Giải pháp phát triển Công nghiệp phụ tùng cho ngành xe máy của Việt Nam

Mục lục Lời mở đầu Hội nhập kinh tế luôn song hành cùng với sự phát triển ngày càng cao của quá trình phân công lao động quốc tế. Bất kỳ một sản phẩm công nghiệp nào hiện nay đều không thể do chỉ duy nhất một công ty của một quốc gia sản xuất. Ví dụ chiếc máy tính hiệu IBM nhưng ổ cứng có thể là Seagate, màn hình là Samsung, Main của Intel, thậm chí đến chiếc ốc vít cũng phải có một nhà cung cấp chuyên nghiệp. Một sản phẩm công nghiệp tích hợp như thế cần phải có hàng chục, thậm chí cả trăm n

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển Công nghiệp phụ tùng cho ngành xe máy của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà cung cấp các bộ phận, linh kiện cho nó. Xe máy cũng là một trong những sản phẩm công nghiệp tích hợp. Để có một sản phẩm xe máy hoàn chỉnh do đó cũng đòi hỏi phải có hệ thống các nhà cung cấp cho nó. Hệ thống này được gọi chung là hệ thống CNPT cho ngành. Nếu nó ngày càng được mở rộng thì chứng tỏ trình độ phân công lao động của ngành càng cao và cũng phản ánh ngành đang ở giai đoạn nào cuả quá trình phát triển. Đồng thời, sự phát triển của hệ thống cung cấp cho ngành xe máy còn có thể là nền tảng để xây dựng và phát triển các nhà cung cấp cho các ngành công nghiệp lắp ráp quan trọng khác như ô tô, điện tử - điện gia dụng... do có sự tương đồng về công nghệ và sản phẩm sản xuất. Vai trò to lớn của xe máy đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam là không thể phủ nhận. “Có xe máy” từ lâu đã như là một một tiêu chí để đo mức độ “ văn minh - hiện đại” của mỗi gia đình người Việt. So sánh với các ngành công nghiệp lắp ráp - chế tạo khác như điện tử, dệt may..., xe máy đang được cho là khá thành công trong việc phát triển hệ thống nhà cung cấp cho mình, với tỷ lệ nội địa hoá cao nhất đạt trên 70%, hay nói cách khác, sự phân công trong ngành đã đạt được một trình độ nhất định. Tuy nhiên, vẫn có nhiều nghiên cứu lại cho thấy ngành công nghiệp xe máy vẫn đang trong giai đoạn gia công - lắp ráp đơn thuần, chưa đi vào các khâu mang lại giá trị cao tức là hệ thống cung cấp còn chưa thực sự phát huy được vai trò của nó. Vậy trên thực tế, hệ thống CNPT cho ngành đang phát triển đến đâu?, phải chăng tỷ lệ nội địa hoá cao chưa phải là đủ để đánh giá sự phát triển của hệ thống CNPT? - nội địa hoá 100% có nên lấy làm mục tiêu phấn đấu cuả ngành hay không? giải pháp nào cần thực hiện để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống này trong tương lai?...Làm rõ những câu hỏi này đang là một trong những yêu cầu cấp thiết cho sự phát triển của ngành nói riêng và cho các ngành công nghiệp lắp ráp khác nói chung. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “Giải pháp phát triển CNPT cho ngành xe máy của Việt Nam” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ các khái niệm, quan niệm về CNPT đang được sử dụng tại một số quốc gia và Việt Nam; đánh giá, phân tích thực trạng của hệ thống CNPT cho ngành xe máy: kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại, nguyên nhân. Từ đó có những giải pháp đề xuất nhằm phát triển hệ thống CNPT cho ngành xe máy trong thời gian tới. Kết cấu nôi dung chính của chuyên đề bao gồm ba phần: Chương I:Cơ sở lý luận về CNPT và sự cần thiết phải phát triển CNPT cho ngành xe máy ở Việt Nam. Chương II: Đánh giá thực trạng phát triển của hệ thống CNPT cho ngành xe máy Việt Nam Chương III: Những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống CNPT cho ngành xe máy Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, các phương pháp được sử dụng là Phương pháp luận: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu: phân tích - tổng hợp – đánh giá; thống kế, so sánh trên cơ sở thừa kế một số công trình nghiên cứu khoa học đã có. Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình từ phía các cán bộ của cơ quan thực tập - Vụ Tổng hợp - Bộ Kế hoạch và đầu tư; các thầy giáo, cô giáo trong khoa Kế hoạch và phát triển – NEU, đặc biệt là từ phía thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Ngọc Sơn. Do hạn chế về trình độ và khả năng thu thập số liệu nên bài viết không tránh khỏi sai sót. Rất mong nhận được sự phê bình và sửa chữa của các Thầy cô, các cô chú cán bộ của Vụ Tổng hợp Bộ kế hoạch - đầu tư và các bạn để tôi hoàn thành tốt hơn khóa luận của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! Chương I Cở sở lý luận về CNPT và sự cần thiết phải phát triển CNPT cho ngành xe máy ở Việt Nam I. Cở sở lý luận chung về CNPT 1. Khái niệm về CNPT 1.1. Sự xuất hiện của khái niệm CNPT và quan điểm của các nước về CNPT. Khái niệm CNPT (Supporting Industry – CNPT, hay còn gọi là công nghiệp hỗ trợ) bắt đầu xuất hiện từ những năm 1960, phổ biến ở Nhật Bản và sau này là các nước công nghiệp trẻ châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, hay vùng lãnh thổ Đài Loan. Đấy là những nơi mà chi tiết các sản phẩm thường được gia công ở một đơn vị sản xuất khác với nơi chế tạo, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh cuối cùng. Sự xuất hiện đầu tiên của CNPT ở các quốc gia này được lý giải như sau: Vào những năm của thập kỉ 1960s, trong quá trình xây dựng các mắt xích chuyên môn hoá của từng công đoạn sản xuất các sản phẩm công nghiệp, các nhà sản xuất Nhật Bản đã áp dụng cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh mới, khác hẳn với hình thức tổ chức theo kiểu tích hợp truyền thống Là hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu liên kết chiều dọc của công nghệ, tập trung kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, thực hiện trong nội bộ một doanh nghiệp – mô hình sản xuất công nghiệp phổ biến của các quốc gia công nghiệp thế kỷ XX. Theo đó, họ chia quá trình sản xuất kinh doanh thành nhiều công đoạn khác nhau và chỉ tập trung nguồn lực vào một số khâu, công đoạn chủ yếu mà họ có thế mạnh. Các yếu tố đầu vào khác sẽ được cung cấp bởi các đơn vị sản xuất ngoài hệ thống. Những đơn vị này được gọi là những tổ chức thầu phụ /vệ tinh của doanh nghiệp đó. Các đơn vị sản xuất này trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, hoàn thiện, cải tiến công nghệ sản xuất của mình sẽ trở thành các nhà sản xuất, dịch vụ, gia công các sản phẩm tương tự, cung ứng không chỉ riêng cho các tổ chức sản xuất chủ đạo chính của mình mà còn có thể vươn ra đáp ứng nhu cầu của các tổ chức khác. Kiểu tổ chức sản xuất này đã được các doanh nghiệp Nhật Bản áp dụng rộng rãi trong những năm của thập kỷ 1980s, khi họ tiến hành chuyển đổi phương thức đầu tư: Chuyển các cơ sở sản xuất sang các nước Châu Á – nơi có nguồn lao động rẻ hơn. Tuy nhiên các doanh nghiệp phải nhập khẩu linh phụ kiện từ Nhật vì ngành công nghiệp này ở các nước chưa phát triển. Do vậy, CNPT được sử dụng để chỉ tình trạng thiếu công nghiệp sản xuất phụ tùng linh kiện phụ tùng tại các nước này. Như vậy, khái niệm CNPT được bắt đầu được sử dụng ở Nhật Bản và được sử dụng chủ yếu cho các nước Châu Á. Từ lúc xuất hiện cho đến nay, khái niệm này đã được thay đổi và được hiểu theo những phạm vi khác nhau tại mỗi quốc gia. Nhiều quốc gia cũng còn chưa có sự thống nhất rõ ràng. Hộp 1: Khái niệm CNPT tại một số quốc gia. -Theo METI: Khái niệm CNPT được sử dụng chính thức trong “ Chương trình hoạt động phát triển CNPT Châu Á -1993”. Theo đó, CNPT được hiểu là những ngành sản xuất những vật dụng cần thiết như nguyên liệu thô, phụ tùng, hàng hoá tư bản … cho các ngành công nghiệp lắp ráp. - Theo BOI - Thái Lan, CNPT được hiểu là các ngành sản xuất các sản phẩm gia công khuôn mẫu, dập, đúc, rèn và gia công nhiệt - Theo Văn phòng phát triển CNPT Thái Lan, CNPT được hiểu là các ngành cung cấp các linh phụ kiện. máy móc, thiết bị và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất như đóng gói, kiểm tra sản phẩm… cho các ngành công nghiệp cơ bản Sự tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về CNPT dẫn tới nhiều cách xác định khác nhau về phạm vi của CNPT. Việc xác định doanh nghiệp nào sẽ thuộc hệ thống CNPT của một ngành công nghiệp chính yếu phụ thuộc vào cách hiểu CNPT theo phạm vi nào? Phạm vi của CNPT có thể hẹp như là một ngành công nghiệp cụ thể hoặc là rộng hơn bao gồm tất cả ngành cơ khí chế tạo, dệt may, thực phẩm, hóa chất. Tuy nhiên, thuật ngữ CNPT lần đầu tiên được dùng bởi các nhà hoạch định chính sách của Nhật Bản trong thập kỷ 1980s của thế kỷ trước là nhằm đề cập đến các nhà cung cấp cho các công ty lắp ráp chế tạo như là ô tô, xe máy, điện, điện tử và máy móc chính xác. Nhìn chung, hiện nay có ba cách xác định phạm vi của CNPT như sau: Phạm vi 1: Coi công nghiệp phụ trợ là những ngành cung cấp phụ tùng, linh kiện và công cụ để sản xuất phụ tùng linh kiện. Phạm vi 2: Công nghiệp phụ trợ được hiểu là những ngành công nghiệp cung cấp phụ tùng, linh kiện, công cụ để sản xuất linh kiện này và các dịch vụ sản xuất như hậu cần, kho bãi, phân phối và bảo hiểm. Phạm vi 3: Công nghiệp phụ trợ là những ngành cung cấp toàn bộ hàng hoá đầu vào (Nguyên liệu thép, nhựa, hoá chất….), hàng hoá tư bản (máy móc, công cụ) và hàng hoá trung gian (linh kiện, phụ tùng). Hình 1: Phạm vi các ngành CNPT Sản phẩm cuối cùng Lắp ráp hoàn chỉnh Lắp ráp bộ phận Định nghía rộng I CN phụ trợ lõi Nguyên vật liệu Thép Hóa chất Định nghía rộng II Hàng hóa trung gian Cụm linh kiện Linh kiện Hàng hóa vốn Công cụ, máy móc Dịch vụ sản xuất Hậu cần Lưu kho Phân phối Bảo hiểm Nguồn: Nguyễn Xuân Thuý “CNPT: Khái niệm và sự phát triển”– VDF – Tokyo. 22/08/2006. Ba phạm vi để xác định CNPT có phần trùng nhau nên có thể coi phần đó là cốt lõi của CNPT. Phần cốt lõi của CNPT bao gồm linh phụ kiện làm từ thép, nhựa, cao su và quá trình sản xuất như dập, đúc, hàn, xử lý nhiệt, chế tạo khuôn mẫu và mạ. Cụ thể là công nghệ chế tạo, điều chỉnh và xử lý khuôn mẫu chiếm vị trí trọng tâm. Việc lựa chọn phân tích theo phạm vi nào tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất của từng ngành, từng sản phẩm CNHT và cả mục đích phân tích của người sử dụng.. 1.2 Khái niệm CNPT ở Việt Nam. Yếu tố quan trọng trong việc hình thành và thúc đẩy sự phát triển của ngành CNPT là nhận thức của bản thân các doanh nghiệp và của chính phủ về tầm quan trọng của nó đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp. So sánh với các quốc gia trong khu vực, việc tiếp nhận khái niệm CNPT ở cả hai bộ phận này của Việt Nam đều tương đối muộn. Trong thời kỳ thực hiện CNH theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, thuật ngữ CNPT không hề được nhắc đến mặc dù các ngành này đều đòi hỏi lượng đầu vào trên quy mô lớn. Nguyên nhân là do việc áp dụng kiểu tổ chức sản xuất theo kiểu trọn gói: Linh kiện sử dụng cho sản phẩm cuối cùng và việc lắp ráp sản phẩm đều được thực hiện trong nội bộ một doanh nghiệp. Sau đó, tuy đã thực hiện đổi mới kinh tế nhưng các doanh nghiệp vẫn bị ảnh hưởng bởi cung cách kinh doanh theo mô hình cũ nên khái niệm về CNPT vẫn chưa được chú ý. Ngay cả khi CNPT được giới thiệu với hầu hết các quốc gia châu Á tại các cuộc họp của APO, APEC… thì chính phủ vẫn chưa có nhận định gì do đang phải đối phó với những vấn đề cấp bách khác của giai đoạn đầu đổi mới. Đến giữa những năm của thập kỷ 1990s, khi các nhà đầu tư Nhật Bản tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam, họ gặp phải khó khăn trong việc tìm kiếm các nhà cung cấp đầu vào để đáp ứng yêu cầu lắp ráp thì thuật ngữ CNPT mới bắt đầu được xuất hiện và bàn luận. Nó đã được nhắc đến trong “Sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản” như là một điều kiện cần có từ phía Việt Nam để thu hút FDI của Nhật. Cho tới nay, vẫn chưa có một khái niệm cụ thể nào có tính pháp lý cho ngành CNPT ở Việt Nam. Nó hiện đang được hiểu như một ngành công nghiệp phụ giúp cho việc lắp ráp các sản phẩm cuối cùng thông qua việc cung cấp các bộ phận, chi tiết hoặc các sản phẩm hàng hoá trung gian khác. Nói cách khác, thay vì sản xuất sản phẩm với tất cả các bộ phận chi tiết (sản xuất trọn gói), các công đoạn sản phẩm sẽ được chuyên môn hoá từng phần, và mỗi ngành công nghiệp chỉ sản xuất một phần của sản phẩm đó. Quá trình chuyên môn hoá như vậy cũng được hiểu là CNPT. Về phía doanh nghiệp, khái niệm CNPT được hiểu một cách mơ hồ hơn. Một số doanh nghiệp thì hiểu đơn thuần CNPT là sản xuất phụ tùng, linh kiện trong khi CNPT phải bao gồm cả việc gia công và xử lý sản phẩm và các công đoạn khác nữa. Gần đây nhất, khái niệm về CNPT tại Việt Nam đã được đề cập đến trong “Dự thảo Quy hoạch tổng thế phát triển CNPT đến năm 2010, tầm nhìn 2020”. Nếu được thông qua thì đây sẽ là khái niệm có tính pháp lý đầu tiên về CNPT tại Việt Nam. Bản dự thảo đưa ra khái niệm về hệ thống công nghịêp hỗ trợ: “là hệ thống các nhà sản xuất (sản phẩm) và công nghệ sản xuất có khả năng tích hợp theo chiều ngang, cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng .. cho khâu lắp ráp cuối cùng”. CNPT như vậy về mặt lý luận có thể được hiểu là khái niệm đối xứng với công nghịêp lắp ráp. Cũng từ đặc điểm này, khi bàn tới CNPT trong thực tế thường đề cập tới các lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp. 1.3. Khái niệm CNPT của ngành xe máy. Xe máy là ngành công nghiệp thuộc nhóm ngành cơ khí chế tạo. Cũng giống như phần lớn các sản phẩm chế tạo khác, xe máy là một sản phẩm công nghiệp tích hợp – do rất nhiều các bộ phận, nhóm linh phụ kiện khác nhau. Thông thường, để có một sản phẩm xe máy hoàn chỉnh đòi hỏi hơn 700 linh phụ kiện: động cơ, thân xe, giảm sóc và hàng trăm linh phụ kiện khác. Công nghệ sản xuất xe máy là sự kết hợp của bốn công nghệ chính bao gồm : - Công nghệ nguyên vật liệu - Công nghệ chế tạo linh kiện - Công nghệ lắp ráp cụm - Công nghệ lắp ráp tổng thành. Nếu coi lắp ráp tổng thành là khâu tạo ra sản phẩm cuối cùng thì công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu sẽ là công nghệ CNPT cấp I, chế tạo linh kiện và lắp ráp cụm sẽ là CNPT hỗ trợ cấp II. Sản phẩm xe máy vì vậy sẽ là sự tổng hợp của nhiều cấp độ hỗ trợ khác nhau. Mỗi cấp sẽ có các sản phẩm phụ trợ tương ứng. Hình 2: Quan hệ giữa công nghệ phụ trợ và công nghệ lắp ráp trong quá trình sản xuất xe máy. -Thép và gang - Nhựa dẻo hoá học -Kính, hỗn hợp vô cơ. -Kim loại nhẹ -Cao su -Vật liệu khác Công nghệ Vật liệu Công nghệ chế tạo Lắp cụm tổng thanh Công nghệ lắp ráp -Gia công áp lực -Hàn, tán - Chế tạo cắt gọt - Gia công kim loại chính xác - Đúc kim loại -Đúc nhựa, cao su -Kỹ thuật điện, điện tử … -Sơn mạ … -Khung, vỏ xe -Động cơ, ly hợp, hộp số -Trục truyền - Bánh xe -Các bộ phận chức năng khác (phanh, đèn, gương…) LẮP RÁP TỔNG THÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ CNPT cấp I CNPT cấp II Nguồn: Dự thảo quy hoạch phát triển CNPT Việt Nam Sự đa dạng về các sản phẩm hỗ trợ cho ngành công nghiệp xe máy khiến cho việc lựa chọn khái niệm và phạm vi nghiên cứu của hệ thống CNPT cho nó rất khó khăn. Việc lựa chọn phạm vi hệ thống CNPT cho nó cũng tuỳ thuộc vào những mục đích nghiên cứu khác nhau. Trên thực tế ở Việt Nam hiện nay, hệ thống CNPT cho ngành xe máy thường được hiểu là tập hợp các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho các doanh nghiệp lắp ráp. Đây là cách hiểu tương đối đơn giản nhưng chưa đầy đủ và chính xác về hệ thống CNPT. CNPT cần được coi là một cơ sở công nghiệp, hoạt động với nhiều chức năng để phục vụ một số lượng lớn các nhà lắp ráp chứ không đơn giản chỉ là ngành thu thập ngẫu nhiên từ nhiều cơ sở sản xuất linh kiện. Phạm vi của nó cũng cần được mở rộng ra hơn, cần bao gồm cả quá trình sản xuất hỗ trợ việc sản xuất linh kiện phụ tùng như: cán ép kim loại, gia công xử lý nhiệt…Hay nói cách khác, có thể hiểu hệ thống CNPT cho ngành theo phạm vi I. Đây cũng là cách lựa chọn phổ biến của các nhà nghiên cứu, phân tích khi tiến hành nghiên cứu về hệ thống CNPT cho các ngành lắp ráp nói chung. Chính vì vậy, nghiên cứu này cũng lựa chọn cách hiểu này để làm căn cứ thu thập số liệu và đánh giá phân tích.Theo đó, cấu trúc của hệ thống CNPT như sau: Hình 3: Cấu trúc hệ thống CNPT của các ngành lắp ráp.Nhà lắp ráp Cao su Lò xo Ngành CNPT Linh phụ kiện Nhựa Điện Ốc vít Công nghệ thiết bị Ép Xử lý nhiệt Nguyên liệu thô Cán Đúc Dập Vật liệu Nguồn: Dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển các ngành CNPT đến năm 2010, tầm nhìn 2020.- Viện nghiên cức chiến lược và chính sách công nghiệp. Việc phát triển CNPT là vấn đề phức tạp trong hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Với các nước đang trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, khi các nguồn lực còn hạn hẹp, quy mô các ngành kinh tế còn nhỏ bé, việc giải bài toán quan hệ giữa phát triển khu vực CNPT và khu vực hạ nguồn lại càng phức tạp gấp bội. 2. Phân loại ngành CNPT CNPT không phải là một ngành cụ thể, mà nó bao hàm toàn bộ những lĩnh vực sản xuất sản phẩm trung và hàng hoá tư bản cung cấp cho ngành công nghiệp lắp ráp. Có thể căn cứ vào mức độ phức tạp của ba công đoạn sản xuất chính từ chế tạo vật liệu, gia công phụ tùng linh kiện tới lắp ráp hoàn chỉnh để phân biệt các hoạt động sản xuất nào thuộc hệ thống CNPT. Thông thường, nếu dựa vào đặc tính sử dụng của các sản phẩm CNPT đối với các ngành công nghiệp chính yếu, có thể chia CNPT thành hai loại cơ bản: CNPT cơ bản và CNPT đặc thù. Hình 4: Mô hình chia sẻ CNPT của các ngành công nghiệp chính yếu. CNPT cơ bản: Nhựa, đúc, kim khí Xe máy Điện tử Nghenhìn Ô tô Dệt may Da giầy Nguồn:CNPT Việt Nam – góc nhìn từ phía các doanh nghiệp Nhật Bản - VDF CNPT cơ bản : là các ngành cung cấp các sản phẩm có thể sử dụng chung cho nhiều ngành công nghiệp, chủ yếu là các ngành sản xuất lắp ráp. Thuộc nhóm ngành này là các cơ sở sản xuất các thiết bị, linh kiện bằng nhựa, kim khí phục vụ chung cho các ngành xm. điện - điện tử… CNPT đặc thù: Cung cấp các sản phẩm công nghiệp đặc thù, chỉ sử dụng được trong một hoặc một số ngành công nghiệp chủ yếu như dệt may, da giầy, công nghiệp chế biến. Việc lựa chọn phát triển nhóm công nghiệp hỗ trợ nào để thúc đẩy và khuyến khích phát triển thông thường tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển của từng quốc gia. Với các nước đang thiếu vốn như Việt Nam hiện nay, lựa chọn hợp lý là nên phát triển các ngành CNPT cơ bản. 3.Các loại hình hỗ trợ và các cấp hỗ trợ 3.1. Các loại hình hỗ trợ: Tỷ lệ nội địa hoá và CNPT về mặt hình thức dường như tách biệt nhau, nhưng ngược lại hai vấn đề này thực chất lại là một nếu nhìn nhận theo mục tiêu phát triển công nghiệp nội địa. Tương ứng với ba hình thức của nội địa hoá 2. Sản xuất nội bộ của các công ty lắp ráp; thu mua từ doanh nghiệp FDI tại nước sở tại và thu mua từ các doanh nghiệp nội địa. : sẽ có ba hình thức hỗ trợ của : hỗ trợ “ruột”; hỗ trợ “hợp đồng” và hỗ trợ “thị trường” Hỗ trợ “ruột”: là loại hình khá phổ biến ở các nước công nghiệp, được các tập đoàn mạnh ứng dụng rất thành công. Theo loại hình này, một tập đoàn công nghiệp sẽ thành lập cho mình một mạng lưới các nhà cung cấp dưới hình thức công ty mẹ - con, các công ty cung ứng chỉ thực hiện sản xuất linh kiện, phụ tùng quan trọng hàm chứa các bí quuyết công nghệ theo yêu cầu của các công ty lắp ráp trong tập đoàn. Hiện nay, trong ngành xe máy ở Việt Nam đang phát triển loại hình hỗ trợ này. Theo khảo sát vào đầu tháng 11/2005 của Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp, VMEP đã xây dựng được một hệ thống các nhà cung cấp ruột bao gồm 17 công ty, trước hết tập trung sản xuất linh kiện, phụ tùng mà các doanh nghiệp nội địa chưa sản xuất được hoặc sản xuất với số lượng chưa lớn. Hỗ trợ hợp đồng: là loại hình hỗ trợ được thực hiện theo cam kết giữa các nhà cung ứng với các công ty lắp ráp theo từng yêu cầu và trong từng thời điểm nhất định đối với các linh kiện ít quan trọng hơn. Công nghiệp xe máy nói riêng đang phổ biến loại hình hỗ trợ này. Các công ty lắp ráp FDI luôn tìm kiếm và ký kết hợp đồng mua các linh kiện, phụ tùng với các nhà cung cấp cả FDI và nội địa. Nếu trước năm 1998, công ty Suzuki nhập khẩu hơn 80% giá trị linh kiện, phụ tùng thì nay giá trị nhập khẩu chỉ còn khoảng 20%. Tuy nhiên, trong hệ thống các nhà cung ứng cho các công ty lắp ráp, số doanh nghiệp nội địa còn rất ít và tỷ lệ giá trị lại càng thấp, chủ yếu là các chi tiết đơn giản. Hỗ trợ thị trường: là loại hình hỗ trợ mà các phụ tùng linh kiện có tính phổ biến, không chứa đựng nhiều bí quyết công nghệ, được các nhà sản xuất bán trên thị trường không theo một cam kết nào đối với các nhà lắp ráp. Các công ty lắp ráp do đó có thể tự do lựa chọn các sản phẩm mình cần trên thị trường. Tuy nhiên, hình thức này chưa được phát triển và nhìn chung khả năng phát triển là rất thấp, đặc biệt là ở Việt Nam do hai lí do cơ bản sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp hỗ trợ kể cả FDI và nội địa thường rất khó khăn trong giai đoạn đầu – giai đoạn đầu tư công nghệ và kỹ thuật phù hợp với yêu cầu của các nhà lắp ráp, trong đó là khâu thiết kế và sản xuất khuôn mẫu. Trong bất kỳ ngành nào, sự khác biệt về sản phẩm, cụ thể là sự khác biệt về kích thước, kích cỡ, mẫu mã, các thông số kỹ thuật dẫn đến việc yêu cầu khác nhau từ các công ty lắp ráp. Do đó, phần lớn các bản vẽ về khuôn mẫu luôn được thực hiện từ các nhà lắp ráp. Thứ hai, theo quan niệm của các nhà lắp ráp, trong chiến lược thu mua, họ sẽ không ưu tiên thực hiện việc mua sắm các sản phẩm trôi nổi trên thị trường, bởi vì họ sẽ phải bỏ ra khoản chi phí để kiểm định chất lượng sản phẩm, các thông số kỹ thuật, trong đó bao gồm cả việc kiểm định xuất xứ nguyên vật liệu làm nên các sản phẩm đó. 3.2.Các cấp hỗ trợ Mỗi ngành công nghiệp có những đặc thù về đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và các lớp hay cấp hỗ trợ cũng nên hiểu trên cơ sở đặc thù của từng ngành. Do vậy, hỗ trợ không nên hiểu theo cấp độ ngành mà khái niệm CNPT nên được tư duy theo quá trình sản xuất như: Hỗ trợ nguyên liệu cơ bản, hỗ trợ công nghệ, hỗ trợ chi tiết, hỗ trợ cụm chi tiết và hỗ trợ sản phẩm. Đối với sản phẩm xe máy, các doanh nghiệp lắp ráp trong khi xây dựng mạng lưới sản xuất hệ thống sản xuất linh kiện phụ tùng vệ tinh, thường phân chia hệ thống thành các cấp phụ trợ như sau: Cấp I: Đây là cấp thực hiện thiết kế, thử nghiệm, thử nghiệm và sản xuất hầu hết các tổng thành chính của xe: động cơ, hộp số, hệ thống truyền lực (bộ ly hợp, phanh…); kiểm tra động lực học và xuất xưởng. Đây là cấp duy nhất có năng lực R&D. Cấp II: Chế tạo các linh kiện, chi tiết của các tổng thành do nhà cung cấp ở cấp I đặt hàng Cấp III: Trực tiếp sản xuất các chi tiết từ vật liệu thô (thép, cao su, nhựa, thuy tinh, nhựa, vật liệu kim loại…) để tạo phôi cho các nhà cung cấp cấp I và II. 4. Các giai đoạn phát triển và đặc điểm chung của CNPT. 4.1. Hình thái xuất hiện và các giai đoạn phát triển Hình thái xuất hiện Quá trình hình thành CNPT liên quan chặt chẽ tới sự thay đổi trong phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hoá. Tuỳ theo trình độ phát triển của từng nước, hình thái xuất hiện cuả CNPT cũng khác nhau. Đối với các quốc gia công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Mỹ…CNPT có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời với công nghiệp lắp ráp. Khi có sự phân hoá quá trình sản xuất một sản phẩm có mức độ cao, các bộ phận sản xuất từe chỗ thống nhất trong một chỉnh thể sẽ tự phân hoá thành hai bộ phận/hai quá trình độc lập - một bộ phận đi vào sản xuất linh kiện phụ tùng, một bộ phận đi vào lắp ráp. Khi đó, sự phát triển của CNPT sẽ quyết định tới sự thành công của các sản phẩm công nghiệp cuối cùng Với các nước NICs, các ngành CNPT thường được hình thành đồng thời với việc tổ chức lắp ráp, sản xuất các sản phẩm công nghiệp cuối cùng. Với các quốc gia ASEAN (Thái Lan, Indonesia, Việt Nam…), do thiếu vốn và công nghệ, thị trường tiêu thụ còn nhỏ bé nên công nghiệp lắp ráp thường phát triển trước, CNPT sẽ được hình thành và phát triển sau, gắn bó chặt chẽ với quá trình nội địa hoá sản phẩm của các tập đoàn/công ty có vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu là doanh nghiệp FDI). Sau đó, tuỳ theo trình độ phát triển và khả năng cạnh tranh của hệ thống cơ sở sản xuất, CNPT trong nước, có thể vươn xa xuất khẩu các sản phẩm phụ trợ sang các thị trường khác. Các giai đoạn phát triển Sự phát triển của hệ thống CNPT ở các nước đang phát triển như Việt Nam gắn chặt với quá trình nội địa hoá của các doanh nghiệp lắp ráp. Đặc biệt với một ngành công nghiệp chế tạo như ngành xe máy, tỷ lệ chi phí linh kiện phụ tùng chiếm một tỷ trọng lớn (>70%) thì có thể nói rằng, sự phát triển của hệ thống CNPT diễn ra cùng với quá trình nội địa hoá của các nhà lắp ráp. Quá trình nội địa hoá thường trải qua năm giai đoạn: Giai đoạn I: Việc sản xuất chủ yếu được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng các bộ linh kiện nhập khẩu nguyên chiếc. Số lượng các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng trong nước còn rất hạn chế. Giai đoạn II: Nội địa hoá thông qua sản xuất tại chỗ. Các nhà sản xuất lắp ráp chuyển sang dùng linh kiện trong nước. Tuy vậy các linh kiện này chủ yếu là loại thông dụng lắp lẫn, dùng chung. Tỷ lệ nội địa hoá có tăng lên nhưng số lượng các nhà cung cấp vẫn không có sự thay đổi lớn, tính cạnh tranh trong các sản phẩm vẫn còn yếu. Giai đoạn III: Xuất hiện các nhà cung ứng các sản phẩm hỗ trợ chủ chốt như sản xuất động cơ, hộ số với ngành ô tô – xe máy, chíp IC điện tử… một cách tự nguyện và độc lập, không theo yêu cầu của các nhà lắp ráp. Giai đoạn này phát triển mạnh mẽ việc gia công tại chỗ các chi tiết, phụ tùng có độ phức tạp cao và khối lượng hàng nhập khẩu để lắp ráp giảm hẳn. Giai đoạn IV: Giai đoạn tập trung các ngành CNPT. Trong giai đoạn này, hầu như toàn bộ các chi tiết, linh kiện phụ tùng đã được tiến hành sản xuất tại nước sở tại, kể cả một phần các nguyên liệu cho các nhà sản xuất đó. Trong giai đoạn này, số lượng các nhà cung cấp các sản phẩm hỗ trợ tăng lên 3-4 cở sở cho mỗi chủng loại sản phẩm. Cạnh tranh trong ngành vì vậy diễn ra gay gắt hơn. Xu thế chung của cạnh tranh lúc này là hạ giá thành sản phẩm trong khi vẫn duy trì và phát triển chất lượng sản phẩm. Giai đoạn V: Giai đoạn nghiên cứu, phát triển và xuất khẩu sản phẩm. Là giai đoạn cuối cùng của quá trình nội địa hoá, cũng là giai đoạn phát triển cao nhất của hệ thống sản xuất phụ trợ. Các nhà đầu tư nước ngoài dịch chuyển các thành tựu nghiên cứu, phát triển tới các nước sở tại. Năng lực cung cấp nội địa được củng cố, bắt đầu giai đoạn sản xuất phục vụ xuất khẩu triệt để. 4.2. Đặc điểm chung của các ngành CNPT. CNPT phát triển gắn kết với ngành/phân ngành công nghiệp hoặc sản phẩm công nghiệp cụ thể nào đó (đối tượng hỗ trợ) và có nhiều tầng cấp tích hợp theo cả chiều dọc và chiều ngang. Sự phát triển của CNPT có tác dụng thúc đẩy những ngành công nghiệp (sản phẩm) phát triển, cung cấp đầu vào theo hợp đồng hoặc theo kế hoạch cho sản xuất chính và thu hút đầu ra của các cơ sở sản xuất hỗ trợ cấp dưới cũng theo hợp đồng hoặc theo kế hoạch sản xuất chính (chiều tác động). Xuất hiện phổ biến trong các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo kiểu thầu phụ/vệ tinh, trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chủ đạo và các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ. Đối với một ngành/phân ngành và nhất là các sản phẩm cụ thể nào đó, các tổ chức hoạt động trong ngành CNPT thường có quy mô vừa và nhỏ với mức độ chuyên môn hoá sâu. dải sản phẩm hẹp, dễ thay đổi mẫu mã, có sức sống và sức cạnh tranh cao. Với đặc điểm chung như vậy, CNPT có thể được xem là một ngành phù hợp cho một nền công nghiệp đang tiến vào giai đoạn đuổi bắt với các nước đi trước như Việt Nam. II. Sự cần thiết phải phát triển CNPT cho ngành xe máy ở Việt Nam. 1. Phát triển CNPT để đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH Vào WTO mở ra cho nhiều cơ hội mới cho Việt Nam đẩy mạnh quá trình CNH – HĐH, phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đạt được mục tiêu này, bên cạnh sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta cần phải xác định những mũi đột phá mang tính chiến lược, phù hợp với xu thế phát triển ngày nay. CNPT chính là một lựa chọn phù hợp. Phát triển CNPT có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của toàn ngành công nghiệp nói riêng, nền kinh tế nói chung. Nhận định này được lý giải bởi các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Nội dung chính của quá trình CNH – HĐH là sản xuất ra các TLSX và TLTD. Trong khi đó, các sản phẩm của CNPT suy cho cùng chính là các linh phụ kiện để lắp ráp thành sảm phẩm tiêu dùng và các công cụ để sản xuất ra các linh phụ kiện đó. Như vậy, mục đích của phát triển hệ thống CNPT cũng chính là mục đích của quá trình CNH – HĐH. Chính vì thế, phát triển CNPT chính là việc cụ thể hoá nội dung của quá trình CNH. Mặt khác, CNPT có vai trò hết sức to lớn trong việc gia tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính do có trình độ chuyên môn hoá cao, góp phần khai thác hợp lý các nguồn lực trong nước và nước ngoài, giảm tỷ lệ xuất khẩu các sản phẩm thô, bảo đảm tính chủ động và tăng giá trị gia tăng của của ngành sản xuất ở khu vực hạ nguồn. Sự phát triển của hệ thống CNPT cũng tạo nên những mắt xích quan trọng, có ảnh hưởng lan toả trong hệ thống công nghiệp ở những khu vực có lợi thế, giúp đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH theo hướng vừa mở rộng, vừa thâm sâu. Thứ hai, quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam hiện nay phải được đặt trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế thế giới. Do đó, việc lựa chọn cơ cấu sản phẩm công nghiệp làm bước đột phá phải đặt trong đặc điểm CNH của các quốc gia trong khu vực. Quá trình CNH ở khu vực Đông Á diễn ra với những đặc điểm hết sức độc đáo theo nghĩa của riêng nó. Sự chênh lệch tương đối về trình độ phát triển giữa các nền kinh tế trong khu vực đã làm phát sinh một quá trình “đuổi bắt – catch up”nhiều tầng, liên tục trong ngành công nghiệp – các nước đi sau đuổi theo các nước đi trước nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển.. Hiện tượng này thường được miêu tả bằng mô hình “Đàn sếu bay” – NEU, Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Lao động xã hội, 2004. Song hành với quá trình này là sự chuyển giao các ngành công nghiệp từ quốc gia này sang quốc gia khác, thường xuất phát ở Nhật Bản sang đến Hàn Quốc, Đài Loan, rồi đến ASEAN – 4 . ASEAN – 4: Thái Lan, Inđônêsia, Malaysia, Philipin. , sau đó đến Trung Quốc…. Là một quốc gia có trình độ thấp, Việt Nam nằm ở phần “gần cuối” của chuổi đuổi bắt và chuyển giao này. Đến nay, chúng ta đã tiếp nhận được các ngành công nghiệp thuộc “ thế hệ thứ nhất”.Bao gồm các ngành: Các ngành khai thác,chế biến và các ngành sản xuất theo hợp đồng gia công: Dệt may, da giầy. và chuẩn bị tiếp nhận các ngành thuộc “thế hệ thứ hai” Bao gồm các ngành đòi hỏi trình độ công nghệ cao hơn: cơ khí chế tạo, điện tử, công nghệ thông tin : điện tử, xe máy, ô tô…Để có thể cạnh tranh được với các quốc gia và vùng lãnh thổ có trình độ phát triển tương đương, chúng ta phải xây dựng được hệ thống CNPT như là một điều kiện cần thiết để tiếp nhận sự chuyển giao và phát triển dài hạn các ngành này. Tuy nhiên, phát triển CNPT để thực hiện quá trình CNH không có nghĩa là phát triển sản xuất tất cả các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho các ngành công nghiệp chính yếu, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay.Trong điều kiện hội nhập muộn, chúng ta nên lựa chọn phát triển những sản phẩm hỗ trợ có lợi thế so sánh, đặc._. biệt là có tiềm năng phát triển trong tương lai. Giai đoạn đầu nên lựa chọn một số sản phẩm hỗ trợ có tầm phục vụ rộng rãi, có thể cung cấp được cho những ngành công nghiệp cơ bản: Sản xuất linh phụ kiện bằng nhựa và kim khí, gia công xử lý nhiệt, khuôn mẫu, rèn, đúc… 2.Phát triển CNPT là điều kiện cơ bản để thu hút FDI vào ngành công nghiệp nói chung, công nghiệp chế tạo và lắp ráp nói riêng. Đối với nền công nghiệp với các ngành chủ yếu đang trong tình trạng lắp ráp – gia công như Việt Nam hiện nay, hiệu quả lan toả từ khu vực FDI tới sự phát triển của các khu vực khác trong nền kinh tế đóng vai trò rất to lớn cho sự phát triển của của hệ thống công nghiệp nói chung. Sự đầu tư và tham gia liên kết với các doanh nghiệp trong nước của các doanh nghiệp FDI sẽ thúc đẩy sự chuyển giao về công nghệ, kỹ năng quản lý … cho Việt Nam và tạo nên những nền tảng ban đầu cho việc phát triển công nghiệp nội địa. Chính vì vậy, thu hút FDI là một yêu cầu cấp thiết đặt ra. Sự kém phát triển của hệ thống CNPT nói chung đã gây rất nhiều khó khăn cho Việt Nam trong việc thu hút FDI trong thời gian qua. Các phân tích và điều tra cho thấy, có ba mục tiêu để bảo đảm tính cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp là chất lượng cao, giao hàng đúng hạn và giá cả hợp lý. Hai yếu tố đầu tiên có thể đạt được nhờ việc sắp xếp lại nội bộ công ty của các doanh nghiệp. Còn yếu tố thứ ba là hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành CNPT tại quốc gia sở tại. Phân tích cấu thành chi phí sản xuất của các ngành lắp ráp thì tỷ lệ chi phí trung gian chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng chi phí sản xuất (ngành ôtô – xe máy chiếm đến 70%-80%), chi phí cho lao động chiếm rất ít, chỉ vào khoảng 10%. Do vậy, dù được đánh giá là có ưu thế về lao động như Việt Nam hiện nay, nếu không có hệ thống CNPT phát triển thì cũng không thể tạo ra sức hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài vào trong lĩnh vực công nghiệp nói chung, công nghiệp chế tạo - lắp ráp nói riêng. CNPT phải đi trước một bước, tạo nên cơ sở hạ tầng để cung cấp sản phẩm đầu vào cần thiết cho các ngành công nghiệp lắp ráp. CNPT không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu sản phẩm hỗ trợ. Hơn thế nữa, những đầu vào cần thiết cho ngành lắp ráp có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tổn chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Phát triển được hệ thống cung cấp nội địa đủ mạnh sẽ làm giảm đáng kể chi phí sản xuất của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng không phải là CNPT phải phát triển đồng bộ rồi mới thu hút FDI. Có nhiều trường hợp FDI đi trước và lôi kéo các công ty khác (kể cả công ty nước ngoài và công ty bản xứ) đầu tư phát triển CNPT. Do đó, có sự quan hệ tương hỗ giữa FDI và CNPT. Trong những năm qua, đối với khu vực cơ khí chế tạo, dòng chảy FDI từ phía Nhật Bản, Đài Loan… vào Việt Nam đang có xu hướng tăng mạnh. Chúng ta đã và đang được các nhà sản xuất Nhật Bản so sánh, cân nhắc với Thái Lan về mức độ hấp dẫn đầu tư như là một “địa điểm phân tán rủi ro” khi họ đã đầu tư quá nhiều ở thị trường Trung Quốc. Điều các nhà sản xuất Nhật Bản quan tâm nhất chính là tình hình phát triển của hệ thống CNPT. Hiện tại Thái Lan đang có ưu thế hơn vì họ đã phát triển được một hệ thống CNPT tương đối phát triển với hàng ngàn nhà cung cấp chuyên nghiệp. Tuy nhiên họ vẫn còn những hạn chế và những “đoạn thị trường” còn bỏ trống 7. Hiện nay, trình độ sản xuất và xử lý nguyên vật liệu thô, công nghệ xử lý bề mặt của Thái Lan còn tương đối thấp. Họ cũng phải nhập khẩu một số khuôn đúc và máy gia công kim loại. của họ mà chúng ta có thể tận dụng và tạo thành điểm mạnh để thu hút đầu tư cho mình. Điều quan trọng là chính phủ và các doanh nghiệp phải biết nắm bắt và đưa ra những chiến lược hành động cụ thể để tận dụng được cơ hội này. Trong ngành xe máy Việt Nam hiện nay, sản lượng chủ yếu được quyết định bởi các doanh nghiệp FDI (HVN, Yamaha, Suzuki, SWM). Việc phát triển CNPT cho ngành xe máy sẽ là điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp này tích cực đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới và chuyển giao công nghệ cho các nhà sản xuất nội địa, nâng cao năng lực cạnh tranh của công nghiệp trong nước. Đồng thời, thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài vào hệ thống sản xuất CNPT sẽ là nền tảng để phát triển các ngành công nghiệp chế tạo có đặc điểm tương đồng, có thể sử dụng chung hệ thống CNPT của ngành như: điện tử, ô tô…. 3. Xuất phát từ đặc điểm của ngành xe máy Việt Nam. Quá trình phát triển của ngành công nghiệp xe máy thường được chia thành năm giai đoạn phát triển. Nhập khẩu linh kiện và lắp ráp cơ bản. Thực hiện nội địa hoá >70% Thực hiện nội địa hoá >90%, phát triển được CNPT và các nhà cung cấp phụ tùng linh kiện từ đơn lẻ đến trọn bộ chi tiết Kiểm soát được chất lượng sản phẩm và dịch vụ bán hàng, đủ năng lực để cung ứng đủ bộ ba yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng (QCD) và có thể trực tiếp tham gia sản xuất. Thực hiện phân công hợp tác quốc tế và xuất khấu sản phẩm - chuyển giao công nghệ và nghiên cứu phát triển. Theo đánh giá của Bộ công nghịêp, xe máy Việt Nam đang ở trong quá trình kết thúc giai đoạn II, bắt đầu giai đoạn III của quá trình phát triển. Hiện nay, tỷ lệ nội địa hoá toàn ngành đã đạt mức từ 70% - 80%, số lượng các nhà sản xuất linh kiện, phụ tùng tăng lên nhanh chóng - hệ thống CNPT hỗ trợ cho ngành đã được “thai nghén” hình thành và ngày càng phát triển. Do đó, phát triển CNPT vừa là xu hướng tất yếu, vừa là điều kiện cần thiết để ngành có thể tiếp tục phát triển lên các giai đoạn cao hơn Xe máy thuộc ngành công nghiêp chế tạo - một trong những ngành có tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu và phụ tùng linh kiện cao nhất trong các ngành công nghiệp.Tỷ lệ chi phí trung gian của ngành trong tổng chi phí luôn chiếm khoảng 70 -80%. Phát triển CNPT là một yếu tố cơ bản để giảm chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm công nghiệp. Là ngành định hướng nội địa, đã đạt được mức độ cao về quy mô, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh, xe máy là ngành công nghiệp mũi nhọn duy nhất hiện nay ở Việt Nam có khả năng tăng trưởng mà không cần dựa vào xuất khẩu. Nhờ quy mô thị trường nội địa khá lớn trong thời gian qua và vẫn đang còn có tiềm năng mở rộng nên hệ thống CNPT cho ngành sẽ được đảm bảo về mặt thị trường trong dài hạn. Mặt khác, hệ thống CNPT cho ngành xe máy có thể được sử dụng chung cho cả một số ngành lắp ráp - chế tạo khác như điện tử, ô tô… Do vậy, khi thị trường xe máy đạt đến điểm bão hoà, các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có thể chuyển sang cung cấp cho các ngành này. Hay nói cách khác, phát triển CNPT ngành xe máy có khả năng trở thành nền tảng để phát triển CNPT cho các ngành công nghiệp chính yếu khác. Mặc dù mới mới phát triển được hơn 10 năm, các doanh nghiệp lắp ráp trong nước và nước ngoài qua một thời gian kinh doanh đã và đang thiết lập được mối liên kết với các nhà cung cấp nôi địa. Sự phát triển của ngành xe máy Việt Nam cho đến hiện nay là kết quả của quá trình cạnh tranh của hai kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh là mo-dun hoá và tích hợp hoá 8. Mo-dun hoá được hiểu là xu hướng tăng cường sử dụng chung một loại linh kiện chung trong quá trình từ thiết kế, mua sắm linh kiện để sản xuất. Tích hợp hoá . Quá trình này đã mang lại những tác động tích cực đối với sự phát triển cúa CNPT: Tạo nên mạng lưới sản xuất linh kiện rộng lớn giúp, cho các doanh nghiệp lắp ráp mở rộng khả năng lựa chọn nhà cung cấp một cách hiệu quả nhất. 4. Phát triển CNPT là góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp địa phương. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận rất quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển đất nước. Đây là bộ phận doanh nghiệp chiếm đại đa số trong nền kinh tế và chủ yếu là các doanh nghiệp địa phương. Hàng năm, bộ phận này luôn là nguồn đóng góp chủ yếu vào ngân sách của các địa phương, cũng là bộ phận tạo ra phần lớn việc làm mới cho nền kinh tế. Sau khi luật Doanh nghiệp mới bắt đầu được thực thi vào năm 2000, số lượng DNTN tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, trong đó chiếm tỷ trọng lớn là các DNVVN. Đây là đội ngũ doanh nghiệp có tính năng động, nhạy bén, có tư duy kinh tế và cung cách quản lý tiến bộ hơn so với các DNNN. Do đó, các doanh nghiệp này rất phù hợp với việc sản xuất các sản phẩm CNPT theo hướng chuyên môn hoá cao. Trong thời gian qua, các DNVVN ở từng địa phương có quan hệ liên kết với các doanh nghiệp lớn tại đó trong việc cung cấp nguyên vật liệu, thực hiện thầu phụ, dần hình thành mạng lưới CNPT và đặc biệt là tạo ra mạng lưới vệ tinh cung cấp linh kiện phụ tùng. Số lượng DNVVN luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng. Vì vậy, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống CNPT chính là tiếp tục phát huy vai trò của bộ phận này trong nền kinh tế. III. Những yếu tố cần thiết để phát triển CNPT cho ngành xe máy. 1. Dung lượng thị trường đủ lớn. Dung lượng thị trường đủ lớn đóng vai trò rất quan trọng trong quyết định đầu tư của các doanh nghiệp phụ trợ. Ta biết rằng, sản phẩm CNPT là những linh kiện, phụ tùng … cung cấp cho các nhà lắp ráp để họ hoàn chỉnh sản phẩm cuối cùng. Vì vậy, nhu cầu các sản phẩm hỗ trợ phụ thuộc vào quy mô lắp ráp của các doanh nghiệp, tức là sẽ phụ thuộc và nhu cầu các sản phẩm lắp ráp cuối cùng trên thị trường. Do vậy, quy mô của khu vực hạ nguồn phải đủ lớn để tạo ra thị trường ổn định cho khu vực thượng nguồn hay nói cách khác, các ngành CNPT nói chung luôn đòi hỏi phải có được một lượng đơn đặt hàng tối thiểu tương đối lớn thì mới có thể tham gia vào thị trường. Điều này phản ảnh một thực tế là các ngành CNPT thường đòi hỏi phải đầu tư vốn nhiều hơn ngành lắp ráp. Các ngành CNPT cơ bản như tạo khuôn mẫu, gia công kim khí, phun nhựa… đều phải đầu tư nhiều máy móc đắt tiền và chỉ cần rất ít nhân công, trong khi ngành lắp ráp lại đòi hỏi ngược lại. Hơn thế nữa, những máy móc này lại không thể chia nhỏ (tức là không thể đầu tư từng phần), một khi đã đầu tư lắp đặt máy móc thì chi phí vốn cố định luôn ở một mức tương đối lớn. Do vậy chi phí vốn đơn vị (tổng chi phí chia cho số sản phẩm sản xuất) sẽ giảm tỷ lệ nghịch với số lượng sản phẩm đầu ra. Đây chính là lý do tại sao các nhà sản xuất linh kiện phụ tùng cần bảo đảm dung lượng thị trường phải đủ lớn (hoặc thị trường sẽ phát triển, dung lượng thị trường sẽ lớn trong tương lai) trước khi họ đầu tư. Đối với ngành xe máy, các nhà cung cấp thường tham gia thị trường khi mức cầu đạt tối thiểu 200.000 – 300.000 bộ linh kiện/năm. Quy mô sản xuất tối ưu được đánh giá khoảng 1triệu bộ/ năm. Hiện nay, lượng tiêu thụ xe máy của nước ta vào khoảng từ 2 – 2.2 triệu xe/ năm và có còn có khả năng duy trì mức cầu này trong vòng 10 năm nữa. Đây là mức cầu đủ lớn để hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước quyết định tham gia đầu tư vào sản xuất các sản phẩm hỗ trợ một cách nghiêm túc và có chiến lược phát triển trong dài hạn. Để vượt qua sự hạn hẹp của thị trường trong nước, đặc biệt là ở các quốc gia mới đang ở giai đoạn đầu như Việt Nam, có thể tính đến khả năng xuất khẩu các sản phẩm hỗ trợ. Điều này có thể thực hiện trực tiếp thông qua xuất khẩu linh kiện hay gián tiếp thông qua cung cấp linh kiện cho các nhà lắp ráp có khả năng xuất khẩu sản phẩm cuối cùng. Một số doanh nghiệp FDI hiện đã có những lô hàng linh kiện xuất khẩu đầu tiên như HVN, VMEP…và cũng đã có chiến lược xuất khẩu trong dài hạn với mục tiêu trở thành nhà cung cấp linh kiện xe máy hàng đầu của khu vực. Đây là những tín hiệu tốt, phản ánh khả năng phát triển của hệ thống CNPT cho ngành ở Việt Nam. 2. Nguồn nhân lực chất lượng cao. Khi vấn đề dung lượng thị trường được giải quyết một cách tương đối thì nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển lâu dài của các ngành công nghiệp chế tạo, trong đó có CNPT cho ngành xe máy. Nó là nhân tố tạo nên khả năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam trên thị trường sản phẩm CNPT trong khu vực, đặc biệt là với các sản phẩm của Thái Lan và Trung Quốc. Nguồn nhân lực chất lượng cao ở đây được hiểu bao gồm các kỹ sưu quản lý dây chuyền sản xuất, kỹ sư khuôn mẫu có nhiều kinh nghiệm và công nhân lắp ráp có trình độ cao. Kỹ sư quản lý dây chuyền sản xuất là những người có khả năng quản lý và cải tiến toàn bộ quy trình sản xuất của một nhà máy chứ không chỉ là một kỹ năng cụ thể Kỹ sư khuôn mẫu có nhiều kinh nghiệm là những người có thể thiết kế và điều chỉnh những sản phẩm khuôn mẫu đạt đến trình hoàn hảo và những người này có thể cảm nhận sự khác biệt đến từng milimet đối với các sản phẩm. Công nhân lắp ráp kỹ thuật cao là những người có khả năng lắp ráp toàn bộ một sản phẩm hoàn chỉnh và vì thế, họ có thể có những gợi ý để cải thiện từng chi tiết trong sản phẩm đó. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, trong một vài thập kỷ tới, lợi thế so sánh động của Việt Nam chính là nguồn lao động kỹ thuật cao. Lực lượng lao động Việt Nam hiện đang rất dồi dào, dự báo đến năm 2020 có khả năng đạt đến “kỷ nguyên vàng” của cơ cấu dân số. Tuy vậy, chất lượng lao động vẫn còn rất thấp so với mặt bằng chung của khu vực.Quá trình hội nhập kinh tế một mặt đặt ra rất nhiều thách thức cho nguồn lao động, nhưng đồng thời mở ra cơ hội đa dạng hoá các loại hình đào tạo lao động. Người Việt Nam lại có truyền thống cần cù, ham học hỏi, tiếp thu nhanh…Đây chính là những yếu tố đặc thù, tạo nên lợi thế rất phù hợp với nhu cầu của các ngành CNPT mà chúng ta nên tận dụng. 3. Xây dựng được “Vòng tuần hoàn tích cực giữa công nghiệp lắp ráp và CNPT. Các ngành công nghiệp chủ đạo muốn phát triển trong dài hạn đòi hỏi sự phát triển song song của hệ thống CNPT cho nó. Đồng thời sự phát triển của các ngành lắp ráp cũng kích thích sự phát triển của CNPT, đặc biệt là trong giai đoạn đầu Các nhà lắp ráp và các nhà sản xuất linh phụ kiện luôn tồn tại mối liên kết chặt chẽ mang tính chất tương hỗ. Có thể hình dung, CNPT như phần chân núi, tạo phần cứng để hình thành nên thân núi và đỉnh núi là ngành công nghiệp sản xuất - lắp ráp sản phẩm công nghiệp hoặc sản phẩm tiêu dùng. Điều này cũng hàm ý rằng, để phát triển CNPT cần “con đường hai chiều” - từ các nhà lắp ráp đến các nhà cung ứng và ngược lại. Hình 5: Vòng tuần hoàn tích cực giữa doanh nghiệp lắp ráp và nhà cung cấp Tăng đầu tư của DN phụ trợ trong nước và NN Sự tăng đầu tư của DN lắp ráp Nâng cao năng lực sản xuất linh kiện trong nước và thu hút FDI Sự tập trung và tích tụ trong ngành CNPT tăng nhanh Nguồn: Tác giả Để xây dựng được một vòng tuần hoàn như trên cần bảo đảm tham gia và phối hợp thống nhất từ cả chính phủ, doanh nghiệp lắp ráp và nhà cung ứng nội địa. Về phía nhà nước, việc xây dựng chính sách thuế nhập khẩu linh kiện một cách hợp lí, có lộ trình cụ thể và công khai cho các doanh nghiệp tham gia trên thị trường là một yêu cầu cấp thiết. Giảm thuế nhập khẩu linh kiện xe máy là một công cụ hữu hiệu để thúc đẩy sự phát triển lành mạnh cho hệ thống CNPT. Việc giảm thuế sẽ tạo những tác động tích cực đối với cả doanh nghiệp lắp ráp lẫn doanh nghiệp sản xuất phụ tùng. Thứ nhất, nó làm tăng khả năng cạnh tranh về chi phí của các nhà lắp ráp, biến Việt Nam trở thành một cứ điểm xuất khẩu xe máy hoàn chỉnh. Thứ hai, tự do hoá nhập khẩu linh kiện sẽ buộc các nhà sản xuất trong nước phải nỗ lực đổi mới, đầu tư công nghệ, không kinh doanh theo kiểu “chộp giật”. Nó cũng khuyến khích xu hướng chuyên môn hoá một số linh kiện phụ tùng – giúp hệ thống CNPT cho ngành xe máy ở Việt Nam định vị được vị trí của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện nay, Thái Lan, Malaysia… đã tích cực chủ động hội nhập vào chuỗi giá trị công nghiệp trong khu vực và đã tìm được cho mình những linh kiện cơ bản để sản xuất và xuất khẩu. Trong giai đoạn đầu phát triển, các ưu đãi về thuế, tài chính… của nhà nước đối với các nhà cung cấp CNPT là rất cần thiết. Miễn, giảm thuế thu nhập trong những năm đầu kinh doanh; giảm thuế nhập khẩu máy móc, công nghệ… sẽ tăng sức hấp dẫn của ngành đối với các nhà đầu tư, từ đó thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung trong ngành, để ngành có cơ hội phát triển. Bên cạnh đó, chính phủ cần xây dựng hệ thống chính sách ngành ổn định và hợp lý. Đây là điều kiện tiên quyết để thu hút FDI nhiều hơn nữa vào cả ngành lắp ráp và sản xuất linh phụ kiện. Trên thực tế, những thay đổi không được dự báo trước của chính phủ Việt Nam đã nhận được rất nhiều sự phàn nàn từ phía các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp FDI. Ví dụ như trong ngành xe máy: chính phủ Việt Nam đã bị phê phán mạnh khi bất ngờ thực thi hạn ngạch nhập khẩu linh kiện phụ tùng xe máy vào năm 2003. Chính sách này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất của cả doanh nghiệp lắp ráp và sản xuất phụ tùng. Về phía doanh nghiệp: Tham gia vào vòng tuần hoàn, các doanh nghiệp (cả lắp ráp và sản xuất phụ tùng) vừa là đối tượng chịu tác động của các nhân tố bên ngoài, vừa chính là đối tượng trực tiếp thực hiện các mối quan hệ hợp tác. Sự chủ động tham gia và thái độ tích cực từ cả hai phía là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công cho việc hình thành vòng tròn tích cực này. Trên thực tế, doanh nghiệp lắp ráp thường được phát triển bắt đầu từ các doanh nghiệp FDI nên luôn có một khoảng cách nhất định về nhận thức và thông tin giữa các doanh nghiệp FDI với các nhà cung cấp nội địa. Chính vì thế, các nhà lắp ráp cần đóng vai trò quan trọng hơn nữa trong việc kêu gọi đầu tư FDI vào sản xuất linh phụ kiện bởi sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI sẽ có tác động nhất định đến sự nhận thức và phát triển của các doanh nghiệp cung ứng nội địa. Bên cạnh đó, sự trợ giúp về mặt kỹ thuật, chuyển giao công nghệ… từ phía doanh nghiệp lắp ráp cũng là rất cần thiết. Phía doanh nghiệp cung ứng nội địa cần nỗ lực đầu tư, đổi mới công nghệ, có thái độ tích cực, cầu thị trong việc tìm kiến đối tác và nhận sự trợ giúp. Chính thái độ kiên nhẫn, linh hoạt, sáng tạo là một điều kiện đủ làm chất xúc tác làm cho quá trình liên kết và hỗ trợ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. IV. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển CNPT ngành xe máy và bài học cho Việt Nam. 1. Kinh nghiệm quốc tế 1.1. Kinh nghiệm của Thái lan Ngành công nghiệp xe máy Thái Lan bắt đầu xuất hiện từ những năm đầu của thập kỷ 70s, cho đến nay đã có trên 40 năm phát triển. Ngành đã có một thời gian dài phát triển dưới sự bảo hộ chặt chẽ của chính phủ thông qua việc thực thi một loạt chính sách bảo hộ như: Duy trì quy định tỷ lệ nội địa hoá tới 26 năm, thời gian cấm nhập khẩi xe máy nguyên chiếc là 18 năm. Chính vì thế, trong giai đoạn đầu phát triển ngành đã tránh được sự cạnh tranh quốc tế, có đủ thời gian để xây dựng những nền tảng ban đầu cho sự phát triển. Đến thời điểm hiện nay, công nghiệp xe máy Thái Lan đang trong khoảng cuối gian đoạn IV, đầu giai đoạn V của quá trình phát triển. Do đó, đã hình thành một hệ thống các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng tương đối hoàn chỉnh, Các nhà cung cấp đã có khả năng đáp ứng các yêu cầu của nhà lắp ráp theo bộ ba tiêu chuẩn QCD. So với các quốc gia trong khu vực, Thái Lan có hệ thống CNPT tương đối phát triển, trong đó đặc biệt là thành công trong ngành ô tô – xe máy. Sự phát triển của hệ thống CNPT cho ngành xe máy tại Thái Lan là kết quả từ những nỗ lực cả về phía chính phủ và các doanh nghiệp Về phía doanh nghiệp: Thành công của các nhà sản xuất linh phụ kiện Thái Lan chính là việc giảm chi phí sản xuất. Họ cố gắng cải thiện năng suất lao động của máy móc và công nhân thay bởi vì khó có thể trông chờ vào việc giảm giá được nguyên liệu đầu vào.Ví dụ, các nhà sản xuất đề xuất việc phân tích giá trị để làm giảm phần hao phí trong quá trình ép kim loại. Thêm vào đó, họ cũng hợp tác chặt chẽ với các nhà lắp ráp để tìm cách giảm giá thành ngay từ khâu thiết kế. Ví dụ: họ đề xuất giảm bề rộng của lốp xe mà vẫn không ảnh hưởng đến chất lượng và độ an toàn của xe. Nhờ thế mà chi phí cuối cùng nhỏ hơn đáng kể. Việc liên kết hợp tác còn được thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác như đầu tư vào thiết bị, phụ tùng mới, nghiên cứu và phát triển… Về phía chính phủ: Ngay từ giai đoạn đầu, chính phủ Thái Lan đã nhận thức được tầm quan trọng của FDI với sự phát triển của CNPT. Chính vì thế, họ luôn đề cao vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà sản xuất Nhật Bản, tạo mọi điều kiện có thể để nhà đầu tư có thể dễ dàng tham gia. BOI là cơ quan đóng vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy FDI vào Thái Lan. Khả năng tiếp thị hình ảnh chính là một thành công của BOI trong việc thu hút FDI. Các thông tin về kinh tế - xã hội, các cơ hội đầu tư tại Thái Lan, các chính sách hỗ trợ của nhà nước…. thường được công khai và cập nhật liên tục trên các tạp chí, sách hướng dẫn, website do BOI phát hành hoặc quản lý. Chính thái độ hợp tác cởi mở này đã tạo nên sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư. Kết quả là Thái Lan đã nhận được dòng chảy vốn FDI khổng lồ trong những năm thập kỷ 80s và 90s, đặc biệt là tận dụng được cơ hội di chuyển các cơ sở sản xuất trong ngành lắp ráp (trong đó có cả xe máy và hệ thống CNPT) từ Nhật Bản. Bên cạnh đó, chính phủ Thái Lan còn thành lập các cơ quan hỗ trợ phát triển CNPT: Viện nghiên cứu ôtô – xe máy; văn phòng phát triển CNPT - trực thuộc ban hỗ trợ công nghiệp. Các cơ quan này chủ yếu là tham mưu cho chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách phát triển. Đây cũng chính là những kênh thông tin thường xuyên giữa chính phủ và doanh nghiệp.Điều đó làm cho khối doanh nghiệp luôn hài lòng về việc điều chỉnh các chính sách vì họ được tham gia việc dự thảo, thực hiện và kiểm tra chính sách đó. Chính vì thế, các nhà đầu tư nước ngoài luôn muốn tìm cơ hội làm ăn lâu dài tại Thái Lan - đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ôtô – xe máy vì hệ thống chính sách rõ ràng, ổn định và hệ thống CNPT phát triển. Hiện nay, BOI vẫn tiếp tục thu hút các nhà sản xuất linh kiện cao cấp bằng cách giành những ưu đãi cụ thể cho các nhà đầu tư như: Miễn thuế tối đa 8 năm; miễn thuế nhập khẩu một số máy móc như khuôn đúc, cán ép kim loại…để sản xuất các linh kiện còn đang thiếu vắng ở Thái Lan. BOI cũng khuyến khích đặc biệt các hoạt động phát triển dài hạn cho CNPT như dự án cho R&D (khoảng 150 triệu USD), dự án phát triển nguồn nhân lực (khoảng 37.5 triệu USD)… 1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản. Nhật Bản là nước có nền công nghiệp sản xuất xe máy phát triển sau so với các nước phát triển lâu đời như Pháp, Italia…tuy nhiên đã có sự phát triển nhanh chóng ngay từ giai đoạn đầu. Năm 1950 mới chỉ chiếm 2 –3%, , đến năm 1955 đã chiếm tới 20% tổng sản lượng của các nước phát triển. Thời kỳ đầu (tính đến năm 1955), Nhật Bản thực hiện phương thức sản xuất với khối lượng nhỏ. Nhiều doanh nghiệp sản xuất xe máy thực hiện mua phụ tùng về lắp ráp nên đã tránh đựoc khâu đầu tư thiết bị và khai thác sản phẩm. Đến thập kỷ 60, các nhà máy sản xuất với sản lượng lớn, nhiều công đoạn được thực hiện liên tục. Ngành đã tận dụng được lợi thế về chi phí do mở rộng quy mô, cải tiến mạnh mẽ công nghệ, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới theo nhu cầu thị trường, nhờ đó, đã phát triển vượt bậc và vươn lên vị trí dẫn đầu thế giới. Trong thập kỷ 70, các doanh nghiệp lắp ráp đẩy mạnh quan hệ với các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng, tăng cường khả năng khai thác và năng lực kỹ thuật và đa dạng hoá sản phẩm với các tính năng ngày càng vượt trội. Đặc biệt các doanh nghiệp độc quyền đã chuyển hướng sang chiến lược xuất khẩu. Chính sự phát triển của ngành sản xuất phụ tùng với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp xe máy. Thập kỷ 80, thị trường xe máy Nhật Bản bước vào thời kỳ bão hoà, lợi thế cạnh tranh mất đi nên các các cơ sở sản xuất trong nước bắt đầu giảm dần, công nghiệp xe máy Nhật Bản chuyển hướng mở rộng sản xuất ra nước ngoài. Điểm đến chủ yếu chính là các nước khu vực Đông Á(Thái Lan, MalayCNPTa…). Thập kỷ 90, các doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu giảm thiểu sản xuất trong nước và đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu.Tuy nhiên lúc này công nghiệp xe máy Nhật Bản cũng phải đối mặt với những khó khăn, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghiệp xe máy Trung Quốc. Cấu trúc kinh doanh của các doanh nghiệp vì thế cũng dần thay đổi đểt thích ứng với điều kiện mới. Hiện nay, các doanh nghiệp Nhật Bản cũng chuyển sang liên kết với các doanh nghiệp Trung Quốc, sử dụng hiệu quả các phụ tùng giá rẻ của Trung Quốc. Nhật Bản là quốc gia thành công trong việc thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào các ngành CNPT, trong đó có ngành xe máy. Trong số rất nhiều chính sách mà chính phủ thực thi, đáng chú ý nhất là chính sách hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ - đối tượng chính của CNPT. Trước khi thành lập Cục doanh nghiệp vừa và nhỏ (năm 1948) và Bộ kinh tế công nghiệp và thương mại Nhật Bản, chính phủ đã thành lập một ngân hàng chuyên hỗ trợ vốn vay cho đối tượng doanh nghiệp này để phát triển sản xuất kinh doanh. Sau đó, chính phủ mở tiếp hai tổ chức tín dụng chuyên cung vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp có thể được giải quyết cho vay vốn chỉ trong 3 ngày kể từ khi đệ trình đơn. Việc hỗ trợ vốn ngay từ thời gian đầu phát triển có tác dụng rất lớn, giúp các cở sở sản xuất có điều kiện đầu tư vào công nghệ, nghiên cứu phát triển sản phẩm, từ đó xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn chất lượng và xây dựng được thương hiệu ngay từ đầu. Nhật Bản cũng là quốc gia thành công trong việc xây dựng các kênh thông tin giữa các doanh nghiệp tư nhân và các cơ quan chính phủ, Điều này đã có tác dụng rất lớn cho các doanh nghiệp trong quá trình mới gia nhập thị trường, tìm kiếm đối tác kinh doanh một cách nhanh chóng và hiệu quả 1.3. Kinh nghiệm của Malaysia.. So với một số nước trong khu vực và Châu Á, công nghiệp xe máy MalayCNPTa hình thành khá sớm và đã phát triển tốt từ nửa đầu thập kỷ 1960. Ngành cũng bắt đầu với quy mô nhỏ lẻ, lắp ráp là chủ yếu, sản xuất phụ tùng có phát triển mạnh hơn. Hiện tại, hơn 75% giá trị của xe máy lắp ráp là các bộ phận sản xuất tại đây, nhưng giá trị thực của những đóng góp này thấp hơn do Malaysia còn phải nhập nhiều loại bán phụ tùng, bán thành phẩm và đặc biệt là nguyên liệu thô. Từ năm 1981, ngành sản xuất phụ tùng đã chuyển từ cung cấp cho thị trường thay thế đơn thuần sang cung cấp cho thị trường sản xuất và lắp ráp xe hoàn chỉnh theo chương trình nội địa hoá. Đến nay, ngành sản xuất phụ tùng xe máy đã mở rộng sang xuất khẩu để nắm bắt lợi thế và tiềm năng to lớn của thị trường quốc tế cũng như khai thác tối đa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp. Ngành sản xuất phụ tùng xe máy phát triển liên tục và nhiều nhà sản xuất đã bắt đầu xuât khẩu linh kiện thông qua quan hệ hợp tác với các nhà sản xuất linh kiện nước ngoài. Do đó đã tạo được cơ sở cần thiết đề trở thành một ngành có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để làm được như vậy, ngành phụ tùng xe máy đã chuyển hướng chiến lược phát triển từ một ngành sản xuất các loại phụ tùng cho thị trường nội địa sang một ngành sản xuất xe máy hoàn chỉnh để xuất khẩu với giá cạnh tranh. Những kinh nghiệm phát triển hệ thống CNPT cho ngành xe máy của Malaysia bao gồm: Khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua hoạt động của MIDA : Những hỗ trợ về thuế thông qua vị trí tiên phong và hỗ trợ thuế (ITA) cho sản xuất máy móc và linh kiện; sản xuất các thiết bị giao thông và linh kiện phụ tùng; các ngành CNPT; sản xuất các thiết bị và linh kiện điện tử; sản xuất các sản phẩm nhựa. Các chương trình hỗ trợ phát triển bao gồm: Chương trình hỗ trợ phát triển các nhà cung cấp sản xuất linh kiện (với các công ty đa quốc gia); Tổ chức hội chợ các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng (SMI EXPO) và các hội chợ công nghiệp; Nghiên cứu và phân đoạn thị trường cho các sản phẩm linh kiện phụ tùng); Xây dựng cơ sở dữ liệu các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng có chất lượng và thông tin về nhu cầu linh phụ kiện của các doanh nghiệp đa quốc gia Xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển các nhà cung cấp sản xuất linh kiện phụ tùng. Mục tiêu chính của chương trình là tạo ra một thị trường công nghiệp mà các doanh nghiệp SEMs của Malaysia có thể trở thành những nhà sản xuất và cung cấp đáng tin cậy các sản phẩm đầu vào công nghiệp, máy móc, thiết bị… cho các công nghiệp lớn hơn. Hơn thế nữa, chương trình cũng tạo điều kiện hội nhập lớn hơn và các liên kết giữa các doanh nghiệp được thúc đẩy nhiều hơn. 2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Công nghiệp xe máy Việt Nam còn non trẻ, phát triển chưa có định hướng rõ ràng. Kéo theo đó, hệ thống CNPT cho nó cũng chỉ mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, chưa đồng bộ và hoàn chỉnh. Nghiên cứu quá trình phát triển và những kinh nghiệm của các nước trong quá trình xây dựng hệ thống CNPT cho ngành xe máy, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây. 2.1 Bài học về thúc đẩy FDI vào CNPT. Thúc đẩy FDI là hết sức cần thiết cho sự phát triển của CNPT đặc biệt là trong giai đoạn đầu phát triển. Cả chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp cần phải nhận thức được rõ tầm quan trọng này, từ đó có những động thái và nỗ lực để thu hút FDI. Về phía chính phủ: Việt Nam cần học tập Thái Lan và Malaysia trong việc tiếp thị hình ảnh đất nước và cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư. Điều đó thể hiện qua việc xây dựng hệ thống chính sách ổn định, rõ ràng và hợp lý hơn. Chính phủ cũng nên có những chương trình hỗ trợ cụ thể để thu hút FDI chứ không nên dừng lại ở một số chính sách chung chung như hiện nay. Các biện pháp khuyến khích về thuế, tự do hoá thương mại, hỗ trợ thông tin…. là những định hướng chính phủ nên theo đuổi để có thể tạo ra được một “cú huých” cho dòng chảy FDI. Về phía doanh nghiệp: Các doanh nghiệp sản xuất chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm đối tác, liên kết, hợp tác với các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao năng lực sản xuất, tăng cường khả năng tài chính, trình độ quản lý. Thái độ tích cực hợp tác của các doanh nghiệp trong nước cũng chính là một nhân tố tác động tới quyết định của các nhà đầu tư khi đến với Việt Nam. 2.2. Bài học về xây dựng mối liên kết giữa chính phủ và các doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp lắp ráp với các nhà cung ứng. Chính phủ cần thành lập các tổ chức chuyên về phát triển CNPT. Cơ quan này sẽ là cầu nối không c._.. Năng lực sản xuất lắp ráp của các doanh nghiệp sẽ tăng cùng với xu hướng hợp tác hoá và chuyên môn hoá để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Dự báo trong giai đoạn tới năm 2010, cung sản phẩm sẽ tăng chậm do hiện nay, cung đã vượt quá cầu. Trong giai đoạn này, những nhà sản xuất lắp ráp có quy mô nhỏ có thể chuyển sang sản xuất linh kiện, phụ tùng, trở thành thành viên của hệ thống CNPT cho ngành. Giai đoạn 2010 – 2010, cung sản phẩm sẽ tăng để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Dòng sản phẩm cũng có sự thay đổi: từ nay đến năm 2010, dòng xe sản xuất theo công nghệ Trung Quốc vẫn tiếp tục được sản xuất và tiêu thụ mạnh tại thị trường nông thôn và miền núi; xe tay ga tăng lên ở thành thị. Còn từ giai đoạn 2010 – 2020, xu hướng xe có công nghệ Nhật Bản, Đài Loan sẽ thống trị thị trường trong nước và sẽ phát triển mạnh cho xuất khẩu. Hình 20: Dự báo năng lực sản xuất của một số doanh nghiệp Đơn vị: Triệu xe. Năm 2005 2010 2015 HVN 0.76 1.3 1.3 Yamaha 0.35 0.64 0.64 VMEP 0.2 0.2 0.2 Suzuki 0.12 0.12 0.12 Nội địa -TQ 1.0 1.0 1.0 Nguồn: Dự thảo quy hoạch phát triển ngành xe máy Việt Nam 2. Dự báo nhu cầu sản phẩm phụ trợ cho ngành xe máy. II. Quan điểm và định hướng phát triển CNPT cho ngành công nghiệp xe máy. 1. Quan điểm và định hướng triển phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt Nam 1.1 .Quan điểm phát triển Xe máy là sản phẩm của sự kết hợp nhiều ngành công nghiệp luôn được tiếp cận với các thành tựu về công nghệ, kỹ thuật; là sản phẩm cơ khí tiêu dùng có giá trị và quan trọng đối với đời sống của người dân Việt Nam. Sự phát triển của ngành còn kéo theo việc mở rộng hệ thống doanh nghiệp cung cấp linh kiện phụ tùng. Hiện nay thị trường xe máy ở Việt Nam đang tiếp tục phát triển, dự báo còn phát triển đến hơn 10 năm nữa mới tới điểm bão hoà. Chính vì vậy, phát triển ngành công nghiệp xe máy là một trong những chủ trương đúng đắn trong đường lối CNH - hiện đại hoá đất nước. Quan điểm phát triển ngành công nghiệp xe máy đã được nêu rõ trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp xe máy – đã được chính phủ thông qua vào 9/2006. Đó là: Phát huy nguồn lực của mọi thành phần kinh tế. tổ chức sản xuât lại theo hướng phân công hợp tác hoá cao, sát nhập liên kết để nâng cao hiệu quả. năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập Tăng cường đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực thiết kế, nghiên cứu và phát triển để sản xuất sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. 1.2.Định hướng phát triển. Hiện nay, ngành công nghiệp xe máy Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn lắp ráp – gia công chiếm phần lớn. Chính vì vậy, cần cấu trúc dần từ lắp ráp sang nghiên cứu. thiết kế và phát triển các sản phẩm mới, tập trung vào nghiên cứu và phát triển các dòng xe chuyên dụng và thân thiện với môi trường. Mô hình sản xuất “phân tán mở” của ngành cần từng bước chuyển dần sang mô hình “hợp tác chặt chẽ” để đáp ứng những xu hướng tiêu dùng và xuất khẩu cao hơn. Theo đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành mở rộng quy mô theo hướng liên kết, sát nhập tạo thành một số tập đoàn. công ty lớn nhằm nâng cao năng lực cạnh trạnh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên khuyến khích chuyển sang sản xuất linh kiện phụ tùng, trở thành các thầu phụ - vệ tinh cho các tập đoàn lớn. Vai trò của khu vực FDI đối với sự phát triển của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam là không thể phủ nhận. Không chỉ dừng lại ở việc bổ sung nguồn vốn đang khan hiếm cho ngành, các doanh nghiệp FDI còn tích cực chuyển giao công nghệ sản xuất và các kinh nghiệm quản lý cho các doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên, quá trình này mới chỉ đang trong những giai đoạn đầu. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục khuyến khích khu vực FDI đầu tư vào ngành công nghiệp xe máy, tiếp tục trở thành động lực và đầu tàu phát triển cho ngành. Hướng thu hút FDI cần tập trung vào hệ thống sản xuất linh kiện phụ tùng hơn là tiếp tục đầu tư vào lắp ráp xe máy. Động lực quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp xe máy Việt Nam chính là phát triển nhanh. mạnh các ngành CNPT, xây dựng tốt hệ thống các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng và mạng lưới dịch vụ ngành. Chính vì vậy,định hướng phát triển trong thời gian tới của ngành cần tập trung vào lĩnh vực sản xuất hỗ trợ cho ngành. Hướng đi này không chỉ giúp phát triển sản xuất trong nước mà còn góp phần định vị vị trí của Việt Nam khi tham gia vào hệ thống sản xuất và cung ứng của khu vực. Cần đa dạng hoá sản phẩm và tiến tới sản xuất các linh kiện phụ tùng ô tô khi thị trường đã đạt mức bão hòa và nhu cầu ô tô tăng lên. 2. Quan điểm và định hướng phát triển CNPT cho ngành xe máy Việt Nam. 2.1. Quan điểm và định hướng chung về phát triển CNPT đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Do chưa có sự thống nhất rõ ràng trong khái niệm, vai trò về CNPT ở Việt Nam cho nên hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm về phát triển CNPT. Theo Dự thảo quy hoạch phát triển CNPT đang được Bộ Công nghiệp xây dựng, quan điểm phát triển chung CNPT là : CNPT là động lực chính thúc đẩy sự nghiệp CNH hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn đến năm 2020.Vì vậy cần được chú ý phát triển. Việc phát triển CNPT phải được thực hiện dựa trên cơ sở chọn lọc các ngành có lợi thế so sánh của Việt Nam và phù hợp với phân công lao động quốc tế. CNPT cần được phát triển dựa trên huy động nguồn lực của mọi thành phần kinh tế. đặc biệt là các đối tác là các tập đoàn và công ty nước ngoài. Lấy ngành CNPT cho ô tô làm động lực để phát triển CNPT chung cho Việt nam Phát triển CNPT cho từng ngành công nghiệp cần phù hợp với những đặc thù riêng của từng ngành. 2.2. Quan điểm và định hướng phát triển CNPT cho ngành xe máy 2.2.1.Quan điểm phát triển Đối với CNPT cho ngành xe máy, bản dự thảo cũng nêu rõ: “Hiện nay mức độ nội địa hoá các sản phẩm xe máy đã ở mức cao, cùng với mạng lưới các cơ sở sản xuất hỗ trợ đã từng bước hình thành với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Do đó, hướng phát triển CNPT chủ yếu sẽ là đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và mềm hoá các dây chuyền sản xuất, tăng cường các mối liên kết ngang nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường. Quan điểm phát triển là để cho ngành tự phát triển theo tín hiệu của thị trường. 2.2.2. Định hướng phát triển. Phát triển sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước: Phát triển sản xuất linh kiện, phụ tùng xe máy với chất lượng ngày càng cao. đặc biệt là sản xuất động cơ, sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành; Phát triển nhanh các ngành công nghiệp hỗ trợ như: cơ khí chính xác. hoá chất, cao su, nhựa, điện, điện tử, vật liệu mới. Đẩy mạnh xuất khẩu Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm xe máy, linh kiện, phụ tùng có lợi thế cạnh tranh, phù hợp nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng ở từng khu vực thị trường; Tích cực tham gia phân công hợp tác quốc tế trong sản xuất xe máy, linh kiện và phụ tùng xe máy trong khu vực và toàn cầu. Phát triển khoa học công nghệ Huy động mọi nguồn lực khoa học công nghệ trong nước, kết hợp nâng cao hợp tác quốc tế, trong đó thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ là động lực để phát triển khoa học công nghệ ngành. Phát triển hệ thống các nhà cung cấp, hệ thống phân phối và dịch vụ Lấy sự liên kết, hợp tác tối ưu giữa các doanh nghiệp trong ngành làm cơ sở để sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở sản xuất. Liên kết hợp tác thành hệ thống các nhà sản xuất cung cấp linh kiện, phụ tùng xe máy có sức cạnh tranh cao, tiến tới tham gia sản xuất, cung cấp linh kiện, phụ tùng ôtô. Nâng cao vai trò, chức năng của Hiệp hội Xe đạp - xe máy là đầu mối liên kết các doanh nghiệp. 3. Các mục tiêu cơ bản 3.1.Mục tiêu tổng quát: Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt Nam trở thành một trong những ngành sản xuất và xuất khẩu xe máy, linh kiện và phụ tùng mạnh của khu vực. 3.2. Mục tiêu cụ thể: Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010: + Đáp ứng 90% nhu cầu xe máy trong nước, trong đó đáp ứng 100% nhu cầu xe thông dụng; + Sản xuất trong nước đạt trên 90% linh kiện, phụ tùng xe máy và 95% linh kiện phụ tùng động cơ xe máy; + Thiết lập hệ thống các nhà sản xuất, cung ứng linh kiện xe máy có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu về chất lượng, giá thành và dịch vụ sau bán hàng; hệ thống phân phối và dịch vụ năng động, chuyên nghiệp; + Năm 2010 xuất khẩu xe thông dụng, linh kiện và phụ tùng xe tương đương 450 - 500 nghìn xe, ước kim ngạch xuất khẩu đạt 300 triệu USD; + Thiết lập và đưa vào hoạt động các Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển trước năm 2010. Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015: Sản xuất đáp ứng 95% nhu cầu xe máy trong nước; trên 95% linh kiện. phụ tùng; kim ngạch xuất khẩu xe máy, linh kiện, phụ tùng đạt khoảng 500 triệu USD; nâng cao năng lực các Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển để tự thiết kế được các loại xe thông dụng và một số loại xe cao cấp. Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2025: + Tập trung đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các loại xe máy, linh kiện. phụ tùng xe máy. + Sản xuất được xe máy cao cấp và xe máy chuyên dùng phục vụ trong nước và xuất khẩu; + Tự thiết kế và sản xuất các loại động cơ, xe máy sử dụng nhiên liệu sạch, xe máy thân thiện với môi trường. II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển CNPT cho ngành xe máy Việt Nam. 1. Các giải pháp về vốn. Thiếu vốn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế của hệ thống CNPT cho ngành. Những khó khăn chính bắt nguồn từ khâu tiếp cận vốn của các doanh nghiệp nội địa và những rào cản thu hút nguồn vốn FDI. Chính vì vậy nhóm giải pháp đưa ra bao gồm: 1.1 Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn Xây dựng các tổ chức tài chính để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng tiếp cận được với nguồn vốn vay dài hạn cho đầu tư phát triển. Có thể áp dụng kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc thành lập hệ thống ngân hàng phục vụ các doanh nghiệp và cơ chế bảo lãnh tín dụng khi thu hồi thông quan các khoản thu và thế chấp các tài khoản phải thu khi vay vốn các tổ chức tín dụng của nhà nước như Nhật Bản đã tiến hành. Xây dựng hệ thống bảo lãnh tín dụng đầu tư thông qua các hiệp hội hoặc thông qua “ngân hàng hai bước” như kinh nghiệm của Nhật Bản đã áp dụng đối với việc vay vốn của các doanh nghiệp. Cho phép các doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lợi nhuận dùng để tái đầu tư hoặc thuế thu nhập trong thời gian đầu. Điều này sẽ kích thích doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất hoặc đổi mới công nghệ sản xuất. Từ đó thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung cho ngành. Nhà nước nên dành một phần ngân sách đáng kể để tạo nguồn vốn ban đầu cho một số quỹ mang tính chất hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện như quỹ khuyến công, quỹ phát triển KHCN… như là vốn điều lệ để thu hút đầu tư và chia sẻ rủi ro với các doanh nghiệp trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Phát triển mạnh cách thức cho thuê mua tài chính trong mua sắm máy móc, thiết bị, công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ để nâng cao năng lực phát triển và cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.2. Thu hút FDI và nguồn vốn viện trợ đầu tư phát triển hệ thống CNPT cho ngành. Ưu đãi đặc biệt cho những dự án đầu tư nước ngoài có chuyển giao công nghệ cao, công nghệ nền như: Chế tạo khuôn mẫu, đúc chính xác, nhiệt luyện. gia công cơ khí chính xác, xử lý bề mặt…. Những ưu đãi này có thể được thực hiện qua những ưu đãi về thuế thu nhập, thuê mặt bằng, tinh giản thủ tục đầu tư hay cam kết liên kết, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực. Tiếp tục loại bỏ những trở ngại hành chính và luật pháp đối với việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, thu hút các cán bộ nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, quản lý…có trình độ cao Sử dụng vốn ODA của một số quốc gia để hỗ trợ đào tạo lao động, xây dựng thể chế pháp lý và các chương trình phát triển CNPT, công nghiệp vừa và nhỏ… 2. Giải pháp về công nghệ và trình độ quản lý. Công nghệ là chìa khoá để các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có thể cải tiến chất lượng và mẫu mã sản phẩm có thể cạnh tranh được với được mặt bằng chung của khu vực. Để nâng cao trình độ sản xuất của các doanh nghiệp. cần thực hiện một số giải pháp sau: Huy động mọi nguồn lực khoa học công nghệ trong nước, kết hợp nâng cao hợp tác quốc tế với phương châm lấy thu hút đầu tư nước ngoài. chuyển giao công nghệ là động lực để phát triển khoa học công nghệ của ngành. Những nỗ lực này quan trọng là phải xuất phát từ chính sự chủ động và mạnh dạn của các doanh nghiệp chứ không phải chỉ trông đợi vào những hỗ trợ của nhà nước. Dựa vào nguồn vốn tự có và sự hỗ trợ vốn từ nhà nước và các tổ chức tín dụng. các doanh nghiệp nên mạnh dạn đầu tư thay thế các thiết bị máy móc đã lạc hậu bằng hệ thống thiết bị hiện đại hơn. Các doanh nghiệp nên phấn đấu trở thành đối tác của các công ty. tập đoàn lắp ráp lớn của Nhật Bản. Hàn Quốc.... để có thể nhận được sự giúp đỡ cả về nguồn vốn và công nghệ, quản lý. Các doanh nghiệp cần có sự liên kết. hợp tác với các trường Đại học. các trung tâm đào tạo nghề, các trung tâm, viện nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật... trong việc nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng các công nghệ mới. Đầu tư lâu dài vào phát triển công nghệ và nguồn nhân lực chính là chiến lược bảo đảm cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Những hỗ trợ của chính phủ cần thực hiện bao gồm: Xây dựng khung thể chế về việc gắn lợi ích kinh tế giữa người làm công tác đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với người làm nhiệm vụ sản xuất, hệ thống chính sách bảo đảm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu bản quyền. Có cơ chế xây dựng và xét duyệt và đánh giá khách quan giá trị của đề tài nghiên cứu khoa học, các công trình công nghệ được chuyển giao. Hỗ trợ và phát triển và nâng cấp các tổ chức, trung tâm kiểm định. đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt chất lượng quốc tế. Hỗ trợ ngân sách để đào tạo lực lượng quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng. Hỗ trợ chi phí mua bản quyển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển CNPT. Xây dựng các chế tài xã hội, tăng cường các công tác truyên truyền, giáo dục để nhà kinh doanh, người sản xuất nhận thức và tự chịu trách nhiệm trước sản phẩm mình sản xuất trước pháp luật. Nên chuyển trọng tâm công tác kiểm tra, bảo đảm chất lượng sản phẩm là trách nhiệm của người sản xuất. người cung cấp chứ không phải là của người mua hàng. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, đăng kỹ nhẵn mác hàng hoá. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế làm căn cứ cho định hướng phát triển. Ưu đãi cao cho các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và có cam kết phát triển một số doanh nghiệp nội địa phát triển hệ thống sản xuất linh phụ kiện. 3. Tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp lắp FDI và các nhà cung cấp linh phụ kiện nội địa Mối liên kết giữa doanh nghiệp lắp ráp và nhà cung cấp được hình thành và mở rộng nhờ những nỗ lực từ chính doanh nghiệp và những tác động hỗ trợ cân thiết từ phía chính phủ. Về phía doanh nghiệp: Trong thời gian tới, các doanh nghiệp trong nước có thể đẩy mạnh liên kết với các xí nghiệp đa quốc gia hơn nữa ở cả hai mặt: liên kết hàng dọc và liên kết hàng ngang. Liên kết hàng dọc là tiếp tục nỗ lực nâng cao chất lượng các bộ phận, linh kiện cho các công ty FDI, góp phần đưa nền công nghiệp xe máy tiến về phía thượng nguồn trong chuỗi giá trị. Liên kết hàng ngang là tiến hành hợp tác với các công ty đa quốc gia về nhiều mặt để sản xuất và xuất khẩu ra thị trường thế giới. Cụ thể, lúc đầu có thể sản xuất và cung cấp dưới thương hiệu của nước ngoài. Sau sẽ nâng cao dần khả năng thiết kế sản xuất và cuối cùng tiến đến giai đoạn xây dựng thương hiệu và làm chủ hoàn toàn sản phẩm công nghiệp. Kinh nghiệm của chính doanh nghiệp trong nước thành công trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xe máy Nhật Bản cho thấy. có 3 bài học thành công cơ bản để trở thành đối tác cung cấp tin cậy: Thái độ kinh doanh cần tự tin. năng động và nhạy bén trong việc tiếp cận khách hàng; doanh nghiệp cần tự đánh giá được chính xác và chân thực điểm yếu của mình; có sự cam kết về chất lượng và thời gian giao hàng. Nếu bảo đảm được ba yếu tố trên thì cho dù khả năng ban đầu của doanh nghiệp đó tương đối thấp thì các doanh nghiệp Nhật Bản cũng sẽ sẵn sàng hỗ trợ cách thức hoạt động nhằm đạt được yêu cầu sản xuất. Mối quan hệ kinh doanh do đó sẽ ổn định hơn với các đơn đặt hàng lớn hơn. Sự hỗ trợ của chính phủ về mặt vốn. thông tin…trong thời gian đầu sẽ là rất cần thiết Phía nhà nước: Củng cố và nâng cao vai trò hoạt động của các tổ chức. hiệp hội chuyên phụ trách về sự phát triển của ngành xe máy và hệ thống sản xuất phụ trợ của nó nhằm tổ chức có hiệu quả việc liên kết doanh nghiệp. Hiện nay, hiệp hội xe đạp – xe máy cần phải nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống CNPT đối với sự phát triển của ngành, từ đó có các hoạt động hỗ trợ như: tăng cường các kênh thông tin với cả doanh nghiệp lắp ráp và doanh nghiệp sản xuất linh kiện, đặc biệt là thông qua hệ thống mạng nội bộ. mạng liên ngành...; đứng ra phối hợp với các doanh nghiệp thường xuyên tổ chức và nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ, triển lãm, hội thảo về phát triển hệ thống sản xuất phụ trợ của ngành. Chính phủ cần có nguồn ngân sách để tổ chức hoặc hỗ trợ các buổi giới thiệu về nhu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp đối với các sản phẩm phụ trợ, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của các chợ công nghiệp, các cơ sở dữ liệu sản xuất hỗ trợ, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp. Tổ chức và củng cố hoạt động của một số trung tâm. Viện chuyên sâu đầu ngành để làm cầu nối giữa nghiên cứu - thiết kế - ứng dụng, giữa các công đoạn sản xuất với nhau. xây dựng các chính sách riêng để phát triển ngành, quản lý phần vốn ngân sách hỗ trợ phát triển ngành như Thái Lan đang thực hiện. Để thúc đẩy ngành tham gia vào chuỗi giá trị của ngành trong khu vực. chính phủ có thể xây dựng và ký kết các hiệp định về liên kết kinh tế với các quốc gia trong khu vực để phối hợp tận dụng năng lực sản xuất và hỗ trợ phát triển CNPT. Điều này sẽ thu hút các nhà sản xuất đến Việt Nam và mở rộng cơ hội trở thành những mắt xích sản xuất của các tập đoàn lớn cho các doanh nghiệp trong nước. 4. Mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và thúc đẩy xuất khẩu để kích thích sản xuất. Đối với các CNPT nói chung, dung lượng thị trường đủ lớn là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Xe máy là một trong số ít ngành đã tạo được mức cầu thị trường tương đối lớn cho hệ thống CNPT của nó. Để mở rộng thị trường cho các sản phẩm phụ trợ, cần phải đẩy mạnh sức tiêu thụ xe máy của các doanh nghiệp lắp ráp và thúc đẩy xuất khẩu linh kiện. Các doanh nghiệp lắp ráp cần phát triển triển mạnh hệ thống tiếp thị. phát triển hệ thống thương mại. xúc tiến đầu tư quốc tế. Ngoài việc củng cố và mở rộng những thị trường truyền thống. cần có các giải pháp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào việc phát triển thị trường trong nước và quốc tế. Hiện nay. nhu cầu xe máy ở khu vực đô thị đã dần chững lại nhưng ở khu vực nông thôn. miền núi… còn rất lớn. Các doanh nghiệp cần chuyển hướng tiếp thị và quảng bá tới các khu vực này. Thị trường nông thôn và miền núi đang có tiềm năng tiêu thụ xe máy rất lớn, đặc biệt với đoạn thị trường xe giá ở mức trung bình thấp. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xe máy nội địa nên chú ý vào khâu quảng bá, tiếp thị hình ảnh để kích thích nhu cầu của người dân. Phía chính quyền nên có sự hỗ trợ về xây dựng hệ thống giao thông đường bộ, đặc biệt là với khu vực miền núi. tạo điều kiện để người dân mua xe. Cùng với nhóm các giải pháp nâng cao thu nhập của người dân, nhà nước cũng cần có những giải pháp điều chỉnh để kích thích nhu cầu mua sắm xe máy của người dân như: đơn giản hoá thủ tục đăng ký xe máy, giải quyết vấn đề tắc nghẽn giao thông ở khu vực đô thị, cho vay tín dụng đối với cán bộ công chức nhà nước, đặc biệt là các cán bộ nhà nước công tác tại các vùng nông thôn. miền núi để mua xe. Sự tăng lên của nhu cầu xe máy tự nó sẽ mở ra thị trường cho các sản phẩm linh phụ kiện. Chính quyền các địa phương cần hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính để điều tiết dung lượng thị trường xe máy nội địa (Cấm đăng ký xe, quy định sản lượng cho cung cấp của các doanh nghiệp …) từ đó làm giảm nhu cầu sản phẩm linh phụ kiện xe máy. Nâng cao sức mua của thị trường nội địa về sản phẩm chính để phát triển sản xuất cũng chính là gián tiếp thúc đẩy phát triển CNPT. Xuất khẩu linh kiện là một trong những hướng lựa chọn cần làm đối với các doanh nghiệp sản xuất linh kiện xe máy Việt Nam. Các doanh nghiệp sản xuất linh kiện cần phấn đấu trở thành một mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nâng cao hợp tác quốc tế trong việc tìm kiếm và khai thác thị trường xuất khẩu, đặc biệt là thị trường trong khu vực. Nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm thông qua đầu tư công nghệ hiện đại, đẩy mạnh nghiên cứu và thiết kế các mẫu linh kiện phù hợp với yêu cầu của các nhà lắp ráp lớn Nhà nước hỗ trợ bằng cách tổ chức và thành lập các trung tâm tiếp thị và tìm kiếm thị trường tiêu thụ và đối tượng cung cấp sản phẩm trong và ngoài nước. làm cầu nối giữa các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước. Tăng cường công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp CNPT để làm cơ sở giới thiệu. tìm kiếm các mối liên kết ngang cho các doanh nghiệp. 5. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Lợi thế so sánh động của Việt Nam trong khu vực trong những thập kỷ tới chính là nguồn lao động có kỹ năng cao trong lĩnh vực sản xuất. Đối với hệ thống CNPT cho ngành xe máy, nguồn nhân lực ở đây được hiểu là các kỹ sư quản lý dây chuyền sản xuất. kỹ sư khuôn mẫu có nhiều kinh nghiệm và công nhân lắp ráp có trình độ cao. Hiện nay, chúng ta đang thiếu lực lượng kỹ sư có trình độ từ trung cấp đến cao cấp. Số lượng kỹ sư tốt nghiệp đại học được tuyển dụng với yêu cầu đầy đủ năng lực đáp ứng các nhu cầu về quản lý rất hạn chế, đặc biệt là ở miền Bắc. Một phần của thực trạng này chính là do việc đào tạo, thực hành khoa học kỹ thuật ở các trường đại học còn hạn chế (kỹ thuật cơ khí, điện, hoá chất…). Sự thiếu nhiệt tình trong quá trình tiếp thu kiến thức thực tế của sinh viên cũng là một trở ngại lớn. Thực trạng này chỉ ra rằng cần phải cải cách triệt để đào tạo đại học theo hai hướng, đó là phần cứng (bằng trang thiết bị) và phần mềm (chương trình đào tạo và phương thức giảng dạy) để có thể có được một đội ngũ kỹ sư có thể làm việc trong hệ thống sản xuất linh kiện. Nên thường xuyên tổ chức các khoá học liên thông giữa các trường đại học và các tổ chức học thuật (ví dụ: chương trình thực tập ngắn hạn) để sinh viên có điều kiện nâng cao kỹ năng thực hành và có thái độ đúng đắn với môi trường của một doanh nghiệp sản xuất. Xây dựng chiến lược phát triền nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo nghề. Chỉnh sửa khung chương trình đào tạo theo hướng hướng nghiệp ở các cấp học cao đẳng đại học Để có được lượng công nhân kỹ thuật đáp ứng yêu cầu, việc mở rộng các trường cao đẳng, trung cấp kỹ thuật và các trung tâm dạy nghề là hết sức cần thiết. Một ví dụ điển hình là năm 2002. tổ chức JICA – Nhật Bản đã giúp trường cao đẳng công nghiệp Hà Nội trang bị lại cơ sở đào tạo bằng việc hỗ trợ máy móc. thiết bị. đào tạo giảng viên Việt Nam, tìm kiếm đầu ra cho việc sản xuất linh phụ kiện. Những việc làm như thế nên được mở rộng thêm ở nhiều trường đại học trong cả nước để thúc đẩy trình độ kỹ thuật chung của cả nước. Để thúc đẩy chất lượng nguồn nhân lực, sự hỗ trợ từ phía nhà nước đóng vai trò quan trọng. Chính phủ nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất linh kiện và các địa phương tổ chức đào tạo nguồn nhân lực hiện có của mình bằng hình thức Nhà nước hỗ trợ 50% chi phí đào tạo theo địa chỉ. Đặc biệt khuyến khích các tổ chức nước ngoài, các doanh nghiệp FDI tham gia vào đào tạo nguồn nhân lực. Nguồn vốn đầu tư dành cho phát triển nguồn nhân lực cho ngành cũng cần được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: Từ phía người học, doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế… Chính phủ có thể cho phép sử dụng nguồn vốn ODA để phát triển các cơ sở nghiên cứu. ứng dụng, hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài. thành lập các trường đào tạo chuyên ngành của các quốc gia cung cấp ODA như đại học công nghệ, viện.,trung tâm nghiên cứu, thiết kế chuyên ngành. Thành lập quỹ đào tạo hỗ trợ cho doanh nghiệp, thành lập các viện nghiên cứu độc lập hỗ trợ các ngành CNPT nói chung. 6. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào hệ thống CNPT cho ngành. Kinh nghiệm phát triển CNPT của các quốc gia cho thấy, doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Một điều hết sức cần thiết là các doanh nghiệp này cần được ưu đãi hơn về thuế đối với các khoản tái đầu tư để giúp họ tái sản xuất mở rộng. Việc khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn là “căn bệnh kinh niên” của khu vực tư nhân cần được giải quyết bắt đầu từ chính những thay đổi từ nhận thức đến hành động từ phía chính phủ. Tạo dựng môi trường kinh doanh rõ ràng. bình đẳng thống nhất và ổn định. tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng không phân biệt các thành phần kinh tế với nhau, lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong việc hoạch định các chính sách của nhà nước. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để kích thích mạnh tới sự phát triển của hệ thống CNPT cho ngành. Xây dựng cơ chế không cho phép các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh độc quyền,giảm thiểu đến mức tối đa cơ chế “xin – cho” trong việc bố trí các dự án đầu tư, ưu đãi vay vốn và ký kết hợp đồng cung ứng theo quan hệ quen biết hiện vẫn đang diễn ra tại một số doanh nghiệp nhà nước. Tiến hành xây dựng một số tập đoàn kinh tế với nền tảng là các tổng công ty cơ khí mạnh để làm “đầu tàu” cho sự phát triển của cả hệ thống. Khuyến khích các hình thức liên doanh. liên kết giữa các doanh nghiệp để tăng năng lực sản xuất. Tập trung thực hiện các dự án phát triển hệ thống vệ tinh. thầu phụ. Kết luận Tuy hiện tại còn rất nhiều cách hiểu, quan niệm khác nhau về hệ thống CNPT nói chung. nhưng vai trò của nó đối với sự phát triển của các ngành công nghiệp chính yếu là không thể phủ nhận. Qua kết quả nghiên cứu sự phát triển của hệ thống CNPT cho ngành xe máy ở Việt Nam, có thể rút ra một số kêt luận sau: Ngành công nghiệp xe máy là ngành tương đối thành công trong việc xây dựng hệ thống nhà cung cấp cho mình so với các ngành công nghiệp lắp ráp - chế tạo khác. Với hơn 200 nhà cung cấp đang hoạt động. ngành đã đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu về linh phụ kiện. So với quá trình phát triển của một số quốc gia khác trong ngành xe máy. Việt Nam đã có những bước rút ngắn rất đáng kể trong việc tăng tỷ lệ nội địa hoá, đặc biệt điều này được thực hiện trong những điều kiện khó khăn hơn. Tuy nhiên, cũng còn rất nhiều hạn chế tồn tại trong quá trình phát triển của bản thân mỗi doanh nghiệp cũng như của toàn hệ thống như: thiếu vốn. công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh còn thấp, liên kết yếu.... Những hạn chế này xuất phát từ cả những nguyên nhân chủ quan từ phía doanh nghiệp và khách quan từ những thay đổi khách quan từ môi trường kinh doanh trong bối cảnh hội nhập. Trong thời gian tới, nhu cầu về sản phẩm xe máy cũng như linh kiện xe máy sẽ vẫn tiếp tục được mở rộng cả thị trường nội địa và khả năng xuất khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng cần phải thay đổi cách thức tổ chức sản xuất và kinh doanh để có thể nắm bắt được những cơ hội mới. để có thể trở thành những nhà cung cấp đáng tin cậy cho các doanh nghiệp, tập đoàn lắp ráp lớn. Sự trợ giúp về vốn, công nghệ, kỹ thuật và thông tin từ phía chính phủ là hết sức cần thiết cho sự phát triển của hệ thống CNPT của ngành trong giai đoạn đầu. Sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường cùng với những tiềm năng phát triển trong tương lai của công nghiệp xe máy Việt Nam đã và đang thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục bỏ vốn đầu tư vào hệ thống CNPT cho ngành xe máy. Nhiều doanh nghiệp lắp ráp xe máy FDI đã có những mục tiêu và dự án cụ thể: “trở thành nhà cung cấp phụ tùng xe máy của khu vực”. do đó đã không ngừng mở rộng quy mô vốn đầu tư và tìm kiếm các đối tác trong nước. Đây là cơ hội lớn để các nhà cung cấp nội địa cần nắm bắt để có thể trở thành đối tác của họ. từ đó nâng cao được năng lực sản xuất của mình. Hi vọng rằng sự đầu tư mạnh mẽ của khu vực FDI. cùng với những nỗ lực thật sự của các doanh nghiệp trong nước sẽ giúp cho mục tiêu “Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt Nam trở thành một trong những ngành sản xuất và xuất khẩu xe máy, linh kiện và phụ tùng mạnh của khu vực” sẽ được hiện thực hoá một cách nhanh chóng. Tài liệu tham khảo GS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Phùng- Khoa Kế hoạch và phát triển - Đại học Kinh tế quôc dân. “Giáo trình Kinh tế phát triển” DAVID A. AAKER – “Triển khai chiến lược kinh doanh” Kenichi Ohno. Nguyễn Văn Thường - Diễn đàn phát triển Việt Nam “Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam” Diễn đàn phát triển Việt Nam. “ CNPT Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản. Bộ Công nghiệp - Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách Công nghiệp. “ Dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển các ngành CNPT đến năm 2010. tầm nhìn 2020” Bộ Công nghiệp - Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách Công nghiệp. “Dự thảo quy hoạch tổng thể công nghiệp xe máy giai đoạnh 2006 – 2015. có xét đến năm 2020” Bộ kế hoạch và đầu tư. “ Chiến lược phát triển công nghiệp xe máy đến năm 2015. tầm nhìn 2020” Nguyễn Thuý – Diễn đàn phát triển Việt Nam . “ CNPT. khái niệm và sự phát triển” Kenichi Ohno - Diễn đàn phát triển Việt Nam- Báo cáo điều tra. “ Xây dựng và tăng cường ngành CNPT tại Việt Nam” Diễn đàn phát triển Việt Nam. “ Tóm tắt kết quả điều tra năng lực của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam – tháng 9/2003” Trần Văn Thọ - Giảng viên đại học WASEDA – Tokyo. “Quá trình CNH ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Đông Ấ” Tạp chí công nghiệp Việt Nam. số 9 (năm 2007), số 37, số 48, số 31 (năm 2006). www.vdf.org.vn www.home.vnn.vn www.vnexpress.vn www.mpi.gov.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0079.doc