Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh - Hà Nội giai đoạn 2010 - 2011

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN -----—&œ–----- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Đề tài : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI NHÀ MÁY VĂN PHÒNG PHẨM ĐÔNG ANH- HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010- 2011 Sinh viên thực hiện : NGUYỄN VĂN ĐẠI MSSV : CQ480513 Lớp : KẾ HOẠCH 48B Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS PHẠM VĂN VẬN Hà Nội, 05/2010 MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG, BIỂU Sơ đồ 1. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. 26 Sơ đồ 2. Sơ đồ tổ chức

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh - Hà Nội giai đoạn 2010 - 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ máy sản xuất tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. 27 Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của chi nhánh (nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh) 29 Bảng 2. Bảng kết quả xuất khẩu của chi nhánh giai đoạn 2007- 2009. 30 Bảng 3. Bảng phản ánh hiệu quả kinh doanh của nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. 32 Bảng 4. Bảng phản ánh hiệu quả theo chỉ tiêu tổng hợp 33 Bảng 5. Bảng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định. 34 Bảng 6: Bảng phản ánh kết quả sử dụng lao động 35 DANH MỤC CHỮ TỪ VIẾT TẮT CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa. WTO : World Trade Organization ( Tổ chức thương mại thế giới) NSLĐ : Năng suất lao động. CBCNV : Cán bộ công nhân viên. EU : European Union. ( liên minh Châu Âu ) LỜI MỞ ĐẦU Vào cuối năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới ( tên tiếng Anh là: World Trade Organization- WTO). Sự kiện quan trọng đó mở ra những cơ hội phát triển kinh tế và cũng có nhiều thách thức cần phải vượt qua. Để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt và tận dụng triệt để mọi cơ hội để phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn vận động, tìm tòi hướng đi cho phù hợp. Khả năng đứng vững này chỉ có thể khẳng định bằng hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Qua đó vấn đề hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu đối với mọi doanh nghiệp. Vì hoạt động kinh doanh có hiệu quả mới có thể đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững, đủ sức mạnh trên thị trường, có đủ điều kiện tăng tích lũy cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận, cải thiện thu nhập cho người lao động, đóng góp nhiều hơn cho nhà nước, … Từ lý do trên mà việc nghiên cứu và xem xét vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh hiện nay. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đang là một bài toán khó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp đều phải đi tìm lời giải, nó đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải nhạy bén , linh hoạt trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vấn đề hiệu quả kinh doanh luôn được ban lãnh đạo Nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh quan tâm, xem đây là căn cứ và công cụ thực hiện mục tiêu kinh doanh của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh, trong thời gian thực tập tại nhà máy văn phòng phẩm Đônh Anh cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Phạm Văn Vận em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh- Hà Nội giai đoạn 2010- 2011” làm đề tài nghiên cứu của mình. Nội dung bài viết bao gồm các phần sau: Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. Chương 3: Phương hướng và các biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. Với trình độ và thời gian hạn chế nên trong quá trình làm chuyên đề em không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của thầy cô để em có thể hoàn thiện bài viết và rút ra những kinh nghiệm cho bản thân. Em xin cảm ơn thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Vận đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ, gợi ý, sửa chữa cho em trong suốt quá trình em viết chuyên đề này. Em cũng xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo nhà máy, các phòng ban chức năng đặc biệt là phòng kế hoạch của nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh đã tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn và cung cấp tài liệu cho em trong thời gian thực tập tại nhà máy để em có thể hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP Khái niệm và bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.1. Một số khái niệm cơ bản. 1.1.1 Khái niệm hiệu quả. Ngày nay khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì người ta vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất. Bởi vì ở mỗi một lĩnh vực khác nhau, xem xét trên các góc độ khác nhau thì người ta có những cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề hiệu quả. Như vậy ở mỗi lĩnh vực khác nhau thì người ta có một khái niệm khác nhau về hiệu quả, và thông thường khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì người ta gắn ngay tên của lĩnh vực đó liền ngay sau hiệu quả. Để hiểu rõ hơn chúng ta xem xét các vấn đề hiệu quả ở trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng với các lĩnh vực này là 3 phạm trù hiệu quả: hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế, và xem xét vấn đề hiệu quả trong phạm vi các doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Trong đó kết quả thu về chỉ là kết quả phản ánh những kết quả kinh tế tổng hợp như là: doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản lượng công nghiệp,… nếu ta xét theo từng yếu tố riêng lẻ thì hiệu quả kinh tế là thể hiện trình độ và sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó phản ánh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào quá trình kinh doanh. Cũng giống như một số chi tiết khác hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hang hóa. Sản xuất hàng hóa có phát triển hay không là nhờ đạt hiệu quả cao hay thấp. Nói một cách khác chỉ tiêu hiệu quả kinh tế phản ánh về mặt định lượng và định tính trong sự phát triển kinh tế. Nhìn ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp riêng lẻ hiệu quả kinh tế được biểu hiện qua phạm trù hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh đầy đủ các mặt của cả một quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp. Hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị: Hiệu quả xã hội là một phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Nếu đứng trên phạm trù toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị là chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Bởi vậy hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Đây là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển của xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân… Thực tế cho thấy ở các nước tư bản chủ nghĩa các doanh nghiệp tư bản chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế mà không đặt vấn đề hiệu quả chính trị xã hội đi kèm và dẫn đến tình trạng thất nghiệp, khủng hoảng có tính chu kỳ, ô nhiễm môi trường, chênh lệch giàu nghèo quá lớn,… Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối và chính sách cụ thể để đồng thời tăng hiệu quả kinh tế kèm với tăng hiệu quả chính trị xã hội. Tuy nhiên chúng ta không thể chú trọng thái quá đến hiệu quả chính trị xã hội, một bài học rất lớn từ thời kỳ chế độ bao cấp đã cho chúng ta thấy rõ được điều đó. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh doanh, theo luật định, là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.( Giáo trình kế hoạch kinh doanh- ThS. Bùi Đức Tuân, khoa kế hoạch và phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân, xuất bản năm 2005). Như vậy theo khái niêm trên thì hoạt động kinh doanh không chỉ bao gồm các hoạt động thương mại mà còn có nội dung rất rộng, bao gồm: đầu tư, sản xuất, chế biến, các hoạt động thương mại gắn liền với sản xuất và chế biến, các hoạt động thương mại thuần túy và các hoạt động cung cấp dịch vụ. Hoạt động kinh doanh có thể được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn: Theo tính chất của hoạt động chúng ta có hoạt động sản xuất ( sản phẩm hoặc dịch vụ) và hoạt động thương mại. Theo bản chất kinh tế, chúng ta có thể có các doanh nghiệp công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, tài chính, … Hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tạo ra của cải vật chất cho xã hội và tạo ra lợi nhuận cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh. Bản chất của hoạt động kinh doanh là tạo ra giá trị cho các loại sản phẩm hoặc dịch vụ. Giá trị của sản phẩm và dịch vụ được tạo ra nhờ vào các giá trị sử dụng cho phép thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của khách hàng. Dù cho hoạt động kinh doanh có phục vụ nhu cầu nào của khách hàng đi chăng nữa thì nhiệm vụ của các đơn vị sản xuất kinh doanh là phải tăng thêm giá trị cho sản phẩm dịch vụ. Giá trị gia tăng cho phép doanh nghiệp trả thù lao cho người lao động, bù đắp những hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh và thực hiện các nghĩa vụ khác đối với nhà nước thông qua các khoản đóng góp về thuế và các hình thức khác theo luật định. Do vậy, nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động sản xuất kinh doanh là phải tạo ra giá trị cho sản phẩm và dịch vụ 1.1.2.2 Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là căn cứ cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào khi tham gia vào hoạt động kinh doanh cũng muốn đạt được tối đa hóa hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Nhưng trước hết cần phải nắm vững được thế nào là hiệu quả kinh doanh. Theo Adam Smith thì “ hiệu quả kinh doanh là hiệu quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa”. Quan điểm này cho thấy hiệu quả kinh doanh chỉ được đánh giá dưới góc độ doanh thu tiêu thụ hàng hóa. Thực tế hiện nay cho thấy quan điểm này đã không còn phù hợp, vì nếu như tốc độ tăng của doanh thu nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí thì lợi nhuận không những không tăng thêm mà sẽ giảm xuống. Quan điểm thứ hai cho rằng :” hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Một quan điểm khác thì cho rằng :”hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của xã hội trong lĩnh vực kinh doanh thông qua những chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật được xác định bằng tỉ lệ so sánh giữa các đại lượng phản ánh kết quả đạt được về kinh tế với các chi phí bỏ ra hoặc nguồn nhân lực đã được huy động vào lĩnh vực kinh doanh”. Tóm lại, hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh lợi ích thu được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với chi phí bỏ ra trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Với khái niệm này thì ta có thể xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể bằng phương pháp định lượng thông qua các chỉ tiêu hiệu quả cụ thể và từ đó có thể tính toán, so sánh được. Lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù cụ thể và là biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu, … Ngoài ra nó cũng biểu hiện mức độ phát triển của doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù trừu tượng và nó phải được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Như vậy cần phải hiểu hiệu quả kinh doanh một cách toàn diện trên cả hai mặt định lượng và định tính. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện mối quan hệ tương quan giữa kết quả thu được và chi phí để có được kết quả đó, hiệu quả định lượng chỉ có được khi kết quả lớn hơn chi phí. Về mặt định tính, hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ quản lý trong doanh nghiệp cũng như trình độ chuyên môn của nhân viên, công nhân trong toàn thể doanh nghiệp. Cả hai mặt định lượng và đinh tính của phạm trù hiệu quả kinh doanh có quan hệ chặt chẽ tương tác lẫn nhau. Bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trước hết ta cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả. Kết quả là phạm trù phản ánh những cái gì thu được sau một quá trình kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp có thể được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hoặc đơn vị giá trị. Các đơn vị cụ thể được sử dụng tùy thuộc vào đặc trưng của sản phẩm mà quá trình kinh doanh tạo ra, nó có thể là tấn, tạ, kg, m3, lít….. Các đơn vị giá trị có thể là đồng, triệu đồng, ngoại tệ…Kết quả cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của sản xuất kinh doanh hoàn toàn định tính như uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm…Cần chú ý rằng không phải chỉ kết quả định tính mà kết quả định lượng của một thời kỳ kinh doanh nào đó thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Hơn nữa hầu như quá trình sản xuất lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ nào đó cũng chưa thể kết luận rằng liệu sản phẩm đó có tiêu thụ được không và bao giờ thì tiêu thụ được và thu được tiền về….. Trong khi đó hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối. Cần chú ý rằng trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể hiểu và phản ánh bằng số tương đối: Tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực, tránh nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả kinh doanh với phạm trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Chênh lệch giữa kết quả và chi phí nguồn lực luôn là tuyệt đối, phạm trù này chỉ phản ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó nên cũng mang bản chất là kết quả của quá trình kinh doanh và không bao giờ phản ánh được trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Vậy hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh, phức tạp và khó tính toán bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể nào đó điều khó xác định một cách chính xác. Khái niệm hiệu quả kinh doanh đã cho thấy bản chất của nó là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Tuy nhiên để hiểu rõ và ứng dụng được phạm trù hiệu quả kinh doanh vào việc xác lập các chỉ tiêu, các công thức cụ thể để đánh giá tính hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì chúng ta cần nắm rõ một vài vấn đề sau: Phạm trù hiệu quả kinh doanh thực chất là mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để sử dụng các yếu tố đầu vào và có tính đến các mục tiêu của doanh nghiệp. Mối quan hệ so sánh ở đây có thể là so sánh tuyệt đối và cũng có thể là so sánh tương đối. Về mặt so sánh tuyệt đối thì hiệu quả kinh doanh là: H = K - C trong đó: H: hiệu quả kinh doanh K: kết quả đạt được C: chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào Còn về so sánh tương đối thì: H = K/C Do đó để tính được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ta phải tính kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Nếu xét mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả thì kết quả nó là cơ sở để tính ra hiệu quả kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể là những đại lượng có khả năng đong, cân, đo đếm như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu bán hàng, lợi nhuận, thị phần…. như vậy kết quả sản xuất kinh doanh thường là mục tiêu của doanh nghiệp. Phân biệt hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh tế xã hội với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường là: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong phạm vi toàn xã hội phạm vi từng khu vực, nâng cao trình độ văn hóa, nâng cao mức sống, đảm bảo vệ sinh môi trường… Còn hiệu quả kinh tế xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu cả về kinh tế xã hội trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như trên phạm vi từng vùng, từng khu vực của nền kinh tế. Hiệu quả kinh tế xã hội của một hoạt động kinh tế xác định trong mối quan hệ giữa hoạt động đó với tư cách là tổng thể các hoạt động kinh tế hoặc là một hoạt động cụ thể về kinh tế với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chính là hiệu quả thu được từ hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả kinh doanh là số lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được hoặc lỗ phải chịu. Nó được tính bằng sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Hay nó được xác định trong mối quan hệ giữa chi phí đã bỏ ra và doanh thu nhận được. Trong doanh nghiệp cụ thể thì hiệu quả kinh doanh còn phản ánh trình độ quản lý và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp đó nhằm mục tiêu cuối cùng là tối ưu hóa lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh còn là một công cụ hữu hiệu giúp nhà quản lý có thể điều chỉnh các hoạt động trong quá trình kinh doanh cho phù hợp. Hiệu quả sản xuất kinh thì quá trình kinh doanh càng hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội vận động cùng chiều, nhưng lại có một số trường hợp hai mặt đó lại mâu thuẫn với nhau. Có những hoạt động kinh doanh không mang lại lợi nhuận, thậm chí có thể thua thiệt, nhưng doanh nghiệp vẫn kinh doanh vì lợi ích chung để thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội nhất định điều đó xảy ra đối với các doanh nghiệp công ích. Hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu của doanh nghiệp do đó mà tính chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở các giai đoạn khác nhau. Xét về tính lâu dài thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận và các chỉ tiêu về doanh lợi. Xét về tính hiệu quả trước mắt (hiện tại) thì nó phụ thuộc vào các mục tiêu hiện tại mà Doanh nghiệp đang theo đuổi. Trong thực tế để thực mục tiêu bao trùm lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, có rất nhiều doanh nghiệp hiện tại không đạt được mục tiêu là lợi nhuận mà lại thực hiện các mục tiêu nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm, nâng cao uy tín danh tiếng của doanh nghiệp, mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu… do đó mà các chỉ tiêu hiệu quả ở đây về lợi nhuận là không cao nhưng chỉ tiêu có liên quan đến các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp là cao thì chúng ta không thể kết luận là doanh nghiệp đang hoạt động không có hiệu quả, mà phải kết luận là doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả. Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả mà tính hiệu quả trước mắt có thể là trái với các chỉ tiêu hiệu quả lâu dài, nhưng mục đích của nó lại là nhằm thực hiện chỉ tiêu hiệu quả lâu dài. 2.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp. 2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp. 2.1.1.Đối với doanh nghiệp. Sản xuất kinh doanh có đạt hiệu quả hay không luôn là điều kiện sống còn đối với mọi doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải đối mặt với bài toán sản xuất kinh doanh với điều kiện nguồn lực là hữu hạn. Doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là: sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? Các vấn đề cơ bản đó cần được giải quyết với mục tiêu cuối cùng là tạo ra doanh thu, lợi nhuận càng cao càng tốt cho doanh nghiệp. Và để đạt được mục tiêu đó thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất là một vấn đề tất yếu mà mỗi doanh nghiệp luôn phải chú trọng, không ngừng nâng cao nó. Nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp sản xuất sản xuất được nhiều hàng hóa hơn, giảm thiểu chi phí xuông mức thấp nhất tạo ra nền móng phát triển, mở rộng kinh doanh một cách bền vững. Việc kinh doanh có hiệu quả còn giúp cho doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường ẩn chứa nhiều rủi ro và thách thức. Doanh nghiệp phải có được lợi nhuận và đạt được lợi nhuận ngày càng cao. Hiện nay thị trường của doanh nghiệp không chỉ còn bó hẹp trong một khu vực, một vùng hay một quốc gia nữa. Thị trường của doanh nghiệp đã vươn ra ngoài quốc gia, là tất cả các quốc gia, các cùng dân cư trên thế giới. Đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO thì thị trường hàng hóa cho các doanh nghiệp trở nên lớn hơn rất nhiều. Thị trường đó luôn tiềm ẩn những hứa hẹn sự phát triển mới, những kỳ vọng về sản lượng bán được, những con số doanh thu hấp dẫn nhưng nó cũng tiềm ẩn trong đó không ít những khó khăn thách thức. Các doanh nghiệp có thể có chỗ đứng riêng trước những công ty lớn, những tập đoàn nổi tiếng đã có nhiều lợi thế kinh doanh? Lúc này hơi nóng của canh tranh không chỉ ở thị trường bên ngoài mà còn len lỏi vào từng vùng trong nước cũng mạnh mẽ và khắc nghiệt không kém. Thị trường rộng lớn, thuận lợi nhiều, khó khăn cũng không ít buộc các doanh nghiệp phải tìm được ra hướng phát triển riêng cho mình để không những không bị lấn át mà còn phải ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất. Và nền móng cho mọi hướng đi đó chính là đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Có đạt được hiệu quả kinh doanh thì doanh nghiệp mới có thế hạn chế và vượt qua các thách thức cũng như tận dụng triệt để hơn những thuận lợi để phát triển. Có đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp mới có thể thu được lợi nhuận và tìm được chỗ đứng riêng, mới có thể phát triển sản xuất, mở rộng thị trường. Trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh vô cùng quan trọng. Nó là cơ sở cơ bản đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bằng sự tạo ra hàng hóa, dịch vụ cho xã hội. Để làm được điều đó thì trước hết doanh nghiệp cần phải bù đắp được chi phí và kinh doanh có lãi. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Vì vậy mà nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường thì doanh nghiệp không những cần tồn tại mà nó còn phải phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Để làm được điều đó thì ngoài việc phải bù đắp được chi phí thì doanh nghiệp cần phải có tích lũy mới có thể đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng. Và đạt được hiệu quả kinh doanh cao sẽ giúp cho quá trình tích lũy diễn ra nhanh hơn, và một lần nữa việc nâng cao hiệu quả kinh doanh lại được nhấn mạnh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là một nhân tố thúc đẩy sự tiến bộ và sáng tạo trong kinh doanh của doanh nghiệp. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh đó chính là tối đa hóa lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực một cách tiết kiệm thì lợi nhuận thu được càng lớn. Nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng chính là nâng cao khả năng sinh lời trên mỗi đơn vị đầu vào, từ đó đòi hỏi doanh nghiệp cần biết cách kết hợp và sử dụng một cách tiết kiệm các yếu tố đầu vào đó. Vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng chính là điều kiện để doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận, là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp. Tóm lại, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề được quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thế tồn tại và phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường. 2.1.2.Đối với người lao động. Một nhân tố đầu vào không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó chính là nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp là các thành viên trong ban quản trị, các nhân viên văn phòng và những người công nhân lao động. Mỗi người có vai trò và nhiệm vụ khác nhau trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào quá trình sản xuất con người đóng vai trò chủ đạo, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó và hướng nó tới mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng lao động đã có mà còn bao gồm các yếu tố khác như: thể lực, trí lực, thái độ và phong cách làm việc Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình kinh doanh tạo ra của cải vật chất, các dịch vụ phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Người lao động làm việc trong doanh nghiệp trước hết là do động cơ kinh tế, mong có thu nhập cao để đảm bảo cho bản thân và gia đình họ một cuộc sống no đủ. Đây là động cơ quan trọng và có tính trực tiếp của người lao động. Họ luôn mong muốn có một công việc ổn định với thu nhập cao. Mối quan hệ giữa người lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là mối quan hệ hai chiều. Nếu người lao động làm việc chăm chỉ, sáng tạo thì sẽ làm tăng năng suất lao động và từ đó góp phần thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong sản xuất kinh doanh thì nhân tố con người là một nhân tố đầu vào đặc biệt và luôn luôn thay đổi. Năng suất lao động, sự sáng tạo, khả năng lao động ở mỗi cá nhân là không giống nhau. Hiệu quả trong công việc của từng cá nhân sẽ làm tăng năng suất lao động chung cho toàn bộ doanh nghiệp. Điều này sẽ làm giảm chi phí, tận dụng tối đa nguồn nhân lực và sử dụng một cách tiết kiệm các yếu tố đầu vào khác. Và cũng chính vì thế mà hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp được nâng cao. Còn nếu nguồn nhân lực làm việc không hiệu quả, sử dụng lãng phí tài nguyên, nó sẽ tạo ra một hệ quả tất yếu là năng suất lao động thấp và làm giảm tính hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh, kéo theo sự giảm sút về doanh thu. Ngược lại điều kiện lao động của người lao động được cải thiện là nhân tố để tăng năng suất lao động, tăng khả năng làm việc và bảo đảm sức khoẻ, an toàn cho người lao động. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ có sự tác động trực tiếp tới đời sống của họ, nếu như doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cao, tạo công ăn việc làm, cuộc sống được nâng lên nhờ tăng lương, các khoản thưởng, chế độ xã hội, còn nếu như các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả sẽ có nhiều người lao động bị thất nghiệp, lương thấp trực tiếp làm giảm thu nhập của họ. Khi doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao không những tạo ra sự phát triển vững chắc cho bản thân doanh nghiệp mà nó còn tạo ra một nơi làm việc ổn định làm cho người lao động yên tâm làm việc. Mặt khác việc kinh doanh hiệu quả nó còn tạo ra sức hút đối với những người lao động ở nơi khác về tạo ra nhiều sự lựa chọn cho doanh nghiệp trong quá trình tuyển chọn nhân sự vào làm việc. Mặt khác, có đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp mới tăng được lợi nhuận và từ đó mới có thể tăng lương mà chăm lo tốt hơn cho đời sống của người lao động. Lúc này việc khen thưởng đãi ngộ sẽ được tổ chức thường xuyên hơn nhằm khích lệ tinh thần làm việc và thi đua trong doanh nghiệp. 2.1.3.Đối với nhà nước. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh đều chịu sự tác động của nhà nước. Nhà nước tác động lên các doanh nghiệp thông qua các chính sách, hệ thống pháp luật,… Các doanh nghiệp kinh doanh phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước. Ví dụ như nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài ra doanh nghiệp còn giải quyết giúp cho nhà nước công ăn việc làm cho một bộ phận dân cư. Chính vì những lý do trên mà hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có những ảnh hưởng nhất định tới nhà nước. Khi mà doanh nghiệp kinh doanh càng hiệu quả thì nó đóng góp vào cho ngân sách nhà nước càng nhiều. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì nó còn góp phần tiết kiệm các nguồn lực trong nước đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên. Doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao thì sẽ có tích lũy, có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng và ngày càng tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn cho người lao động giúp nhà nước giải quyết giảm thấp được lượng lao động nhàn rỗi, giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân. Còn nếu như mà doanh nghiệp kinh doanh không đạt hiệu quả thì nó kéo theo những hệ quả ngược lại. Lúc đó, lợi nhuận nếu có thì cũng rất thấp đồng nghĩa với mức độ đóng góp vào ngân sách chung giảm. Và tất nhiên doanh nghiệp cũng không tạo ra nhiều tích lũy để có thể đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, do vậy nó cũng không tạo thêm được công ăn việc làm cho người lao động. Trầm trọng hơn là khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì nó sẽ dẫn tới thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh hoặc phá sản làm tăng thêm lao động nhàn rỗi và tăng tỷ lệ thất nghiệp làm nảy sinh các vấn đề xã hội khác (như các tệ nạn, mức sống người lao động mất việc giảm,…) 2.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó có liên quan tới tất cả các mặt trong hoạt động kinh doanh, do đó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. 2.2.1.Nhân tố thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Thị trường có thể được khái niệm theo nhiều cách khác nhau. Chúng được xem xét từ nhiều góc độ và được đưa ra vào các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thị trường là địa điểm hay không gian của trao đổi hàng hóa, đó là nơi gặp gỡ giữa người bán, người mua, hàng và tiền và ở đó diễn ra các hoạt động mua bán. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thị trường là các hiện tượng kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi và lưu thông hàng hóa cùng với các quan hệ giữa người với người trong quá trình trao đổi, mua bán hàng hóa và các dịch vụ. Thị trường đầu vào của doanh nghiệp là thị trường cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cho quá trình sản xuất cúa doanh nghiệp. Các yếu tố đầu vào chủ yếu bao gồm lao động, các nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc thiết bị và các yếu tố đầu vào khác sử dụng tron._.g quá trình sản xuất. Các yếu tố đầu vào sẽ chi phối, quyết định tính hiệu quả của giai đoạn đầu ( thường là giai đoạn sản xuất, tạo sản phẩm) của quá trình sản xuất kinh doanh. Tính hiệu quả trong giai đoạn này phụ thuộc vào chất lượng của bản thân các yếu tố đầu vào. Nếu trình độ lao động cao, nguồn nguyên nhiên vật liệu có chất lượng tốt, máy móc vận hành trơn tru thì sẽ giúp cho quá trình sản xuất đạt được hiệu suất cao, nâng cao được hiệu quả của quá trình sản xuất tạo tiền đề cho việc kinh doanh đạt được hiệu quả cao. Và ngược lại chất lượng các yếu tố đầu vào không được đảm bảo như nguồn nhân lực yếu kém, trình độ thấp, nguồn nguyên nhiên vật liệu không ổn định, chất lượng thấp, máy móc cũ kỹ nhanh phải sửa chữa sẽ làm giảm hiệu suất sản xuất, giảm năng suất lao động. Điều này sẽ làm hạ thấp hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường đầu ra của doanh nghiệp là thị trường mà ở đó doanh nghiệp bán sản phẩm, dịch vụ của mình. Ở trong thị trường của mình doanh nghiệp có những lợi thế cạnh tranh và có một vị trí nhất định. Thị trường đầu ra quyết định số lượng bán cho nên nó có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của doanh nghiệp. Do đó nó quyết định quá trình tái sản xuất và tính hiệu quả của quá trình kinh doanh. Thị trường mà lớn và ổn định, có ít đối thủ cạnh tranh thì công việc kinh doanh sẽ đạt được nhiều thuận lợi, doanh thu thu về ổn định và tăng dần theo thời gian cùng với quá trình tái sản xuất mở rộng. Ngược lại nếu thị trường hẹp và không ổn định, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt thì nó sẽ ẩn chứa trong nó nhiều rủi ro kinh doanh, doanh thu thu được không lớn và bấp bênh, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc muốn tái sản xuất mở rộng, hiệu quả kinh doanh bị hạn chế. Thị trường đầu vào và thị trường đầu ra nó ảnh hưởng trực tiếp tới hai giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh là sản xuất và tiêu thụ. Cả hai thị trường này đều rất quan trọng cần được thường xuyên củng cố và phát triển ngày càng sâu rộng. Khi có được thị trường đầu vào ổn định, chất lượng cao và một thị trường đầu ra rộng lớn thì hiệu quả kinh doanh thu được sẽ càng cao, doanh nghiệp ngày càng phát triển. Trong cơ chế hiện nay cạnh tranh là điều kiện, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế. trên thị trường các doanh nghiệp đều hoạt động và cạnh tranh với nhau, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nắm bắt nhanh chóng, kịp thời chính xác và đầy đủ các thông tin về thị trường để đưa ra các biện pháp tác động thích hợp tới quá trình kinh doanh của mình nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh. 2.2.2.Nhân tố kỹ thuật và công nghệ. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay công nghệ là yếu tố quyết định cho sự phát triển của sản xuất kinh doanh, là cơ sở để doanh nghiệp khẳng định vị trí của mình trên thương trường. Chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đảng và nhà nước chính là để khuyến khích các doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với những thay đổi trong môi trường công nghệ. Sự thay đổi của công nghệ tác động tới doanh nghiệp theo nhiều khía cạnh khác nhau, đặc biệt nó không tách rời khỏi yếu tố con người. Hơn nữa yếu tố con người còn quyết định sự thành công hay thất bại của những thay đổi lớn trong công nghệ. Công nghệ và đổi mới công nghệ là động lực, là nhân tố của phát triển trong các doanh nghiệp. Đổi mới công nghệ là yếu tố là biện pháp cơ bản giữ vai trò quyết định để doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh .Công nghệ lạc hậu sẽ tiêu hao nguyên vật liệu lớn, chi phí nhân công và lao động nhiều, do vậy và giá thành tăng. Nền kinh tế hàng hoá thực sự đặt ra yêu cầu bức bách, buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển muốn có vị trí vững chắc trong quá trình cạnh tranh phải thực hiện gắn sản xuất với khoa học kỹ thuật và coi chất lượng sản phẩm là vũ khí sắc bén nhất trong cạnh tranh trên thị trường đồng thời là phương pháp có hiệu qủa tạo ra nhu cầu mới. Ngày nay, cạnh tranh giá cả đã chuyển sang cạnh tranh chất lượng. Như vậy vai trò của đổi mới công nghệ tiên tiến có thể giải quyết được các vấn đề mà nền kinh tế thị trường đặt ra. Căn cứ vào các đặc trưng của công nghệ cũng như nhu cầu cần thiết của việc đổi mới công nghệ thì mục đích chính và quan trọng nhất của đổi mới công nghệ là nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, duy trì và phát triển doanh nghiệp ngày càng đi lên. Mục đích đổi mới công nghệ cần phải tập chung là: -Tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp về chất lượng , sản phẩm, thông qua chiến lược sản phẩm trên cơ chế thị trường. -Tăng năng suất lao động, tạo ra hiệu quả cao cho các doanh nghiệp -Tạo ra lợi nhuận siêu nghạch, đạt được năng suất cao trong sản xuất kinh doanh . -Góp phần thực hiện tốt chủ trương của đảng và nhà nước về CNH, HĐH trong các doanh nghiệp phù hợp với xu hướng chung của cả nước. Ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế và công nghệ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Các yếu tố thuộc môi trường này quy định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của mình và qua đó cũng tạo ra cơ hội kinh doanh cho từng doanh nghiệp, bao gồm: - Tiềm năng của nền kinh tế, các thay đổi về cấu trúc, cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, xu hướng mở/đóng của nền kinh tế, tỷ giá hối đoái, mức độ thất nghiệp… - Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nền kinh tế, trình độ trang bị kỹ thuật/công nghệ, khả năng nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong kinh tế/ngành kinh tế. 2.2.3.Nhân tố về tổ chức. Đây cũng là vấn đề lớn góp phần nâng cao năng suất lao động. Vì cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp mà thích ứng với môi trường kinh doanh, nhanh nhạy với sự thay đổi của môi trường, bộ máy của doanh nghiệp phải gọn nhẹ, năng động, linh hoạt giữa các bộ phận của doanh nghiệp phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chế độ trách nhiệm tránh sự chồng chéo và nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người, nâng cao tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh thì sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động. Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp nhân tố này bảo đảm cho dây chuyền sản xuất cân đối, cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố vật chất trong sản xuất đó mà góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. 2.2.4.Nhân tố về quản lý. Nhân tố này tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những quyết định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chính xác, kịp thời tạo ra những động lực to lớn để khuyến khích sản xuất phát triển. Trong sản xuất kinh doanh hiện tại, đối với mọi doanh nghiệp có đặc điểm sản xuất kinh doanh cũng như quy mô khác. Nhân tố quản trị đóng vai trò càng lớn trong việc nâng cao hiệu quả và kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh. Đội ngũ các nhà quản trị mà đặc biệt là các nhà quản trị cao cấp, lãnh đạo doanh nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng có tính chất quyết định đến sự thành đạt của một doanh nghiệp. Kết quả và hiệu quả hoạt động của quản trị doanh nghiệp đều phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp, việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận chức năng và thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận chức năng đó. Người quản trị doanh nghiệp phải chú ý tới ba nhiệm vụ chính. - Xây dựng tập thể thành một hệ thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, lao động đạt hiệu quả cao. - Dìu dắt tập thể dưới quyền, hoàn thành mục đích và mục tiêu của doanh nghiệp một cách vững chắc và ổn định. - Phân công công việc một cách hợp lý, phát huy sức sáng tạo, khả năng làm việc của từng cá nhân trong doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại đơn vị mình. 2.2.5.Nhân tố về lực lượng lao động. Người ta nhắc đến luận điểm ngày càng khoa học kỹ thuật công nghệ đã trở thành lực lượng lao động trực tiếp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện trên quyết để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp .Tuy nhiên, cần thấy rằng: Thứ nhất, máy móc dù tối tân đến đâu cũng do con người chế tạo. Nếu không có sự lao động sáng tạo của con người sẽ không thể có các máy móc thiết bị đó. Thứ hai, máy móc thiết bị có hiện đại đến đâu thì cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức kỹ thuật, trình độ sử dụng máy móc của người lao động. Thực tế do trình độ sử dụng kém nên vừa không đem lại năng suất cao vừa tốn kém tiền bạc cho hoạt động sửa chữa, kết cục là hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Trong sản xuất kinh doanh lực lượng lao động của doanh nghiệp có thể vừa sáng tạo vừa đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng chính lực lượng này sáng tạo ra sản phẩm mới. Với kiểu dáng phù hợp với người tiêu dung làm cho sản phẩm cảu doanh nghiệp có thể bán với giá cao tạo ra hiệu quả kinh doanh cao. Lực lượng lao động trực tiếp tác động đến năng suất lao đông, trình độ sử dụng nguồn lực khác (máy móc thiết bị, nguyên vật liệu....) nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chăm lo việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động được coi là nhiệm vụ hàng đầu của nhiều doanh nghiệp hiện nay và thực tế cho thấy những doanh nghiệp mạnh trên thị trường thế giới là những doanh nghiệp có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao , có tác phong làm việc khoa học và có kỷ luật nghiêm minh. Việc sở hữu một đội ngũ cán bộ năng động, một đội ngũ công nhân lành nghề, khéo léo, sáng tạo trong công việc sẽ là một nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất, là động lực giúp doanh nghiệp phát triển nhanh chóng và bền vững.. 2.2.6.Nhân tố thông tin. Ngày nay, thông tin được coi là một hàng hoá, là đối tượng kinh doanh và nền kinh tế thị trường hiện nay được coi là nền kinh tế thông tin hoá. Để đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có nhiều thông tin chính xác về cung cầu thị trường, dịch vụ, hàng hoá, công nghệ, đối thủ cạnh tranh , thông tin về giá cả , tỷ giá... Ngoài ra, doanh nghiệp còn rất cần đến các thông tin về kinh nghiệm thành công hay thất bại của các doanh nghiệp khác ở trong nước và quốc tế, cần biết các thông tin về thay đổi trong các chính sách kinh tế của nhà nước và các nước khác có liên quan. Trong sản xuất kinh doanh biết mình biết người và nhất là hiểu rõ được các đối thủ cạnh tranh thì mới có đối sách giành thắng lợi trong cạnh tranh , có chính sách phát triển mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp nắm bắt được các thông tin cần thiết và xử lý, sử dụng các thông tin đó kịp thời là một điều kiện quan trọng để ra các quyết định sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Những thông tin chính xác được cung cấp kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp . Như vậy vai trò của hệ thống thông tin là rất lớn, đặc biệt là trong cơ chế thị trường với nhiều biến động thay đổi không ngừng. Thông tin về bản thân doanh nghiệp, thông tin về đối thủ cạnh tranh, thông tin về thị trường, thông tin về các chính sách của nhà nước,… doanh nghiệp cần phải thường xuyên cập nhật, phân tích để có thể đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác, hiệu quả, sản phẩm đáp ứng được nhu cầu khách hàng, tránh dự lỗi thời, lạc hậu, kém thế trong cạnh tranh. Việc xây dựng một bộ phận có khả năng thu thập thông tin chính xác, kịp thời, có khả năng phân tích, xử lý thông tin tốt sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp lên cao. 2.2.7.Nhân tố về vận dụng đòn bẩy kinh tế. Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tới tối đa tiềm năng về lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi khâu và các bộ phận trong doanh nghiệp phát huy được đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra nhân tố này cũng cho phép doanh nghiệp tận dụng tốt các cơ hội khách quan trong quá trình kinh doanh như chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh của nhà nước, thị trường mở rộng, có thêm khách hàng mới. Việc khai thác tốt tiềm năng về lao động, tận dụng triệt để cơ hội kinh doanh sẽ làm tăng thêm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nắm bắt cơ hội và tận dụng tốt cơ hội đó rất quan trọng trong kinh doanh, nó tạo ra điểm nhấn trong sự phát triển của doanh nghiệp, tạo ra các bước tiến vượt trội so với đối thủ cạnh tranh. 3. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề phức tạp có quan hệ đến toàn bộ các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh ( lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động). Để đánh giá chính xác và có cơ sở khoa học hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm các chỉ tiêu tổng quát và chỉ tiêu chi tiết để tính toán. Các chỉ tiêu chi tiết phải phù hợp thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung. Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cần phải dựa vào một hệ thống các tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu phấn đấu. Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là mốc xác định ranh giới có hay không có hiệu quả. Nếu theo phương pháp so sánh toàn ngành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của ngành làm tiêu chuẩn hiệu quả. Nếu không có số liệu của toàn ngành thì so sánh với các chỉ tiêu của năm trước. Cũng có thể nói rằng, các doanh nghiệp có đạt được các chỉ tiêu này mới có thể đạt được các chỉ tiêu về kinh tế. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng quát. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được dùng để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau và so sánh trong doanh nghiệp qua các thời kỳ để xem xét các thời kỳ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao hơn hay không. Doanh lợi doanh thu bán hàng Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng kinh doanh bán hàng. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tăng doanh thu, giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng doanh thu phải nhỏ hơn tốc độ tăng lợi nhuận. Doanh lợi doanh thu bán hàng = (lợi nhuận trong kỳ/ doanh thu trong kỳ) x100 Chi phí đầu vào bao gồm lao động, đối tượng lao động, vốn kinh doanh, còn kết quả đầu ra được đo bằng số lượng sản phẩm dịch vụ, doanh thu và lợi nhuận ròng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh =Kết quả đầu ra/ Chi phí đầu vào Công thức trên phản ánh sức sản xuất hay sức sinh lời của các chỉ tiêu phản ánh chi phí đầu vào, được tính cho tổng số hoặc tính riêng phần gia tăng. Các tính này đã khắc phục những tồn tại khi tính theo dạng hiệu số. Nó đã tạo điều kiện nghiên cứu kết quả sản xuất kinh doanh một cách toàn diện hơn. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả bộ phận: Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. Chỉ tiêu năng suất lao động NSLĐ = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ tổng số lao động trong kỳ. Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân cho một lao động: Lợi nhuận bình quân tính cho 1 lao động = Lợi nhuận trong kỳ/ tổng số lao động bình quân trong kỳ. Chỉ tiêu này cho thấy với mỗi lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Dựa vào chỉ tiêu này để so sánh mức tăng hiệu quả của mỗi lao động trong kỳ. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu suất sử dụng vốn cố định Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định, khả năng sinh lợi của tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Sức sản xuất của vốn lưu động = Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Vốn lưu định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nếu chỉ tiêu này tăng qua các thời kỳ chứng tỏ hiệu quả sử dụng đồng vốn lưu động tăng. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho ta biết với một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu lợi nhuận trong kỳ. Chỉ số này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. Tốc độ luân chuyển vốn: Trong quá trình sản xuất kinh doanh nguồn vốn lưu động luôn vận động không ngừng, nó tồn tại ở các dạng khác nhau. Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết ách tắc, đình trệ vốn, giải quyết nhanh nhu cầu về vốn chu doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp. Các chỉ tiêu sau được dùng để đánh giá tốc độ luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Số vòng quay của vốn lưu động: Số vòng quay của vốn lưu động = Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của vốn lưu động bình quân trong kỳ. Chỉ số này càng lớn càng tốt, chứng tỏ vòng quay của vốn tăng nhanh, điều này thể hiện việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại. Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay: Số ngày luân chuyển bình quân 1 vòng quay= 365/ Số vòng quay của vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết thời gian để vốn quay được một vòng , thời gian này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng chi phí. Hiệu quả kinh doanh theo chi phí= Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ/ Tổng chi phí sản xuất và dịch vụ. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ việc sử dụng chi phí của doanh nghiệp càng có hiệu quả dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao. Công thức trên đã khái quát được khai niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là sự so sánh giữa “kết quả đạt được” và “chi phí sử dụng” cụ thể là so sánh giữa doanh thu đạt được và chi phí bỏ ra để sản xuất kinh doanh. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NHÀ MÁY VĂN PHÒNG PHẨM ĐÔNG ANH. Một vài nét về doanh nghiệp. 1.1.Lịch sử hình thành và phát triển. Công ty cổ phần phát triển kinh tế- hỗ trợ tài năng trẻ Việt Nam được thành lập theo quyết định số 1009/QĐ/TWĐ ngày 23/11/2000 của trung ương đoàn thanh niên Hồ Chí Minh, sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103000182 lần đầu ngày 18/12/2000 và đăng ký thay đổi lần 19 ngày 04/11/2008. Trụ sở chính: Số 5 Đào Duy Anh- Đống Đa- Hà Nội. Cho đến nay công ty có 5 chi nhánh trực thuộc tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn, thành phố Hồ Chí Minh, Đông Anh (Hà Nội). Sau đây em xin giới thiệu về chi nhánh Đông Anh nơi em thực tập. Tên: Chi nhánh công ty cổ phần phát triển kinh tế- hỗ trợ tài năng trẻ Việt Nam Địa chỉ: Xóm Bãi, Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội. Điện thoại: 043 883 8253 Chi nhánh được sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0113010227 lần đầu ngày 06/12/2005 và đăng ký thay đổi lần 3 ngày 21/02/2008 Người đứng đầu chi nhánh là ông Kiều Văn Khiết. Sinh ngày 26/09/1979. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Nhật Châu, xã Liên Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. 1.2.Đặc điểm chung của doanh nghiệp. 1.2.1.Chức năng nhiệm vụ của nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. Vì nhà máy là một trong các chi nhánh của công ty cổ phần phát triển kinh tế- hỗ trợ tài năng trẻ Việt Nam nên hoạt động của nhà máy có những ràng buộc nhất định với công ty nhưng cũng không mất đi sự chủ động, sáng tạo trong kinh doanh. Nhà máy luôn kết hợp giữa sự chỉ đạo từ công ty và thực tế tại đơn vị để đưa ra các quyết định kinh doanh hợp lý, nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh trên cơ sở khai thác nguồn vật tư, tài nguyên đất nước, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Từ những đặc điểm ngành nghề mà nhà máy tiến hành hoạt động kinh doanh mà nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh có những chức năng nhiệm vụ sau: Chức năng: Căn cứ vào giấy phép kinh doanh và quyết định thành lập doanh nghiệp của nhà máy mà nó có chức năng sau: Chức năng sản xuất: Nhà máy sản xuất gia công các sản phẩm làm bằng giấy, vở học sinh, sổ sách, vở gáy lò xo các loại. Chức năng kinh doanh : Kinh doanh cho thuê kho bãi, in và các dịch vụ liên quan đến in. Xuất khẩu các sản phẩm làm bằng giấy, vở học sinh, sổ sách, vở gáy lò xo các loại. Nhiệm vụ: Thông qua đặc điểm các ngành nghề kinh doanh của nhà máy, quan hệ của nhà máy với công ty mà chi nhánh có một số nhiệm vụ sau: Chi nhánh hoạt động theo sự ủy quyền của công ty. Khi công ty nhận được các đơn hàng của đối tác thì giao cho chi nhánh thực hiện, nhiệm vụ của chi nhánh là tổ chức sản xuất, đảm bảo việc giao hàng cho đối tác đúng thời gian và đảm bảo chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu của khách hàng đảm bảo uy tín của công ty và nhà máy. Ngoài ra chi nhánh tự tìm kiếm các đơn hàng, sản xuất và tiêu thụ các loại vở học sinh trong nước . Lợi nhuận chi nhánh sẽ được chuyển về công ty góp phần cùng công ty hỗ trợ quỹ hỗ trợ tài năng trẻ Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trên cơ sở chủ động và tuân thủ nghiêm chỉnh quy định của pháp luật. Tuân thủ pháp luật của nhà nước về quản lý tài chính, quản lý quá trình xuất khẩu, nghiêm chỉnh thực hiện cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng liên quan đến sản xuất kinh doanh của nhà máy cũng như thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước. Nghiên cứu thực hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường. Quản lý và đào tạo đội ngũ công nhân, nhân viên để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự phát triển của nhà máy. 1.2.2. Sản phẩm sản xuất. Sản phẩm chính của nhà máy là các sản phẩm làm bằng giấy, vở học sinh, sổ sách, vở gáy lò xo các loại xuất khẩu theo đơn đặt hàng từ khách hàng chuyển từ công ty xuống. Ngoài ra nhà máy cũng sản xuất các loại vở để tiêu thụ trong nước. Vì vậy mà yêu cầu về tiêu chuẩn với các loại giấy là khá cao về chất lượng, mẫu mà, kích thước và các yêu cầu khác của khách hàng. Đây là loại sản phẩm có thể để lâu vì vậy dễ quản lý và không bị hao hụt. Đơn vị tính thường là quyển. Về số lượng: số lượng sản xuất nhiều hay ít tùy thuộc vào số lượng các đơn đặt hàng và các hợp đồng đã ký kết để công ty có kế hoạch sản xuất cho phù hợp và hiệu quả cao. Về chất lượng: Vì sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là được tiêu thụ ở thị trường nước ngoài cho nên chất lượng của các sản phẩm được đặc biệt chú ý. Sản phẩm luôn đạt được các yêu cầu kỹ thuật, độ trắng, kích thước, mẫu mã. Sản phẩm sản xuất ra luôn đạt được sự hài lòng của các khách hàng, dù đó là các thị trường khó tính. Vì vậy mà sản phẩm của nhà máy ngày càng chiếm được sự tín nhiệm của khách hàng nâng cao uy tín của nhà máy cũng như của công ty cổ phần hỗ trợ phát triển tài năng trẻ Việt Nam. Ngoài ra chi nhánh còn kinh doanh trong lĩnh vực in và các dịch vụ liên quan đến in, cho thuê kho bãi nhằm tận dụng tối đa khả năng sản xuất của máy móc, nâng cao hiệu quả sử dụng của máy móc cũng như kho bãi của chi nhánh. 1.2.3.Thị trường tiêu thụ. Chi nhánh Đông Anh, Hà Nội chuyên sản xuất giấy và văn phòng phẩm trên dây truyền công nghệ hiện đại, trang thiết bị tiên tiến. Sản phẩm mang nhãn hiệu DEVYT J.S.C đa dạng về kiểu dáng và chất liệu, đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế và được xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Với uy tín đã được khẳng định, DEVYT J.S.C hiện là đối tác của nhiều nhà đầu tư lớn tại thị trường Mỹ như Walmart, K.Mart, Depot, CVS Inc, Target, Continental Store, Kittrich Corp, Fashion Accessory, Bazzar LLC... với hình thức tiêu thụ sản phẩm là xuất khẩu trực tiếp theo giá FOB. Ngoài ra nhà máy cũng triển khai các hoạt động để tiêu thụ sản phẩm ngay tại thị trường nội địa. 1.2.4.Bộ máy tổ chức của nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý: Giám Đốc Phòng kế toán Phòng tổ chức hành chính Phòng kinh doanh Phòng kế hoạch sản xuất Phòng kinh doanh Phòng quản lý Phòng vật tư Nhiệm vụ của các phòng ban: - Giám đốc: điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh theo kế hoạch của công ty và theo pháp luật, quyết định các vấn đề của chi nhánh trong phạm vi thẩm quyền được công ty cho phép. Chịu trách nhiệm trước công ty về hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh, có quyền tuyển dụng, sa thải nhân viên văn phòng tại chi nhánh. Phòng Kế toán: Ghi chép, phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế tài chính của chi nhánh, quản lý tài sản, tiền của chi nhánh. Hàng tháng tính toán và xác định giá thành sản phẩm, xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, lập kế hoạch chi tiêu cho tháng tiếp theo trình công ty. Cuối mỗi tháng phải nộp báo cáo tài chính gửi về phòng kế toán của công ty để công ty tính và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhà nước. Tại phòng kế toán chi nhánh hàng tháng phải lập tờ khai thuế giá trị gia tăng theo đúng quy định, phải lập hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng gửi cơ quan thuế để lấy lại tiền thuế được hoàn cho chi nhánh. Phòng tổ chức hành chính: Xây dựng quy chế lương của chi nhánh trên cơ sở quy chế lương của công ty, xây dựng quy chế quản lý nhân sự tại chi nhánh. Thực hiện chính sách chế độ với người lao động, tiếp nhận và xử lý các công văn giấy tờ, lưu trữ hồ sơ giấy tờ, chịu trách nhiệm về công tác phòng cháy chữa cháy, tính lương cho toàn bộ nhân viên văn phòng và công nhân của chi nhánh, chịu trách nhiệm quản lý đội bảo về mà chi nhánh đã thuê. Phòng kế hoạch sản xuất: Tiếp nhận đơn hàng từ công ty, có ý kiến tư vấn với giám đốc về việc có nhận đơn hàng hay không. Lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch vật tư phục vụ sản xuất, kết hợp với phòng vật tư trong việc thực hiện kế hoạch cung cấp vật tư cho sản xuất, chịu trách nhiệm đôn đốc, quản đốc, thực hiện các đơn hàng theo đúng kế hoạch, đảm bảo kịp thời gian giao hàng theo kế hoạch của công ty. Quản lý bộ phận kho của chi nhánh. - Phòng kinh doanh: Chịu trách nhiệm mở các hồ sơ nhập nguyên vật liệu và hồ sơ xuất thành phẩm theo thời gian mà công ty đã đinh trước, đảm bảo đầy đủ thủ tục hải quan, đối chiếu số liệu này với phòng kế toán cuối mỗi tháng. Phòng quản lý: Quản lý các nhân viên, đảm bảo sản phẩm làm ra đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hang. Tiếp đón, phục vụ khách kiểm hàng, đảm bảo sản phẩm làm ra đáp ứng mọi yêu cầu kỹ thuật của khách hàng, tránh trường hợp phải trả lại hàng. Phòng vật tư: Nhận kế hoạch mua vật tư từ phòng kế hoạch sản xuất, lập kế hoạch ứng tiền để mua vật tư, đảm bảo cho việc sản xuất không bị gián đoạn. Chịu trách nhiệm về việc mua sắm văn phòng phẩm cho văn phòng Sơ đồ tổ chức bộ máy sản xuất tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. Phòng KHSX Quản đốc Tổ cơ điện Tổ Kho Tổ in Tổ đếm, cắt, đục lỗ Tổ cuốn lò xo Tổ đóng gói sản phẩm Nhiệm vụ của từng bộ phận: Tổ cơ điện: Chịu trách nhiệm đảm bảo nguồn điện ổn định cho sản xuất, tiến hành sửa chữa may móc của xưởng sản xuất dưới sự chỉ đạo của quản đốc. Quản đốc: Tổ chức thực hiện sản xuất các đơn hàng theo kế hoạch của phòng kế hoạch sản xuất, đô đốc giám sát sản xuất cùng với các tổ trưởng, đảm bảo hàng sản xuất kịp thời gian. Tổ kho: Quản lý nguyên vật liệu, sản phẩm của chi nhánh, đảm bảo điều kiện nguyên vật liệu, sản phẩm của chi nhánh không bị hư hỏng, thất thoát. Hàng tháng đối chiếu số lệu với phòng kế toán. Tổ in: Thực hiện lệnh in giấy của phòng kế hoạch sản xuất dưới sự chỉ đạo trực tiếp của quản đốc. Đảm bảo giấy được in ra phải đúng quy chuẩn về màu sắc, độ rộng hẹp của dòng kẻ, lề. Tránh tình trạng giấy in ra bị nhòe, bị nhăn. Giấy in xong xếp thành kệ, ghi tên đơn hàng và số lượng mỗi kệ. Tổ đếm, cắt, đục lỗ: Nhận giấy đã in từ tổ in tiến hành đếm và phân tách từng tập theo đúng số lượng của từng đơn hàng. Sau khi đếm thì tiến hành cắt giấy ra từng khổ theo đúng kích thước của đơn hàng và tiến hành đục lỗ trên từng tập giấy, xếp thành từng kệ ngay ngắn, bao giấy bên ngoài để tránh hư bẩn. Trên mỗi kệ ghi tên đơn hàng và số lượng tệp giấy của mỗi kệ. Tổ cuốn lò xo: Nhận giấy đã đục lỗ, đếm cắt, tiến hành luồn lò xo. Các công nhân tiến hành cắt những đoạn lò xo thừa để quyển sổ đẹp mắt hơn, sau đó xếp thành kệ bao giấy bên ngoài cẩn thận. Trên mỗi kệ ghi rõ tên đơn hàng và số lượng cụ thể. Tổ đóng gói sản phẩm: Nhận vở đã luồn lò xo từ tổ lò xo tiến hành đóng gói sản phẩm theo đúng yêu cầu về số lượng, chủng loại cho mỗi thùng vở. Sau khi đóng gói thì xếp các thùng thành kệ, trên mỗi kệ ghi tên đơn hàng, số lượng thùng rồi chuyển cho bộ phận kho để bảo quản. .Đánh giá về hiệu quả sản xuất của nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy. Hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh công ty cổ phần phát triển kinh tế- hỗ trợ tài năng trẻ Việt Nam giai đoạn 2007-2009 được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của chi nhánh (nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh) Chỉ tiêu Đơn vị 2007 2008 2009 Tốc độ phát triển % 08/07 09/08 1. Tổng doanh thu Tr.đ 35 607 32 974 42 847 92,6 130,04 Doanh thu xuất khẩu Tr.đ 31 435 29 864 38 211 95 127,95 Doanh thu nội địa Tr.đ 4 172 3 083 4 636 73,89 150,37 2. Nộp ngân sách Nghìn đồng 592 012 644 592 714 354 108,88 110,82 3. Lợi nhuận Tr.đ Lợi nhuận trước thuế Tr. đ 2 100 2 286 2 786 108,85 121,87 Lợi nhuận sau thuế Tr.đ 1 512 1 647 2 006 108,93 121,79 Nguồn: Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh 2007- 2009 của chi nhánh Qua bảng trên ta thấy tổng doanh thu của năm 2008 có giá trị thấp hơn so với năm 2007, cụ thể là doanh thu năm 2008 chỉ bằng 92,6 % doanh thu của năm 2008. Điều này cũng là điều khó tránh khỏi khi mà năm 2008 thế giới phải trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Và nơi bắt nguồn cũng như chịu tác động nặng nề nhất chính là nước Mỹ- thị trường chính của nhà máy. Chính vì vậy mà một số đơn đặt hàng đã không được thực hiện, gậy thiệt hại cho nhà máy và làm giảm doanh thu. Nhưng tới năm 2009 thì tác động của cuộc khủng hoảng đó đã giảm xuống đối với nhà máy khi mà các đơn đăt hàng lần lượt được ký kết trở lại. Từ đó mà doanh thu của năm 2009 đã tăng tăng lên hơn 42 tỷ và bằng 130,04% lần năm 2008. Tuy chịu ảnh hưởng rất lớn từ cuộc khủng hoảng nhưng lợi nhuận thu được của năm 2008 cũng không bị giảm sút mà nó._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31465.doc