Giải pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp vừa & nhỏ vay vốn tại Ngân hàng thương mại

Lời mở đầu "Có bột mới gột nên hồ". Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vốn cũng là điều kiện tiên quyết để bảo đảm tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục và có hiệu quả. Vốn thể hiện tiềm lực sức mạnh tài chính của doanh nghiệp trên thương trường, vốn của một doanh nghiệp càng lớn thì doanh nghiệp đó càng được nhiều người biết đến và tin tưởng kiến tạo nên sức cạnh tranh to lớn mà không ai có thể phủ nhận được. Với DNVVN vốn càng có ý nghĩa hơn, đặc biệt là nguồn vốn vay ngân hàng.

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp vừa & nhỏ vay vốn tại Ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DNVVN vốn năng động, linh hoạt và có vai trò quan trọng trong quá trình tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên DNVVN lợi thế thì ít mà bất lợi thì nhiều thể hiện ở quy mô vốn tự có nhỏ bé, công nghệ thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và tay nghề đội ngũ lao động còn nhiều hạn chế. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách khuyến khích, hỗ trợ DNVVN về mọi mặt như hỗ trợ tài chính, thông tin, đào tạo, xây dựng các trung tâm tư vấn... Song để các DNVVN phát triển và phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế thì rất cần sự trợ giúp về mọi mặt của Nhà nước, của nhiều ngành, nhiều cấp đặc biệt là sự hỗ trợ DNVVN tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Hiện nay các DNVVN đang đứng trước một vấn đề nan giải là khó tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng. Do đó làm thế nào để các DNVVN tiếp cận được với vốn vay đang là đòi hỏi bức xúc trong thực tiễn. Nhằm góp phần đáp ứng đòi hỏi đó và được sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của Cô giáo TS Lưu Thị Hương, em đã chọn đề tài: "Giải pháp tăng cường hỗ trợ DNVVN vay vốn tại ngân hàng thương mại" Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Hỗ trợ DNVVN vay vốn tại ngân hàng thương mại- Những vấn đề cơ bản Chương 2: Thực trạng hoạt động hỗ trợ DNVVN vay vốn NHTM Chương 3: Giải pháp tăng cường hỗ trợ DNVVN vay vốn tại NHTM. Chương 1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ với hoạt động vay vốn tại ngân hàng thương mại 1.1. Tổng quan về DNVVN 1.1.1. Khái niệm DNVVN, tiêu chí phân loại Câu hỏi đầu tiên được đặt ra khi nghiên cứu vấn đề này là: Thế nào là DNVVN ? Việc nghiên cứu những tiêu chuẩn này vốn đã cần thiết lại càng trở nên quan trọng hơn do có sự khác biệt khá lớn về tiêu chuẩn DNVVN giữa nước này với nước khác. Nếu không có tiêu chuẩn rõ ràng chính xác về DNVVN thì không thể theo dõi được tình hình, đánh giá được chất lượng hoạch định và hiệu quả thực hiện chính sách đối với DNVVN, hiểu và phân tích được số liệu thống kê về kết quả hoạt động của các DNVVN. Vì vậy hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNVVN. Tuy nhiên không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNVVN cho tất cả các nước và ngay trong một nước việc phân loại cũng có sự khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, ngành nghề, địa bàn. Có hai nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ: ỉ Tiêu chí định tính ỉ Tiêu chí định lượng Tiêu chí định tính: Tiêu chí này dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNVVN như trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít... Sử dụng các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó các tiêu chí này chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại. Tiêu chí định lượng: Có thể sử dụng các tiêu thức như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế. Tài sản hoặc vốn có thể dùng giá trị tổng tài sản (hay vốn), tài sản cố định, giá trị tài sản còn lại. Doanh thu có thể là tổng doanh thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng trong một năm. ở các nước tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại DNVVN qua điều tra ở 12 nước và khu vực thuộc APEC. Trong các nước này tiêu chí số lao động được sử dụng phổ biến nhất (11/12 nước sử dụng chiếm 91,67%). Các tiêu chí khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước: vốn đầu tư (3/12 chiếm 25%), tổng giá trị tài sản (4/12 chiếm 33,33%), doanh thu (4/12 chiếm 33,33%) và tỷ lệ vốn góp (1/12 chiếm 8,33%). Số lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba tiêu chí phân loại. Bảng 1.1: tiêu chí phân loại DNVVN trên thế giới Nước Tiêu chí phân loại Australia Số lao động Canada Số lao động; Doanh thu Hong Kong Số lao động Indonesia Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Nhật Bản Số lao động; Vốn đầu tư Malaysia Doanh thu; Tỷ lệ vốn góp Mexico Số lao động Philippines Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Singapore Số lao động; Tổng giá trị tài sản Đài loan Vốn đầu tư; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Thái Lan Số lao động; Vốn đầu tư Mỹ Số lao động (Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư) Sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối do quá trình phân loại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: / Trình độ phát triển kinh tế của một nước Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy ở một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Rõ ràng là ở các nước phát triển, môi trường sống, thu nhập cũng như trình độ của người dân cao hơn hẳn so với các nước khác nên các quan niệm, yêu cầu đặt ra cho nền kinh tế chắc chắn sẽ cao hơn. Ví dụ như ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là DNVVN còn doanh nghiệp có tiêu chí như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiệp lớn. ở Mỹ doanh nghiệp có 500 lao động là DNVVN trong khi đó ở Hồng Kông với tiêu chí này doanh nghiệp đó lại được coi là doanh nghiệp lớn. / Tính chất ngành nghề Do đặc điểm của từng ngành nghề nên có ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, lại có ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động như hoá chất, điện. Chính vì vậy cần tính đến nhân tố này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại DNVVN giữa các ngành khác nhau. Thực tế nhiều nước cho thấy người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Thường là các ngành sản xuất có tiêu chí cao hơn còn các ngành dịch vụ có tiêu chí thấp hơn. Ngoài ra có thể dùng khái niệm hệ số ngành Ib để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau. / Vùng lãnh thổ Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. ở thành phố một doanh nghiệp được cho là quy mô nhỏ nhưng nó là lớn đối với các vùng núi, nông thôn. Vì vậy cần tính đến cả hệ số vùng Ia để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau. / Tính chất lịch sử Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc trong tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Lấy ví dụ đơn cử như ở Việt Nam trước năm 1986 doanh nghiệp có quy mô từ 100 lao động trở lên là doanh nghiệp lớn nhưng hiện nay các doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người thì là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó thấy rằng trong việc xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung bình Id. Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác nhau. / Mục đích phân loại Khái niệm DNVVN sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích. Nếu mục đích phân loại là để hỗ trợ các doanh nghiệp yếu mới ra đời sẽ khác với mục đích là để giảm thuế cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại không gây ô nhiễm môi trường. Như vậy để xác định quy mô DNVVN của một nước trước hết cần xác định quy mô trung bình chung sau đó xác định các hệ số Ia, Ib, Id. Qua việc phân tích, đánh giá các tiêu chí phân loại DNVVN ở một số nước, ta thấy rằng để xác định tiêu chí phân loại DNVVN ở Việt Nam một cách phù hợp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và tính đến các yếu tố tác động đến việc phân loại như đã trình bày ở trên. Về tiêu chí phân loại: Phân loại DNVVN chủ yếu theo hai tiêu chí là lao động thường xuyên và vốn sản xuất vì chúng có tính phổ dụng, tính khả thi và tính chuẩn xác. + Tính phổ dụng: tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về hai tiêu thức này. + Tính khả thi: có thể xác định được hai tiêu chí này ở mọi cấp độ (toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp). + Tính chuẩn xác: đây là hai tiêu chí có thể xác định tương đối chính xác trị số của chúng trong điều kiện Việt Nam. Về trị số các tiêu chí: Ngày 20/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định DNVVN, đó là các doanh nghiệp có vốn pháp định tối đa 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Thế nhưng qua quá trình khảo sát điều tra các doanh nghiệp, Chính phủ thấy rằng hai tiêu chí này chưa có sự tương thích với nhau. Vì vậy ngày 23/11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP quy định DNVVN là những doanh nghiệp có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Về lĩnh vực ngành: Cần phân biệt hai lĩnh vực chính là sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ. Tuy nhiên việc phân loại theo hai nhóm ngành này là quá rộng vì trong các ngành sản xuất công nghiệp thì tính chất và mức độ sử dụng vốn, lao động và doanh thu rất khác nhau. Để đạt tới mức chuẩn xác hơn cần phân loại theo ngành hẹp hơn dựa trên đặc tính sử dụng lao động, vốn của các ngành và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở những phân tích trên có thể đi đến ước lượng tiêu chí để phân loại DNVVN như sau: Tiêu chí Công nghiệp Thương mại, dịch vụ Doanh nghiệp vừa và nhỏ Trong đó: Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa và nhỏ Trong đó: Doanh nghiệp nhỏ Vốn sản xuất ( đồng Việt Nam ) Dưới 10 tỷ <3 tỷ Dưới 5 tỷ <2 tỷ Lao động thường xuyên ( người ) Dưới 300 <100 <200 <50 Từ tiêu chí phân loại về DNVVN mà ta có thể đưa ra khái niệm một cách chuẩn xác. Ngày 23/11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP định nghĩa DNVVN như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo định nghĩa này DNVVN bao gồm những doanh nghiệp sau: - Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. - Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã. - Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 2 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. 1.1.2. Đặc điểm của DNVVN Bất kỳ một nước nào cũng đều có DNVVN và muốn phát triển các doanh nghiệp này càng ngày càng lớn mạnh. Muốn thế họ cần nắm được đặc điểm của DNVVN. Đặc điểm DNVVN bao gồm cả điểm mạnh và điểm yếu. Những điểm mạnh của DNVVN: - Dễ khởi nghiệp, lúc ban đầu không đòi hỏi gì nhiều về mọi mặt. Các doanh nghiệp lớn hiện nay cũng thường bắt đầu từ DNVVN . - Các DNVVN năng động linh hoạt nên dễ thích ứng thậm chí còn đón đầu những biến chuyển của công nghệ quản lý, những dao động từng lúc hoặc cơ bản lâu dài của thị trường, những thay đổi có khi đột ngột của môi trường thể chế, chế độ kinh tế xã hội - Đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa phương và cơ sở, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. - Tạo ra những hiệu ứng tích cực và giảm bớt được những hiệu ứng tiêu cực so với các doanh nghiệp lớn. - Thuận lợi để kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, thể hiện trong kinh tế bản sắc văn hoá dân tộc và những nét riêng ưu trội của địa phương. - Là sự bổ sung thiết yếu cho chính sự sinh tồn và phát triển các doanh nghiệp lớn. Về nghiên cứu triển khai, DNVVN là nơi thử nghiệm những đổi mới phát minh sáng chế. Về sản xuất là người đảm nhiệm có hiệu quả cao những công đoạn cả ở phần đầu, phần giữa và phần cuối của quá trình chế tác mà doanh nghiệp lớn không cần làm. Về dịch vụ DNVVN có khả năng cung ứng tốt nhiều dịch vụ do có ưu thế trong việc tiếp xúc với khách hàng. Về thương mại DNVVN có tính cơ động nhanh nhạy thâm nhập vào những thị trường tốt và rút khỏi những thị trường không có tiềm năng. Những điểm yếu của DNVVN - Thiếu nguồn lực để tiến hành những công trình nghiên cứu lớn đáp ứng yêu cầu và tận dụng khả năng của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là vốn. - Không đủ sức thực hiện những dự án lớn về đầu tư chuyển đổi cơ cấu, về tiếp thị quảng cáo, về đào tạo.. để theo kịp, thúc đẩy và tận thu lợi ích của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. - DNVVN thường "lép vế " trong các mối quan hệ (với Nhà nước, với thị trường, ngân hàng, các trung tâm khoa học, với giới báo chí...). Hơn nữa các DNVVN thường phải dựa vào các doanh nghiệp lớn để tồn tại và phát triển. - Thiếu sức phòng, tránh và chống các rủi ro. Càng có nhiều DNVVN ra đời thì cũng có nhiều DNVVN phá sản. - Dù dược công nhận là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển song DNVVN rất khó tự tập hợp hoặc được tập hợp thành lực lượng thống nhất và đủ mạnh để có vị thế chi phối về kinh tế, xã hội và chính trị. 1.1.3. Nguồn vốn phát triển DNVVN Vốn tự có Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh doanh và mọi thành phần kinh tế muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải có vốn tự có (VTC). Đối với DNNN, vốn tự có là giá trị thực có của vốn điều lệ do nhà nước quy định và được ngân sách nhà nước cấp phát. Đối với công ty cổ phần, VTC hình thành từ vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, VTC là vốn riêng của chủ doanh nghiệp. Như vậy VTC là một bộ phận vốn quan trọng thể hiện hình thức tiền tệ nằm trong tổng vốn hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp thường được chia làm hai phần: một phần nộp NSNN hoặc để trả lãi cổ phần (nếu là công ty cổ phần) và một phần đưa vào dự trữ để tăng vốn tự có. VTC càng lớn, doanh nghiệp càng giảm được chi phí đầu vào mà vẫn mở rộng được sản xuất kinh doanh. Ngược lại VTC càng ít thì rủi ro trong kinh doanh càng lớn, chi phí phải trả vốn đi vay làm giảm một phần quan trọng thu nhập của doanh nghiệp. VTC của các DNVVN thường được tạo ra từ vốn riêng của chủ doanh nghiệp, vốn đóng góp của các cổ đông, bạn bè, họ hàng, của các xã viên....Nguồn vốn này chỉ chiếm khoảng 5-10% vốn luân chuyển của doanh nghiệp, đây là một bất lợi cho DNVVN. Các DNVVN cần phải tìm cách tăng lợi nhuận từ đó làm cho tỷ trọng VTC trong nguồn vốn của doanh nghiệp được nâng lên một bước đáng kể. Nguồn vốn chính thức Nguồn vốn này bao gồm vốn vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, vốn do NSNN cấp phát, vốn vay ưu đãi, viện trợ của Quỹ hỗ trợ phát triển, của các tổ chức phi Chính phủ. Nói chung các DNVVN rất khó tiếp cận với các nguồn vốn chính thức này. Về nguồn vốn vay ngân hàng, các DNVVN chủ yếu chỉ được vay vốn ngắn hạn, vay trung và dài hạn đòi hỏi các điều kiện rất chặt chẽ mà các DNVVN chưa đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng như không có đủ các giấy tờ pháp lý của các bất động sản đem thế chấp, chưa đủ sức lập các phương án kinh doanh có hiệu quả, doanh thu không cao...Các DNVVN cũng có rất ít cơ hội được ngân sách nhà nước cấp phát do quy mô nhỏ không đủ năng lực để đầu tư vào những lĩnh vực trọng điểm của nhà nước. Hơn nữa các nguồn vốn vay ưu đãi viện trợ của các tổ chức quốc tế như ILO, UNIDO, ZDH, Viện Friedrich erbert...tuy đã phần nào cải thiện nguồn vốn cho DNVVN song chỉ những doanh nghiệp có đủ điều kiện vay vốn như vốn điều lệ tối thiểu, phương án khả thi, sự cam kết thực hiện hợp đồng của chủ doanh nghiệp.... thì mới được vay hoặc viện trợ. Vì vậy thiếu vốn đang là một trở ngại lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN. Nguồn vốn phi chính thức Trước tình hình thiếu vốn nghiêm trọng này, các DNVVN phải dựa vào nguồn vốn phi chính thức là chủ yếu. Theo Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 75% doanh nghiệp Việt Nam có vốn dưới 50 triệu đồng, chỉ có khoảng 1/3 số doanh nghiệp nhỏ vay được vốn trong đó 20% là vốn vay ngân hàng còn lại 80% là từ nguồn vốn phi chính thức. Nguồn vốn phi chính thức được tìm kiếm từ cho vay nặng lãi, vay người thân, bạn bè....với lãi suất khá cao chủ yếu là vay nóng song các chủ doanh nghiệp vẫn chấp nhận do nhu cầu cấp bách về vốn. Ngoài ra các doanh nghiệp còn có thể chiếm dụng vốn của nhau qua hình thức mua chịu. Tuy nhiên phạm vi và quy mô nguồn vốn này không lớn lắm. Chi phí cho nguồn vốn tín dụng phi chính thức của DNVVN rất cao song cũng không thể phủ nhận được vai trò của nguồn vốn này trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN nhất là trong điều kiện hiện nay khi các DNVVN không có khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức. Do đó có thể thấy rằng các DNVVN đang rất cần vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá công nghệ thiết bị. Trước tình hình này, Nhà nước cần đưa ra những chính sách, biện pháp hỗ trợ nhằm tăng năng lực tài chính cho DNVVN. Bởi các DNVVN là "xương sống" của nền kinh tế, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. 1.1.4. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế Trên khắp thế giới người ta đã thừa nhận rằng khu vực DNVVN đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước và vai trò đó được thể hiện khác nhau ở mỗi nước. Đối với các nước công nghiệp phát triển như Đức, Nhật, Mỹ... mặc dầu có nhiều công ty lớn nhưng DNVVN vẫn có vai trò hết sức quan trọng. ở Nhật Bản người ta coi DNVVN là một nguồn lực đảm bảo cho sức sống của nền kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển thì ngoài vai trò là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế, DNVVN còn có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá đất nước, xoá đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề xã hội. Đối với các nước ở châu á như Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philippines, DNVVN còn có vai trò tích cực trong việc chống đỡ các tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, góp phần đáng kể vào sự ổn định kinh tế xã hội và từng bước khôi phục nền kinh tế. ở Việt Nam, DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, huy động nguồn vốn trong nước, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hơn thế nữa các DNVVN chiếm một tỷ lệ áp đảo trong tất cả các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo tiêu chí phân loại dựa vào tổng giá trị vốn thì DNVVN chiếm tỷ lệ 95,6% trong tổng số các loại hình doanh nghiệp; chiếm khoảng 99% trong tổng số các doanh nghiệp tư nhân; chiếm 97,38% trong tổng số các hợp tác xã; chiếm 94,72% trong tổng số các công ty TNHH; chiếm 42,37% trong tổng số các công ty cổ phần và 65,88% trong tổng số các DNNN. Vai trò của DNVVN được thể hiện qua các nội dung sau: Tạo việc làm cho người lao động Đây là một thế mạnh rõ rệt của DNVVN và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNVVN ở nước ta hiện nay. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2000 cả nước có tới 1.447.000 người trong độ tuổi lao động không có việc làm trong đó khu vực thành thị có 692.000 người chiếm 48%, còn khu vực nông thôn chiếm 52%. Theo dự báo từ nay đến năm 2010, dân số có thể tăng chậm lại nhưng nguồn lao động vẫn tăng nhanh liên tục đòi hỏi giải quyết việc làm hết sức khẩn trương. Khu vực DNVVN thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước nhưng triển vọng thu hút thêm lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong một doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty TNHH là 45 triệu đồng trong khi đó lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại DNNN là 87,5 triệu đồng. Các DNVVN đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động đặc biệt là số lao động ở nông thôn tăng lên mỗi năm đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh nghiệp nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai. Đóng góp to lớn vào quá trình tăng trưởng kinh tế Mỗi năm DNVVN đóng góp khoảng 25-26% GDP của cả nước. Theo ước tính toàn bộ khu vực DNVVN tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng luân chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản lượng hàng hoá của một số ngành nghề như đồ mộc, sành sứ, chiếu cói, mây tre đan, giày dép, thủ công mỹ nghệ. Xét về tương quan giữa giá trị tài sản cố định với doanh thu để xem xét hiệu quả sử dụng đồng vốn ta thấy chỉ tiêu này ở DNVVN đang rất khả quan: để tạo ra 1 đồng doanh thu, các DNNN thuộc trung ương quản lý phải đầu tư 0,562 đồng vốn cố định trong khi đó các DNNN do địa phương quản lý chỉ đầu tư 0,220 đồng (chiếm 39%); hợp tác xã 0,298 đồng (53%); doanh nghiệp tư nhân 0,197 đồng (35%); công ty TNHH 0,188 đồng (33%). Các DNVVN nước ta thời gian gần đây rất chú trọng phát triển đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, khơi dậy các làng nghề. Hiện nay cả nước có khoảng 1.400 làng nghề trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống có từ hàng trăm năm nay. Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc trưng của từng địa phương đã nổi tiếng trong cả nước, một số đã được xuất khẩu và được nước ngoài đánh giá cao như lụa Vạn Phúc, khảm trai Bắc Ninh, đúc đồng Ngũ Xã....tạo một nguồn doanh thu lớn cho các làng nghề, tăng thu nhập cho người dân địa phương. Đồng thời việc gìn giữ những sản phẩm độc đáo, củng cố và phát triển các DNVVN trong những ngành nghề truyền thống là phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc trong tăng trưởng kinh tế. Góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Sự phát triển DNVVN đã tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế: từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng hình thành một xã hội văn minh hiện đại. Mấy năm trở lại đây bộ mặt kinh tế xã hội của nhiều vùng đã có thay đổi: nhiều thị trấn thị tứ đông đúc, nhộn nhịp hơn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành đi đôi với giao thông nông thôn phát triển, đường dẫn điện toả ra nhiều vùng nông thôn. Kết quả này có được là nhờ sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho công nghiệp phát triển mạnh và còn thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ phát triển. Hơn nữa sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút những người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút một số lượng lớn lao động thời vụ trong các thời kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực lượng lao động làm nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn sống ngay tại quê hương bản quán, thực hiện được phương châm “ly nông bất ly hương”. ở thành thị, DNVVN góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp dịch vụ và thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Vì vậy có thể nói sự phát triển của DNVVN đã đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nưóc. DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách, bản làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều nên các DNVVN có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi nằm rải rác trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh góp phần khắc phục một nghịch lý trong nhiều năm là các doanh nghiệp thì thiếu vốn đầu tư trong khi lượng vốn trong dân còn nhiều khả năng tiềm ẩn chưa được khai thác. Mặc dù lượng vốn thu hút vào từng doanh nghiệp không lớn nhưng nhờ số lượng DNVVN đông nên toàn bộ vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh ngày càng tăng hạn chế tiêu dùng không sinh lợi. Các DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Với lợi thế của quy mô nhỏ là yêu cầu vốn ít, năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh, DNVVN có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn. Nghĩa là hàng hoá rất đa dạng phong phú với nhiều mẫu mã, nhiều loại giá, người tiêu dùng tha hồ chọn lựa sao cho phù hợp. Đối với doanh nghiệp lớn, DNVVN có thể làm đại lý, vệ tinh tiêu thụ hàng hoá hoặc cung cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn do đó góp phần hạ giá thành nâng cao hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp lớn. Cuối cùng, DNVVN là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là nơi cho các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh doanh cũng như thể hiện tài năng của họ. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua công việc điều hành quản lý, các nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn, tài ba tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp này sẽ ngày càng phát triển trở thành những doanh nghiệp lớn trong tương lai. Vì vậy có thể khẳng định các tài năng kinh doanh sẽ được ươm mầm trong các DNVVN. Tóm lại, DNVVN giữ một vị thế quan trọng trong nền kinh tế. Nó là động lực cho nền kinh tế phát triển. Chính phủ cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của DNVVN trong các Nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 và đưa ra những hình thức hỗ trợ rất thiết thực cho DNVVN đặc biệt là giúp đỡ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng thương mại. 1.2. hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại đối với DNVVN 1.2.1. Tầm quan trọng của vốn vay ngân hàng đối với DNVVN Như trên đã trình bày, VTC của DNVVN rất nhỏ bé. Vì thế để đảm bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục ổn định, DNVVN phải dựa vào nguồn vốn vay là chủ yếu trong đó có vốn vay ngân hàng. Vai trò của vốn tín dụng ngân hàng (TDNH) được thể hiện rõ nét như sau: Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển các DNVVN. Trong nền kinh tế thị trường, ai cũng muốn đồng vốn của mình phải sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để lấy lãi còn những nhà doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, mua nguyên vật liệu mà không có tiền rất cần vay để thực hiện các mục đích trên và cũng vì mục đích sinh lợi của vốn. Để giải quyết mâu thuẫn đó, ngân hàng thông qua quan hệ tín dụng thu hút những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và mang cho các nhà doanh nghiệp đang cần vốn vay. Do đó TDNH đã tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp muốn thành lập công ty hoặc mở rộng sản xuất có thể vay vốn để thực hiện. Hơn nữa, nguồn vốn tự có của các DNVVN là rất bé chỉ chiếm khoảng 5-10% vốn luân chuyển, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động mở rộng sản xuất, quy mô, đổi mới nâng cấp chất lượng thiết bị công nghệ, sản phẩm. Trong khi đó thị trường vốn dài hạn và thị trường chứng khoán cho DNVVN chưa có, như vậy DNVVN phải dựa vào vốn vay ngân hàng từ 85-90% để tồn tại và phát triển sản xuất. Thứ hai, TDNH tác động vào xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh của các DNVVN theo chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và chiến lược CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nhà nước ta đang đẩy nhanh tiến độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế thiên về công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, để mở rộng các ngành nghề này và thu hẹp một số ngành khác tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, nhà nước cần sử dụng một số công cụ điều tiết vĩ mô trong đó phải kể đến tín dụng ngân hàng. Những doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề, những vùng mà Chính phủ khuyến khích phát triển thì các NHTM sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp như nới lỏng hạn mức tín dụng, lãi suất cho vay ưu đãi hơn các doanh nghiệp khác, đơn giản thủ tục vay vốn, điều kiện vay vốn cũng được nới lỏng hơn. Các doanh nghiệp muốn được hưởng ưu đãi sẽ đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề đó góp phần đẩy nhanh, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ ba, với tư cách là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, TDNH trở thành động lực kích thích các tổ chức kinh tế và dân cư trong nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ. Mặt khác TDNH còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các doanh nghiệp mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C. Như vậy nguồn vốn trong nước và nước ngoài đầu tư cho doanh nghiệp chủ yếu được thu hút qua kênh TDNH. Hay có thể nói TDNH trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất giúp các DNVVN thực hiện tái sản xuất mở rộng, tăng cường ứng dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Thứ tư, TDNH góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng vốn của DNVVN. Ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “vay để cho vay”, “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn lẫn lãi” nên một doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng phải tính đến khả năng trả nợ ngân hàng, nếu quá hạn doanh nghiệp phải chịu lãi suất cao hơn. Muốn thế doanh nghiệp phải sử dụng đồng vốn vay một cách có hiệu quả tức là phải tạo ra một lượng lớn hơn khoản tiền vay ban đầu. Tất nhiên, nếu doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng buộc phải khoanh nợ và có thể là bỏ qua. Song làm như thế các doanh nghiệp sẽ bị giảm uy tín lần sau khó có thể vay được vốn từ ngân hàng và hậu quả là không mở rộng sản xuất kinh doanh được, làm ăn thua lỗ dẫn tới giải thể hoặc phá sản . Thứ năm, TDNH tạo ra một hệ thống thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra một cách đồng bộ cho các DNVVN. Các DNVVN có vốn lưu động rất nhỏ so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh chủ yếu được bù đắp bằng vốn TDNH (thị trường các yếu tố đầu vào). Mặt khác TDNH cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua cho vay tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá (thị trường các yếu tố đầu ra). Thông thường ngân hàng chỉ cho các doanh nghiệp vay vốn làm kinh tế song để trợ giúp DNVVN tiêu thụ sản phẩm, ngân hàng hiện đang mở rộng cho vay tiêu dùng để người dân có điều kiện mua sắm nhiều hơn, góp phần tạo ra sự cân bằng cung-cầu cho nền kinh tế. Thứ sáu, TDNH góp phần quan trọng thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của toàn bộ nền KTQD, của từng địa phương, từng vùng, từng ngành kinh tế. Các chương trình này không nằm ngoài mục đích giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, khơi dậy các tiềm năng kinh tế địa phương, phát huy và làm sống lại nhiều ngành nghề truyền thống. Công cụ chủ yếu để thực h._.iện các mục đích trên là lãi suất. Hiện nay ở nước ta có một ngân hàng chính sách duy nhất là ngân hàng phục vụ người nghèo. Tại đây người nghèo được vay vốn làm ăn với lãi suất ưu đãi và thời hạn dài hơn tạo cơ hội tăng thu nhập cải thiện đời sống cho người dân, giảm bớt sự cách biệt giữa người giầu, người nghèo. TDNH còn làm sống lại các làng nghề truyền thống qua việc xoá bỏ sự phân biệt lãi suất cho vay giữa doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay ưu đãi đối với các làng nghề truyền thống. Do vậy TDNH là công cụ hữu ích để phát triển kinh tế. 1.2.2. Hình thức cho vay của ngân hàng đối với DNVVN Theo nguyên lý kế hoạch hoá tín dụng của nước ta, các NHTM đã xây dựng được một số phương thức cho vay khá khoa học. Có 2 phương thức cho vay chủ yếu là cho vay theo số dư và cho vay luân chuyển. Cho vay luân chuyển là phương thức cho vay tiên tiến nhất vì vốn của ngân hàng luôn tiếp cận kịp thời quá trình chu chuyển của đối tượng cho vay, chúng hầu như vận hành song song xuyên suốt từ đầu đến cuối, cùng khởi hành và cùng kết thúc chu kỳ với đối tượng cho vay. Còn cho vay theo số dư là phương thức cho vay mà vốn tín dụng không nhất thiết phải tiếp cận và luân chuyển song song với đối tượng cho vay. Dựa trên hai phương thức cho vay chủ yếu này các ngân hàng đã đa dạng hoá thành 7 hình thức cho vay như sau: / Cho vay từng lần: Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên thì ngân hàng áp dụng phương thức cho vay từng lần. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn theo quy định của ngân hàng. Sau khi ngân hàng thẩm định, nếu chấp thuận cho vay thì ngân hàng cùng doanh nghiệp ký hợp đồng tín dụng theo mẫu có sẵn. Việc thẩm định xét duyệt cho vay, quản lý giám sát tình hình sử dụng vốn vay và thu hồi nợ được thực hiện theo từng hợp đồng tín dụng. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp có thể rút vốn một lần hoặc nhiều lần phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp nhưng tổng số tiền các lần rút vốn không được vượt quá số tiền ghi trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng chủ yếu cho các DNVVN bởi tính đơn giản dễ áp dụng của nó song mỗi lần vay vốn doanh nghiệp lại phải tiến hành các thủ tục cho vay như trước rất tốn thời gian và tiền bạc. / Cho vay theo hạn mức tín dụng: Hình thức cho vay này được áp dụng đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có tín nhiệm với ngân hàng. Căn cứ nhu cầu vay vốn theo hạn mức của doanh nghiệp, trị giá tài sản cầm cố, thế chấp, ngân hàng cùng doanh nghiệp xác định hạn mức tín dụng. Sau khi hợp đồng tín dụng theo hạn mức đã có hiệu lực, mỗi lần rút vốn vay doanh nghiệp không phải ký hợp đồng tín dụng mà lập giấy nhận nợ kèm bảng kê cùng bản sao các chứng từ tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng tín dụng, doanh nghiệp có thể vừa rút vốn vay vừa trả nợ tiền vay nhưng số dư nợ tiền vay trên tài khoản tiền vay không được vượt hạn mức tín dụng. Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được ổn định, trước khi hết thời hạn rút vốn theo hợp đồng tín dụng doanh nghiệp có thể căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh kỳ tới đưa ra mức vốn cần vay và cùng thoả thuận với ngân hàng để xác định một hạn mức tín dụng mới. Với hình thức cho vay này doanh nghiệp phải gửi báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh theo định kỳ để các cán bộ tín dụng của ngân hàng thực hiện kiểm tra đảm bảo nợ vay bằng phương pháp tính toán cân đối vật tư đảm bảo nợ vay. / Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, cơ sở hạ tầng, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống. Với hình thức cho vay này, ngoài những điều kiện đã trình bày ở trên doanh nghiệp cần có thêm các điều kiện sau: - Sao gửi các tài liệu liên quan đến dự án đầu tư. - Bên vay phải có vốn chủ sở hữu tham gia dự án. Vốn tham gia có thể là tiền hoặc tài sản đưa vào xây dựng dự án kể cả giá trị quyền sử dụng đất, tiền thuê đất đã trả, các chi phí mà doanh nghiệp đã tự đầu tư vào dự án. Vốn tham gia của chủ đầu tư phải được đưa vào công trình trước, ngân hàng cho vay sau hoặc cùng tham gia theo tỷ lệ. - Gửi các tài liệu, báo cáo định kỳ hoặc đột xuất cho ngân hàng để kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay. / Cho vay hợp vốn: Đây là hình thức nhiều ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác cùng cho một đối tượng vay vốn và do một ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp. Hình thức này mới được áp dụng ở Việt Nam và đã tỏ ra khá hữu hiệu. Cho vay hợp vốn khi nhu cầu vay vốn của một doanh nghiệp quá lớn mà một ngân hàng không thể đáp ứng nổi dù rằng ngân hàng thẩm định thấy dự án hoặc phương án này là khả thi. Kết quả là ngân hàng sẽ tìm thêm các đối tác khác để cùng tiến hành cho vay trên cơ sở các bên cùng có lợi. / Cho vay trả góp: Theo hình thức này ngân hàng cùng khách hàng xác định và thoả thuận số tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Cho vay trả góp thường áp dụng với những doanh nghiệp quy mô nhỏ vốn ít, hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. / Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho doanh nghiệp vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định và trong một khoảng thời gian xác định để tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động thu xếp các nguồn vốn cần thiết thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh. áp dụng hình thức này doanh nghiệp phải trả phí cam kết cho ngân hàng. Trong thời hạn hiệu lực rút vốn của hợp đồng, nếu doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn vay thì mỗi lần rút vốn phải lập giấy nhận nợ theo mẫu và kèm bảng kê cùng bản sao các chứng từ, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay phù hợp với hợp đồng đã ký. Tuy nhiên tống số tiền các lần rút vốn vay cộng lại không được vượt quá hạn mức tín dụng dự phòng và thời hạn cho vay trong giấy nhận nợ không được dài hơn thời gian cho vay quy định trong hợp đồng hạn mức tín dụng dự phòng. / Các hình thức cho vay khác: Ngoài những hình thức cho vay cơ bản trên ngân hàng còn có thể cho doanh nghiệp vay theo một số hình thức khác tuỳ vào sự thoả thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp như phương thức cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, phương thức cho vay chiết khấu, phương thức cho vay theo hạn mức thấu chi... Trong các hình thức cho vay trên thì ngân hàng cho DNVVN vay vốn chủ yếu theo hình thức cho vay từng lần vì nó đơn giản và hạn chế rủi ro. 1.2.3. Quy trình cho vay của ngân hàng đối với DNVVN Ngân hàng trước khi đưa ra quyết định cho vay phải tiến hành theo một quy trình có trình tự như sau: u Khách hàng là các DNVVN có nhu cầu vay vốn ngân hàng phải lập hồ sơ vay vốn và mang đến ngân hàng. Hồ sơ vay vốn thường bao gồm: hồ sơ pháp lý chứng minh sự tồn tại của doanh nghiệp là hợp pháp; hồ sơ kinh tế phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp và hồ sơ xin vay trong đó có giấy đề nghị xin vay vốn, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay…Hồ sơ vay vốn có phần do khách hàng lập, có phần do ngân hàng lập hoặc cả hai cùng lập theo mẫu quy định sẵn. Cụ thể: J Đối với pháp nhân và doanh nghiệp tư nhân Hồ sơ pháp lý gồm: - Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. - Điều lệ doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp tư nhân). - Quyết định bổ nhiệm Tổng giám đốc, Kế toán trưởng (đối với các loại hình doanh nghiệp) và Quyết định chứng nhận Ban quản trị chủ nhiệm hợp tác xã (đối với loại hình HTX). - Giấy phép hành nghề, giấy phép đầu tư (với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) và hợp đồng liên doanh (với các doanh nghiệp liên doanh). - Quyết định giao vốn và các văn bản bàn giao tài sản của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho các DNNN. - Biên bản góp vốn, danh sách thành viên sáng lập với loại hình công ty cổ phần và công ty TNHH. - Các thủ tục về kế toán theo quy định của ngân hàng cho vay; đăng ký mẫu chữ ký của người giao dịch với ngân hàng, giấy đăng ký mở tài khoản tiền gửi. Hồ sơ kinh tế gồm: - Kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ (3 tháng, 6 tháng hay 1 năm). - Bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh kỳ trước. - Báo cáo thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh kỳ trước. Hồ sơ vay vốn gồm: - Bản sao hợp đồng mua hàng hay báo giá, phiếu nhập kho các chứng từ thanh toán. - Hợp đồng tín dụng. - Hợp đồng bảo đảm tiền vay. J Đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác Hồ sơ pháp lý gồm: - Sổ hộ khẩu - Giấy phép kinh doanh. - Giấy tờ hợp pháp hợp lệ được giao cho thuê quyền sử dụng đất, mặt nước. - Giấy phép đánh bắt thuỷ hải sản, đăng ký tàu thuyền (với các hộ đánh bắt thuỷ hải sản). - Giấy chứng nhận của UBND xã, phường cho phép hoạt động (với tổ hợp tác). Hồ sơ vay vốn gồm: - Giấy đề nghị xin vay vốn kèm phương án sản xuất kinh doanh (đối với hộ không phải thế chấp cầm cố tài sản). - Giấy đề nghị xin vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh và hồ sơ bảo đảm tiền vay (đối với hộ phải thực hiện thế chấp cầm cố tài sản). u Cán bộ tín dụng nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng và có trách nhiệm đối chiếu với danh mục hồ sơ quy định, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của từng loại hồ sơ rồi báo cáo cho trưởng phòng tín dụng. u Trưởng phòng tín dụng cử người đi thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định. Trưởng phòng tín dụng còn có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ vay vốn, tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ một lần nữa và các báo cáo thẩm định do cán bộ tín dụng trình, tiến hành xét duyệt, tái thẩm định nếu thấy cần thiết, ghi ý kiến vào báo cáo thẩm định, tái thẩm định (nếu có) và trình giám đốc duyệt. u Giám đốc ngân hàng nơi cho vay kiểm tra, xem xét lại hồ sơ vay vốn và báo cáo thẩm định, tái thẩm định ( nếu có) do phòng tín dụng trình lên từ đó ra quyết định cho vay hoặc không cho vay và chuyển giao cho phòng tín dụng thực hiện quyết định đó. u Sau khi hoàn tất các khâu công việc trên, nếu khoản vay được giám đốc ký duyệt thì phòng tín dụng chuyển hồ sơ cho phòng kế toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán, thanh toán. Thủ quỹ thực hiện giải ngân cho doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng theo dõi cho vay và thu nợ theo những thoả thuận đã cam kết trong hợp đồng. 1.2.4. Các điều kiện vay vốn ngân hàng Những điều kiện quy định đối với người vay vốn có tác dụng ràng buộc trách nhiệm của người vay vốn đối với việc sử dụng đúng mục đích và thu hồi vốn vay để trả nợ đúng hạn, giảm bớt các tổn thất cho ngân hàng khi xảy ra rủi ro. Các ngân hàng thương mại xem xét và quyết định cho vay khi doanh nghiệp thoả mãn 5 điều kiện sau: Thứ nhất là điều kiện pháp lý của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Cụ thể là: Về năng lực pháp luật dân sự: Doanh nghiệp phải có quyết định thành lập, có giấy phép kinh doanh và có giấy phép hành nghề của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đang có hiệu lực pháp lý, có vốn điều lệ và có một số giấy tờ khác thích hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Tóm lại có thể hiểu những doanh nghiệp có năng lực pháp luật dân sự là những doanh nghiệp được phép hoạt động một cách hợp pháp có các quyền nhân thân, quyền sở hữu thừa kế tài sản và các quyền khác đối với tài sản. Về năng lực hành vi dân sự: Năng lực hành vi dân sự là khả năng nhận thức được những hành vi mình làm và điều khiển được hành vi đó theo ý mình cũng như ý thức được những hậu quả có thể xảy ra do hành vi của mình gây nên. Pháp luật nước ta quy định chỉ những người từ 18 tuổi trở lên mới có năng lực hành vi dân sự, dưới độ tuổi này thì chưa có năng lực hành vi dân sự, chưa phải chịu trách nhiệm trước pháp luật song khi có hành vi phạm pháp phải có người đứng ra bảo lãnh, chịu trách nhiệm. Với Luật doanh nghiệp thông thoáng như hiện nay các doanh nghiệp đều thoả mãn điều kiện này. Thứ hai là điều kiện về khả năng tài chính của doanh nghiệp: Để được vay vốn doanh nghiệp phải có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Có nghĩa là doanh nghiệp vay vốn phải có tình hình tài chính lành mạnh, kinh doanh có hiệu quả, chấp hành chế độ báo cáo thống kê, gửi ngân hàng các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh theo định kỳ phù hợp quy định của pháp luật. Ngân hàng xem xét khả năng tài chính của doanh nghiệp trước khi vay vốn và sau khi vay vốn. Khả năng tài chính của doanh nghiệp trước khi vay thể hiện ở quy mô vốn tự có của doanh nghiệp. Quy mô vốn tự có của doanh nghiệp càng lớn thì ngân hàng càng yên tâm. Về khả năng tài chính của doanh nghiệp sau khi vay vốn được thể hiện ở hiệu quả của vốn vay đem lại đó là doanh thu thu được từ dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh so với chi phí bỏ ra. Thứ ba là điều kiện về mục đích sử dụng vốn vay: Các doanh nghiệp có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Đối với pháp nhân mục đích sử dụng vốn vay phù hợp với mặt hàng, ngành nghề đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh. Với các đối tượng khác, mục đích vay vốn phù hợp với khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và không trái với quy định của pháp luật. Thứ tư là điều kiện về phương án sản xuất kinh doanh: Các doanh nghiệp có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Đó là các dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển, dịch vụ, đời sống có thể triển khai thực hiện được và theo tính toán khi cho vay nếu dự án hoàn thành đưa vào sử dụng sẽ có lợi cho đời sống, nền kinh tế và cho cả xã hội. Thứ năm là điều kiện về bảo đảm tiền vay: Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước. Để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, ngân hàng thường dùng các phương thức khác nhau để giảm bớt mức độ tổn thất do rủi ro bị vỡ nợ. Đó là các hình thức bảo đảm tiền vay: bảo đảm bằng tài sản thế chấp, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bảo đảm bằng sự bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. 1.3. Hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng 1.3.1. Sự cần thiết của việc hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng Trong quá trình phát triển các DNVVN đã bộc lộ những tồn tại, khó khăn nhất định mà đáng chú ý là vốn chủ sở hữu ít, vốn vay chiếm một tỷ trọng đáng kể trong nguồn vốn của DNVVN gấp khoảng 4 lần vốn tự có, thiếu dự án khả thi, thiếu tài sản đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, tình hình tài chính không lành mạnh, công nghệ thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý cũng như trình độ chuyên môn chưa cao, khả năng cạnh tranh kém. Mọi khó khăn này đều bắt nguồn từ khó khăn về vốn đặc biệt là vốn vay ngân hàng. Hơn nữa các DNVVN khó vay vốn ngân hàng do điều kiện vay vốn còn quá chặt, các DNVVN hoạt động không hiệu quả. Trong khi đó Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh". DNVVN lại chiếm tỷ trọng chủ yếu ở nước ta khoảng hơn 90% và hoạt động dưới mọi hình thức như là DNNN, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, các công ty cổ phần và công ty TNHH. Do đó Đảng và nhà nước cần phải có những chủ trương chính sách thích hợp hỗ trợ cho DNVVN phát triển mà sự hỗ trợ tốt nhất lúc này là hỗ trợ cho DNVVN tiếp cận được với nguồn vốn vay từ ngân hàng. Hơn nữa việc hỗ trợ không chỉ mang lại lợi ích cho DNVVN mà còn đem lại những lợi ích nhất định cho nhà nước và cho xã hội đó là giảm được tỷ lệ thất nghiệp một cách đáng kể, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, phân phối lại thu nhập, góp phần tăng trưởng kinh tế và nhất là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Như vậy, DNVVN rất cần sự hỗ trợ của nhà nước cũng như ngân hàng và nhiều tổ chức khác với các hình thức hỗ trợ phong phú đa dạng. Chính vì thế hỗ trợ DNVVN là rất cần thiết đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang trong tiến trình hội nhập với quốc tế (WTO) và khu vực (AFTA). 1.3.2. Các hình thức hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng 1.3.2.1. Các hình thức hỗ trợ của nhà nước 4 Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và môi trường pháp lý lành mạnh tạo tiền đề cơ sở cho DNVVN tiếp cận các nguồn vốn tín dụng được thuận lợi. Đây là một hình thức hỗ trợ rất cần thiết và hữu hiệu của nhà nước dành cho DNVVN. Một môi trường pháp lý lành mạnh là một môi trường không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Các DNVVN và các doanh nghiệp lớn có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong mọi lĩnh vực hoạt động. Đồng thời tất cả các loại hình doanh nghiệp đều tuân theo những quy định của pháp luật, được cạnh tranh bình đẳng, được quyền vay vốn ngân hàng…miễn là đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn của ngân hàng. Nhà nước còn tiến hành xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật bao gồm những chủ trương chính sách tạo điều kiện cho DNVVN tiếp cận được vốn vay ngân hàng đặc biệt là những quy định, nghị định của Chính phủ về tài sản thế chấp cầm cố thông thoáng hơn đảm bảo cho các DNVVN có được những giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản cũng như bảo đảm quyền tự chủ cho ngân hàng trong việc xử lý tài sản thế chấp. Và như thế nhà nước đã tiến hành hỗ trợ song song cả hai phía ngân hàng và doanh nghiệp nhằm giải toả khó khăn cho cả hai bên: một bên thừa vốn, một bên thiếu vốn đến một điểm cân bằng tương đối về vốn. 4 Hỗ trợ DNVVN trong công tác đào tạo, nâng cao năng lực xây dựng và đánh giá các dự án vay vốn tạo điều kiện tiếp cận tốt hơn tới các NHTM cho loại hình doanh nghiệp này Một trong những khó khăn hiện nay của DNVVN khi vay vốn ngân hàng là không có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do trình độ tổ chức quản lý cũng như trình độ chuyên môn của chủ doanh nghiệp còn hạn chế. Việc xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh đòi hỏi người xây dựng phương án phải hiểu biết rộng do phương án sản xuất kinh doanh liên quan tới nhiều lĩnh vực, phải tính toán trước được những biến động của thị trường trong tương lai. Ta biết rằng có những phương án là khả thi ở thời điểm hiện tại nhưng đến thời điểm kết thúc phương án thì phương án đó lại không còn khả thi nữa. Cũng có trường hợp DNVVN có phương án khả thi nhưng doanh nghiệp không biết chứng minh, giải trình để cho ngân hàng thấy được tính khả thi của phương án đó. Chính vì vậy để giúp đỡ các DNVVN vay được vốn ngân hàng, nhà nước nên có những biện pháp, hình thức hỗ trợ cụ thể nhằm đào tạo các chủ doanh nghiệp đạt tới một trình độ nhất định mà chủ yếu là đào tạo cho chủ DNVVN những kiến thức để tạo lập và đánh giá được một phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Tăng năng lực tài chính cho các DNVVN Năng lực tài chính của DNVVN thể hiện ở quy mô vốn tự có của doanh nghiệp. VTC của doanh nghiệp mà lớn thì năng lực tài chính của DNVVN mạnh và ngược lại trong khi đó các DNVVN thường có năng lực tài chính không đủ mạnh. Điều này khiến cho các NHTM không muốn cho các DNVVN vay sợ rủi ro xảy ra làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Vì thế tăng năng lực tài chính cho các DNVVN là nhà nước đã góp phần giảm bớt khó khăn của DNVVN khi muốn vay vốn ngân hàng. Nhà nước tăng năng lực tài chính cho các DNVVN bằng cách hỗ trợ về tài chính thông qua ngân sách nhà nước, hỗ trợ về thị trường đầu ra cho DNVVN, miễn giảm thuế cho những DNVVN mới thành lập hoặc làm ăn thua lỗ cũng như khuyến khích việc hình thành những tập đoàn kinh tế mạnh. Cụ thể là nhà nước sẽ sử dụng NSNN để cấp phát cho các DNVVN có tiềm lực phát triển, các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề cần khuyến khích phát triển nhằm hỗ trợ một phần nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời việc hình thành các tập đoàn kinh tế sẽ tạo ra chỗ dựa vững chắc cho các DNVVN trước các cơn sốt biến động của thị trường, tập trung đầu tư chiều sâu theo hướng chuyên môn hoá vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể. Đây cũng là một hình thức hỗ trợ rất quan trọng và cần thiết của nhà nước dành cho các DNVVN thoả mãn điều kiện về tài chính của ngân hàng khi doanh nghiệp đi vay. Khuyến khích việc thành lập các tổ chức hỗ trợ tư vấn và các tổ chức đại diện cho DNVVN Việc ra đời các tổ chức này có ý nghĩa rất lớn đối với các DNVVN. DNVVN còn nhiều khó khăn hạn chế rất cần đến những tổ chức tư vấn, hỗ trợ về tài chính, đào tạo, về thông tin và nhất là lập các phương án sản xuất kinh doanh khả thi…cũng như các tổ chức đại diện cho DNVVN là các Hiệp hội DNVVN, các Câu lạc bộ DNVVN để nói lên những nhu cầu, nguyện vọng và cả những đề xuất đối với các ngành các cấp. Từ đó nhà nước có thể biết được những khó khăn vướng mắc của DNVVN khi vay vốn ngân hàng để có những biện pháp hỗ trợ thiết thực, hiệu quả và gắn với thực tiễn hơn. 4 Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển Khi hình thức hỗ trợ này được đẩy mạnh sẽ giúp các chủ DNVVN mạnh dạn đầu tư, nhà nước chỉ phải bỏ vốn ra khi chủ đầu tư không trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng và cùng chia sẻ rủi ro với ngân hàng trong trường hợp đó. Do đó với hình thức này các DNVVN sẽ dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng, các ngân hàng sẽ yên tâm hơn khi cho vay khắc phục được tình trạng "ngân hàng thừa vốn, doanh nghiệp thiếu vốn". Với hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư, DNVVN sẽ tháo gỡ được khó khăn về điều kiện tài sản thế chấp cầm cố nên sẽ vay được nhiều vốn TDNH hơn trước. Vì thế nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa hình thức hỗ trợ này tạo điều kện cho các DNVVN có đủ vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và đổi mới máy móc thiết bị công nghệ. 1.3.2.2. Các hình thức hỗ trợ của ngân hàng 4 Đa dạng hóa các hình thức cho vay Sự phát triển kinh tế đòi hỏi hoạt động tín dụng ngân hàng không thể chỉ khép kín trong phương thức và nghiệp vụ truyền thống của mình mà ngân hàng luôn phải sáng tạo ra các hình thức cho vay mới phù hợp với quá trình tái sản xuất, với các nhu cầu đa dạng phong phú của doanh nghiệp nhằm thu hút thêm nhiều khách hàng, tăng lợi nhuận và giảm tỷ lệ rủi ro. Một số hình thức tín dụng của ngân hàng hiện nay là: tín dụng vãng lai, tín dụng chiết khấu, tín dụng trả nhiều lần, tín dụng thuê mua, tín dụng ưu đãi, tín dụng bảo lãnh trong đó cần chú trọng tới các hình thức tín dụng chiết khấu, tín dụng thuê mua và tín dụng bảo lãnh vì các hình thức này phù hợp với đặc điểm hoạt động và nhu cầu của DNVVN. 4 Giảm lãi suất ngân hàng tới mức cần thiết phù hợp với từng loại hình sản xuất kinh doanh Lãi suất cho vay của ngân hàng là một công cụ hữu hiệu để cân bằng lượng cung cầu tiền tệ. Hiện nay các NH đang trong tình trạng thừa vốn tức là cung lớn hơn cầu vì thế để kích cầu cần hạ lãi suất xuống. Nhiều DNVVN cho rằng lãi suất cho vay ra của ngân hàng vẫn còn cao làm cho chi phí vốn của các DNVVN tăng lên, lợi nhuận giảm xuống, động lực phát triển bị triệt tiêu. Vì vậy các ngân hàng cần xem xét tình hình hiện tại để đưa ra một mức lãi suất phù hợp cho các DNVVN. Trường hợp đặc biệt có thể hỗ trợ vốn với lãi suất thấp, thậm chí không lấy lãi những mặt hàng, mẫu mã mới đang trong giai đoạn thâm nhập thị trường, những cơ sở đổi mới kỹ thuật, đưa công nghệ tiên tiến vào để hiện đại hoá, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. 4 Phát triển hệ thống ngân hàng thương mại rộng khắp các thành phố thị xã, đến từng làng xã, vùng cao để phục vụ các DNVVN Các DNVVN thường tập trung chủ yếu ở nông thôn, các vùng làng nghề truyền thống đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô nhỏ. Thông thường các chi nhánh ngân hàng hay đặt trụ sở ở thị trấn, thị xã nên nhiều khi muốn vay được vốn các doanh nghiệp nhỏ, các hộ gia đình kinh doanh phải lên thị trấn, thị xã rất mất thời gian và không thuận tiện. Trường hợp này chỉ là trở ngại về khoảng cách địa lý mà các ngân hàng có thể khắc phục được. Bằng cách tăng cường hệ thống chi nhánh ngân hàng đến từng làng, xã, vùng cao, ngân hàng đã tạo điều kiện cho DNVVN có thể tiếp cận được với vốn vay ngân hàng ở mọi nơi, mọi lúc. 4 Cải tiến để đơn giản hơn nữa thủ tục vay vốn cho thích hợp với từng loại hình doanh nghiệp Nhiều DNVVN ngại vay vốn ngân hàng do thủ tục vay vốn rất phức tạp mất thời gian. Đặc biệt là các hộ nông dân do trình độ còn hạn chế nên đây là một trở ngại lớn đối với họ. Để mở rộng việc cho vay đối với các thành phần kinh tế này thì ngân hàng cần đơn giản hoá các thủ tục vay vốn mà vẫn đảm bảo cho quá trình thu thập thông tin và sự an toàn trong hoạt động cho vay của mình. Khi đó các DNVVN không còn phải lo tình trạng dự án chờ vốn như trước nữa do vốn vay được rất kịp thời bảo đảm tiến độ hoạt động của dự án. 4 Ngân hàng tiến hành cho các DNVVN vay khi có sự bảo lãnh của người thứ ba hoặc ngân hàng bảo lãnh cho các DNVVN đi vay vốn Theo quy định khi vay vốn ngân hàng các DNVVN ngoài quốc doanh phải có tài sản thế chấp, cầm cố thuộc sở hữu của mình để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ. Song để hỗ trợ các DNVVN khi không có đủ tài sản để thế chấp cầm cố mà được một số pháp nhân hoặc thể nhân đứng ra bảo lãnh thì vẫn được ngân hàng xem xét cho vay. Ngân hàng còn tiến hành bảo lãnh cho các DNVVN có tiềm năng trong tương lai, có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hoạt động trong những lĩnh vực thiết thực với đời sống xã hội để giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn vay ngân hàng. Hình thức hỗ trợ này của ngân hàng cần được áp dụng phổ biến trong thời gian tới vì các DNVVN không vay được vốn TDNH chủ yếu là do không có tài sản thế chấp. Như vậy việc ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho DNVVN hoặc cho DNVVN vay khi có sự bảo lãnh của người thứ ba đã góp phần giảm bớt khó khăn cho DNVVN khi vay vốn ngân hàng. Tất cả các hình thức hỗ trợ trên của nhà nước và ngân hàng đối với DNVVN đã thể hiện sự quan tâm đúng đắn của nhà nước, của ngành ngân hàng tới tiến trình phát triển của DNVVN đúng như tinh thần của Nghị định 90/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNVVN. Chương 2 Thực trạng hoạt động hỗ trợ DNVVN tiếp cận vốn vay ngân hàng 2.1. Tình hình phát triển DNVVN những năm qua 2.1.1. Số lượng, cơ cấu ngành và sự phân bố theo vùng của khu vực DNVVN Theo công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Chính phủ thì DNVVN là những doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng và số lao động dưới 200 người. Với tiêu chí về vốn như vậy thì có 20916 trên tổng số 24708 doanh nghiệp được điều tra trong cuộc Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp tiến hành năm 1995 là DNVVN, chiếm 88,2% tổng số doanh nghiệp. Trong đó đối với khu vực doanh nghiệp Việt Nam thì tỷ lệ này là 89,5% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 33,6%. Rõ ràng là các DNVVN chủ yếu là những doanh nghiệp có vốn trong nước. Theo tiêu chí về vốn thì số lượng DNVVN theo các loại hình và thành phần kinh tế như sau: Bảng 2.1: Tỷ lệ DNVVN trong các loại hình doanh nghiệp Loại hình doanh nghiệp Tỷ lệ % Số lượng DNVVN trong khu vực DNNN Số lượng DNVVN trong khu vực DNNN địa phương Số lượng DNVVN trong khu vực DNNN trung ương Số lượng DNVVN trong khu vực kinh tế tập thể Số lượng doanh nghiệp tư nhân thuộc loại vừa và nhỏ Số lượng công ty cổ phần thuộc loại vừa và nhỏ Số lượng công ty TNHH thuộc loại vừa và nhỏ Số lượng doanh nghiệp có vốn nước ngoài thuộc loại vừa và nhỏ Tổng số DNVVN trong toàn bộ số lượng doanh nghiệp 65,9 74,6 47,8 97,4 99,4 42,3 94,6 33,6 88,2 (Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư) Còn nếu lấy quy mô lao động dưới 200 người để phân loại thì hơn 96% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam đều thuộc loại vừa và nhỏ. Do đó xét theo cả hai tiêu chí thì khoảng 88-90% doanh nghiệp ở Việt Nam thuộc loại vừa và nhỏ. Tỷ lệ này trong các ngành và các thành phần kinh tế không giống nhau (xem bảng 2.1). Mặc dù số lượng DNVVN chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp nhưng theo tính toán dựa trên các số liệu của cuộc Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp thì toàn bộ khu vực DNVVN của cả nước chỉ chiếm khoảng 20% tổng vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Với tiêu chí xác định DNVVN theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP thì tỷ trọng của DNVVN so với tổng số doanh nghiệp của cả nước tăng lên đáng kể từ 88,2% lên 92,5%. Hiện nay có khoảng hơn 80% DNNN thuộc loại quy mô vừa và nhỏ; trên 50000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, trên 2 triệu hộ kinh doanh cá thể, đa số đều là DNVVN; các hợp tác xã cũng đều là DNVVN (chiếm 98,6% trong tổng số doanh nghiệp cả nước). Như vậy DNVVN thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng 97% xét về vốn và 99% xét về lao động so với tổng số doanh nghiệp của cả nước. Về cơ cấu ngành, các DNVVN ở Việt Nam hoạt động trong 3 lĩnh vực chính: thương mại và dịch vụ đời sống; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hành khách. Ngành thương mại, dịch vụ sửa chữa chiếm một số lượng lớn các DNVVN trong tổng số DNVVN của cả nước (46,2%) trong khi chỉ có 18% DNVVN hoạt động trong các ngành công nghiệp và xây dựng đồng thời có hơn 10% DNVVN hoạt động trong các ngành vận tải, dịch vụ, kho bãi. Số DNVVN còn lại hoạt động trong rất nhiều ngành khác nhau nên mỗi ngành đó chỉ có rất ít DNVVN với số lượng không đáng kể. Số lượng các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ đời sống chiếm số đông (46,2%) là điều dễ hiểu vì đầu tư vào lĩnh vực này các doanh nghiệp chỉ cần một lượng vốn nhỏ, thời gian quay vòng của vốn nhanh, trình độ nghiệp vụ không cao phù hợp với quy mô vừa và nhỏ; trái lại trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng các doanh nghiệp phải đầu tư một lượng vốn lớn, chu kỳ sản xuất dài, trình độ quản lý cũng như trình độ lao động đòi hỏi khá cao, rõ ràng là chỉ thích hợp với các doanh nghiệp quy mô lớn nên DNVVN trong lĩnh vực này chỉ chiếm khoảng18%. Về phân bố theo vùng của các DNVVN. Sự phân bố DNVVN theo địa bàn không đồng đều tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, chiếm 73% số DNVVN của cả nước (thành phố HCM 25%, các tỉnh khác ở Nam bộ 48%), các tỉnh phía Bắc 18%, các tỉnh miền Trung chiếm 9%. Tỷ lệ phân bố theo vốn cũng chủ yếu tập trung ở các tỉnh Nam bộ (thành phố HCM và các tỉnh miền Đông Nam bộ chiếm 51%, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 20%), còn lại các tỉnh đồng bằng sông Hồng 13%, miền Trung 7%, Tây Nguyên 2%,._.trường hợp các con nợ cố tình lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngân hàng thì ngân hàng lại phải chịu trách nhiệm hình sự. Các ngân hàng vì thế không muốn mở rộng cho vay đối với các DNVVN do rủi ro cao. - Đổi mới trách nhiệm giải trình trước cơ quan pháp luật của ngân hàng. Các ngân hàng khi có món vay liên quan đến vụ án hình sự dù đúng hay sai cũng phải mất khá nhiều thời gian, công sức để giải trình trước cơ quan pháp luật. Bất kỳ lúc nào cơ quan pháp luật cũng có quyền yêu cầu Tổng giám đốc, giám đốc trực tiếp giải trình mà không cho người khác đại diện ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là chưa kể đến trong thời gian chờ kết luận xử lý chính thức các cán bộ ngân hàng luôn lo lắng bị xử lý hình sự gây tâm lý bất ổn. Vì vậy Nhà nước cần đổi mới theo hướng mọi việc đều được thực hiện thông qua đại diện của đương sự là luật sư. - Các quy định về giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cần được nhanh chóng sửa đổi cho thống nhất giúp người đi vay hoàn thiện những thủ tục cần thiết. Đơn giản hoá công chứng nhà nước. 3.2.1.2. Đẩy mạnh nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển cũng như sự hình thành và phát triển của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ở địa phương Nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển là một hình thức hỗ trợ thiết thực cho các DNVVN vay vốn ngân hàng. Khi không có đủ tài sản để thế chấp cầm cố song có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, Quỹ hỗ trợ phát triển sẽ đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp này để doanh nghiệp có thể vay được vốn ngân hàng. Thực tế hiện nay nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển chưa được mở rộng do các điều kiện để được bảo lãnh còn chặt chẽ và phí bảo lãnh cao. Vì thế trước mắt Nhà nước nên đẩy mạnh nghiệp vụ này, tiến hành bảo lãnh nhiều hơn cho các doanh nghiệp, các dự án đầu tư mang lại lợi ích cho xã hội. Thông tư 42/02/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 22/5/2002 hướng dẫn thi hành quyết định số 193/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, trong đó Thủ tướng Chính phủ cho phép các địa phương được thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để cấp bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN của địa phương đó. Đây là một giải pháp rất hữu hiệu cho các DNVVN tiếp cận vốn vay. Trong thời gian qua ở nước ta mới chỉ có hai Quỹ bảo lãnh tín dụng là Quỹ bảo lãnh tín dụng thí điểm ở Bắc Giang và Quỹ bảo lãnh tín dụng từ chương trình tín dụng Việt Đức của NHCT. Vì vậy với việc cho phép hình thành các Quỹ bảo lãnh tín dụng ở địa phương, các DNVVN sẽ tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng dễ dàng hơn. Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN địa phương có ưu điểm là sát với điều kiện thực tế ở địa phương, gắn với các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, với yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp trên địa bàn. Điều này càng có ý nghĩa và thuận lợi khi mà đối tượng của Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương không phải là các DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp quy mô lớn mà chính là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ- loại hình doanh nghiệp chủ yếu ở địa phương. Giai đoạn đầu hình thành và phát triển chắc chắn còn nhiều khó khăn và hạn chế do đó Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi và đẩy mạnh hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ở địa phương. 3.2.1.3. Nhà nước khuyến khích các NHTM cho DNVVN vay thông qua các chính sách, các hình thức hỗ trợ cụ thể Các NHTM vẫn có tâm lý dè chừng, đề phòng rủi ro khi cho vay đối với DNVVN. Để cải thiện tình hình này, Nhà nước cần hỗ trợ cho ngân hàng bằng cách tăng vốn điều lệ cho ngân hàng, hỗ trợ một phần lãi suất, đẩy mạnh hoạt động của công ty mua bán tài sản tồn đọng trực thuộc Chính phủ (AMC) cũng như một hệ thống đăng ký tập trung về tài sản qua mạng máy tính. Nguồn vốn điều lệ của ngân hàng càng lớn thì khả năng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng càng tăng lên tương ứng. Vì thế Nhà nước muốn các NHTM cho vay DNVVN nhiều hơn nữa thì cần cấp thêm vốn cho ngân hàng từ ngân sách Nhà nưóc hoặc cũng có thể hỗ trợ lãi suất cho các ngân hàng bằng cách quy định một mức lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất cho vay trên thị trường đối với các DNVVN. Phần chênh lệch Nhà nước sẽ bù lỗ cho ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đang gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp. Nhiều DNVVN dùng một tài sản đem thế chấp ở nhiều ngân hàng, cố tình lừa đảo ngân hàng cam kết là tài sản không có tranh chấp. Các ngân hàng không có thông tin chính xác để xác định những trường hợp này. Và một hệ thống đăng ký tập trung về tài sản qua mạng máy tính là rất cần thiết cho ngân hàng. Việc xử lý tài sản thế chấp cũng là một vướng mắc mà ngân hàng cần được Nhà nước hỗ trợ. Bằng việc đẩy mạnh hoạt động của công ty mua bán tài sản tồn đọng AMC, Nhà nước đã giúp ngân hàng xử lý tài sản thế chấp một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất tránh tình trạng đọng vốn trong ngân hàng. Ngân hàng ra quyết định cho vay nhanh hơn, mạnh dạn hơn. Đồng thời Nhà nước còn hỗ trợ về tài chính cho ngân hàng trong việc cơ cấu lại nợ, xử lý dứt điểm các khoản nợ khó đòi, nợ khoanh do các DNVVN gây ra giúp ngân hàng hoạt động bình thường trở lại. 3.2.1.4. Mở rộng mối quan hệ liên kết liên doanh giữa các DNVVN với các doanh nghiệp lớn, các tổ chức kinh tế của Nhà nước Thực tế chỉ ra rằng các DNVVN phát triển trong một môi trường cạnh tranh rất sôi động và luôn bị các doanh nghiệp lớn chèn ép đánh bại, dễ bị tổn thương trước các biến động của thị trường. Do vậy chỉ có một sự liên kết chặt chẽ với các tổ chức kinh tế, với các doanh nghiệp lớn của Nhà nước mới giúp DNVVN cải thiện được tình hình, chống chọi với những biến động của thị trường. Thông qua mối quan hệ này các DNVVN sẽ được các tổ chức, doanh nghiệp lớn của Nhà nước hỗ trợ về vốn, công nghệ, đào tạo, thông tin... mà đặc biệt là bảo đảm cho DNVVN một thị trường đầu vào, đầu ra vững chắc làm giảm chi phí và tăng doanh thu dẫn đến lợi nhuận thu được của DNVVN ngày càng tăng. Các DNVVN có thể liên kết ngang, liên kết dọc hoặc liên kết hỗn hợp tùy điều kiện mỗi doanh nghiệp. Và như thế uy tín cũng như năng lực tài chính của các DNVVN được tăng lên đáng kể, việc vay vốn ngân hàng không còn khó khăn như trước nữa. 3.2.1.5. Tăng cường năng lực tài chính hơn nữa cho các DNVVN Năng lực tài chính của một doanh nghiệp là rất quan trọng. Nó thể hiện quy mô, sức mạnh cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Các DNVVN có năng lực tài chính nhỏ bé do đó khó có thể vay vốn ngân hàng. Nhà nước đã có một số hình thức nhằm tăng năng lực tài chính cho các DNVVN như trong phần lý thuyết đã nêu và bước đầu đã thu được những kết quả nhất định. Trên thực tế việc nâng cao năng lực tài chính cho các DNVVN cần phải được tiến hành trong một thời gian khá dài và còn phụ thuộc vào chính doanh nghiệp nữa nên Nhà nước cần tăng cường, đẩy mạnh hơn các hình thức hỗ trợ này với một kế hoạch lâu dài. Nhờ đó DNVVN có tình hình tài chính ngày càng lành mạnh, việc vay vốn ngân hàng cũng sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. 3.2.2. Giải pháp vi mô Những giải pháp vĩ mô của Nhà nước nhiều khi khó tiếp cận do từ lúc đề ra đến khi đưa vào thực hiện là một khoảng thời gian tương đối dài. Vì vậy muốn các giải pháp này được áp dụng vào thực tiễn một cách nhanh chóng, Nhà nước cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể, tỷ mỷ hơn cho các ngành, các cấp thực hiện đồng bộ. Ngành ngân hàng cũng như các DNVVN muốn được hỗ trợ cũng cần phải tự xem xét đánh giá lại chính mình, tự nỗ lực bản thân vươn lên. Đây chính là các điều kiện để Nhà nước tiến hành hỗ trợ vì nếu không các doanh nghiệp sẽ chỉ trông chờ vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước làm giảm mục tiêu, hiệu quả của các hình thức hỗ trợ này. Các giải pháp từ phía ngân hàng, doanh nghiệp sau đây sẽ là tiền đề cho các giải pháp vĩ mô có tính khả thi cao, hiệu quả lớn. 3.2.2.1. Giải pháp của ngành ngân hàng Xây dựng cơ chế đầu tư, cho vay phù hợp với DNVVN Đảng và Nhà nước ta cũng như thực tiễn nền kinh tế trong thời gian qua đã khẳng định vị trí quan trọng của DNVVN trong công cuộc đổi mới đất nước. DNVVN đã làm cho nền kinh tế năng động hơn, giải quyết công ăn việc làm cho một khối lượng lớn lao động, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Các DNVVN hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực rộng lớn của nền kinh tế, nhu cầu về vốn của loại hình doanh nghiệp này dường như không bao giờ có thể đáp ứng được đầy đủ trong khi việc DNVVN vay được vốn ngân hàng lại rất hạn chế. Để giúp đỡ các DNVVN và cũng là để giải quyết tình trạng đóng băng vốn của mình các ngân hàng đã nghiên cứu và xây dựng nên một cơ chế cho vay theo hướng đơn giản thuận lợi mà vẫn an toàn hiệu quả như sau: Nới lỏng các điều kiện vay vốn. Với các điều kiện vay vốn như hiện nay thì các DNVVN vẫn còn nhiều bất cập trong đó đáng quan tâm là điều kiện về tài sản thế chấp. DNVVN với quy mô nhỏ bé như vậy nên vốn chủ sở hữu là quá ít ỏi, giá trị tài sản không cao. Để vay được một khoản tiền từ ngân hàng DNVVN cần thế chấp tài sản có giá trị lớn hơn khoản vay đó để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Đây quả là một thách thức lớn đối với DNVVN. Song qua thực tế hoạt động tín dụng của ngân hàng thì việc áp dụng các biện pháp thế chấp tài sản hiện nay chỉ là thủ tục và mang tính hình thức, nhiều khi chỉ là yếu tố loại trừ trách nhiệm cho các cán bộ ngân hàng khi ra quyết định cho vay. Bởi vì ngân hàng hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý phát mại tài sản thế chấp, thời gian phát mại khá lâu và chi phí cho việc này cũng không phải là nhỏ. Vô hình chung cả ngân hàng và doanh nghiệp đã gây khó dễ cho nhau. Vì vậy các ngân hàng nên nới lỏng các điều kiện cho vay đối với DNVVN, không nên coi điều kiện về tài sản thế chấp là điều kiện tiên quyết để ra quyết định cho vay mà chỉ là điều kiện cuối cùng của quy trình cho vay. Hiện nay theo chủ trương của NHNN, các hộ nông dân vay vốn đến 20 triệu đồng và hộ nông dân sản xuất giống thủy sản dưới 50 triệu đồng được miễn điều kiện thế chấp thể hiện sự quan tâm của ngành ngân hàng tới các thành phần kinh tế quy mô nhỏ ở nông thôn và rất thiết thực. Ngoài ra ngân hàng cũng đang tiến hành cho DNVVN vay theo phương thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là một sự cố gắng lớn của ngân hàng thể hiện một chiến lược khách hàng đúng đắn. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay. Khi doanh nghiệp đến ngân hàng vay vốn, cán bộ tín dụng hướng dẫn doanh nghiệp tiến hành các thủ tục cần thiết như lập hồ sơ vay vốn, ký hợp đồng tín dụng trong đó doanh nghiệp phải đáp ứng được rất nhiều giấy tờ như báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, tình hình tài chính thu nhập trong vài năm gần đây, các loại giấy tờ chứng minh tài sản bảo đảm có công chứng. Theo thống kê một bộ hồ sơ vay vốn cần tới 8 loại giấy tờ khác nhau trong đó 3 loại do người vay lập, 5 loại do cán bộ ngân hàng thực hiện với gần 10 con dấu. Mặc dù các thủ tục giấy tờ trên là cần thiết nhưng rõ ràng là hết sức phức tạp và gây phiền hà cho doanh nghiệp khi họ muốn vay tiền, làm chậm tiến độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc miễn điều kiện thế chấp cho các hộ nông dân vay vốn đến 20 triệu đồng và hộ nông dân sản xuất giống thuỷ sản dưới 50 triệu đồng cũng là một bước đơn giản hoá thủ tục cho vay của ngân hàng đối với hộ nông dân, họ không cần phải lo các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu và sử dụng tài sản cho ngân hàng nữa. Đối với các loại hình kinh tế khác để đơn giản hoá thiết nghĩ các ngân hàng có thể gộp chung giấy đề nghị vay vốn và đơn xin vay vốn làm một trong bộ hồ sơ vay vốn, giấy cam kết sử dụng vốn vay có thể lược bớt. Lãi suất cho vay nên linh hoạt mềm dẻo hơn. Lãi suất là một công cụ rất nhạy cảm không chỉ làm tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng mà còn khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn. Các ngân hàng thường quan niệm rằng lãi suất cho vay cao sẽ làm cho lợi nhuận của ngân hàng tăng lên. Quan niệm này chưa hẳn đã đúng vì tín dụng là một loại hàng hoá đặc biệt, nhiều khi người mua sẵn sàng trả giá cao hơn nhưng người bán vẫn có thể không bán do nhận thấy phần rủi ro phải gánh chịu có thể lớn hơn phần lợi ích mà ngân hàng nhận được. Đó là vì tình trạng thông tin không cân xứng giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chấp nhận một mức lãi suất cao hơn khi vay vốn chỉ khi doanh nghiệp đó có thu nhập cao hơn những doanh nghiệp khác mà thu nhập cao hơn là do lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp đó mạo hiểm rủi ro hơn. Vì vậy lãi suất càng tăng lên thì tỷ lệ những doanh nghiệp vay vốn có độ rủi ro cao cũng càng tăng theo. Điều này đồng nghĩa với nguy cơ họ không trả được nợ tăng lên. Hiện nay có một số ngân hàng đang giảm lãi suất cho vay xuống dưới mức lãi suất của thị trường vì ngân hàng cho rằng khi lãi suất thấp hơn, cầu về tín dụng sẽ lớn hơn cung về tín dụng khi đó các ngân hàng có quyền lựa chọn những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả an toàn hơn để cho vay không lo xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Như thế tự ngân hàng đã làm mất đi một số khách hàng tiềm năng. Từ những vấn đề phân tích trên đây thiết nghĩ ngân hàng không nên chỉ quy định một mức lãi suất cứng nhắc được áp dụng cho mọi đối tượng vay vốn mà nên có các mức lãi suất khác nhau để có thể áp dụng linh hoạt cho từng doanh nghiệp. Với những doanh nghiệp là khách hàng truyền thống có uy tín và những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả có thông tin trung thực chính xác cho ngân hàng chắc chắn sẽ có mức lãi suất khác với những doanh nghiệp là khách hàng không thường xuyên, không có khả năng trả nợ ngân hàng gây ra tình trạng nợ quá hạn. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ phải tương thích với chu kỳ sản xuất kinh doanh. Các DNVVN có nhu cầu về vốn trung dài hạn rất lớn do phải đổi mới công nghệ, thay thế các thiết bị cũ lạc hậu để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Do đó các NHTM cần nâng dần tỷ trọng dư nợ trung dài hạn cho DNVVN, xác định thời hạn cho vay phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của thiết bị tạo điều kiện cho doanh nghiệp trả nợ đúng hạn. Nếu không ngân hàng sẽ khó thu hồi được nợ gốc và lãi vay do doanh nghiệp vẫn còn đang trong thời kỳ hoạt động sản xuất chưa có doanh thu nên không có nguồn nào để trả nợ. Cũng giống như thời hạn cho vay việc xác định kỳ hạn trả nợ tương thích với thời hạn đầu tư kinh doanh sẽ có lợi cho cả hai bên ngân hàng và doanh nghiệp. Về phía ngân hàng sẽ thu được nợ đúng hạn không gặp rủi ro còn về phía doanh nghiệp tạo được uy tín đối với ngân hàng trong việc bảo đảm trả nợ và trả nợ đúng thời hạn. Vì thế doanh nghiệp sẽ dễ dàng vay vốn ngân hàng hơn ở những lần sau. Các ngân hàng cũng nên tính toán bố trí thời hạn cho vay của nhiều khoản tín dụng phải được liên tục hài hoà, hạn chế thời gian "chết", vốn khả dụng không sinh lời. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng Thực tế và lý luận đã chứng minh rằng điều kiện quan trọng để bảo đảm an toàn đồng vốn cho vay không phải là tài sản thế chấp mà là tính khả thi của phương án, dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp tuy thoả mãn về tài sản thế chấp song phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không khả thi nhưng vẫn được ngân hàng cho vay thì khi doanh nghiệp không trả được nợ, số tiền thu về từ việc phát mại tài sản thế chấp chẳng được là bao so với thời gian và chi phí mà ngân hàng bỏ ra để xử lý tài sản thế chấp. Hơn nữa các DNVVN thường không có tài sản thế chấp nên để khai thông mối quan hệ tín dụng giữa các NHTM với DNVVN thì cách tốt nhất là ngân hàng nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án, phương án sản xuất kinh doanh của DNVVN. Để công tác thẩm định được chính xác và chất lượng, NHTM cần đổi mới hàng loạt các nội dung yêu cầu trong đó quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ thẩm định. Cán bộ thẩm định không chỉ tinh thông trong nghiệp vụ chuyên môn mà phải hiểu biết rộng rãi sâu sắc các nghiệp vụ bổ trợ khác như chuyên môn các ngành kỹ thuật và kinh tế khác. Điều này chỉ có thể làm được khi có sự phối kết hợp giữa ngân hàng với các chuyên gia, các cán bộ tư vấn về nhiều lĩnh vực có liên quan đến một phương án cụ thể nào đó. Ngoài ra ngân hàng nên thành lập tổ thẩm định hoạt động độc lập với phòng tín dụng để kiểm tra, đánh giá hồ sơ tín dụng, giúp đỡ tư vấn cho cán bộ tín dụng tạo điều kiện để bộ phận lãnh đạo ra quyết định cho vay. Nếu có điều kiện ngân hàng nên cử các cán bộ thẩm định đi học các lớp ngắn hạn trong nước hoặc ngoài nước nhằm nâng cao trình độ cũng là một biện pháp hữu hiệu. Tiếp tục đa dạng hoá các hình thức cho vay Trong hoạt động tín dụng ngân hàng ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam có rất nhiều hình thức cho vay. Song hiện nay ở Việt Nam sản phẩm đầu ra của các ngân hàng còn đơn điệu. Các ngân hàng huy động loại nào thì cho vay loại đó chứ không quan tâm tới nhu cầu của các khách hàng mà cụ thể là các DNVVN. Vì thế các DNVVN cần vay vốn trung và dài hạn nhưng bắt buộc phải vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến tình trạng lúng túng về tài chính kể cả phải lo đảo nợ khi đáo hạn. Điều này thể hiện tín dụng cho vay ra chưa luân chuyển phù hợp với sự luân chuyển của đối tượng cho vay. Do đó các ngân hàng cần tiếp tục tăng cường đa dạng hoá, mở rộng hơn nữa các hình thức cho vay hợp lý, hiệu quả và phù hợp với DNVVN. Cụ thể như: Cho vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Trong quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp với nhau thường xảy ra tình trạng mua bán chịu do các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để thu hút khách hàng. Các DNVVN cũng không nằm ngoài quy luật đó. DNVVN đã có ít vốn lại bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn nên càng khó khăn hơn, không có đủ vốn để đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất. Để giúp đỡ các DNVVN khắc phục khó khăn này ngân hàng đã tiến hành cho vay dưới dạng chiết khấu thương phiếu. Với hình thức cho vay này ngân hàng đã tạo điều kiện cho DNVVN không bị gián đoạn trong sản xuất kinh doanh của mình bảo đảm vốn cho tiến trình phát triển. Cho vay có bảo lãnh. Các DNVVN khi vay vốn ngân hàng thường gặp khó khăn về tài sản thế chấp cầm cố. Vì thế các ngân hàng nên mở rộng hình thức cho vay dưới dạng bảo lãnh cho các DNVVN hoặc chấp nhận cho DNVVN vay khi có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đây là một phương thức cho vay rất thiết thực cho các DNVVN trong điều kiện hiện nay. Cho vay gộp các đối tượng cho vay. Theo cách này các đối tượng cho vay được gộp chung lại thành một mà không phân chia thành nhiều đối tượng cho vay chi tiết khi tính toán cho vay như vật tư nguyên liệu, bán thành phẩm, chi phí sản xuất và lưu thông trực tiếp gián tiếp, thành phẩm dự trữ chờ tiêu thụ, vốn trong thanh toán... Phương thức cho vay này phù hợp với tình hình thực tế của các DNVVN do hiện nay các sản phẩm của DNVVN rất đa dạng, vòng quay của sản xuất lưu thông nhanh, gối đầu liên tục, không có ranh giới cụ thể giữa các chu kỳ sản xuất lưu thông từng mặt hàng, lô hàng riêng biệt. Do đó việc tính toán cho vay không thể và cũng không thực sự cần thiết theo từng món riêng tạo cho các DNVVN sự chủ động trong quá trình sử dụng và ra quyết định đối với các món vay. Cho vay theo phần tham gia của vốn tín dụng. Theo phương thức này thì vốn tín dụng bù đắp một phần và trở thành một bộ phận xuyên suốt trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là cách cho vay rất tiên tiến với các đặc điểm cơ bản là mức cho vay không cố định mà có sự tăng giảm theo tổng mức luân chuyển của đối tượng cho vay đồng thời vốn tín dụng tham gia theo một chuỗi liên tục không gián đoạn. Hơn nữa hình thức cho vay này sử dụng một loại tài khoản đặc biệt là tài khoản thấu chi vừa mang nội dung của một tài khoản cho vay vừa mang nội dung của một tài khoản tiền gửi. Với việc sử dụng tài khoản thấu chi các doanh nghiệp sẽ được lợi nhiều hơn là ngân hàng. Về thủ tục vay doanh nghiệp chỉ phải tiến hành lần đầu, các lần tiếp sau chỉ cần lập giấy nhận nợ và giấy rút tiền là được. Cái lợi thứ hai là các khoản thu của doanh nghiệp được ghi vào tài khoản để trả nợ ngay giảm được tiền lãi phải trả ngân hàng và tương ứng với việc giảm mức dư nợ thực tế, ngân hàng sẽ tăng mức dư nợ được vay tiếp của doanh nghiệp. Có thể nói đây là một phương thức cho vay hữu ích đối với mọi loại hình doanh nghiệp trong đó có DNVVN. Tóm lại các phương thức cho vay nói trên là rất hiệu quả thuận lợi đối với DNVVN hơn nữa nghiệp vụ cũng không có gì phức tạp ngân hàng nên nghiên cứu và tiến hành triển khai, mở rộng các hình thức cho vay này làm tăng doanh thu cũng như góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến hỗ trợ cho DNVVN. v Sửa đổi những vướng mắc trong cơ chế, chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ngân hàng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. - Về Quyết định 284/2000/QĐ-NHNN1 của Thống đốc NHNN: Đối tượng cho vay nên xử lý theo hướng chỉ quy định những đối tượng cấm cho vay, tạo thuận lợi hơn cho các TCTD; điều kiện vay vốn cần rõ ràng, chính xác; điều chỉnh thời hạn gia hạn nợ thích hợp; lãi suất cho vay khi có nợ quá hạn phải là lãi suất nợ quá hạn tại thời điểm bị chuyển nợ quá hạn. - Về Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ: + Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay nên giao cho TCTD thoả thuận với bên vay chứ không qua một cơ quan nào khác làm trung gian. Cơ sở xác định giá là giá thị trường địa phương hoặc có thể theo khung giá địa phương cộng với hệ số k do TCTD quy định. + Đối với những tài sản có giá trị lớn hơn món vay thì cho phép được thế chấp cho nhiều khoản vay ở nhiều TCTD miễn là tổng giá trị các món vay không vượt giá trị của tài sản đem thế chấp. + Khi thế chấp tài sản gắn liền với đất thì phải thế chấp cả giá trị quyền sử dụng đất cùng với tài sản gắn liền trên đất để việc xử lý tài sản thế chấp được thuận lợi. + Mức vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ tối thiểu là 15% vốn đầu tư vào dự án. v Đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng CIC trực thuộc NHNN. Trong thời gian qua các ngân hàng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin về doanh nghiệp. Các ngân hàng đã không nắm được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như năng lực tài chính hiện có của doanh nghiệp xin vay vốn ngân hàng đặc biệt là thông tin về các tài sản đem thế chấp cầm cố, có những doanh nghiệp dùng một tài sản đem thế chấp ở nhiều ngân hàng trong khi giá trị của tài sản đó chỉ tương đương với một khoản vay. Và khi ngân hàng tiến hành xử lý tài sản thế chấp thì mới biết. Tình trạng này xảy ra là vì sự hoạt động không hiệu quả của Trung tâm thông tin tín dụng CIC, trong đó một phần là do đội ngũ cán bộ của Trung tâm thiếu năng lực, trình độ quản lý và chuyên môn còn hạn chế. Vì vậy NHNN cần đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm này nhằm giúp các ngân hàng có đủ thông tin về những doanh nghiệp liên quan và thông tin là chính xác. Các hình thức hỗ trợ trên của ngân hàng đã thiết lập nên mối quan hệ gần gũi thân thiết giữa ngân hàng và DNVVN tạo điều kiện cho cả hai cùng phát triển. Do đó trong thời gian tới các DNVVN sẽ là những khách hàng chiến lược của ngân hàng. 3.2.2.2. Giải pháp của doanh nghiệp Như đã trình bày ở chương 2, các DNVVN đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong đó vấn đề tiếp cận vốn vay ngân hàng là vấn đề nổi cộm nhất, cấp thiết nhất vì khi doanh nghiệp có được nguồn vốn vay từ ngân hàng thì mọi khó khăn khác sẽ được giải quyết kịp thời. Để có thể tiếp cận vốn vay ngân hàng, ngoài sự giúp đỡ hỗ trợ của Nhà nước và ngân hàng, các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình về mọi mặt để đáp ứng, thoả mãn điều kiện vay vốn của ngân hàng. Trong 5 điều kiện vay vốn ngân hàng đã được đề cập tới ở phần lý thuyết thì các DNVVN thường vướng mắc ở các điều kiện về năng lực tài chính, về thế chấp cầm cố tài sản và thiếu các phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Các giải pháp chủ yếu nhằm tháo gỡ những vướng mắc này từ phía doanh nghiệp đó là: v Nâng cao trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và trình độ tay nghề của lực lượng lao động Một trong những khó khăn hạn chế sự phát triển của DNVVN là trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và trình độ tay nghề của lực lượng lao động. Phần lớn chủ doanh nghiệp là những người không được đào tạo một cách bài bản chuyên môn, trình độ cao đẳng đại học chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong khi đó đội ngũ lao động chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu sự sáng tạo. Chính vì chưa được trang bị kiến thức đầy đủ và điều kiện để áp dụng các phương thức quản lý sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm tiên tiến nên năng suất lao động của các DNVVN nói chung là thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, tính cạnh tranh kém dẫn đến năng lực tài chính kém cản trở việc doanh nghiệp tiếp cận vốn vay ngân hàng. Vì vậy để khắc phục tình trạng này các doanh nghiệp nên tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như đội ngũ lao động những kiến thức, kinh nghiệm mới tiên tiến hoặc tranh thủ sự giúp đỡ của một số trung tâm tư vấn, hỗ trợ DNVVN, các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức khác. Đồng thời các doanh nghiệp còn cần đến một chế độ khen thưởng, xử phạt công bằng, nghiêm minh để khuyến khích người lao động nâng cao trình độ tay nghề phát triển sản xuất, phát triển doanh nghiệp. Nếu làm được như thế các DNVVN sẽ hoạt động hiệu quả và vững vàng hướng tới tương lai. v ứng dụng một cách rộng rãi tin học vào công tác kế toán Như chúng ta đã biết chức năng cơ bản của kế toán là cung cấp thông tin về tình hình kinh tế - tài chính trong doanh nghiệp cho các nhà quản lý. Việc thực hiện chức năng này có tốt hay không trước hết phụ thuộc vào tính thường xuyên, kịp thời và chính xác của thông tin. Ngày nay theo đà phát triển của công nghệ thông tin việc đưa máy vi tính vào sử dụng trong công tác kế toán đã tương đối phổ biến. Tin học hoá công tác kế toán không chỉ giải quyết được vấn đề xử lý và cung cấp thông tin nhanh chóng thuận lợi mà nó còn làm tăng năng suất lao động của bộ máy kế toán tạo cơ sở để tinh giảm bộ máy nâng cao hiệu quả hoạt động kế toán. Các báo cáo tài chính (BCTC) doanh nghiệp là sản phẩm của công tác kế toán doanh nghiệp. Muốn vay vốn ngân hàng các doanh nghiệp thường xuyên phải gửi các BCTC cho ngân hàng để ngân hàng tiến hành thẩm định xem xét từ đó đưa ra quyết định có cho doanh nghiệp vay hay không. Thế nhưng các BCTC mà doanh nghiệp gửi cho ngân hàng phần lớn đều thiếu chính xác không được kiểm toán, sai lệch so với thực tế khá lớn, lỗ thì báo cáo là lãi. Để cải thiện tình hình này doanh nghiệp nên ứng dụng một cách rộng rãi tin học vào công tác kế toán đặc biệt là việc sử dụng những chương trình phần mềm kế toán hữu hiệu đồng thời phải luôn luôn đổi mới hoàn thiện các phần mềm này cho tốt hơn. v Xây dựng được các phương án sản xuất kinh doanh khả thi Phương án sản xuất kinh doanh khả thi là những phương án sau khi thực hiện sẽ thu được doanh thu và doanh thu này phải lớn hơn tổng chi phí đã bỏ ra tức là phương án tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có những ý tưởng hay độc đáo, có khả năng thành công về phương diện tài chính, phương diện thị trường và phương diện kỹ thuật song việc biến những ý tưởng đó thành hiện thực còn là một khoảng thời gian dài do các DNVVN không có đủ vốn, trình độ để thực hiện. Về vốn, doanh nghiệp cần sự hỗ trợ từ phía ngân hàng, muốn vậy họ phải chứng minh cho ngân hàng thấy được tính khả thi của phương án. Thế nhưng rất nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn ở công đoạn này do không biết phải trình bày như thế nào, phải bắt đầu từ đâu và phương án gồm những vấn đề gì dẫn đến sự lúng túng khi trình bày. Do đó trước tiên là cần nâng cao trình độ của chủ doanh nghiệp mà chủ yếu là kiến thức về quy trình lập dự án hoặc doanh nghiệp cũng có thể thuê tư vấn khi lập dự án tránh tình trạng các doanh nghiệp thường bỏ phí những ý tưởng độc đáo hạn chế sự phát triển của nền kinh tế. Bởi vì đối với DNVVN vốn ít mà rủi ro trong kinh doanh còn nhiều thì dự án kinh doanh có hiệu quả lại càng có ý nghĩa quyết định đối với "tuổi thọ" của doanh nghiệp. Kết luận DNVVN với những lợi thế nhất định của quy mô nhỏ đã cố gắng phát huy những tiềm lực sẵn có đóng góp tích cực vào công cuộc CNH-HĐH đất nước. Nhưng DNVVN vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc trong tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước như đã trình bày ở chương hai. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức kinh tế, các trung tâm tư vấn hỗ trợ đã làm dịu đi những khó khăn này. Hiện nay các NHTM đã mạnh dạn hơn trong việc cho DNVVN vay giải quyết tình trạng đóng băng vốn trong ngân hàng với một cơ chế cho vay linh hoạt phù hợp hơn với DNVVN. Qua việc nghiên cứu phân tích đề tài, em đã được bổ sung thêm những kiến thức về DNVVN, về ngân hàng với những hoạt động cơ bản của ngành. Những kiến thức này là rất hữu ích, đặc biệt là đối với chúng em - những cử nhân kinh tế trong tương lai bởi doanh nghiệp ở nước ta chủ yếu là DNVVN (chiếm gần 98% tổng số doanh nghiệp cả nước). Hy vọng rằng những giải pháp, kiến nghị nêu lên trong đề tài sẽ có giá trị đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như ngành ngân hàng góp phần cải thiện mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp trở nên tốt đẹp và gần gũi hơn. Tài liệu tham khảo I. Sách 1. Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam đến năm 2005- PGS.TS Nguyễn Cúc, NXB Chính trị quốc gia năm 2000 2. Chính sách, pháp luật và một số giải pháp hỗ trợ DNVVN ngoài quốc doanh, NXB Đại học quốc gia Hà Nội năm 2000 3. Các tổ chức hỗ trợ DNVVN ở Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 4.Tạo lập môi trường tài chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp-PGS. TS Hoàng Công Thi, Phạm Thị HồngVân, NXB Tài chính tháng 2/2000 5.Những quy định pháp luật về DNVVN- Trần Nam Sơn, Lê Hải Anh, NXB Lao động năm 2000 6. Phát triển DNVVN: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển DNVVN ở Việt Nam- Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hoà, NXB Thống kê năm 2001 7. Niên giám thồng kê 2000, NXB Thống kê năm 2001 8. Những điều cần biết về vay vốn ngân hàng- Lê Thanh Châu, NXB Thành phố HCM năm 2001 9. Ngân hàng Công thương 1988-2000 II. Tạp chí 1. Ngân hàng 2. Tài chính 3. Thông tin tài chính 4. Thị trường tài chính tiền tệ 5. Nghiên cứu kinh tế 6. Phát triển kinh tế 7. Kinh tế và dự báo 8. Thương mại ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0111.doc
Tài liệu liên quan