Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm an toàn trong Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Thanh toán quốc tế là một lĩnh vực hoạt động gắn liền với thương mại quốc tế với quy mô và phạm vi hoạt động rộng lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều chủ thể ở những quốc gia khác nhau. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, hoạt động thương mại quốc tế ngày càng trở nên sôi động nhưng cũng đầy phức tạp, các đối tác tham gia hoạt động này còn nhiều bất cập và rủi ro lớn, những vụ lừa đảo, gian lận trong Thanh toán quốc tế ngày càng tinh vi, nó xuất hiện ở nhiều quốc gia trên t

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm an toàn trong Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế giới, nó dẫn đến những tranh chấp giữa ngân hàng với ngân hàng, giữa ngân hàng với khách hàng, giữa khách hàng với khách hàng. Điều này không chỉ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của Thanh toán quốc tế tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như tại các Ngân hàng thương mại mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động Thanh toán quốc tế nói riêng. Nó không những gây tổn thất, thiệt hại về tài sản, tiền bạc cho cả ngân hàng và khách hàng mà còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng trên thương trường quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu để tìm ra các biện pháp đồng bộ, hữu hiệu và khả thi nhằm góp phần đảm bảo an toàn trong hoạt động Thanh toán quốc tế đã và đang trở thành một trong những vấn đề bức xúc, cả về phương diện lý luận và thực tiễn không chỉ đối với các nhà quản trị ngân hàng, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà ngay cả các nhà nghiên cứu cũng quan tâm đến vấn đề này. Thời gian qua, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng tham gia hoạt động Thanh toán quốc tế sớm nhất và có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Từ đó, em chọn nội dung nghiên cứu: “Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm an toàn trong Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” Hoạt động Thanh toán quốc tế rất rộng lớn, bao trùm nhiều lĩnh vực nghiệp vụ khác nhau như thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá, thanh toán phi mậu dịch, nghiệp vụ bảo lãnh… Với chuyên đề này, em hy vọng sẽ hoàn thiện phần nào các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động Thanh toán quốc tế của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề thực tập gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về an toàn trong Thanh toán quốc tế Chương 2: Thực trạng về bảo đảm an toàn trong Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Chương 3: Hoàn thiện một số biện pháp đảm bảo an toàn trong Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ 1.1. Tổng quan về thanh toán quốc tế: 1.1.1. Khái niệm về thanh toán quốc tế: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế WTO, các mối quan hệ kinh tế, chính trị, thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ và kết quả là hình thành nên các khoản thu và chi tiền tệ quốc tế giữa các đối tác ở các nước khác nhau. Các mối quan hệ tiền tệ này ngày một phong phú, đa dạng với quy mô ngày càng lớn. Trong các mối quan hệ quốc tế, các đối tác ở các nước khác nhau nên có sự khác nhau về ngôn ngữ, cách xa nhau về địa lý nên việc thanh toán không thể tiến hành trực tiếp với nhau mà phải thông qua các tổ chức trung gian, đó chính là các ngân hàng thương mại (NHTM) cùng mạng lưới của ngân hàng (NH) hoạt động khắp nơi trên thế giới. Thanh toán quốc tế (TTQT) ra đời từ lâu nhưng nó mới chỉ phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 20 khi mà khối lượng mua bán, đầu tư quốc tế và chuyển tiền quốc tế ngày càng gia tăng, từ đó làm cho khối lượng giao dịch thanh toán qua NH cũng tăng theo. Thông qua thanh toán qua NH, việc sử dụng đồng tiền các nước và các phương thức thanh toán để chi trả lẫn nhau tăng lên. TTQT đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động của nền kinh tế của các quốc gia hiện nay. TTQT có thể định nghĩa theo nhiều quan điểm khác nhau: Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác giữa các tổ chức, các công ty và các chủ thể khác nhau của các nước. Thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện các khoản thu chi tiền tệ quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng trên thế giới nhằm phục vụ cho các mối quan hệ trao đổi quốc tế phát sinh giữa các nước với nhau. 1.1.2. Nội dung của hoạt động thanh toán quốc tế Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà đôi bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện được quy định lại thành những điều kiện gọi là điều kiện thanh toán quốc tế. Các điều kiện đó là: -Tiền tệ thanh toán -Địa điểm thanh toán -Thời gian thanh toán -Phương thức thanh toán Nghiệp vụ TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT trên. Các điều kiện này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể vận dụng chúng một cách tốt nhất trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hiệp định thương mại, các hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước. Các điều kiện trên khi được vận dụng một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế, tránh được những rủi ro, tổn thất cho các bên áp dụng. Trong đó, phương thức thanh toán là một nội dung khá quan trọng. Người ta có thể dùng nhiều phương thức thanh toán khác nhau, nhưng việc lựa chọn phương thức nào phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng hạn và từ yêu cầu của người mua là nhập khẩu đủ số lượng, chất lượng, đúng hạn. Chuyên đề xin đề cập đến ba phương thức đang được sử dụng phố biến: - Phương thức thanh toán Thư tín dụng L/C (Letter of Credit) - Phương thức thanh toán nhờ thu (Document Collection) - Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remittance Payment) (Chi tiết về ba phương thức trên sẽ được trình bày trong mục 1.2.3) 1.1.3. Đặc điểm của thanh toán quốc tế: Trước hết, TTQT diễn ra trên phạm vi toàn cầu, phục vụ các giao dịch thương mại, đầu tư, hợp tác quốc tế thông qua mạng lưới NH trên thế giới. TTQT khác với thanh toán trong nước vì nó liên quan đến việc trao đổi tiền của quốc gia này lấy tiền của quốc gia khác. Vì vậy, khi ký kết các hợp đồng mua bán ngoại thương, các bên phải thỏa thuận với nhau lấy đồng tiền của nước nào là tiền tệ tính toán và thanh toán trong hợp đồng, đồng thời phải tính toán thận trọng để lựa chọn các biện pháp phòng chống rủi ro khi tỷ giá hối đoái biến động. Tiền tệ trong TTQT thường không phải là tiền mặt mà nó tồn tại dưới hình thức các phương tiện thanh toán như thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, hối phiếu, kỳ phiếu và séc ghi bằng ngoại tệ. Thanh toán giữa các nước đều được tiến hành thông qua NH, về bản chất chính là các nghiệp vụ NH quốc tế. Chúng được hình thành và phát triển trên cơ sở các hợp đồng ngoại thương và các trao đổi tiền tệ quốc tế. TTQT giữ mối quan hệ mật thiết với các nghiệp vụ NH quan trọng khác: Với nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: nhằm phục vụ nhu cầu TTQT bằng các loại ngoại tệ khác nhau, hạn chế rủi ro hối đoái trong thanh toán và kinh doanh của khách hàng và cũng nhằm mục đích kinh doanh vì lợi nhuận của NH. Với hoạt động tài trợ ngoại thương: nhằm hỗ trợ nguồn tài chính cho khách hàng xuất nhập khẩu trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTQT. Với các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro: như thông tin tín dụng, bảo lãnh NH… Với hoạt động NH đại lý: chỉ khi mạng lưới các NH tại nước ngoài và các NH đại lý rộng khắp thì hoạt động TTQT mới thực sự được tiến hành và phát triển. TTQT được thực hiện dựa trên nền tảng pháp luật và các tập quán thương mại quốc tế, đồng thời nó cũng bị chi phối bởi luật pháp các quốc gia, bởi chính sách kinh tế, chính sách ngoại thương, chế độ quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia. 1.2. Tổng quan về an toàn trong hoạt động thanh toán quốc tế tại các Ngân hàng thương mại. 1.2.1. Khái niệm an toàn trong thanh toán quốc tế Khái niệm về an toàn được hiểu tuỳ theo quan điểm và lĩnh vực khác nhau. Theo quan điểm của tôi: “An toàn là không gặp nguy hiểm, không có thiệt hại hay tổn thất nào xảy ra.” TTQT là một lĩnh vực hoạt động kinh tế. Do đó khái niệm về an toàn trong TTQT được hiểu theo góc độ kinh tế. Chúng ta có thể đưa ra khái niệm về an toàn trong TTQT như sau: An toàn trong thanh toán quốc tế là một quá trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế được thực hiện một cách trôi chảy, bình thường, mọi khoản thanh toán đòi tiền hoặc trả tiền cho phía đối tác được tiến hành thuận lợi, không xảy ra mất tiền làm thiệt hại cho các bên liên quan. Người bán bán hàng và thu được tiền, người mua mua hàng và thực hiện trả tiền. Ngân hàng chuyển trả tiền đến đúng người hưởng và ngân hàng đòi tiền thì thu được tiền. TTQT là một trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của NHTM. Mọi rủi ro, mất an toàn trong hoạt động này đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của hoạt động NH. 1.2.2. Sự cần thiết phải đảm bảo an toàn trong thanh toán quốc tế: Mục tiêu an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh luôn là mối quan tâm hàng đầu trong mỗi NH. Đặc biệt, TTQT là một hoạt động tài chính gắn liền với thương mại quốc tế và luôn nhạy cảm với diễn biến tình hình quốc tế phức tạp hiện nay. Trong xu thế toàn cầu hoá, hoạt động này đòi hỏi ngày càng hoàn thiện, đảm bảo sự nhanh nhạy nhưng phải an toàn và chính xác cao. Mọi sơ sót trong xử lý nghiệp vụ TTQT tại NH đều có thể dẫn đến rủi ro mất tiền, mất an toàn trong TTQT, gây thiệt hại về tài sản, thu nhập, uy tín của NH rất nhiều. Rủi ro về uy tín không định lượng được và không phát sinh hậu quả ngay, phải mất một thời gian dài người ta mới nhận ra hậu quả của nó. Tuy nhiên, những hậu quả đó khi xảy ra sẽ vô cùng nghiêm trọng và rất khó khắc phục. Nếu uy tín của NH giảm sút, các khách hàng trong và ngoài nước sẽ không thực hiện các giao dịch tại NH; các NH nước ngoài không lựa chọn NH đó làm đối tác trong giao dịch TTQT như thông báo, xác nhận, chiết khấu L/C, NH nhờ thu hoặc NH chi trả trong phương thức chuyển tiền… Mặt khác, NH cũng gặp khó khăn trong việc đề nghị các NH nước ngoài cung cấp các dịch vụ TTQT cho mình như xác nhận TTD, chiết khấu bộ chứng từ xuất trình L/C do mình phát hành… Bên cạnh đó, NH có thể gặp rủi ro về tài chính, đó là những rủi ro có thể nhận thấy ngay, định lượng được và gây hậu quả trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của NH. Các rủi ro về tác nghiệp, hay vấn đề đạo đức của các bên liên quan… khiến các NH phải tự thanh toán bằng tiền của mình cho các khoản phí, tiền phạt hoặc giá trị của lô hàng. Vì vậy, ta cần phải có những biện pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động TTQT của NHTM. Điều đó luôn là điều kiện cần thiết và là yêu cầu bức thiết để các NHTM bước vào sân chơi bình đẳng của xu thế hội nhập quốc tế về NH ngày nay. Với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, sự an toàn trong hoạt động của NH nói chung và của hoạt động TTQT nói riêng luôn là một yêu cầu bức thiết của một quốc gia. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá lợi thế của quốc gia đó trong việc thiết lập các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Đồng thời, một hệ thống NH an toàn và hiệu quả sẽ tạo điều kiện tốt để ổn định giá trị của đồng tiền thanh toán, vai trò trung gian trong TTQT của NH có điều kiện phát huy hiệu quả. Đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày nay, cạnh tranh khốc liệt, rủi ro lớn luôn rình rập các NH, nguy cơ đổ vỡ lớn. Vì vậy, mục tiêu an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh NH nói chung và an toàn trong TTQT nói riêng ngày càng trở nên quan trọng và bức thiết hơn. Bảo đảm an toàn trong TTQT là một trong những nhiệm vụ quan trọng của NHTM nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để NH phát triển bền vững, đủ sức hội nhập quốc tế, góp phần thiết thực trong việc tăng trưởng kinh tế của đất nước, nâng cao uy tín và vị thế của quốc gia trên thương trường quốc tế. 1.2.3. Mức độ an toàn của một số phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng phổ biến: Hiện nay, tại các NHTM nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (NHNT) nói riêng đang sử dụng chủ yếu ba phương thức sau: 1.2.2.1. Phương thức thanh toán Thư tín dụng L/C: 1.2.2.1.1. Khái niệm: Phương thức thanh toán Thư tín dụng (TTD) (còn gọi là phương thức thanh toán L/C) là phương thức thanh toán trong đó, theo yêu cầu của khách hàng, một NH sẽ phát hành một văn bản gọi là TTD cam kết sẽ trả ngay hoặc chấp nhận trả vào một ngày trong tương lai một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc người được chỉ định trong TTD khi người này xuất trình cho NH đầy đủ bộ chứng từ thanh toán hoàn toàn phù hợp với các điều khoản và điều kiện của TTD. Như vậy, TTD là một văn bản cam kết của NH (NH mở L/C), được phát hành theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở L/C – nhà nhập khẩu) cho người bán – nhà xuất khẩu hưởng (người hưởng lợi L/C) và có thể được thanh toán theo phương thức trả ngay (at sight) hay trả kỳ hạn (usance payment). Một số chứng từ chủ yếu cho một TTD là: - Hối phiếu (Bill of Exchange) - Hoá đơn thương mại (Commercial invoice) - Vận đơn (Bill of Lading) - Chứng nhận xuất xứ (Certificate of origin) - Chứng nhận bảo hiểm (Insurance certificate) - Chứng nhận chất lượng và số lượng (Quality and quantity certificate) 1.2.2.1.2.Quy trình nghiệp vụ phương thức thanh toán L/C: Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ tổng quát phương thức thanh toán L/C (4) Giao hàng (6) Kiểm tra và chuyển chứng từ Nhà xuất khẩu (Exporter) NH phát hành (Issuing bank) (2) Phát hành L/C (7a) Kiểm tra và thanh toán hoặc chấp nhận hối phiếu (7c) Giao chứng từ (7a) Kiểm tra và thanh toán (1) Đơn xin mở L/C (3) Thông báo L/C (5) Xuất trình chứng từ (8) Ghi có người hưởng lợi hoặc chuyển hối phiếu NH thông báo (Advising bank) Nhà nhập khẩu (Importer) (1) Sau khi ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, nhà nhập khẩu làm đơn xin mở TTD và gửi đến NH phục vụ mình. (2) Căn cứ vào yêu cầu và nội dung xin mở TTD, NH phát hành sẽ mở TTD cho người hưởng lợi qua NH thông báo. (3) NH thông báo sau khi kiểm tra, xác thực L/C, chuyển TTD cho nhà xuất khẩu. (4) Nhà xuất khẩu nhận và kiểm tra L/C. Nếu chấp nhận thì tiến hành giao hàng. Nếu chưa chấp nhận thì yêu cầu người mua - bên nhập khẩu sửa đổi L/C và sau khi đã chấp nhận nội dung sửa đổi thì giao hàng. (5) Sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ và xuất trình qua NH thông báo hoặc NH chiết khấu để đòi tiền. (6) NH thông báo hoặc NH chiết khấu kiểm tra, chuyển bộ chứng từ cho NH phát hành đòi tiền, hoặc điện thông báo chứng từ phù hợp và đòi tiền bằng điện. (7a) NH phát hành kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì ghi nợ nhà nhập khẩu. (7b) NH chuyển tiền thanh toán cho NH nước ngoài, hoặc chấp nhận hối phiếu. (7c) NH phát hành giao chứng từ cho nhà nhập khẩu đi nhận hàng. (8) NH thông báo ghi có cho nhà xuất khẩu hoặc chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho nhà xuất khẩu. 1.2.2.1.3. Mức độ an toàn của phương thức thanh toán L/C Đây là phương thức thanh toán có mức chi phí cao hơn các phương thức khác, khi sử dụng phương thức này thì mức độ tin cậy của người bán đối với người mua thấp, nhưng nó có độ an toàn cao hơn các phương thức thanh toán khác. Tuy nhiên, đó không phải là phương thức an toàn tuyệt đối cho người bán khi NH phát hành thua lỗ, mất khả năng thanh toán hay phá sản. Phương thức này cũng không bảo vệ được quyền lợi của người mua khi người bán là kẻ lừa đảo. Rủi ro vẫn có thể xảy ra đối với các bên liên quan, gây chậm trễ hoặc mất tiền trong thanh toán. Mức độ an toàn của các bên liên quan chính của phương thức thanh toán L/C được phân tích như sau: * Đối với nhà xuất khẩu: NH phát hành vừa là người trung gian thu hộ tiền, vừa là đại diện cho nhà nhập khẩu cam kết thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, đảm bảo cho nhà xuất khẩu nhận được tiền sau khi đã giao hàng và lập được chứng từ phù hợp với các điều kiện của L/C. Nhờ vào sự cam kết của NH, người bán tin tưởng và yên tâm giao hàng. Tuy nhiên, họ có thể gặp rủi ro khi nhà nhập khẩu lừa đảo bằng một L/C giả. * Đối với nhà nhập khẩu: NH phát hành làm trung gian thanh toán cho nhà nhập khẩu, đảm bảo cho họ nhận được hàng phù hợp với bộ chứng từ thanh toán. Tuy nhiên, họ có thể gặp rủi ro khi người bán vi phạm đạo đức kinh doanh, giao hàng không đúng hợp đồng nhưng vẫn lập chứng từ phù hợp để đòi tiền. * Đối với NH phát hành: Do NH cam kết thanh toán khi chứng từ hoàn thành phù hợp với L/C nên họ cũng có thể gặp rủi ro, mất an toàn trong thanh toán khi: + Nhà xuất khẩu có hành vi lừa đảo, lập chứng từ hoàn toàn phù hợp với L/C để đòi tiền, NH đã thanh toán nhưng không đòi lại được tiền từ nhà nhập khẩu do họ mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản. + Do tính chất của việc thanh toán L/C chỉ dựa trên chứng từ, nếu NH phát hành sơ suất trong kiểm tra và xử lý chứng từ, không thông báo kịp thời về việc bất hợp lệ cho NH thông báo hoặc NH chiết khấu trong thời hạn cho phép của UCP, họ cũng có thể gặp rủi ro mất tiền, mất an toàn trong thanh toán. Hoặc nhà nhập khẩu cố tình từ chối thanh toán khi chứng từ phù hợp hoặc tranh chấp với NH về sự phù hợp của chứng từ. * Đối với NH thông báo: NH thông báo có thể bị lôi vào vòng tranh chấp khi thông báo nhầm L/C giả. * Đối với NH chiết khấu: Nếu NH chiết khấu thiếu thận trọng trong kiểm tra chứng từ hàng xuất, không phát hiện bất hợp lệ chứng từ, tạo điều kiện cho NH phát hành từ chối thanh toán khi NH đã chiết khấu. Ngoài ra nếu xảy ra các nguyên nhân bất khả kháng như các sự kiện về thiên tai, chiến tranh, nổi loạn, đảo chính, đình công, đóng cửa các hoạt động NH do khủng hoảng kinh tế… nếu ngày xuất trình chứng từ hoặc ngày hết hiệu lực của L/C rơi vào ngày mà các sự kiện trên xảy ra thì UCP cho phép NH phát hành được miễn khả năng thanh toán trong khi nhà xuất khẩu đã giao hàng và NH đã chiết khấu bộ chứng từ thì NH chiết khấu sẽ gánh chịu rủi ro. 1.2.2.2. Phương thức thanh toán nhờ thu (Documentary collection) 1.2.2.2.1.Khái niệm: Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho nhà nhập khẩu thì tiến hành uỷ thác cho NH thu hộ tiền hàng trên cơ sở hối phiếu và chứng từ do người xuất khẩu lập. Có hai hình thức nhờ thu là: - Nhờ thu trơn (Clean Collection): là phương thức mà người xuất khẩu uỷ thác cho NH thu hộ tiền ở người nhập khẩu căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người nhập khẩu thông qua NH. - Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection): là phương thức trong đó nhà xuất khẩu uỷ thác cho NH thu hộ tiền nhà nhập khẩu không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo điều kiện là nếu nhà nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì NH mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người nhập khẩu để họ nhận hàng. Phuơng thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ được chia làm 2 loại: + Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (D/P: Document against payment) + Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (D/A: Document against acceptance) 1.2.2.2.2. Quy trình nghiệp vụ nhờ thu tổng quát: Sơ đồ 1.2: Quy trình nghiệp vụ nhờ thu tổng quát (2) Nộp hối phiếu hoặc chứng từ (4) Thông báo nhà nhập khẩu NH chuyển chứng từ (Remitting bank) NH xuất trình (Presenting bank) Nhà xuất khẩu (Drawer) Nhà nhập khẩu (Drawee) (8) Thanh toán/ Thông báo chấp nhận hối phiếu hoặc chứng từ (1) Giao hàng (5) Thanh toán/ chấp nhận thanh toán (7) Chuyển tiền TT/ chấp nhận TT (6) Thông báo từ chối TT/chấp nhận TT (3) Lệnh nhờ thu (1) Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu (2) Nhà xuất khẩu nộp hối phiếu (đối với nhờ thu trơn) hoặc bộ chứng từ (đối với nhờ thu kèm chứng từ) vào NH phục vụ mình nhờ chuyển đến NH nước nhà nhập khẩu nhờ thu hộ tiền hàng. (3) NH chuyển chứng từ gửi hối phiếu (đối với nhờ thu trơn) hoặc bộ chứng từ (đối với nhờ thu kèm chứng từ) đến NH phục vụ nhà nhập khẩu (NH xuất trình/NH thu hộ) nhờ thu hộ tiền hàng. (4) NH thu hộ nhận được hối phiếu (đối với nhờ thu trơn) hoặc bộ chứng từ (đối với nhờ thu kèm chứng từ) tiến hành thông báo cho nhà nhập khẩu. (5) Nếu nhà nhập khẩu thanh toán và chấp nhận thanh toán thì giao chứng từ nhà nhập khẩu (6) Nếu nhà nhập khẩu từ chối thanh toán hoặc từ chối chấp nhận thanh toán thì giữ lại hối phiếu hoặc bộ chứng từ và thông báo cho NH chuyển chứng từ cho ý kiến xử lý. (7) NH thu hộ tiền thanh toán, thông báo chấp nhận thanh toán hoặc chuyển trả bộ chứng từ bị từ chối thanh toán, từ chối chấp nhận thanh toán. (8) NH chuyển chứng từ thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu, thông báo chấp nhận thanh toán hoặc chuyển trả lại hối phiếu bị từ chối cho nhà xuất khẩu. 1.2.2.2.3. Mức độ an toàn của phương thức thanh toán nhờ thu: Đối với phương thức thanh toán nhờ thu, tuy không tạo thành một đảm bảo thanh toán đối với người bán nhưng cũng tạo điều kiện cho người này nắm giữ quyền kiểm soát hàng hoá cho đến khi được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Trong kỹ thuật thanh toán này, NH làm trung gian thu hộ tiền người bán, giữ các hối phiếu hoặc chứng từ giao hàng cho đến khi người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Mức độ an toàn cho các bên không cao. * Đối với người bán: + Người mua muốn từ chối nhận hàng sẽ không nhận chứng từ và không thanh toán. Người bán sẽ gánh chịu chi phí khi hàng bị chuyển tải về nước. + Người mua có thể từ chối trả tiền khi đã ký chấp nhận hối phiếu để nhận hàng nhưng đến ngày đáo hạn không thanh toán hoặc chậm thanh toán. * Đối với người mua: Nếu người bán thiếu trung thực trong mua bán, giao hàng kém phẩm chất, không phù hợp với hợp đồng đã ký, hoặc người bán cố tình lừa gạt người mua sẽ gửi hối phiếu hoặc chứng từ đến NH trước, gửi hàng sau thì người mua có thể gặp rủi ro, thua lỗ do đã trả tiền cho người bán. * Đối với các NH liên quan: Trong phương thức thanh toán nhờ thu, NH đóng vai trò trung gian thanh toán tiền hàng giữa người mua và người bán, không liên quan đến các cam kết của người mua, không có trách nhiệm đối với thiện chí thanh toán của họ. NH thu hộ hoạt động với tư cách là đại lý của NH chuyển chứng từ và phải theo sát những chỉ thị của NH chuyển chứng từ. Tuy nhiên, nếu NH thực hiện tài trợ nhập khẩu đối với người mua, hoặc tài trợ xuất khẩu đối với người bán, họ cũng có thể gặp rủi ro liên đới khi có đối tác gian lận, lừa đảo hay cố tình chây ì không thanh toán. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến an toàn và hiệu quả trong TTQT. 1.2.2.3. Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remitance Payment) 1.2.2.3.1. Khái niệm: Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng yêu cầu NH phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi ở nước ngoài. NH chuyển tiền thông qua NH đại lý của mình ở nước người hưởng lợi để thực hiện nghiệp vụ. Phương thức thanh toán này có thể áp dụng để thanh toán tiền hàng mậu dịch và các khoản tiền phi mậu dịch. Chuyển tiền để thanh toán tiền hàng mậu dịch có thể được thực hiện trước lúc giao hàng (người mua ứng trước cho người bán), ngay lúc giao hàng, hoặc sau khi giao hàng. Chuyển tiền trong thanh toán phi mậu dịch được thực hiện theo yêu cầu của người chuyển tiền. Có hai phương tiện thanh toán của phương thức chuyển tiền: + Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T): phương tiện này thủ tục khá đơn giản, chi phí rẻ nhưng tốc độ thanh toán chậm nên ít dùng. + Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer – T/T): phương tiện này đòi hỏi chi phí cao hơn nhưng tốc độ xử lý nhanh hơn, thông tin chính xác, bảo mật. Hình thức chuyển tiền bằng điện có thể được thực hiện thông qua hệ thống Telex hoặc hệ thống thanh toán toàn cầu SWIFT. 1.2.2.3.2. Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền sau khi giao hàng Sơ đồ 1.3: Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền khi giao hàng Nhà xuất khẩu (Exporter) NH chuyển tiền (Remitting bank) NH thanh toán (Paying bank) (3) Chuyển tiền thanh toán (2) Lập lệnh thanh toán (4) Ghi có (1) Giao hàng và chứng từ Nhà nhập khẩu (Importer) (1) Nhà xuất khẩu thực hiện việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho nhà nhập khẩu và chuyển giao toàn bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu. (2) Nhà nhập khẩu sau khi nhận chứng từ để nhận hàng, lập lệnh chuyển tiền gửi đến NH phục vụ mình yêu cầu chuyển tiền cho nhà xuất khẩu. (3) NH phục vụ nhà nhập khẩu phát hành lệnh chi yêu cầu NH đại lý của mình ở nước nhà xuất khẩu trả tiền cho nhà xuất khẩu. (4) NH phục vụ nhà xuất khẩu trả tiền cho nhà xuất khẩu. 1.2.2.3.3. Mức độ an toàn của phương thức thanh toán chuyển tiền Đây là phương thức thanh toán đơn giản về thủ tục, chi phí thấp nhưng mức độ an toàn cho các bên thấp. Khi sử dụng phương thức thanh toán này, mức độ tin tưởng của người bán với người mua cao. * Đối với người bán: + Hàng đã giao nhưng không nhận được tiền thanh toán vì người mua mất khả năng thanh toán hoặc cố tình không thanh toán. + Nhận được tiền thanh toán không đúng thời hạn quy định trong hợp đồng vì người mua gặp khó khăn về tài chính nên trì hoãn thanh toán. * Đối với người mua: Trường hợp người mua đã chuyển tiền ứng trước, họ có thể gặp rủi ro, mất an toàn khi: + Người bán giao hàng không đúng quy định trong hợp đồng đã ký. + Người bán không giao hàng trong trường hợp họ bị phá sản, hoặc không có hàng để giao, hoặc hàng hoá có xu hướng tăng thì họ sẽ bán cho khách hàng khác với giá cao hơn. * Đối với NH: Trong phương thức thanh toán này, NH chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán và hưởng phí trung gian chuyển tiền. Vì vậy, nó chỉ được sử dụng trong thanh toán tiền hàng khi các bên có độ tin cậy lớn. Tuy nhiên, nó được sử dụng khá phổ biến trong thanh toán phi mậu dịch như chuyển tiền kiều hối từ nước ngoài, thanh toán cước phí, hoa hồng…. Nó cũng chính là phương thức hỗ trợ các phương thức TTQT khác. 1.2.4. Các biện pháp đảm bảo an toàn trong Thanh toán quốc tế: Đề đảm bảo an toàn trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTQT, mỗi NHTM đều có các biện pháp áp dụng riêng cho hoạt động này. Một số biện pháp mà các NHTM đang áp dụng để đảm bảo an toàn trong TTQT sau: Một là, ban hành quy trình xử lý nghiệp vụ TTQT nhằm giúp cho cán bộ làm công tác TTQT vận hành thực tiễn, hạn chế được nhiều rủi ro trong TTQT. Hai là, sử dụng các chương trình vi tính hiện đại phục vụ cho hoạt động TTQT, tham gia thanh toán toàn cầu SWIFT để tận dụng các ưu thế của mạng này nhằm tiết giảm chi phí cũng như đảm bảo tính chính xác, an toàn, bảo mật cho hoạt động này. Ba là, đào tạo cán bộ nhằm tạo nguồn lực có trình độ chuyên sâu trong TTQT, đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ, đủ sức hội nhập quốc tế về NH bằng các khoá học ngắn hạn, dài hạn trong và ngoài nước. Bốn là, phân loại khách hàng để xác định hạn mức ký quỹ khi mở L/C, phát hành bảo lãnh. Năm là, phân loại rủi ro thị trường trong và ngoài nước để lựa chọn thị trường an toàn cho các giao dịch trong TTQT. Tóm lại, TTQT là một trong những lĩnh vực nghiệp vụ kinh doanh phức tạp tại NHTM, nó luôn chứa đựng rủi ro và cạm bẫy, lừa đảo trong hoạt động này cũng rất tinh vi. Để đảm bảo an toàn trong kinh doanh dịch vụ này, cán bộ NH phải am hiểu chuyên môn về nó, phải nắm vững quy trình, kỹ thuật xử lý nghiệp vụ của từng phương thức TTQT để vận hành vào thực tiễn, tìm hiểu rủi ro của từng phương thức có thể dẫn đến mất an toàn trong TTQT của các bên liên quan để có biện pháp phòng ngừa và hạn chế. Vì vậy, trong chương 1, em tập trung nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận liên quan đến an toàn trong TTQT, hệ thống hoá các phương thức và mức độ an toàn của từng phương thức trong TTQT để làm nền tảng phân tích thực trạng của nó trong chương 2, có cơ sở để đưa ra các biện pháp xử lý trong chương 3. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 2.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương: Tiền thân là Cục quản lý Ngoại hối, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNT) được thành lập từ ngày 01.04.1963 với tên giao dịch quốc tế là Bank for Foreign Trade of Vietnam, tên điện tín là Vietcombank (VCB). Năm 2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp giấy phép hoạt động số 138/GP-NHNN cho NHNT sau khi cổ phần hoá, chuyển đổi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam từ Ngân hàng thương mại Nhà nước sang Ngân hàng thương mại cổ phần. Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, tên đầy đủ bằng tiếng Anh là Joint Stock Commercial Bank For Foreign Trade Of Vietnam, tên giao dịch là Vietcombank và tên viết tắt là VCB. NHNT có địa chỉ trụ sở chính tại số 198 Trần Quang Khải, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam. NHNT được Nhà nước xếp hàng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, là thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng Châu Á, thành viên của tổ chức thanh toán viễn thông tài chính liên NH toàn cầu SWIFT, thành viên của hai tổ chức thẻ tín dụng quốc tế Mastercard và Visacard, là tổ chức độc quyền phát hành thẻ Amex tại Việt Nam. Trong 46 năm hoạt động, NHNT VN đã phát triển thành một NH đa năng. Trong hệ thống NH Việt Nam, NHNT là NHTM phục vụ đối ngoại lâu đời nhất, có uy tín trong các lĩnh vực tài trợ, thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh NH, các dịch vụ tài chính, NH quốc tế, là NH chủ lực trong thực hiện chính sách tỷ giá của NHNN, thay mặt Chính phủ đàm phán, tiếp nhận quản lý các khoản vốn vay nước ngoài và viện trợ của nước ngoài. NHNT được tổ chức theo mô hình tổng công ty đặc biệt, có đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc, có đơn vị thành viên hạch toán độc lập. Hệ thống mạng lưới NHNT tiếp tục được mở rộng và phát triển với 70 phòng giao dịch được thành lập mới. Hiện nay, NHNT Việt Nam đã có 59 Chi nhánh (bao gồm cả Sở giao dịch), 146 Phòng Giao dịch, 4 công ty con (trong đó có 1 công ty ở nước ngoài), 2 văn phòng đại diện nước ngoài và nhiều công ty liên doanh, liên kết. Thời gian qua, NHNT đã sát cánh cùng các NHTM khác trong hệ thống NH Việt Nam không ngừng đổi mới, phát triển và hoàn thiện hơn các mặt hoạt động NH, đã có nhiều đóng góp tích cực trong mở rộng quan hệ đối ngoại của NH, đã phát triển nhiều dịch vụ NH mang nhiều tiện ích đến mọi tầng lớp dân cư như I-Banking, SMS Banking, Visa Debit…, mang lại hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam. 2.1.1. Về tổng nguồn vốn: Đến 31/12/2008, tổng tích sản của NHNT VN đạt 219,91 ngàn tỷ VNĐ, tăng 11,4% so với năm 2007. Đây là một chỉ tiêu mà hoạt động TTQT có tác động tích cực đến tăng trưởng của nó rất nhiều. Doanh thu hoạt động TTQT càng phát triển sẽ góp phần tạo khả năng khơi tăng nguồn vốn ngoại tệ cho NH; ngược lại, khi NH có nguồn vốn lớn, đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ sẽ góp phần phục vụ tốt cho hoạt động TTQT phát triển. Biểu đồ 2.1: Tổng tích sản của Ngân hàng Thương mại cổ phầnNgoại thương Việt Nam giai đoạn 2003-2008 ._. Đơn vị: tỷ VNĐ (Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thường niên năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 và báo cáo tài chính năm 2008 của NHNT) 2.1.2. Về dư nợ tín dụng cho nền kinh tế: Tổng dư nợ tín dụng đến 31.12.2008 là 125,816 tỷ VNĐ, tăng 29% so với năm 2007. Bảng 2.1:Dư nợ tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phầnNgoại thương Việt Nam (2003-2008) Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Dư nợ tín dụng 39,678 50,831 61,044 67,743 97,532 125,816 Tốc độ tăng trưởng 28.1% 20.09% 10.97% +43.97% +29% (Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên các năm 2003-2007 và báo cáo tài chính năm 2008 của NHNT) Đây cũng là một trong những mặt hoạt động có quan hệ hữu cơ với hoạt động TTQT tại NHTM. Hoạt động TTQT không chỉ hỗ trợ cho hoạt động tín dụng phát triển mà còn ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Nhìn chung, hoạt động tín dụng của NHNT đã góp phần cùng ngành NH tích cực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước rất nhiều. 2.1.3. Về lợi nhuận của NH: Tổng lợi nhuận hợp nhất trước thuế là 3.352 tỷ đồng Tạp chí Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam sô 3/2009(188) . Nhìn chung, kết quả hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống NHNT là khá ổn định và đạt hiệu quả cao. Trong đó, hoạt động TTQT cũng góp phần tạo hiệu quả chung cho hoạt động kinh doanh của NHNT. Ta có thể thấy hiệu quả hoạt động qua các chỉ số ROA và ROE sau: Biểu đồ 2.2: Chỉ số ROA của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (2003-2008) Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2007 và báo cáo tài chính năm 2008 của NHNT. Biểu đồ 2.3: Chỉ số ROE của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (2003-2008) Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2007 và báo cáo tài chính năm 2008 của NHNT. 2.2. Thực trạng về an toàn trong thanh toán quốc tế của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam: 2.2.1. Kết quả hoạt động thanh toán quốc tế: Trong những năm gần đây, hoạt động TTQT của NHNT tăng cả về quy mô và chất lượng. NHNT đã phát huy tốt vai trò đầu mối thanh toán xuất nhập khẩu, cân đối ngoại tệ. Từ ngày 2 tháng 6 năm 2008, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam chuyển đổi thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Trong bối cảnh thị trường ngày càng có nhiều NH tham gia các chính sách cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua NHNT vẫn được duy trì ở mức cao, tiếp tục khẳng định vị trí là NH thanh toán xuất nhập khẩu hàng đầu tại Việt Nam. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2008 tăng 22,9%Tạp chí Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương số 3/2009 (188) . Tuy doanh số TTQT qua NHNT vẫn tăng đều đặn nhưng thị phần của NHNT VN có xu hương giảm do sự cạnh tranh khốc liệt từ NH khác trong lĩnh vực TTQT. Bảng 2.2: Doanh số Thanh toán quốc tế của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2003 – 2007 Đơn vị: Triệu USD Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Doanh số TTQT của NHNT 12.488 16.420 21.000 22.820 26.316 32.342 Tốc độ tăng NS/NT 31.48% 27,89% 8,67% 15,32% 22,9% Doanh số TTQT của cả nước 40.017 57.561 68.521 80.010 95.210 111.524 Thị phần của NHNT 31,21% 28,53% 30,65% 28,17% 37,64% 29% Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN và NHNT Về hoạt động chuyển tiền, doanh số chuyển tiền của NHNT trong năm 2008 đạt hơn 22 tỷ USD. Chuyển tiền đến đạt doanh số 16 tỷ USD, tăng 2,1 tỷ USD so với năm trước; trong đó doanh số chuyển tiền đến cho đối tượng cá nhân cũng tăng, nhờ kết quả của việc hợp tác với các công ty chuyển tiền và NH đại lý ở nước ngoài. Chuyển tiền đi của tất cả các đối tác đạt 8,5 tỷ, tăng 1,5 tỷ USD so với 7 tỷ của năm 2007. Khi mới thành lập, NHNT chỉ có khả năng cung cấp các dịch vụ TTQT truyền thống như chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ. Cho đến nay, NH đã nghiên cứu đề xuất và áp dụng một số sản phẩm thanh toán mới để phục vụ cho nhu cầu đa dạng của khách hàng cũng như đáp ứng yêu cầu của sự phát triển lĩnh vực TTQT trên thế giới như Factoring, Forfaiting, Packing Credit… Số lượng NH có quan hệ đại lý với NHNT VN đã ngày một tăng lên. Tính đến năm 2008, NHNTđã có quan hệ đại lý với hơn 1400 NH tại hơn 85 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Điều đó chứng tỏ sự lớn mạnh không ngừng, mở rộng hoạt động của NHNT ra ngoài phạm vi quốc gia. Hoạt động TTQT đòi hỏi các cán bộ tác nghiệp phải có trình độ chuyên môn cao, nhạy bén và cập nhật thông tin thường xuyên. Trải qua quá trình vừa làm vừa đào tạo, NHNT đã xây dựng được đội ngũ cán bộ thanh toán có trình độ chuyên môn cao, ngoại ngữ giỏi, giàu kinh nghiệm và sự nhạy bén trong việc tiếp cận cái mới. Với tiêu chí áp dụng chuẩn mực quốc tế để đạt chuẩn mực chung của NH thế giới, NHNT không ngừng đầu tư để hoàn thiện và phát triển khoa học công nghệ phục vụ TTQT, tiếp cận công nghệ hiện đại trên thế giới. NHNT đã cùng ba NH lớn của Việt Nam tập trung triển khai dự án “Hiện đại hoá NH và hệ thống thanh toán”, nâng cấp hệ thống máy chủ, nâng cấp hệ điều hành cho phù hợp với các phiên bản mới nhất, hiện đại nhất của SWIFT. Bên cạnh đó, NHNT cũng quan tâm đến việc củng cố và phát triển lực lượng cán bộ công nghệ thông tin để tiếp cận công nghệ hiện đại cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ TTQT để áp dụng công nghệ mới phục vụ công việc. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, hoạt động TTQT của NHNT đã khẳng định được vị thế vững chắc trên thị trường Việt Nam và trên thế giới. Đây là sự nỗ lực của NH dù thời gian qua NH phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM cổ phần và các NH nước ngoài. 2.2.2. Các rủi ro thường phát sinh gây mất an toàn trong thanh toán quốc tế: 2.2.2.1. Rủi ro tác nghiệp: Rủi ro tác nghiệp là những rủi ro hình thành do những sai sót mang tính kỹ thuật nghiệp vụ trong bất kỳ khâu nào của quá trình giao dịch TTQT. Đây là loại rủi ro phổ biến trong hoạt động TTQT và xảy ra ở tất cả các phương thức TTQT. Trong phương thức chuyển tiền, NH đóng vai trò thực hiện thanh toán theo chỉ dẫn của khách hàng, rủi ro xảy ra khi cán bộ NH thực hiện sai chỉ dẫn trên lệnh chuyển tiền của khách hàng dẫn đến người thụ hưởng không nhận được tiền. Ở NHNT chi nhánh Hà Nội, khi nhận được lệnh chuyển tiền của khách hàng yêu cầu chuyển cho người thụ hưởng ở Thái Lan nhưng do sơ suất cán bộ thanh toán đã chuyển số tiền đó sang Ngân hàng Sumitomo của Singapore thay vì Ngân hàng Sumitomo ở Thái Lan. Người thụ hưởng khiều nại không nhận được tiền, NHNT Hà Nội kiểm tra lại hồ sơ và 3 ngày sau nhận được khoản thoái hối của Ngân hàng Sumitomo Thái Lan sau khi đã trừ đi USD 25.00 điện phí. NHNT Hà Nội phải chịu khoản phí phát sinh do việc chuyển trả nhầm của mình. Rủi ro cũng có thể xảy ra khi NH vi phạm các lệnh cấm vận của Mỹ. Theo lệnh cấm vận này, mọi khoản thanh toán bằng USD qua hệ thống thanh toán bù trừ của Mỹ cho những người hưởng trong danh sách cấm vận đều bị phong toả tại Mỹ. Khi thực hiện một số lệnh thanh toán, một số cán bộ NH đã sơ suất không tư vấn cho khách hàng chuyển sang thanh toán bằng các loại ngoại tệ khác như EUR hoặc GBP mà vẫn thực hiện theo chỉ dẫn thanh toán bằng USD, các giao dịch này khi thực hiện bù trừ tại Mỹ đã bị hệ thống điện tử phát hiện và khoản tiền này bị phong toả. Có trường hợp, cán bộ NH không nắm rõ danh sách cấm vận của Mỹ nên khi nhận được lệnh chuyển tiền cho người hưởng ở Myanmar vẫn tiến hành theo chỉ dẫn của khách. Đến khi nhận được khiếu nại của khách hàng và nhận được điện thông báo của NH đại lý bên Mỹ, NH mới kiểm tra lại danh sách cấm vận của Mỹ. Trong các trường hợp này, lỗi hoàn toàn do các cán bộ thanh toán đã không cẩn trọng đúng mức khi kiểm tra lệnh chuyển tiền và tư vấn khách hàng cũng như không cập nhật thường xuyên thông tin chỉ dẫn đến việc tiền không đến tay người hưởng và các NH phải dùng tiền của mình để thanh toán cho người hưởng lợi. Trong phương thức nhờ thu, rủi ro thường gặp là NH với vai trò là NH nhờ thu thực hiện sai chỉ thị thanh toán, nhầm lẫn từ D/P trả ngay sang D/P trả chậm, D/P trả chậm sang D/A. Còn với vai trò là NH gửi nhờ thu, không kiểm tra kỹ địa chỉ NH thu hộ trên các phần mềm tra cứu khiến cho bộ chứng từ nhờ thu có thể bị trả về do sai địa chỉ và NH phải chịu chi phí phát sinh. Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi trong hoạt động TTQT và cũng là phương thức mang lại cho NH nhiều rủi ro nhất. Đối với L/C nhập khẩu, rủi ro xảy ra khi: - Hành động không theo UCP: Theo UCP 600, NH phát hành L/C được miễn trách nhiệm thanh toán nếu chứng từ xuất trình có khác biệt với các điều kiện và điều khoản của L/C và phải thông báo cho NH nước ngoài trong vòng 5 ngày làm việc. Trên thực tế có trường hợp cán bộ TTQT nhận được bộ chứng từ xuất trình không kịp thời kiểm tra hoặc phát hiện sai sót nhưng để quên không lập điện từ chối NH thương lượng/thanh toán trong vòng 5 ngày làm việc tức là NH đã mất quyền từ chối bộ chứng từ. Có trường hợp bất hợp lệ của bộ chứng từ xuất trình bị NH thương lượng/thanh toán phủ nhận và điện từ chối trở nên vô giá trị. Người nhập khẩu hoàn toàn có quyền từ chối bộ chứng từ trên còn NH Việt Nam vẫn phải tiến hành thanh toán theo đúng tinh thần UCP và TTD đã mở. Hoặc người nhập khẩu một thời gian sau mới chấp nhận thanh toán, NH vẫn phải chịu rủi ro vì trả lãi chậm thanh toán cho NH nước ngoài. - Không tư vấn cho khách hàng khi ký kết hợp đồng mở L/C. Việc thanh toán L/C hoàn toàn dựa theo chứng từ, tách rời hàng hoá và hợp đồng nên người nhập khẩu cần có đủ kiến thức và kinh nghiệm để quy định các điều kiện và điều khoản của L/C sao cho phản ánh đầy đủ và chính xác các cam kết trong hợp đồng, đảm bảo rằng thông qua các chứng từ xuất trình có thể kiểm soát được việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng của người xuất khẩu. Trách nhiệm của cán bộ NH là phải tư vấn cho người nhập khẩu khi mở L/C hoặc từ khi ký kết hợp đồng. Nếu cán bộ TTQT không nghiên cứu kỹ những điều khoản hợp đồng để dành lợi thế cho khách hàng, không gây rủi ro cho NH hoặc chỉ căn cứ vào đơn xin mở L/C, kể cả khi có những điều khoản không chặt chẽ mà vẫn đồng tình thì có thể gặp những rủi ro đáng tiếc. Đối với L/C xuất khẩu, NH gặp rủi ro khi: - Thông báo L/C không đảm bảo tính chân thực bên ngoài. Nếu NH tiếp nhận L/C giả mạo mà không xác minh được tính chân thực của L/C đó, vẫn tiến hành thông báo cho khách hàng không kèm theo ghi chú về tình trạng của L/C theo thông lệ quốc tế thì NH thông báo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. - Không tư vấn cho khách hàng về điều khoản bất lợi của L/C: Khi tiếp nhận L/C một số NH thường coi nhẹ công tác tư vấn, chỉ thực hiện đúng theo nguyên tắc kiểm tra tính chân thực bề ngoài của TTD để thông báo cho người thụ hưởng. Do sự yếu kém về trình độ và yếu thế trong tương quan thương mại nên người xuất khẩu không lường hết được những khó khăn trong việc giao hàng và lập chứng từ thậm chí không thể lập bộ chứng từ hoàn hảo hoặc chấp nhận những L/C có điều khoản thanh toán bất lợi. - Đôi khi một số TTD quy định các điều khoản mâu thuẫn đều không lưu ý, chỉ đến khi người xuất khẩu giao hàng và trình bộ chứng từ thì NH mới phát hiện ra bất đồng. Thời điểm này đã quá muộn để tu chỉnh L/C mà người xuất khẩu phải chấp nhận rủi ro đòi tiền bằng bộ chứng từ không hoàn hảo. Nếu cán bộ thanh toán không xem xét đến khả năng tài chính của NH phát hành thì nhiều bộ chứng từ sẽ không được thanh toán hoặc thanh toán chậm do NH phát hành khó khăn về tài chính. - Đến giai đoạn tiếp nhận chứng từ, một số NH không làm tròn nghĩa vụ kiểm tra chứng từ nhằm tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể kịp thời sửa chữa các sai sót trong bộ chứng từ, tránh những tranh chấp đáng tiếc xảy ra. - Khi tiến hành chiết khấu bộ chứng từ cho người xuất khẩu do không cẩn thận, cán bộ thanh toán của NH không phát hiện ra bất đồng bộ chứng từ mà vẫn ứng tiền cho người xuất khẩu và gửi bộ chứng từ đòi tiền NH phát hành. Đến khi nhận được điện từ chối của NH phát hành, NH ở Việt Nam mới kiểm tra lại và phát hiện quả thật những bất đồng mà NH nước ngoài nêu ra hoàn toàn đúng. Do lỗi của cán bộ NH nên NH không thể truy đòi người xuất khẩu mà trông chờ vào thiện chí của người nhập khẩu. Điều này khiến cho uy tín của các NHTM bị giảm sút đồng thời NH cũng sẽ gánh chịu một số chi phí do NH nước ngoài chậm thanh toán, các khoản lãi phát sinh của bộ chứng từ chiết khấu cũng không thể thu từ người xuất khẩu. 2.2.2.2. Rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng phát sinh khi NHTM cấp tín dụng cho người xuất khẩu, nhập khẩu nhưng đối tác không thực hiện được cam kết như đã thoả thuận khiến cho NH không thu hồi được vốn đúng hạn hoặc không thể thu hồi vốn hoặc phải bỏ ra nhiều chi phí để thu hồi lại khoản vốn đó. Rủi ro này chủ yếu trong phương thức tín dụng chứng từ. Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít và các NHTM Việt Nam là nhà tài trợ chủ yếu cho các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp thông qua phương thức tín dụng chứng từ. Trong phương thức này, phần lớn các doanh nghiệp hoạt động dựa vào sự tài trợ bằng uy tín hoặc bằng vốn vay của NH. Do phương án kinh doanh không khả thi hay những điều kiện khách quan như sự biến động giá cả và nhu cầu thị trường trong nước, tỷ giá ngoại tệ, chính sách thuế hay hàng nhập về không đảm bảo chất lượng làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc giải toả và thu hồi vốn lô hàng dẫn đến tình trạng người nhập khẩu bị thua lỗ, không có khả năng thanh toán đúng hạn khoản vay, thậm chí phá sản không có khả năng thanh toán toàn bộ hoặc một phần vốn vay cho NH do đó ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của NH. Đối với L/C dùng vốn tự có ký quỹ dưới 100% thì nhiều doanh nghiệp có phương án kinh doanh khả thi nhưng do trình độ quản trị luồng tiền không tốt nên khi đến hạn thanh toán, doanh nghiệp không có đủ tiền và buộc NHTM phải cho vay bắt buộc. Trong trường hợp như vậy, NH mất nhiều chi phí và thời gian để theo dõi làm việc với khách hàng và thanh toán cho phía nước ngoài. Các L/C phát hành bằng vốn ngân sách đảm bảo về khả năng trả nợ nhưng lại rất rủi ro về khả năng thanh toán đúng hạn vì để rút vốn từ ngân sách phải làm rất nhiều thủ tục. Trong khi đó NH chỉ có 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận chứng từ để kiểm tra và thanh toán. Ngoài ra, khi tiến hành chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất cho doanh nghiệp, nếu vì một lý do nào đó mà bộ chứng từ không được NH nước ngoài thanh toán thì NH Việt Nam có quyền truy đòi người xuất khẩu. Nhưng người xuất khẩu không đủ khả năng hoàn trả số tiền đó thì NH sẽ không thu hồi được vốn đã chiết khấu. NH cấp tín dụng để người xuất khẩu tiến hành sản xuất hay thu gom hàng hoá phục vụ xuất khẩu nhưng người xuất khẩu lại gặp rủi ro trong việc thanh toán bộ chứng từ gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ. Rủi ro này xuất hiện phổ biến đối với hoạt động cho vay xuất khẩu các mặt hàng gạo, thuỷ sản… của NHNT. 2.2.2.3. Rủi ro ngoại hối: Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đơn thuần hoạt động nhập khẩu hoặc xuất khẩu do vậy các doanh nghiệp không thể tự cân đối ngoại tệ để thanh toán L/C mở tại các NHTM. Thậm chí ngay cả khi hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu song song thì các doanh nghiệp cũng không thể cân đối đủ lượng ngoại tệ cho nhập khẩu và họ cần NH hỗ trợ bổ sung nguồn ngoại tệ. Phần lớn doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn mua ngoại tệ của NH. Trong thời điểm khan hiếm ngoại tệ để thanh toán, tỷ giá USD so với VNĐ đột ngột tăng lên như thời điểm tháng 5, tháng 6, tháng 7 năm 2008 vừa qua, để đáp ứng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp nhập khẩu, các NHTM Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng đã phải tạm ứng một khối lượng lớn ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và gặp rủi ro khi không thể mua được lượng ngoại tệ thiếu hụt thấp hơn giá bán ra. NH xác nhận bán ngoại tệ cho khách hàng theo tỷ giá đã niêm yết hoặc với các hợp đồng kỳ hạn với tỷ giá thoả thuận trước, tại thời điểm xác nhận giao dịch dự trữ ngoại tệ của NH không đủ nên buộc phải mua trên thị trường liên NH với tỷ giá cao hơn giá bán cho khách hàng, rủi ro do chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán do NH gánh chịu. Mặt khác, trước tình hình cầu về USD lớn và tỷ giá USD/VNĐ tăng từng ngày, một số NHTM trong nước găm không bán ngoại tệ ra nên các NH muốn có USD phục vụ hoạt động TTQT phải mua của NH nước ngoài thông qua ngoại tệ GBP, EUR, JPY. Nếu tỷ giá trên thị trường tài chính quốc tế cao hơn tỷ giá trên thị trường Việt Nam thì các NHTM sẽ chịu rủi ro. NHNT dù nắm giữ một lượng ngoại tệ dồi dào nhưng đợt biến động tỷ giá vừa qua cũng gây ảnh hưởng nhất định trực tiếp đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ và gián tiếp đến hoạt động TTQT của NH. Các giao dịch chuyển tiền phải tạm gác lại hoặc thoái thác để ưu tiên cho các giao dịch thường xuyên, trị giá lớn, có liên quan đến cam kết của NH như L/C, nhờ thu. Nhiều NH không thể bán ngoại tệ cho khách hàng theo tỷ giá niêm yết, buộc khách hàng mua USD thông qua EUR để hợp lý hoá việc chênh lệch tỷ giá. Các doanh nghiệp không chấp nhận được mức tỷ giá VNĐ/USD cao đột biến dao động từ 17.500 đến 18.500 nên không đồng ý mua ngoại tệ để thanh toán dù đã nhận chứng từ hoặc chứng từ phù hợp nhưng không chịu nhận để NH thanh toán cho nước ngoài bởi nếu mua ngoại tệ với tỷ giá đó hàng nhập về sẽ bị lỗ. Một bên doanh nghiệp không thể mua ngoại tệ tỷ giá cao, một bên NH không thể bán ngoại tệ theo tỷ giá công bố nên nhiều bộ chứng từ đã tồn đọng ở NH vài tuần không được xử lý ảnh hưởng lớn đến uy tín của NH. 2.2.2.4. Rủi ro pháp lý: Cơ sở để thực hiện hoạt động TTQT của các NHTM Việt Nam cũng như các nước trên thế giới trước hết phải dựa vào các văn bản pháp lý mang tính quốc tế. Các quy tắc và văn bản hướng dẫn thực hiện liên quan đến TTQT do ICC phát hành là văn bản pháp lý quốc tế mà các nước thường lựa chọn để điều chỉnh nhất trong giao dịch quốc tế. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có môi trường pháp lý và luật pháp khác nhau nên ở từng nước, giao dịch TTQT còn bị điều chỉnh và chi phối bởi hệ thống pháp luật quốc gia. Mức độ vận dụng các tập quán quốc tế vào thực tiễn của từng nước lại rất khác nhau, phụ thuộc vào hệ thống pháp luật nước đó. Luật quốc gia thuờng tôn trọng và ít khi đối đầu với thông lệ quốc tế nhưng không phải không có mâu thuẫn. Nếu có sự khác biệt, thậm chí đối nghịch thì luật quốc gia thường được tôn trọng. Ở Việt Nam hiện nay chưa có luật quy định chặt chẽ về TTQT nói chung và phương thức tín dụng chứng từ nói riêng nên trong nhiều trường hợp doanh nghiệp và các NHTM Việt Nam gặp phải rủi ro do xung đột pháp lý. Nếu căn cứ theo UCP thì NH sẽ phải thanh toán cho phía nước ngoài nhưng các cơ quan pháp luật trong nước thì lại không cho trả tiền. Đã từng có thời kỳ một số NHTM theo lệnh của các cơ quan trong nước không trả tiền và gây hậu quả là cả hệ thống NHTM Việt Nam bị mất uy tín, xếp loại kém trong TTQT. Trong trường hợp khác, để đảm bảo đúng cam kết và giữ uy tín của mình, NH ở Việt Nam vẫn thanh toán cho phía NH bạn và bị quy kết là cố ý làm trái và phải gánh chịu phiền phức. Luật pháp một số nước như Đức, Trung Quốc,… cho phép toà án áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm sự công bằng trong TTQT, bất kể quyết định đó trái ngược với thông lệ quốc tế. Chính điều này đã dẫn tới xung đột pháp luật trong quá trình tiến hành các giao dịch thanh toán L/C mà thiệt hại có thể xảy ra cho các bên. Một ví dụ điển hình là Công ty lương thực xuất khẩu gạo cho một khách hàng Đức thanh toán bằng L/C do NH Đức phát hành. Khách hàng lập bộ chứng từ hoàn hảo và xuất trình tại chi nhánh của NHNT và chi nhánh đã tiến hành chiết khấu chứng từ cho khách theo uỷ quyền của NH phát hành. Khi nhận được bộ chứng từ hoàn hảo và chuẩn bị thanh toán cho Việt Nam thì NH Đức nhận được lệnh của toà án giam giữ toàn bộ số tiền của L/C này để giải quyết nợ cũ của công ty bên Đức. NH Đức trả lời chi nhánh NHNT rằng họ không thể làm khác được vì đây là phán quyết của toà án quốc gia. Hậu quả là Công ty lương thực không thu được tiền hàng từ phía khách hàng nước ngoài và phải hoàn lại tiền cho chi nhánh NHNT theo cam kết chiết khấu có truy đòi. Khi đó chi nhánh NHNT phải đứng ra thu xếp với NH nước ngoài để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình. Cho đến nay, việc thanh toán L/C này đã được hai bên thương lượng và giải quyết mà không phụ thuộc vào các điều khoản của L/C. 2.2.2.5. Rủi ro đạo đức: Rủi ro đạo đức trong phương thức thanh toán nhờ thu thường thể hiện dưới hình thức chây ì kéo dài thời gian thanh toán hoặc NH nhờ thu cố tình thực hiện sai chỉ thị thanh toán nhờ thu hoặc có sự câu kết giữa người nhập khẩu với NH gây tổn thất cho người xuất khẩu trong nước và NH phía Việt Nam. Trong thời gian qua, có nhiều doanh nghiệp Việt Nam xuất hàng theo phương thức thanh toán D/A đã bị NH nước ngoài chiếm dụng vốn trong thời gian khá dài. Mặc dù người xuất khẩu đã chấp nhận thanh toán và NH Việt Nam đã chiết khấu bộ chứng từ nhưng đến ngày đáo hạn người nhập khẩu không thanh toán mà thường kéo dài một vài tháng sau mới trả tiền làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động thanh toán của các NHTM Việt Nam. Trong phương thức thanh toán L/C, việc thanh toán chỉ căn cứ trên chứng từ mà không căn cứ vào thực tế hàng hoá được giao nên nhiều người xuất khẩu đã lợi dụng khe hở này để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người nhập khẩu và NH Việt Nam. Khi người xuất khẩu không giao hàng hoặc cố ý giao hàng không đúng số lượng và quy cách phẩm chất như hợp đồng đã ký nhưng lại xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo thì NH phát hành ở Việt Nam buộc phải thanh toán. Người nhập khẩu chỉ có thể kiện người bán trên cơ sở hợp đồng thương mại chứ không thể từ chối thanh toán L/C và NH chỉ có thể đình chỉ việc thanh toán khi có phán quyết của toà án hoặc các cơ quan pháp luật sở tại. Trong thực tiễn hoạt động TTQT, các NH đã gặp khá nhiều trường hợp giả mạo chứng từ khiến cho cả doanh nghiệp và NH mất rất nhiều công sức và thời gian theo kiện tại toà mới bảo vệ được quyền lợi của người nhập khẩu Việt Nam cũng như uy tín của mình trong TTQT. Về phía người nhập khẩu Việt Nam, nhiều khi do chỉ quan tâm đến lợi trước mắt nên không chịu giữ chữ tín để còn quan hệ kinh doanh lâu dài nên họ cố tình không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với NH phát hành L/C. Do không dự đoán được biến động của thị trường nên khi hàng hoá nhập về đến Việt Nam, giá cả hàng hoá có xu hướng hạ xuống, họ lại muốn NH tìm mọi cách để trì hoãn thanh toán, gây sức ép yêu cầu NH phát hành cố tìm bất đồng của bộ chứng từ nhằm gây sức ép với công ty nước ngoài để họ phải giảm giá, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn từ chối thanh toán và không chịu nhận hàng ngay cả khi hàng hoá đã được giao đúng phẩm chất, quy cách, đầy đủ về số lượng và bộ chứng từ xuất trình hoàn toàn phù hợp. Trong nghiệp vụ bảo lãnh L/C trả chậm, do chưa phải thanh toán ngay với nước ngoài, các doanh nghiệp nhập khẩu có tâm lý xem thường việc quản lý tiêu thụ hàng hoá hoặc khi tiêu thụ được hàng song chưa đến hạn phải thanh toán, doanh nghiệp lợi dụng vốn để kinh doanh mặt hàng khác mong kiếm lời cao mà không tính đến thời hạn và nghĩa vụ thanh toán. Rủi ro thường gặp đối với L/C xuất khẩu là bị NH nước ngoài cố tình trì hoãn thanh toán, hoặc người nhập khẩu và NH phát hành cố tình bắt lỗi những sai sót không hợp lý tạo điều kiện cho người mua nước ngoài ép người bán Việt Nam phải giảm giá hàng. Đó cũng là rủi ro về đạo đức của NH phát hành. Ngoài ra, có trường hợp khách hàng mang L/C thật nhưng đã đòi tiền rồi đến NH xin chiết khấu. Do một sơ suất nào đó, NH thông báo đã không thu hồi lại L/C gốc của đơn vị khi đòi tiền NH nước ngoài nên nếu không kiểm tra lại phía NH thông báo thì sẽ phát sinh rủi ro cho NH. 2.2.2.6. Rủi ro công nghệ: Công nghệ là một vấn đề nan giải hiện nay của tất cả các NHTM. Công nghệ góp phần làm tăng hiệu quả làm việc, tăng sức cạnh tranh, đảm bảo độ an toàn chính xác cho các giao dịch. Riêng trong TTQT, hiện nay phần mềm còn nhiều trục trặc phải cải tiến. Có nhiều điện do chi nhánh lập ra nhưng Hội sở chính lại không nhận được hoặc lưu lại trên hệ thống nhiều ngày gây ảnh hưởng đến hoạt động của NH và các doanh nghiệp. Vì thế, giữa Hội sở chính và chi nhánh của các NH mất nhiều chi phí điện thoại cho việc xác nhận tổng số điện chi nhánh gửi lên và số điện Hội sở chính nhận được. Nếu không làm vậy thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng những điện mở, sửa đổi L/C, thanh toán L/C hay nhờ thu, điện chuyển tiền của chi nhánh không kịp thời gửi đi trong ngày trong khi chi nhánh vẫn yên tâm là Hội sở chính đã nhận được. Hậu quả là L/C đến NH nước ngoài và người hưởng lợi chậm khiến cho người hưởng lợi không giao hàng đúng tiến độ đã cam kết trong hợp đồng, cũng có thể giá hàng hoá biến động người hưởng lợi không muốn giao hàng; tiền thanh toán chậm cho người hưởng lợi, NH nước ngoài sẽ phạt lãi chậm trả và NH trong nước bị mất uy tín. Việc xử lý điện khi nhận điện đến cần có một sự cẩn trọng thích đáng, do những lý do kỹ thuật mà các bức điện có thể bị trùng hai lần, nếu không có chế độ kiểm soát chặt chẽ rất có thể các chi nhánh sẽ chi trả thừa tiền cho khách hàng, điều này đã từng xảy ra ở nhiều chi nhánh NHNT khi tiếp nhận điện. Cũng có trường hợp do trục trặc hệ thống mạng và đường truyền, chi nhánh phải fax điện chuyển tiền, L/C… để Hội sở chính đánh lại, điều này không đảm bảo tính chính xác và an toàn trong quá trình mở, thanh toán L/C, nhờ thu và chuyển tiền. Nếu không chi nhánh phải để lại công việc đó đến hôm sau mới giải quyết khiến cho L/C chậm mở, tiền hàng chậm thanh toán… ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của NH và có thể bị khách hàng khiếu nại. 2.2.2.7. Rủi ro ngân hàng đại lý: So với các NHTM khác trong nước, lượng NH nước ngoài liên kết với NHNT nhiều hơn song các quan hệ với các NH đại lý nước ngoài chưa thực sự phát triển. NHNT cũng phải đối mặt với rủi ro trong quan hệ đại lý. Khi mở L/C, NH luôn chọn NH thông báo là NH đại lý của mình, nhưng đôi khi theo sự thoả thuận trên hợp đồng, NH thông báo được chỉ định không phải là NH đại lý với NH Việt Nam nên việc thông báo sẽ phải chuyển tiếp qua 2 NH (NH đại lý và NH thông báo thứ nhất), từ đó NH thương lượng thường sẽ là NH thông báo thứ hai. Điều này có nhiều bất lợi trong thanh toán hoặc sẽ thiếu độ tin cậy về bộ chứng từ giao hàng khi xuất trình tại một NH ít quan hệ quen biết. Các L/C chỉ định NH thông báo như vậy thường là đối với các giao dịch nhập khẩu từ các nước Đông Âu, Tây Âu, Trung Á, Châu Úc… nơi mà mạng lưới ngân hàng đại lý của NHNT còn mỏng. 2.2.2.8. Rủi ro khác: Bên cạnh đó, hoạt động TTQT còn có thể gặp những rủi ro khác như về chính trị, kinh tế, chính sách đối ngoại… khiến cho người xuất khẩu có thể không nhận được tiền hàng hoặc người nhập khẩu không nhận được hàng hoá. Một biến động nhỏ trong cơ chế quản lý kinh tế, chính trị sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng thực hiện các cam kết của các bên, làm cho quá trình thanh toán bị ngưng trệ, thậm chí bị huỷ bỏ, gây thiệt hại cho các bên. 2.2.3. Nguyên nhân gây nên rủi ro - mất an toàn trong hoạt động thanh toán quốc tế: 2.2.3.1. Nguyên nhân khách quan: Từ phía Nhà nước Hành lang pháp lý cho hoạt đông TTQT còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ. Mặc dù đã có luật Ngân hàng, nhưng các Nghị định của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn thực hiện chậm được đưa ra. Hơn nữa, chúng ta chưa có văn bản pháp quy công nhận và hướng dẫn việc áp dụng các thông lệ quốc tế vào Việt Nam cũng như chưa có một quy chế riêng, văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên khi xảy ra tranh chấp. Chính sách thương mại không ổn định, các văn bản quy định về công tác xuất nhập khẩu, thuế quan thay đổi thường xuyên gây khó khăn cho NH và doanh nghiệp. Có những mặt hàng năm nay cho phép nhập, nhưng năm sau lại không cho phép nhập nữa làm cho các doanh nghiệp đã ký. Thị trường ngoại tệ chưa phát triển, tỷ giá ngoại tệ mạnh không ổn định. Hiên nay, Việt Nam mới chỉ có thị trường ngoại tệ liên NH, hoạt động của thị trường này còn kém sôi động, nghiệp vụ còn giản đơn và chủ yếu là mua bán giao ngay, chưa phát triển các nghiệp vụ như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hoán đổi tiền tệ, quyền mua, quyền bán… là những công cụ chủ yếu để hạn chế rủi ro về tỷ giá cho doanh nghiệp và NHTM Việt Nam. Quy chế cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tài sản vay vốn NH còn nhiều vướng mắc. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp chỉ quy định doanh nghiệp Nhà nước được quyền dùng tài sản Nhà nước để thế chấp, song chưa có quy định về việc xử lý những tài sản này để thu hồi nợ, vì thế gây khó khăn cho NH. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước được thành lập lâu năm, tài sản cố định lạc hậu và đã khấu hao gần hết và giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp Nhà nước quá nhỏ so với nhu cầu vay vốn. Vì vây, các NH vẫn chủ yếu cho vay tín chấp đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoặc hộ cá thể, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất hiện nay rất chậm. Khi khách hàng mất khả năng thanh toán, không trả được nợ cho NH thì việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ còn gặp nhiều khó khăn. Thông tin tín dụng chưa đầy đủ. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN cung cấp số liệu thiếu cập nhật, thiếu tính đầy đủ và chính xác. Sự phối kết hợp giữa các NHTM còn hạn chế trong việc cung cấp thông tin, do vậy tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng để xin bảo lãnh và vay vốn nhiều nơi; pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán thống kê chính xác, kịp thời. Do chưa thực hiện chế độ kiểm soát bắt buộc nên số liệu quyết toán và báo cáo tài chính không phản ánh chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp, mà đây lại là một trong những căn cứ để NH quyết định bảo lãnh cho doanh nghiệp. Từ phía khách hàng: Thiếu thông tin và thiếu các mối quan hệ với đối tác nước ngoài là một nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam không lựa chọn được những khách hàng tốt, có tín nhiệm trong quan hệ thương mại quốc tế. Vì vậy, sau khi xảy ra rủi ro, mới nhờ các cơ quan chức năng xác minh tư cách các đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tiếp cận thị trường, thiếu thị trường xuất khẩu và đói thông tin, chưa tìm được bạn hàng lớn, tin cậy, có quan hệ thanh toán sòng phẳng dẫn tới bị phía nước ngoài ép giá, bắt b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1863.doc