo số năm xe đã qua sử dụng. Biểu phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI (tỷ lệ phí bao gồm cả VAT) được áp dụng theo bảng 1.2, 1.3 và 1.4 Bảng 1.2:Biểu phí bảo hiểm toàn bộ xe (trường hợp bồi thường khấu hao thay mới) (Đơn vị:%) STT Mức miễn thường không khấu trừ (VND) Tỷ lệ phí (% của số tiền bảo hiểm) Xe không kinh doanh Xe kinh doanh 1 500.000 1.35 1.50 (Nguồn:Công ty bảo hiểm PTI) Bảng 1.3:Biểu phí bảo hiểm VCXCG (trường hợp không tính khấu hao thay mới) (Đơn vị: %) Phạm vi bảo hiểm Đặc điểm xe Bảo hiểm toàn bộ Bảo hiểm bộ phận Xe đã sử dụng dưới 03 năm, còn 85% GT trở lên 1.5 2.5 Xe đã sử dụng từ 03-06 năm, còn 65-85% GT 1.7 2.7 Xe đã sử dụng từ 06-09 năm, còn 50-65% GT 1.9 2.9 Xe đã sử dụng trên 09 năm, còn 50% GT 2.3 3.3 (Nguồn:Công ty bảo hiểm PTI) Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm tổng thành thân vỏ, phí bảo hiểm cho tổng thành thân vỏ được PTI tính như sau: Xe ca, xe con: Giá trị thân vỏ 53.5% Xe tải: Giá trị thân vỏ 31% Bảng 1.4:Biểu phí bảo hiểm tổng thành thân vỏ (Đơn vị: %) STT Loại xe Tỷ lệ phí 1 Xe không kinh doanh 2.0 2 Xe kinh doanh 2.5 (Nguồn:Công ty bảo hiểm PTI) Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau: Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm * Số tháng xe đã hoạt động trong năm 12 Hoàn phí bảo hiểm: Đó là trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó.Trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe.Số phí hoàn lại được tính như sau: Phí hoàn lại = Phí cả năm * Số tháng không hoạt động * Tỷ lệ phí hoàn lại 12 Tùy theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỷ lệ hoàn phí khác nhau.Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. 2.4. Hoạt động giám định và bồi thường tổn thất 2.4.1. Giám định tổn thất Giám định tổn thất phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ. Trình tự của các bước công việc được tiến hành như sau: Bước 1: Tiếp nhận, xử lý thông tin về vụ tai nạn Ngay sau khi xảy ra tai nạn, chủ xe hoặc đại diện cho chủ xe cần phải thông báo ngay cho cơ quan công an, công ty bảo hiểm hoặc đơn vị đại diện của công ty bảo hiểm ở nơi gần nhất về tình hình tai nạn, đồng thời chủ xe, lái xe phải thực hiện các biện pháp để hạn chế thiệt hại có thể gia tăng. Sau khi nhận được thông báo tai nạn của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cử cán bộ đại diện của mình xuống hiện trường, phối hợp với chủ xe để giải quyết hậu quả của vụ tai nạn. Những thông tin ban đầu mà nhân viên giám định bảo hiểm cần phải nắm bắt dược là: Số xe, loại xe Thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn Tên lái xe, số giấy phép lái xe Số giấy chứng nhận bảo hiểm , đơn vị bảo hiểm, nội dung bảo hiểm (trách nhiệm dân sự, vật chất xe…) Diễn biến tai nạn Nội dung đang được cơ quan nào giải quyết, địa chỉ, số điện thoại liên lạc… Đánh giá sơ bộ về thiệt hại Bước 2: Giám định tổn thất Giám định tổn thất là quá trình giám định những thiệt hại trong vụ tai nạn. Việc giám định này chia làm 2 giai đoạn, đó là giám định sơ bộ tổn thất ban đầu và giám định chi tiết. Ngay sau khi xảy ra tai nạn, đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng chủ phương tiện (hoặc người đại diện cho chủ phương tiện) tiến hành giám định ban đầu để xác định thiệt hại sơ bộ Việc giám định chi tiết thiệt hại của xe sẽ được công ty bảo hiểm và chủ xe thực hiện trước khi tiến hành sửa chữa xe. S._.au khi đã xác định được một cách chi tiết về những thiệt hại xảy ra , hai bên sẽ xây dựng phương án sửa chữa, xác định rõ ràng từng bộ phận cần phải thay thế hoặc sửa chữa tùy theo mức độ hư hỏng và khả năng phục hồi của từng bộ phận hư hỏng đó. Doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe sẽ thống nhất lựa chọn nơi sửa chữa với chi phí hợp lý và đảm bảo chất lượng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các giấy tờ, hồ sơ có liên quan đến chiếc xe bị tai nạn như: Giấy chứng nhận bảo hiểm Giấy đăng ký xe Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường Bằng lái xe của người điều khiển xe Trong quá trình giám định, nhất thiết phải có mặt cả đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm và người được bảo hiểm.Nhân viên giám định bảo hiểm phải chụp ảnh hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn, đồng thời phải phối hợp với công an để thu thập tư liệu, sau đó lập biên bản giám định. Biên bản giám định là tài liệu chủ yếu để xét duyệt bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm và truy đòi người thứ ba. Vì vậy, nội dung văn bản này phải đảm bảo tính trung thực, chính xác, rõ ràng và cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với thực trạng và không được mâu thuẫn khi đối chiếu với các giấy tờ khác có liên quan. Tuy nhiên đối với những trường hợp phức tạp thì ngoài biên bản giám định ban đầu cồn phải có các biên bản giám định bổ sung bổ sung phát sinh trong quá trình sửa chữa. Quy trình giám định như vậy là để cho công việc giám định đạt được mục đích cơ bản đó là xác định được chính xác về nguyên nhân xảy ra tai nạn , mức độ thiệt hại làm cơ sở cho việc xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm. 2.4.2. Bồi thường tổn thất Trước khi bồi thường cho chủ xe , doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành thực hiện các khâu công việc sau: Bước 1: Kiểm tra bộ hồ sơ khiếu nại bồi thường Trước khi bồi thường cho người được bảo hiểm , doanh nghiệp bảo hiểm phải kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ khiếu nại bồi thường bộ hồ sơ này bao gồm các loại giấy tờ chủ yếu sau: Giấy yêu cầu bồi thường Bản sao các giấy tờ sau: +Giấy chứng nhận bảo hiểm +Giấy đăng ký xe +Giấy phép lái xe +Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường +Giấy đăng ký kinh doanh đối với các loại xe tham gia vận tải hành khách hoặc hàng hóa. Bản kết luận điều tra tai nạn của cơ quan công an Quyết định của tòa án (nếu có) Các giấy tờ liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba khác (nếu có) Các giấy tờ chứng minh thiệt hại vật chất của phương tiện. Bước 2:Xác định cơ sở để tính toán thiệt hại Việc bồi thường thiệt hại cho chiếc xe được bảo hiểm được dựa theo các cơ sở sau đây: Căn cứ vào thiệt hại thực tế và chi phí sửa chữa hợp lý mà hai bên đã thỏa thuận trong khi thực hiện phương án giám định chi tiết để thống nhất các điều kiện sửa chữa cho chiếc xe bị tai nạn. Căn cứ vào các khoản chi phí khác được chấp nhận bồi thường như chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi phí cẩu , kéo xe từ nơi bị tai nạn tới nơi sửa chữa. Căn cứ vào cách thức tham gia bảo hiểm của chủ xe(tham gia bảo hiểm toàn bộ, tham gia bảo hiểm bộ phận hay tham gia bảo hiểm dưới giá trị và xem xét chủ xe có tham gia thêm các điều khoản bảo hiểm mở rộng hay không?) Căn cứ vào các khoản đòi bồi thường từ người thứ ba gây nên tai nạn. Bước 3: Trình tự và cách tính toán bồi thường Quá trình này được thực hiện theo các bước công việc sau đây: Một là: Xác định giá trị thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm.Thiệt hại thực tế thực tế thuộc trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm được tính theo công thức sau: Thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm bảo hiểm=Tổng chi phí sửa chữa hợp lý đã thống nhất+Các khoản chi phí được chấp nhận bồi thường khác-Chi phí sửa chữa thiệt hại không phụ thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Hai là: Tính toán số tiền bồi thường Nếu chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ (đúng giá trị thực tế) thì số tiền bồi thường bằng với giá trị thiệt hại thực tế. Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi: +Xe bị thiệt hại trên 75% hoặc đến mức không thể sửa chữa, phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn hoặc chi phí sửa chữa bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. +Xe bị mất cắp, mất cướp (có kết luận của cơ quan chức năng) Trong trường hợp này STBT lớn nhất bằng STBH và phải trừ khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị xe ngay trước khi xảy ra tổn thất. Nếu xe tham gia bảo hiểm bộ phận thì số tiền bồi thường được căn cứ theo giá trị thiệt hại của bộ phận được bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. Nếu xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị thì số tiền bồi thường được xác định như sau: Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm của bảo hiểm * Số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm Trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vi phạm những quy định trong hợp đồng bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể khấu trừ một phần của khoản tiền bồi thường.Trên thực tế việc giải quyết bồi thường có thể áp dụng theo 3 cách thức sau đây: Bồi thường trên cơ sở chi phí sửa chữa , khôi phục lại xe Bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại Bồi thường toàn bộ sau đó thu hồi và xử lý xe Việc lựa chọn cách thức bồi thường phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể trên thực tế và phải dựa vào mức độ thiệt hại của xe, khả năng khôi phục lại của xe, chất lượng của nơi sửa chữa , phụ tùng thay thế. Việc lựa chọn cách thức bồi thường luôn phải đảm bảo tính thống nhất giữa soanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe để lựa chọn phương án kinh tế nhất, có lợi nhất cho cả hai bên. Sau khi số tiền bồi thường được xác định, DNBH sẽ thông báo chấp nhận bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường cho khách hàng. Và thường có 3 cách bồi thường: thanh toán bằng tiền mặt, sửa chữa tài sản, thay thế mới tài sản. Nếu số tiền bồi thường hoặc chi trả quá lớn, DNBH có thể thỏa thuận với khách hàng về kỳ hạn thanh toán, thời gian và lãi suất trả chậm… Cuối cùng là truy đòi người thứ ba nếu như họ có liên đới trách nhiệm trong trường hợp tổn thất xảy ra hoặc với các nhà bảo hiểm khác trên thị trường tái bảo hiểm. Thực hiện truy đòi cũng phải nhanh chóng, kịp thời để quản lý tốt các nghiệp vụ bảo hiểm mà kết quả của chúng có liên quan nhiều đến kết quả truy đòi. III. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh Hiệu quả kinh doanh của DNBH là thước đo sự phát triển của bản thân doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định,nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh chỉ có thể được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí. Hiệu quả kinh doanh được tính bằng công thức: H = Hoặc H = Trong đó: H:Hiệu quả kinh doanh K:Kết quả kinh doanh C:chi phí chi ra để đạt được kết quả đó Về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so sánh với một chỉ tiêu chi phí nào đó thì sẽ tạo thành một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh tính theo chiều thuận K/C hoặc theo chiều ngược lại C/K. 3.1.1. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh chung của nghiệp vụ Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí chi ra của nghiệp vụ đó. Hd = (1) He = (2) Trong đó: Hd, He – Hiệu quả kinh doanh của DNBH tính theo doanh thu và lợi nhuận; D – Doanh thu trong kỳ; L – Lợi nhuận thu được trong kỳ; C – Tổng chi phí chi ra trong kỳ. Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ,tạo ra bao nhiêu doanh thu. Chỉ tiêu (2) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm càng lớn thì càng chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,vì với mức chi phí nhất định,doanh nghiệp sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày càng cao. 3.1.2. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo khâu công việc Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm khi triển khai thường phải trải qua một số khâu công việc: Khâu khai thác, khâu giám định và bồi thường, khâu đề phòng và hạn chế tổn thất…Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ, đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của từng khâu công việc. Khâu khai thác: Là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm, là khâu đưa sản phẩm đến với khách hàng. Để đánh giá hiệu quả của khâu khai thác, phải xác định các chỉ tiêu: Hiệu quả khai thác bảo hiểm = Kết quả khai thác trong kỳ Chi phí khai thác trong kỳ Kết quả khai thác trong kỳ có thể là doanh thu phí bảo hiểm,hoặc cũng có thể là số lượng hợp đồng,số đơn bảo hiểm cấp trong kỳ…còn chi phí khai thác có thể là tổng chi phí trong khâu khai thác hoặc cũng có thể là số đại lý khai thác trong kỳ. Khâu đề phòng hạn chế tổn thất Hiệu quả công tác đề phòng và hạn chế tổn thất được phản ánh ở chỉ tiêu: Hiệu quả và đề phòng hạn chế tổn thất = Lợi nhuận nghiệp vụ bảo hiểm trong kỳ Chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất trong kỳ Kết quả chỉ tiêu nói lên cứ một đồng chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất chi ra trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận nghiệp vụ bảo hiểm. Khâu giám định và bồi thường tổn thất:Là khâu trọng tâm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm,là cơ hội để DNBH thực hiện các cam kết của mình đối với khách hàng.Một DNBH muốn tạo niềm tin cho khách hàng của mình thì phải làm tốt khâu này.Hiệu quả của khâu này được tính như sau: Hiệu quả giám định bảo hiểm = Kết quả giám định trong kỳ Chi phí giám định trong kỳ Kết quả giám định trong kỳ là số vụ tai nạn rủi ro đã được giám định hoặc số khách hàng đã được bồi thường trong kỳ.Còn chi phí giám định là tổng chi phí giám định trong kỳ. CHƯƠNG II:TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BHVCXCG TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM BƯU ĐIỆN PTI 2005-2009 I. Giới thiệu chung về công ty Bảo hiểm Bưu điện PTI 1.1. Quá trình hình thành và phát triển Giấy phép thành lập và hoạt động: * Giấy phép thành lập và hoạt động số 41A GP/KDBH ngày 01/02/2007 của Bộ Tài chính; * Giấy phép điều chỉnh số 41A/GPĐC1/KDBH ngày 21/04/2008 của Bộ Tài chính; * Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh công ty cổ phần số 055051 ngày 12/08/1998 (lần đầu) và ngày 17/03/2004 (đăng ký thay đổi lần thứ nhất) của Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội. Vốn điều lệ : 300.000.000.000VNĐ (Cổ đông pháp nhân: 62.60%, cổ đông thể nhân: 37.40%) Thực hiện chủ trương đa dạng hoá thị trường bảo hiểm Việt Nam, ngay sau khi Nghị định 100/CP của Chính phủ được ban hành, các công ty bảo hiểm khác (ngoài hệ thống bảo hiểm cũ) đã nhanh chóng được thành lập và đóng góp tích cực vào việc phá bỏ độc quyền về kinh doanh bảo hiểm đã tồn tại hàng chục năm trước đây. Một trong số các công ty bảo hiểm mới được thành lập đã chiếm được vị trí tin cậy trên thị trường bảo hiểm Việt Nam: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu Điện (PTI). Được thành lập ngày 12/08/1998, Công ty Bảo hiểm Bưu điện là tập hợp của các doanh nghiệp lớn thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau tạo nên sự đa dạng về ngành nghề cũng như vững chắc về tài chính. Cổ đông sáng lập và chi phối là Tổng Công ty Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam (VNPT), nay là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam và các cổ đông sáng lập khác là Tổng Công ty Cổ phần Tái Bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE), Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh, Tổng Công ty xây dựng Hà Nội (HACC), Tổng Công ty xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam (Vinaconex), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế (VIB). Công ty Tài chính Bưu điện. Trụ sở chính của PTI tại tầng 8, toà nhà số 4A Láng Hạ, Quận Ba Đình, Hà Nội. Đến thời điểm hiện nay PTI chính thức Hội sở Giao dịch và 21 chi nhánh đặt tại các tỉnh, thành phố và các trung tâm kinh tế trọng điểm cùng với mạng lưới hơn 1.000 đại lý bảo hiểm tại tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Với hệ thống tổ chức mạng lưới phục vụ khách hàng nêu trên, về cơ bản đến nay PTI đã đáp ứng tốt yêu cầu phục vụ khách hàng trên toàn quốc với phương châm giải quyết nhanh, kịp thời các vụ tổn thất và được khách hàng đánh giá cao. Hiện nay, để phù hợp với sự phát triển và phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, bên cạnh 21 Chi nhánh đã đi vào hoạt động, được phép của Bộ Tài chính (theo thông báo số 4522/TC/BH ngày 18/04/2005 của Bộ Tài chính) PTI đã thành lập Hội sở giao dịch Hà Nội (PTI Hà Nội) có trụ sở tại số 100 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội. Ngày 01 tháng 07 năm 2005, Hội sở Giao dịch đã chính thức đi vào hoạt động. Hội sở Giao dịch Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện được thành lập trên cơ sở kế thừa toàn bộ hoạt động kinh doanh và các phòng kinh doanh bảo hiểm của Văn phòng PTI trước đây. Như vậy, với sự ra đời của Hội sở giao dịch Hà Nội, PTI đã hoàn thành việc tách toàn bộ khối trực tiếp khai thác kinh doanh bảo hiểm và khối quản lý vĩ mô, trợ giúp cho các Đơn vị trực thuộc trong kinh doanh, nhận và nhượng tái bảo hiểm, giải quyết các vụ việc trên phân cấp của các Đơn vị. Được thành lập trong cơ chế thị trường, Công ty PTI hiểu rõ hơn bao giờ hết là chấp nhận cạnh tranh và phải từng bước nghiên cứu thị trường, phát triển thận trọng vững chắc. Điều đó thể hiện ở việc PTI lấy con người làm trọng tâm phát triển, xây dựng và đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên viên giỏi về nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp cao. Xác định rõ quyền lợi và sự phát triển của khách hàng luôn gắn liền với sự phát triển của PTI nên PTI đã chú trọng công tác chăm sóc khách hàng thông qua các chương trình tư vấn bảo hiểm, tuyên truyền vận động khách hàng quan tâm đến công tác phòng ngừa hạn chế rủi ro và bằng quỹ đề phòng hạn chế tổn thất của mình PTI hỗ trợ khách hàng đảm bảo an toàn trong sản xuất kinh doanh. Hoạt động của PTI đã được khách hàng đánh giá cao, trả lại cho khách hàng những ưu đãi và quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng trong nền kinh tế thị trường, đó là: Phí bảo hiểm giảm, và các chính sách chăm sóc khách hàng được quan tâm chú trọng hơn. Khách hàng có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm và người cung cấp dịch vụ phù hợp. Đặc biệt uy tín của PTI được nâng cao bởi khâu giải quyết bồi thường chắc chắn, nhanh chóng, hợp tình hợp lý. PTI thực sự là chỗ dựa về tài chính của khách hàng với sự cảm thông chia sẻ trong hoạn nạn khi những tổn thất không may xảy ra. Thực tế đã chứng minh, trong 10 năm qua cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam, PTI đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam và có uy tín với các nhà tái bảo hiểm thế giới. Ngay từ những ngày đầu thành lập, PTI đã quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao và thực tế cho đến nay, Công ty đã xây dựng được một đội ngũ CBCNV kinh nghiệm, trình độ chuyên môn hoá sâu trong các lĩnh vực bảo hiểm hiện đang triển khai tại PTI, gồm 540 người làm việc tại Hà Nội, Hội sở Giao dịch và 21 chi nhánh, các văn phòng đại diện trong phạm vi toàn quốc. Công ty đã triển khai rộng rãi hàng chục loại hình bảo hiểm trong các lĩnh vực bảo hiểm thiết bị điện tử/ tài sản, bảo hiểm xây dựng - lắp đặt, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, con người, xe cơ giới, trách nhiệm dân sự tới hàng vạn khách hàng trong cả nước. Công ty đã giữ vị trí hàng đầu trong các công ty bảo hiểm về loại hình bảo hiểm thiết bị điện tử/ tài sản, bảo hiểm xây lắp các công trình viễn thông, dân dụng...... Ngoài những nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống, trong thời gian qua PTI đã triển khai một số nghiệp vụ bảo hiểm mới như: bảo hiểm vệ tinh, bảo hiểm bưu phẩm-bưu kiện khai giá. Nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận bảo hiểm cho các dự án đầu tư lớn, Bảo hiểm Bưu điện đã có quan hệ hợp đồng với nhiều Công ty bảo hiểm và Tái bảo hiểm có uy tín trên thị trường quốc tế như các Công ty tái bảo hiểm SwissRe, Công ty tái bảo hiểm MunichRe (Đức), Sumitomo (Nhật), Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt nam... Công ty PTI có quan hệ mật thiết với các Công ty giám định tổn thất chuyên nghiệp như Cunningham Lindsey, Crawford, McLarens ... và đã nhận được sự cộng tác hiệu quả của các Công ty này trong việc đánh giá rủi ro, giám định và giải quyết khiếu nại. 1.2. Cơ cấu tổ chức Bộ máy tổ chức của PTI được thể hiện ở sơ đồ 2.1 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu bộ máy tổ chức công ty Đại hội đồng Cổ đông Đại hội đồng Cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất của Công ty. Đại hội đồng cổ đông quyết định tổ chức lại và giải thể Công ty, quyết định định hướng phát triển của Công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên Hội đồng Quản trị, thành viên Ban Kiểm soát. Hội đồng Quản trị Hội đồng Quản trị là cơ quan quản trị cao nhất của Công ty, có đầy đủ quyền hạn để thay mặt ĐHĐCĐ quyết định các vấn đề liên quan đến mục tiêu và lợi ích của Công ty, ngoại trừ các vấn đề thuộc quyền hạn của Đại hội đồng Cổ đông. Hội đồng Quản trị do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Cơ cấu Hội đồng Quản trị hiện tại như sau: - Ông Đỗ Ngọc Bình : Chủ tịch Hội đồng Quản trị - Ông Phạm Anh Tuấn : Uỷ viên HĐQT - Ông Mai Xuân Dũng : Ủy viên HĐQT - Ông Hồ Công Trung : Ủy viên HĐQT - Ông Hàn Ngọc Vũ : Ủy viên HĐQT Ban Tổng Giám đốc Ban Tổng Giám đốc bao gồm Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc do HĐQT quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm. Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty và là người điều hành cao nhất mọi hoạt động kinh doanh hàng ngày của Công ty. Cơ cấu Ban Tổng Giám đốc hiện tại như sau: - Ông Phạm Anh Tuấn : Tổng Giám đốc - Bà Trần Thị Minh : Phó Tổng Giám đốc - Ông Nguyễn Đức Bình : Phó Tổng Giám đốc - Ông Nguyễn Trường Giang : Phó Tổng Giám đốc Ban kiểm soát Ban Kiểm soát do Đại hội đồng Cổ đông bầu ra, là tổ chức thay mặt cổ đông để kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, quản trị và điều hành của Công ty. Cơ cấu Ban kiểm soát hiện tại như sau: - Ông Nguyễn Quốc Kế : Trưởng Ban Kiểm soát - Ông Đỗ Anh Tuấn : Uỷ viên - Bà Nguyễn Thị Thúy Hồng : Uỷ viên Trụ sở chính - Địa chỉ : Tầng 8, tòa nhà số 4A Láng Hạ, quận Ba Đình, Hà Nội - Điện thoại : (04) 37724466 Fax: (04) 37724460 - Email : ptioffice@fmail.vnn.vn Web: www.pti.com.vn - Các phòng ban: Khối Nghiệp vụ - Phòng Bảo hiểm Tài Sản Kỹ thuật: Phòng Bảo hiểm Tài sản Kỹ thuật có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc trong việc quản lý, chỉ đạo công tác chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm Tài sản Kỹ thuật thống nhất toàn Công ty. - Phòng Bảo hiểm Hàng hải: Phòng Bảo hiểm Hàng hải có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc trong việc quản lý, chỉ đạo công tác chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm Hàng hải thống nhất toàn Công ty. - Phòng Bảo hiểm Xe Cơ giới: Phòng Bảo hiểm Xe Cơ giới có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc trong việc quản lý, chỉ đạo công tác chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới thống nhất toàn Công ty. - Phòng Bảo hiểm Con người: Phòng Bảo hiểm Con người có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc trong việc quản lý, chỉ đạo công tác chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm con người thống nhất toàn Công ty. - Phòng Quản lý Đại lý: Phòng Quản lý Đại lý có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc Công ty trong việc ban hành các chính sách nhằm xây dựng, phát triển, quản lý thống nhất và giám sát chặt chẽ hoạt động của hệ thống Đại lý của Công ty trên toàn quốc. - Phòng Tái bảo hiểm: Phòng Tái bảo hiểm có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc Công ty trong việc quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác nhận và nhượng tái bảo hiểm. Khối Kinh tế: Có chức năng kinh doanh, tham mưu và giúp Ban Tổng Giám đốc Công ty quản lý, chỉ đạo các công tác liên quan đến Kế toán Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư tài chính theo đúng pháp luật: - Phòng Tài chính – Kế toán: Phòng Tài chính – Kế toán có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc Công ty trong việc quản lý, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát lĩnh vực Tài chính – Kế toán theo quy định của Nhà nước và Công ty. Thực hiện công tác Tài chính – Kế toán tại Văn phòng Công ty. - Phòng Kế hoạch: Phòng kế hoạch có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc Công ty trong việc tổ chức, thực hiện các mặt: Lập và thực hiện kế hoạch kinh doanh; Nghiên cứu và phát triển thị trường sản phẩm; Tuyên truyền, quảng cáo. - Phòng Đầu tư: Phòng Đầu tư có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc Công ty trong việc tổ chức, thực hiện các mặt: Quản lý nguồn vốn - quỹ, Đầu tư tài chính; Quản lý cổ đông. Khối Quản lý bao gồm các phòng: - Phòng Tổng hợp – Pháp chế: Phòng Tổng hợp – Pháp chế có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc Công ty trong việc chỉ đạo điều hành các Phòng tại Văn phòng Công ty để thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, quy chế làm việc và trực tiếp tổ chức thực hiện các công tác như: Công tác tổng hợp, thư ký, công tác pháp chế, công tác hành chính quản trị, công tác tuyên truyền, quảng cáo, công tác quan hệ quốc tế, đối ngoại, khánh tiết. - Phòng Tổ chức Cán bộ: Phòng Tổ chức Cán bộ có chức năng tư vấn, tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc thống nhất quản lý công tác tổ chức, cán bộ, tuyển dụng, đào tạo, lao động tiền lương và thi đua khen thưởng theo đúng chính sách, chế độ quy định của Nhà nước và Công ty. - Phòng Công nghệ Thông tin: Phòng Công nghệ Thông tin có chức năng tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc Công ty trong việc quản lý, chỉ đạo các lĩnh vực như: Nghiên cứu việc ứng dụng Công nghệ Thông tin vào quản lý và hoạt động kinh doanh của Công ty, tổ chức thực hiện công tác thống kê, thu thập, quản lý và cung cấp thông tin hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh và quản lý của Công ty. II. Tình hình BHVCXCG trên thị trường bảo hiểm Việt Nam thời gian qua Bảng 2.1: Tình hình BHVCXCG trên thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn (2007 – 2009) Chỉ tiêu Năm Đơn vị 2007 2008 2009 Số xe cơ giới hoạt động chiếc 11,719,996 15,235,973 19,806,767 Số xe cơ giới tham gia bảo hiểm vật chất xe chiếc 4,336,399 7,328,504 14,290,583 ( Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam ) Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm qua đã có những bước đột phá khả quan.Bảo hiểm xe cơ giới được xem là nghiệp vụ mũi nhọn của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đóng góp đáng kể vào mức tăng chung của thị trường.Mặt khác đây còn là loại hình bảo hiểm khá phổ biến có mức độ ảnh hưởng lớn tới người dân vì thế luôn có mức tăng trưởng đáng kể qua các năm. Nếu như thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2003-2006 mới chỉ có 30-35% xe máy,mô tô và 80% ô tô mua bảo hiểm thì bước sang năm 2007 sau một năm gia nhập WTO đã mở ra một bước ngoặt mới cho thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng. Năm 2007 là một năm khá thuận lợi đối với ngành bảo hiểm nói chung,bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng với tốc độ tăng trưởng cao,hội nhập quốc tế mạnh mẽ thông qua tiếp nhận vốn đầu tư và đổi mới quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế. Doanh thu phí bảo hiểm gốc phi nhân thọ toàn thị trường đạt 8.359 tỷ đồng tăng trưởng gần 30% so với năm 2006-mức cao nhất trong vòng 5 năm qua. Trong đó bảo hiểm xe cơ giới luôn là một trong các nghiệp vụ có mức đóng góp đáng kể cho thị trường.Theo số liệu ước tính của Hiệp Hội Bảo hiểm Việt Nam, doanh số của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của toàn thị trường trong năm 2007 đạt gần2.500 tỷ đồng. Tính đến hết năm 2007 , toàn thị trường có 22 DNBH phi nhân thọ thì có tới 14 doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Năm 2008 các doanh nghiệp trong nước không còn được độc quyền trong các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc,bắt đầu từ ngày 01/01/2008 theo cam kết WTO các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài chính thức được cung cấp các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc đó là bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới và bảo hiểm cháy tại thị trường Việt Nam . Sự xuất hiện của các doanh nghiệp bảo hiểm quốc tế lớn, có tiềm lực tài chính mạnh và trình độ quản lý tốt đã góp phần làm tăng tính cạnh tranh , mang lại nhiều sự lựa chọn cho khách hàng và tạo động lực phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, kinh doanh trong môi trường sôi động và cạnh tranh như vậy không hoàn toàn dễ dàng trong các loại hình bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng. Mặc dù trong những tháng cuối năm 2008, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế Việt Nam khiến nhiều hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng đình đốn và thất nghiệp gia tăng nhanh chóng, nhưng nhờ có sự quan tâm và chỉ đạo quản lý của Chính Phủ và Bộ Tài chính mà thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn giữ được đà tăng trưởng trong năm 2008 với tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc ước đạt 21.300 tỉ đồng, tăng 19,5% so với năm 2007 trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt gần 10.825 tỉ VND, tăng 29% so với năm trước và chỉ thấp hơn một chút so với mức tăng trưởng của năm 2007 (30%). Tuy nhiên cùng với sự tăng trưởng mạnh về doanh thu, năm 2008 cũng đánh dấu là năm cạnh tranh rất quyết liệt của các DNBH trong các loại hình bảo hiểm mà đặc trưng là bảo hiểm xe cơ giới, cuộc cạnh tranh bằng cách hạ phí bảo hiểm đã không chỉ tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh, mà còn ảnh hưởng tới sự an toàn tài chính của DNBH. Bên cạnh đó tình trạng tổn thất đã tiếp tục gia tăng trong loại hình bảo hiểm xe cơ giới, đặc biệt là trận mưa lũ lịch sử tại Hà Nội đầu tháng 11 vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề cả về kinh tế nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng.Số tiền bồi thường cho các tổn thất về tài sản(chủ yếu là ôtô) cho đến nay ước đã lên tới 70-80 tỉ VND. Năm 2009, Bảo hiểm xe cơ giới là nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu cao nhất đạt 3.109 tỉ đồng, tăng 22,3% so với năm 2007. Dẫn đầu doanh thu là Bảo hiểm Bảo Việt 956 tỉ đồng, Bảo Minh 562 tỉ đồng tiếp đến là PJICO 507 tỉ đồng. Tổng số tiền bồi thường là 1.803 tỉ đồng, chiếm 58% doanh thu. Các doanh nghiệp bảo hiểm có tỉ lệ bồi thường cao trong nghiệp vụ này là Bảo Long, QBE, Bảo Minh. Nếu kể cả phần dự phòng phí chưa được hưởng 50%, dao động lớn và chi phí hoa hồng đại lý thì tỉ lệ bồi thường sẽ lớn hơn gấp đôi. Cuộc cạnh tranh bằng hạ phí bảo hiểm từ gay gắt dẫn đến báo động trong khi tổn thất toàn thị trường lên tới 58% doanh thu phí, chi phí sửa chữa thay thế phụ tùng đã tăng trên 30%. Như vậy sau 3 năm gia nhập WTO ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng đã có những cơ hội cũng như thách thức mới, đòi hỏi các DNBH phải có những đánh giá khách quan, toàn diện và có những bước đi riêng, chiến lược phát triển riêng trong cạnh tranh và hội nhập. Tình hình triển khai BHVCXCG tại PTI 3.1 Công tác khai thác Một sản phẩm bảo hiểm hoàn chỉnh thì gồm nhiều khâu khác nhau trong đó khâu khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên chiếm vị trí quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và trong lĩnh vực bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng , giúp giới thiệu sản phẩm cũng như hoạt động của công ty đến với khách hàng. Với bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào việc tiêu thụ sản phẩm luôn được đặt lên hàng đầu. Trong kinh doanh bảo hiểm vì sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, kinh doanh bảo hiểm phải dựa trên niềm tin giữa khách hàng và doanh nghiệp do đó việc đưa sản phẩm tiếp cận với khách hàng lại càng khó hơn so với các sản phẩm khác vì vậy trong lĩnh vực kinh doanh này các DNBH luôn chú trọng vào khâu khai thác, đây không chỉ là cách tiếp thị sản phẩm đến với khách hàng mà còn là cơ hội để DNBH quảng bá hình ảnh của mình nhằm có được niềm tin của khách hàng. Với nhận thức như vậy và cùng với những chiến lược đúng đắn, từ khi thành lập cho đến nay PTI đã đạt được những kết quả khai thác tương đối khả quan: Bảng 2.2:Tình hình khai thác bảo hiểm VCXCG tại PTI giai đoạn (2005-2009) Chỉ tiêu Năm Đơn vị 2005 2006 2007 2008 2009 Số xe hoạt động chiếc - - 11,719,996 15,235,973 19,806,767 Số xe tham gia bảo hiểm tại công ty chiếc 81,247 126,276 189,323 311,614 439,810 Tỷ lệ xe tham gia tại PTI % - - 1.62 2.05 2.22 Tốc độ tăng (giảm)số xe tham gia BH % - 55.42 49.92 64.59 41.14 Doanh thu phí bảo hiểm Triệu đồng 36,232 57,445 84,249 138,980 196,312 Tốc độ tăng doanh thu phí % - 58.55 46.67 64.96 42.25 ( Nguồn : Phòng bảo hiểm xe cơ giới – PTI ) Theo bảng trên ta thấy doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới và số xe tham gia bảo hiểm tăng qua các năm.Tính từ năm 2005 cho đến nay doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tăng lên khoảng 1.5 lần (t._.̉a cả công ty là:86 tỷ đồng Riêng với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, PTI đã đề ra một số chiến lược phát triển sau: Trong 2 năm gần đây,số tiền bồi thường của công ty chiếm hơn 50% doanh thu phí bảo hiểm vì vậy chiến lược trong năm 2009 là hạn chế số tiền bồi thường của nghiệp vụ xe cơ giới xuống còn 48% so với doanh thu,việc giảm số tiền bồi thường trong năm 2009 là để tạo cơ sở giảm tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ này trong những năm sau đó. Thắt chặt hệ thống quản lý đại lý,quản lý rủi ro ngay từ khi cấp đơn,cùng với đó là nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên khai thác,của các chuyên viên giám định bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Hạn chế hiện tượng trục lợi bảo hiểm ngay từ khâu giám địnhGiải quyết bồi thường cho khách hàng một cách nhanh chóng,kịp thời II. Một số thuận lợi và khó khăn 2.1. Thuận lợi 2.1.1. Sự phát triển của nền kinh tế. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Tốc độ tăng GDP các năm gần đây luôn đạt cao(2005 là 8,43%; 2006 đạt 8,17%, 2007 đạt 8,44%, 2008 đạt 6,18%), năm 2009 Việt Nam thực hiện tốt ngăn chặn suy giảm kinh tế, GDP tăng 5,2%; là 1/12 nước có GDP tăng trưởng dương của thế giới và là nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Những bước tiến đó đã tạo điều kiện cho các ngành sản xuất kinh doanh trong nước phát triển, dẫn đến nhu cầu về cơ sở hạ tầng cũng tăng theo. 2.1.2. Sự phát triển của thị trường bảo hiểm Với việc mở cửa thị trường bảo hiểm từ rất sớm, chính phủ Việt Nam được đánh giá là tương đối cởi mở trong việc cho phép  các nhà cung cấp nước ngoài tham gia thị trường. Từ năm 1996 đến nay, Việt Nam đã từng bước mở cửa thị trường bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước  ngoài. Chính phủ đa cho phép nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Hoạt động của các doanh nghiệp này đã đem đến những thay đổi tích cực cho thị trường như: góp phần tăng doanh thu phí bảo hiểm, nâng cao năng lực tài chính của thị trường, tăng cường chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thu hút thêm lao động, tạo  lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, qua đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Theo Cục Quản Lý và Giám sát bảo hiểm (Bộ tài chính), tính đến nay, tổng số doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường là 49 doanh nghiệp, trong đó gồm 27 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 10 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm. Tổng số vốn mà các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động khoảng 21.000 tỷ đồng. Đồng thời, trên thị trường hiện có gần 200 loại sản phẩm bảo hiểm gồm cả phi nhân thọ và nhân thọ đang được chào bán. Trong số 27 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi  nhân thọ thì có tới 10 doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Còn theo Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, doanh thu phí bảo hiểm Việt Nam, doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường năm 2009 đạt hơn 24.000 tỷ đồng, đồng thời giải quyết bồi thường bảo hiểm hơn 10.000 tỷ đồng, đảm bảo sự phát triển ổn định của các tổ chức, cá nhân không may gặp rủi ro, hoạn nạn. - Sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam(2001) đã kết nối các DNBH với nhau tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường( chủ động liên kết với các công ty nước ngoài Munich Re, Swess Re, Lloyd’s…). - Luật KDBH sẽ được sửa đổi, bổ sung, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy tính chủ động, sáng tạo của DNBH, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia BH là môi trường thuận lợi để thị trường BH phát triển. - Về phương diện tái bảo hiểm, năng lực nhận rủi ro từ các công ty nói chung đều tăng do quy định chặt chẽ của Bộ Tài Chính về vốn điều lệ của DNBH cũng như khả năng tài chính vững mạnh của các DNBH qua một thời gian hoạt động. 2.1.3. Sự quan tâm của các cơ quan, nhà nước. - Đảng và nhà nước đang ngày càng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Do vậy hầu hết các dự án đều có sự hỗ trợ một phần của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên sự trợ cấp của nhà nước sẽ giảm dần. Sự trợ cấp của nhà nước càng giảm thì sự lo lắng thiên tai, tai nạn xảy ra bất ngờ dẫn đến người ta phải nghĩ tới Bảo hiểm. - Các cơ quan, các cấp và nhà nước đều hiểu rõ tác dụng của bảo hiểm đối với toàn xã hội nên sẽ luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các DNBH hoạt động triển khai bảo hiểm. - Pháp luật ngày càng hoàn thiện và mang tính tương thích với nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, người tiêu dùng. Luật đầu tư nước ngoài mới được ban hành tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đầu tư vào thị trường Việt Nam. - Luật đầu tư và luật doanh nghiệp đều quy định các doanh nghiệp mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật, trong đó có quy định các tổ chức tư vấn xây lắp, nhà thầu xây dựng mua bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc cho các sản phẩm, vật tư, thiết bị nhà xưởng, tai nan lao động đối với người lao động, trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3 trong thời gian thi công công trình. 2.1.4. Trình độ của khai thác viên bảo hiểm Với vai trò quan trọng của hoạt động khai thác trong quá trình triển khai bảo hiểm, hiện nay các DNBH hầu hết đang tập trung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của khai thác viên bảo hiểm đáp ứng mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. 2.1.5. Thuận lợi từ bản thân PTI và kênh bán hàng qua VNPost - PTI nhận được sự hỗ trợ hết sức đắc lực từ phía tập đoàn VNPT, có thể nói đây là một lợi thế mà không phải doanh nghiệp nào cũng có. - PTI có một đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm trong việc khai thác, đánh giá và quản lý rủi ro, đồng thời có một quy trình làm việc hết sức khoa học, nghiêm túc. Điều này được các khách hàng đánh giá rất cao. Mặt khác, công ty cũng hết sức chú ý đến việc thu hút, bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ. Trong tương lai không xa, đội ngũ kế cận này sẽ làm chủ các quy trình nghiệp vụ và đưa PTI tiến xa hơn nữa. - Sau năm 2008 triển khai “Đề án bán lẻ sản phẩm bảo hiểm PTI qua mạng bưu chính” đã thu được nhiều thành công qua kênh bán hàng này, và trong tương lai kênh phân phối VNPost còn không ngừng phát triển. 2.2. Khó khăn 2.2.1. Mức độ cạnh tranh Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới tạo ra cả cơ hội và thách thức cho các DNBH. Tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là: DNBH hoạt động ở nước ngoài. Việc xuất hiện thêm các DNBH của các ngành kinh tế lớn dẫn đến việc phân chia thị trường tương đối rõ nét và gia tăng cạnh tranh. Bên cạnh đó, việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tạo thêm sức ép cạnh tranh rất lớn cho PTI. Bên cạnh đó thì các DNBH trong nước cũng đang cạnh tranh quyết liệt hơn. Các hình thức cạnh tranh là không lành mạnh, phi kỹ thuật làm ảnh hưởng lâu dài đến DNBH. Ví dụ như phí BH trên thị trường BHVN hiện nay được hình thành chủ yếu qua con đường cạnh tranh hạ phí mà không quan tâm đến đối tượng BH như thế nào, mức độ rủi ro ra sao. 2.2.2. Phí bảo hiểm và các chi phí khác - Việc giảm phí, tăng hoa hồng khai thác, điều kiện bảo hiểm mở rộng đi ngược với trào lưu chung của quốc tế dẫn đến ảnh hưởng tới việc tái tục các hợp đồng tái bảo hiểm làm mất ổn định hoạt động kinh doanh. - Ngoài phí bảo hiểm DNBH còn phải có một số khoản chi khác trong khâu khai thác đang tăng lên như: chi hoa hồng khai thác( theo quy định của BTC 15% đối với môi giới, 5%: đại lý), chi giao dịch( chi phí cấp đơn bảo hiểm, chi đánh giá rủi ro), và các chi phí khác. 2.2.3. Khai thác viên bảo hiểm - Ở một số doanh nghiệp do điều kiện nên khai thác viên bảo hiểm không được đào tạo. Hiện nay các doanh nghiệp đều gặp khó khăn khi trình độ khai thác viên bảo hiểm còn thấp, chưa đánh giá được các rủi ro cho đối tượng bảo hiểm. - Các công ty sử dụng những cán bộ nhân viên không có nghiệp vụ bảo hiểm hay thực hiện chế độ khoán doanh thu phí bảo hiểm cho các chi nhánh, phòng bảo hiểm khu vực hay đại lý. Để đạt chỉ tiêu được giao khoán, các bộ phận này buộc phải chạy theo doanh số, không đánh giá, khảo sát rủi ro, bán sản phẩm bảo hiểm bằng mọi giá. Bên cạnh đó còn có 1 số khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động khai thác như: - Thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy tăng trưởng, nhưng lại không đồng đều, tăng mạnh ở nghiệp vụ bảo hiểm như ôtô, xe máy, tai nạn con người… Phí các nghiệp vụ có tái bảo hiểm nhìn chung có xu hướng giảm phí do cạnh tranh trong và ngoài nước. Tất cả những yếu tố này ít nhiều tác động trực tiếp lên hoạt động của ngành bảo hiểm nói chung, bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng, trong đó có PTI. - Điều kiện thời tiết khí hậu không ổn định, tình hình thiên tai, lũ lụt xảy ra ngày một nhiều và ở quy mô rộng hơn. 2.2.4. Xuất phát từ bản thân PTI. - Một số cán bộ tại các phòng nghiệp vụ trên công ty chưa từng tham gia công tác khai thác nên thiếu kinh nghiệm thực tế từ đó ảnh hưởng đến việc hướng dẫn, chỉ đạo các chi nhánh triển khai hoạt động kinh doanh cũng như chuyên môn. - Chương trình quảng cáo, quảng bá hình ảnh chưa tương xứng với vị thế và tham vọng của PTI. Công tác chăm sóc khách hàng còn chưa được chuẩn hóa từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh dẫn tới thu hẹp thị trường. - Việc triển khai hệ thống phần mềm quản lý còn chậm, chưa đồng bộ nên đã gây nhiều sức ép và khó khăn cho công tác kế toán, thống kê, báo cáo, theo dõi số liệu của đơn vị, đặc biệt đối với việc bán hàng qua hệ thống bưu cục VNPost. III. Một số kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3.1. Đối với khâu khai thác Khai thác bảo hiểm là khâu quan trọng nhất vì thế để nâng cao hiệu quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm thì trước hết phải làm tốt khâu này.Một DNBH không thể tồn tại nếu như không có khách hàng. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là mảng giàu tiềm năng,đào tạo ít và đầu tư nhỏ ,dễ dành được khách hàng và hợp đồng bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do mà nhiều DNBH mới đi vào hoạt động đến chiếm lĩnh thị trường này.Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm vì thế mà cũng bị chia nhỏ đi khi càng có nhiều DNBH tham gia. Đứng trước sức ép này để nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì trước hết PTI cần phải nâng cao hiệu quả của khâu khai thác.Vì thế PTI cần: Thứ nhất: Tăng cường công tác quảng cáo sản phẩm đến khách hàng, có như vậy khách hàng mới có thể biết đến sản phẩm sau đó mới có thể tham gia. Từ trước đến nay việc quảng cáo sản phẩm bảo hiểm hầu như chỉ được sử dụng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, còn trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ thì rất ít hoặc hầu như là không có. Quảng cáo là một công cụ hữu ích cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết về sản phẩm, sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm, đối với những người chưa biết đến công ty thì thông qua quảng cáo công ty còn có thể giới thiệu hình ảnh của mình. Có thể nói quảng cáo là công cụ mang đến hiệu quả cao, bên cạnh những khách hàng truyền thống, công ty còn có sự tham gia của khách hàng tiềm năng. Quảng cáo là một công cụ truyền thông và đem lại hiệu quả vì công ty có thể sử dụng nhiều loại hình khác nhau để quảng cáo sản phẩm của mình: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như:truyền hình,đài phát thanh, báo chí…thông qua các phương tiện này công ty có thể tuyên truyền,phổ biến kiến thức bảo hiểm cho người dân,tầm quan trọng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới như thế nào. Thông qua các phương tiện ngoài trời như:các pano quảng cáo,áp phích… Thông qua mạng internet:Đây là phương tiện mà hầu hết các DNBH sử dụng nhằm giới thiệu hình ảnh của công ty cũng như sản phẩm bảo hiểm đến với khách hàng.. Thứ hai:Nâng cao năng lực khai thác của đại lý bảo hiểm Đối với một doanh DNBH bảo hiểm thì đại lý là lực lượng tiếp thị có hiệu quả nhất,giúp DNBH bán sản phẩm. Đại lý thay mặt cho DNBH giải thích cho khách hàng tiềm năng về những điều mà họ chưa biết hay chưa rõ về sản phẩm cũng như thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, đại lý là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng tiếp nhận các thông tin phản hồi từ khách hàng cho nên những đóng góp của họ về các vấn đề như chính sách sản phẩm, phát hành và quản lý hợp đồng rất có giá trị đối với DNBH , giúp doanh nghiệp có những điều chỉnh kịp thời để nâng cao tính cạnh tranh của mình.Vì thế, đại lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ DNBH nào khi muốn nâng cao hiệu quả khai thác. Hiện nay, thực trạng chung của toàn thị trường chứ không chỉ riêng PTI là số lượng đại lý chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn ít, trình độ chuyên môn và kỹ năng bán hàng còn yếu.Vì thế, để nâng cao năng lực khai thác của đại lý bảo hiểm, PTI cần phải nâng cao hơn nữa công tác tuyển dụng đại lý,đào tạo đại lý vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng bán hàng vừa có đạo đức nghề nghiệp, tránh tình trạng gian lận bảo hiểm, đại lý cấu kết với khách hàng trục lợi bảo hiểm. Là một kênh khai thác chủ yếu của công ty do đó công ty cũng cần có những chính sách hỗ trợ đại lý để khuyến khích nâng cao hiệu quả hoạt động của đại lý cũng như lòng trung thành đối với công ty như: có chính sách khen thưởng,chính sách hỗ trợ trong khâu bán hàng, tăng hoa hồng cho những đại lý hoàn thành tốt công việc khai thác được những hợp đồng bảo hiểm có giá trị cao. Bên cạnh đó, các đại lý của công ty cũng cần phải nắm bắt công nghệ mới, đặc biệt là sử dụng hệ thống máy tính di động để phục vụ cho quá trình tương tác với khách hàng và cho phép tiếp cận rộng hơn các sản phẩm và dịch vụ. Thứ ba: Hợp tác với các cơ quan chức năng như bộ giao thông vận tải, cục thống kê để có thể biết được số xe đang tham gia lưu thông, từ đó xác định thị trường tiềm năng, kịp thời đưa ra các chính sách để tăng số xe tham gia bảo hiểm tại công ty. Thứ tư: Cùng với việc tổ chức đào tạo các kỹ năng nghiệp vụ cho đại lý,công ty cũng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên trong công ty. Là một sản phẩm trừu tượng, nên trong quá trình hoạt động kinh doanh gặp không ít khó khăn, vì vậy công ty cần có đội ngũ lao động có năng lực chuyên môn cao về bảo hiểm xe cơ giới để có thể tiếp cận được khách hàng một cách dễ dàng. Công ty có thể tổ chức các lớp học ngắn hạn mời các chuyên gia trong lĩnh vực xe cơ giới để nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên của mình. Thứ năm: Công ty cần phải nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào quá trình khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả khai thác cũng như hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ. Trong xu thế thương mại điện tử ngày càng phát triển như hiện nay việc bán hàng trực tuyến thông qua mạng ngày càng phát triển, đặc biệt là đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, hiện nay đã có nhiều công ty triển khai hình thức bán hàng trực tuyến qua mạng cho phép khách hàng đăng ký mua bảo hiểm cũng như thanh toán trực tuyến. Đây là giải pháp tốt để thay đổi cách thức tiếp thị và bán sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm mới, là phương thức có hiệu quả mà công ty cần quan tâm triển khai nhằm đón thời cơ mới trong tương lai. Thứ sáu: Nhanh chóng đa dạng hóa các kênh phân phối bảo hiểm theo nhiều hình thức khác nhau. Một trong các biện pháp thường gặp hiện nay ở các DNBH đối với nghiệp vụ BHVCXCG là tiến hành thông qua các tổ chức tài chính, các ngân hàng, các hãng bán xe ô tô, các showroom và các đại lý ủy quyền. Thông qua đó công ty có cơ hội tiếp cận với đông đảo các khách hàng giàu tiềm năng với khả năng tài chính cao và nhu cầu lớn. Bên cạnh đó việc tiếp cận khách hàng bằng thư trực tiếp hoặc thông qua mạng internet cũng có thể mang lại hiệu quả cao, với sức mạnh của internet khách hàng có thể tìm thấy sản phẩm một cách dễ dàng. Thứ bảy: Tham gia tài trợ cho một số chương trình như cuộc thi lái xe giỏi, lái xe an toàn do Bộ giao thông vận tải tổ chức hàng năm. Hoặc tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức bảo hiểm cho người dân. Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa, bởi ở nước ta hiện nay nhận thức của người dân về sự cần thiết của bảo hiểm đối với nền kinh tế,c ũng như đối với đời sống xã hội còn hạn chế.Thông qua các chương trình này công ty có thể nâng cao hiểu biết của người dân về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng, đồng thời xây dựng được hình ảnh của công ty đối với những khách hàng tiềm năng. Thứ tám: Nâng cao hơn nữa công tác dịch vụ,chăm sóc khách hàng. Duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng, coi khách hàng là trung tâm mọi hoạt động của công ty. PTI nên bố trí nhân sự và thời gian tiếp khách một cách hợp lý để có thể đáp ứng mọi thông tin, thắc mắc, khiếu nại cũng như góp ý của khách hàng để điều chỉnh kịp thời và phù hợp những tồn tại còn mắc phải, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Có như vậy mới có thể giữ lại được những khách hàng truyền thống, đồng thời khai thác được cả những khách hàng tiềm năng. 3.2.Đối với khâu giám định, bồi thường tổn thất 3.2.1. Đối với công tác giám định Giám định tổn thất là việc làm của chuyên viên giám định thuộc công ty bảo hiểm hoặc cũng có thể thuê chuyên gia giám định bên ngoài được sự đồng ý của công ty bảo hiểm và người tham gia, nhằm xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất làm cơ sở cho việc bồi thường đồng thời thông qua giám định kịp thời đề xuất các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Giám định tổn thất được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ nhằm tiến hành đánh giá, giám định tổn thất cho thiệt hại của xe cơ giới một cách chính xác và phải đảm bảo quyền lợi của cả hai bên. Để nâng cao hiệu quả của khâu này trước hết PTI cần phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của người giám định viên. Bởi, một người giám định có trình độ và kinh nghiệm sẽ nhanh chóng đánh giá một cách chính xác các nguyên nhân, mức độ thiệt hại tại hiện trường giám định, làm các thủ tục cần thiết liên qua đến đòi người thứ ba bồi thường từ đó tính toán số tiền bồi thường cho khách hàng một cách chính xác, đảm bảo quyền lợi của cả người tham gia và doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp của giám định viên còn có thể giúp công ty giảm tình trạng trục lợi bảo hiểm gây thiệt hại cho công ty. Tình trạng cạnh tranh trên thị trường BHVCXCG diễn ra ngày càng gay gắt khi có sự tham gia của 29 DNBH phi nhân thọ vì vậy nâng cao chất lượng giám định rất quan trọng nhằm tạo niềm tin đối với khách hàng. Vì vậy, công ty cần phải tổ chức các chương trình đào tạo nâng cao kiến thức chuyên môn của giám định viên,tạo ra môi trường thuận lợi và có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những người giám định giỏi, có kinh nghiệm để họ có thể phát huy hết khả năng của mình,làm việc lâu dài với công ty. Bên cạnh đó, công ty cũng cần phải có các chính sách phù hợp để thu hút đội ngũ giám định giỏi, năng động, có lòng nhiệt tình đối với công ty. Muốn vậy PTI cần phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong công ty theo 2 điều kiện: “cần” đó là “môi trường làm việc tốt” và “đủ” là “ thu nhập tương xứng với thành quả lao động”. Có như vậy mới có thể đảm bảo cho công ty thu hút được những cán bộ có đạo đức tốt,tư duy và kinh nghiệm tốt sẵn sàng phục vụ và cống hiến lâu dài cho công ty. Thứ hai: Tăng cường đội ngũ giám định viên bảo hiểm. Với thị trường khai thác bảo hiểm là các tỉnh phía Bắc, đây là thị trường rộng lớn và nằm gần Hà Nội do đó tiềm năng về BHVCXCG của công ty là rất lớn, mặt khác tình hình tai nạn ngày một tăng lên do đó nhu cầu về giám định tại công ty ngày càng tăng đòi hỏi phải có đội ngũ giám định bảo hiểm đông đảo để kịp thời đáp ứng nhu cầu trong công việc. Vì công tác giám định thì cần phải được tiến hành nhanh chóng, thì mới có thể đem lại kết quả chính xác và có thể giảm thiểu tránh được hiện tượng trục lợi bảo hiểm từ phía người tham gia. Bên cạnh đó, sự có mặt kịp thời nhân viên giám định có thể giúp chủ xe đưa ra những biện pháp giảm thiểu tổn thất trước mắt và thực hiện những công việc cần thiết cho công tác bồi thường sau này từ đó sẽ tạo hình ảnh đẹp cho công ty, tăng uy tín của công ty trong khâu chăm sóc khách hàng sau bán hàng,tạo được sự tin tưởng của khách hàng đối với công ty. Thứ ba: Các phương tiện cần thiết cho công tác giám định cần phải được trang bị đầy đủ.Công ty cũng nên ứng dụng các công nghệ hiện đại phục vụ cho công tác giám định được một cách nhanh chóng, chính xác. Là một giám định viên thì trước hết cần phải được chuẩn bị đầy đủ các công cụ cần thiết phục vụ cho công tác giám định như: phương tiên đi lại, điện thoại, máy ảnh, máy vi tính…đây là các phương tiện để phục vụ cho công tác giám định, trong đó điện thoại và máy ảnh là hai phương tiên bắt buộc phải có đối với bất kỳ một giám dịnh viên nào, điện thoại - là phương tiện dùng để liên lạc với khách hàng, với công ty, còn máy ảnh dùng để ghi lại hiện trường vụ tai nạn để từ đó có thể xác định chính xác nguyên nhân gây tai nạn và thiệt hại thực tế, làm cơ sở cho công tác bồi thường sau này. 3.2.2. Đối với công tác bồi thường Khắc phục hậu quả hay bồi thường cho người tham gia bảo hiểm là khâu cuối cùng trong quá trình bán sản phẩm của nhà bảo hiểm. Đây là việc thực hiện cam kết bồi thường bảo hiểm của nhà bảo hiểm, thể hiện rõ vai trò quan trọng của bảo hiểm. Vì thế, đây chính là khâu mà cả khách hàng và DNBH quan tâm nhất. Đối với DNBH đây chính là cơ hội để nâng cao uy tín, hình ảnh của mình trong mắt khách hàng. Đối với khách hàng, việc họ đóng phí bảo hiểm là để mua lấy sự yên tâm trong công việc, chia sẻ những lo ngại về rủi ro có thể xảy ra trong cuộc sống, vì thế khi xảy ra sự cố không mong muốn, họ muốn được DNBH chia sẻ điều này với họ. Do đó, làm tốt công tác bồi thường cũng là một cách để công ty có thể chia sẻ rủi ro với khách hàng. Cũng như trong công tác giám định, công tác bồi thường cũng cần phải trải tiến hành theo một trình tự nhất định: Mở hồ sơ khách hàng Xác định số tiền bồi thường Thông báo bồi thường Truy đòi người thứ ba Về phía người tham gia, khi xảy ra sự cố gây thiệt hại về người và của, họ muốn nhanh chóng nhận được sự hỗ trợ về tài chính từ phía công ty bảo hiểm để nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh cũng như cuộc sống của mình, tuy nhiên với tâm lý ngại chờ đợi, với các thủ tục hành chính bồi thường rườm rà đã tạo ra sự khó chịu cho người sử dụng bảo hiểm, khiến cho họ có cảm giác không tin tưởng vào việc sẽ được công ty bồi thường thỏa đáng cho dù đây là quyền lợi chính đáng của họ.Vì vậy, công ty cần phải cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục trong khâu giám định và bồi thường, tránh tình trạng bắt khách hàng phải đợi quá lâu mới nhận được tiền bồi thường. Thông thường đối với mỗi vụ tổn thất thời gian giải quyết bồi thường của công ty là 15 ngày và có thể kéo dài lâu hơn đã dẫn đến sự mất tin tưởng của khách hàng đối với công ty. Để khâu giải quyết bồi thường không còn tâm lý ngại chờ đợi đối với người tham gia bảo hiểm, giúp họ tiết kiệm thời gian cũng như ổn định cuộc sống, ổn định sản xuất kinh doanh PTI nên rút ngắn thời gian giải quyết bồi thường của mình xuống còn 3-4 ngày đối với trường hợp nhẹ và không liên quan đến trách nhiệm dân sự của bên thứ ba còn đối với những trường hợp nặng hơn thì có thể tùy theo thời gian giám định sớm nhất của garage, của các chuyên viên giám định. Ngoài ra, để giải quyết các vụ khiếu nại một cách nhanh chóng, chính xác , khách quan, cần phải nâng cao chất lượng của đội ngũ giám định viên , nâng cao cả trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần, trách nhiệm phục vụ khách hàng và đạo đức nghề nghiệp. Công ty có thể tổ chức các chương trình tập huấn nhằm nâng cao kiến thức nghiệp vụ , hoặc mời các chuyên gia nước ngoài về nói chuyện,chia sẻ kinh nghiệm để các giám định viên của công ty có cơ hội tiếp thu kinh nghiệm của các nước phát triển. Để người giám định vừa có trình độ , vừa nhiệt tình với công việc của mình cũng cần phải có những chính sách đãi ngộ thích đáng cho những giám định giỏi, có chính sách lương,thưởng hợp lý, tạo môi trường thuận lợi có nhiều cơ hội thăng tiến và có thể phát huy hết khả năng của người giám định. Mặt khác, công ty nên thiết lập mối quan hệ lâu dài với các xưởng sửa chữa để bồi thường chính xác và đáp ứng nhu cầu tối đa của khách hàng. Phối hợp với các cơ quan chức năng để tiến hành giám định một cách nhanh chóng và cũng phải có sự phối hợp giữa các phòng ban trong công ty với nhau để giúp nhân viên giám định thu thập hồ sơ một cách dễ dàng, nhanh chóng. 3.2.3.Đối với khâu đề phòng hạn chế tổn thất Vai trò của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng không chỉ dừng lại ở việc bồi thường tổn thất, khắc phục hậu quả tai nạn mà còn thể hiện rất rõ trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất, giảm thiểu tai nạn giao thông. Nếu như tăng doanh thu ,mở rộng địa bàn và giải quyết bồi thường kịp thời để khách hàng nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống là những mục tiêu mà PTI luôn đặt lên hàng đầu thì đề phòng và hạn chế tổn thất trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng được công ty quan tâm đích đáng. Đặc điểm của xe cơ giới là có địa bàn hoạt động rộng, tính cơ động, việt dã cao, tham gia vào quá trình vận tải ,xe cơ giới có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế tuy nhiên đây cũng là phương tiện dễ xảy ra tai nạn gây ra thiệt hại khôn lường không chỉ đối với nền kinh tế mà còn đối với cả xã hội. Đối với DNBH thực hiện đề phòng hạn chế tổn thất nghĩa là đã giúp doanh nghiệp giảm chi bồi thường, tăng lợi nhuận, đáp ứng được yêu cầu của hách hàng và thực hiện được các công tác xã hội,nhân đạo của doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên việc thực hiện đề phòng , hạn chế tổn thất sẽ gặp không ít khó khăn nếu như các DNBH triển khai độc lập.Vì thế để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các công ty bảo hiểm với nhau, cùng thực hiện những dự án mang tầm cỡ quốc gia:phát hành tờ rơi tuyên truyền bảo hiểm xe cơ giới, xây dựng các biển báo đề phòng tai nạn, các đường lánh nạn, các hàng rào đảm bảo an toàn giao thông… Do đó PTI cần phải tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin với các DNBH khác để thực hiện tốt những chương trình có hiệu quả này. Bên cạnh việc xây dựng các công trình phòng chống tai nạn, công ty nên phối hợp với ngành giao thông vận tải để làm tốt hơn nữa công tác đề phòng và hạn chế tổn thất bởi vì xe cơ gới chịu sự quản lý của nhiều cơ quan chức năng khác nhau trong đó phải kể đến trước tiên là ngành giao thông vận tải và chịu sự chi phối của luật giao thông đường bộ. Do đó PTI cũng nên có sự hợp tác với cảnh sát giao thông tuyên truyền người tham gia giao thông tích cực thực hiện các quy định của pháp luật. Việc thực hiện công tác này không thể từ một phía là DNBH mà cần phải có sự tham gia của cả người tham gia bảo hiểm, công ty cần hướng dẫn, phân tích và tư vấn cho khách hàng trong công tác quản lý rủi ro để họ có thể tự đề phòng rủi ro. KẾT LUẬN Tuy không phải là nghiệp vụ chủ đạo của PTI song với những kết quả đạt được trong thời gian qua chứng tỏ BHVCXCG đã và đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển của công ty.Với thị trường khai thác rộng lớn nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của PTI ngày càng có nhiều cơ hội phát triển trở thành nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của công ty với hiệu quả kinh doanh ngày càng cao.Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt không chỉ PTI mà cả các DNBH phi nhân thọ khác trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trước những thời cơ và thách thức mới khi có sự tham gia của các DNBH nước ngoài đã được phép cung cấp nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, tình trạng cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm xe cơ giới diễn ra ngày càng gay gắt, các giải pháp nhằm tăng doanh thu của nghiệp vụ này đều được các DNBH triển khai triệt để. Trước tình hình đó đòi hỏi PTI cần chủ động hơn nữa trong công tác nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, hiệu quả của các khâu công việc, ngoài ra cần nâng cao trình độ chuyên môn của các đại lý, mở rộng mạng lưới bán hàng của mình qua kênh VNPost…để có thể cạnh tranh có hiệu quả với các DNBH phi nhân thọ trong và ngoài nước, tạo cơ sở nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm vật chất xe cơ giới của công ty. Trong thời gian qua nhờ sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của cô giáo T.S Phạm Thị Định, cũng như các anh chị trong công ty Bảo hiểm Bưu điện, em đã hoàn thành đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm Bưu điện”. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bài giảng kinh tế Bảo hiểm của PGS.TS Nguyễn Văn Định TS.Nguyễn Văn Định,2005,Giáo trình kinh tế Bảo hiểm,NXB Thống Kê-Hà Nội. TS.Nguyễn Văn Định,2004,Giáo trình Quản trị kinh doanh Bảo hiểm,NXB Thống Kê-Hà Nội. GSTSKH Trương Mộc Lâm-TS Đoàn Minh Phụng,Giáo trình nghiệp vụ Bảo Hiểm,NXB Tài Chính. Thị trường bảo hiểm Việt Nam 2008,Tạp chí thị trường bảo hiểm-Tái bảo hiểm Việt Nam,số1 tháng02/2009. Các trang web: www.pti.com.vn www.webbaohiem.com.vn www.avi.org.vn DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DNBH: Doanh nghiệp bảo hiểm BH VCXCG: Bảo hiểm vật chất xe cơ giới GTBH: Giá trị bảo hiểm STBH: Số tiền bảo hiểm GT: Giá trị MỤC LỤC DANH MỤC HÌNH, BẢNG BIỂU Bảng 1.2:Biểu phí bảo hiểm toàn bộ xe 18 (trường hợp bồi thường khấu hao thay mới) 18 (trường hợp không tính khấu hao thay mới) 18 Bảng 1.4:Biểu phí bảo hiểm tổng thành thân vỏ 19 Bảng 2.1 Tình hình BHVCXCG trên thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn (2007 – 2009)................................................................................39 Bảng 2.2:Tình hình khai thác bảo hiểm VCXCG tại PTI 43 giai đoạn (2005-2009) 43 Bảng 2.3:Tình hình thực hiện kế hoạch khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PTI 46 Bảng 2.4:Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới 47 trong tổng doanh thu phí của toàn công ty 47 Hình 2.1:Tỷ trọng doanh thu phí BHVCXCG 48 Bảng 2.5: Kết quả giám định tai nạn tại PTI giai đoạn (2005-2009) 50 Bảng 2.6: Tình hình bồi thường Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại 53 PTI giai đoạn (2005-2009) 53 Hình 2.2:Biểu đồ biểu diễn số tiền bồi thường và doanh thu phí 54 BHVCXCG giai đoạn 2005-2009 54 Bảng 2.7: Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ BHVCXCG tại PTI giai đoạn (2005-2009) 59 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26721.doc
Tài liệu liên quan