Hoàn thiện công tác hạch toán xuất khẩu tại Công ty giầy Hải Dương

lời mở đầu Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang ngày càng trở thành một chỉnh thể thống nhất, các quan hệ kinh tế được mở rộng đa phương, đa dạng với nhiều hình thức. Bên cạnh các quan hệ ngoại giao và các quan hệ đầu tư quốc tế, các quan hệ thương mại quốc tế cũng đặc biệt phát triển. Nhiều nước đã chuyển từ chiến lược kinh tế "đóng cửa" sang chiến lược kinh tế "mở cửa", thay thế nhập khẩu sang hướng xuất khẩu. Chính vì vậy, hoạt động ngoại thương ngày nay diễn ra sôi nổi không chỉ ở ba đỉnh t

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác hạch toán xuất khẩu tại Công ty giầy Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am giác kinh tế thế giới. Để hoà nhập với xu thế đó, chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã có nhiều thay đổi nhằm đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển. Nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu trong công cuộc phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách thuận lợi, an toàn, nhanh chóng và có hiệu quả. Muốn làm được điều đó Công ty phải có đội ngũ kế toán có nghiệp vụ và chuyên môn cao để đảm bảo việc thực hiện kế toán một cách nhanh chóng thông suốt, đồng thời ghi chép phản ánh và cung cấp thông tin một cách đầy đủ kịp thời chính xác làm cơ sở để kiểm tra đánh giá việc quản lý tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Bởi vậy, Công ty giầy Hải Dương - một doanh nghiệp chủ yếu sản xuất hàng xuất khẩu luôn luôn vươn tới thị trường nước ngoài nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Giá trị xuất khẩu của Công ty đóng góp một phần vào việc tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Được sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Phú Giang cùng các bác, cô, chú, anh chị trong phòng xuất khẩu, phòng kế toán và các phòng ban khác của Công ty giầy Hải Dương, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác hạch toán xuất khẩu tại Công ty giầy Hải Dương” làm nội dung nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung nghiên cứu bao gồm Chương I : Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa. Chương II : Thực trạng kế toán nghiệp vụ xuất khẩu hàng hóa tại Công ty giầy Hải Dương. Chương III : Những giải pháp nhằm tổ chức hợp lý công tác hạch toán nghiệp vụ xuất khẩu hàng hóa tại Công ty giầy Hải Dương. Song do kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, cho nên không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo trong khoa, các bác, cô, chú, anh chị trong Công ty giầy Hải Dương cũng như các bạn đồng khóa để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Qua đây cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Phú Giang cùng các bác, cô, chú, anh chị trong Công ty giầy Hải Dương đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn ./. chương I Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu I. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường 1. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường Xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở các hợp đồng ngoại thương được ký kết giữa hai đối tác. Xuất khẩu được thừa nhận là một hoạt động cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho phát triển kinh tế, mở rộng xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm cho người dân và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của xuất khẩu được thực hiện trên các mặt sau đây: Một là: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước và xuất khẩu cũng tạo nguồn vốn ngoại lệ góp phần cải thiện cán cân thương mại. Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hóa đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể hình thành từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ dịch vụ du lịch, xuất khẩu sức lao động. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu và công nghiệp hóa đất nước vẫn phải là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Hai là: Xuất khẩu phát huy lợi thế so sánh của nước ta với các nước trên thế giới. Nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước khi nói về tiềm năng kinh tế của Việt Nam đã nhấn mạnh về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, lực lượng lao động dồi dào, có trình độ đào tạo khá cao như một lợi thế so sánh quan trọng. Hơn nữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, rất dễ thay đổi mô hình kinh doanh và nhanh chóng tiếp thu những kiến thức và kỹ năng quản lý cũng như nghiệp vụ Marketing của nước ngoài, nhất là từ các nước láng giềng châu á. Ngoài những lợi thế này, từ năm 1986 với chính sách đổi mới và mở cửa của nền kinh tế, chấp nhận quyền sở hữu tư nhân, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng kinh tế hàng năm cao, lạm phát thấp, cán cân thanh toán hợp lý. Những thành tựu này cũng là những lợi thế giúp cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển tốt. Ba là: Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiện nay cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó là: - Xuất khẩu là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt qua nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự dư thừa của xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. - Thị trường thế giới là mục tiêu hướng tới của tổ chức sản xuất. Xuất phát từ nhu cầu của thế giới mà ta tổ chức sản xuất, điều này có tác động mạnh mẽ tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đối với sản xuất thể hiện ở: + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, khi phát triển sản xuất hàng may mặc xuất khẩu sẽ tạo điều kiện mở rộng cho các ngành có liên quan như: bông, vải, sợi, thuốc nhuộm. + Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần phát triển và ổn định sản xuất. + Xuất khẩu tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất trong nước. + Xuất khẩu có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của nước ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường thế giới. Các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện tổ chức sản xuất kinh doanh. - Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt, trước hết sản xuất hàng hóa xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động vào làm việc, cải thiện thu nhập của người dân. Xuất khẩu tạo nguồn vốn nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. - Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tín dụng ngân hàng quốc tế, đầu tư quốc tế, vận tải quốc tế. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được gọi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước. Nhất là đối với nước ta, một quốc gia đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì hoạt động xuất khẩu được đặt ra cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế xã hội. Không thể nào xây dựng được nền kinh tế hoàn chỉnh nếu chỉ dựa vào nguyên tắc "tự cung tự cấp" ngay cả đối với một quốc gia phát triển nhất. Vì nó đòi hỏi phải tốn kém vật chất và thời gian nhưng cũng không đạt được hiệu quả như mong muốn. Vì vậy cần phải đẩy mạnh nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng ngoại thương, trên cơ sở "hợp tác bình đẳng không phân biệt thể chế chính trị và đôi bên cùng có lợi " như Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VII mà Đảng ta đã khẳng định. 2. Mục tiêu - nhiệm vụ của xuất khẩu Mục tiêu của xuất khẩu mà chúng ta muốn nói đến ở đây là mục tiêu nói chung của xuất khẩu. Mục tiêu này có thể không hoàn toàn giống với một mục tiêu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp xuất khẩu là để hưởng lợi nhuận từ việc bán hàng hóa với giá cao hơn giá trong nước hay để được một khoản lợi nhuận từ việc chênh lệch tỷ giá khi chuyển đổi qua giữa các đồng tiền. Đối với một quốc gia, xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ dùng trong việc trả nợ, chi trả cho các hoạt động ngoại giao... nhưng mục tiêu quan trọng nhất của xuất khẩu là để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Nhu cầu của nền kinh tế rất đa dạng: phục vụ cho công nghiệp hóa đất nước, cho tiêu dùng, do đó thị trường xuất khẩu phải gắn liền với thị trường nhập khẩu, phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường nhập xuất để xác định phương hướng và tổ chức nguồn hàng thích hợp. Để thực hiện tốt mục tiêu của xuất khẩu cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau: Một: Khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước( như đất đai, nguồn tài nguyên, nhân lực). Hai: Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Ba: Tạo ra những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về số lượng và chất lượng. Bốn: Không ngừng phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng mối quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới, tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định sản xuất. 3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu mặt hàng giầy Trong các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh ở nước ta hiện nay như: Dệt may, thủ công mỹ nghệ, đồ gốm… Nhưng mặt hàng giầy là mặt hàng chiếm vị trí khá quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước được thể hiện qua: Bảng : Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của ngành giầy 1996 - 2002. Đơn vị : Triệu USD Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch cả nước 7255 9185 9361 11200 10525 12364 13542 Kim ngạch ngành giầy 528,5 961 1000 1350 1230 1400 1479 Tỷ lệ (%) 7,28 10,5 10,68 11,9 11,69 11,32 10,92 Hoạt động xuất khẩu mặt hàng giầy phát triển, dẫn đến hoạt động sản xuất mặt hàng cũng phát triển tạo điều kiện thu hút một lượng lớn lao động xã hội. Trước năm 1990 chỉ có khoảng 25.000 lao động làm việc tại các xí nghiệp quốc doanh thì nay số lao động cho lĩnh vực này đã trên 300.000 lao động phục vụ trong tất cả các loại hình doanh nghiệp. Với việc xuất khẩu mặt hàng giầy tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta phát triển mối quan hệ với thị trường nước ngoài, thiết lập được nhiều bạn hàng lâu bền, tận dụng được năng lực tài chính, khoa học công nghệ từ các nước tiên tiến. II. Đặc điểm chung của hoạt động xuất khẩu Các giai đoạn của hoạt động xuất nhập khẩu Quá trình lưu chuyển hàng hóa xuất khẩu theo một chu kỳ khép kín bao gồm hai giai đoạn: Giai đoạn thu mua sản phẩm hàng hóa trong nước để xuất khẩu và giai đoạn bán sản phẩm đó ra nước ngoài theo hợp đồng đã ký kết. Hai giai đoạn này có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu thực hiện tốt giai đoạn thu mua hàng thì việc bán hàng xuất khẩu sẽ diễn ra nhanh chóng và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại kết quả của giai đoạn xuất khẩu hàng hóa sẽ là căn cứ để đưa ra quyết định mua những mặt hàng nào với số lượng bao nhiêu và chất lượng như thế nào. - Giai đoạn thu mua hàng hóa trong nước để xuất khẩu: Các doanh nghiệp sẽ căn cứ vào các hợp đồng đã ký kết với nước ngoài tiến hành tổ chức sản xuất, thu mua hoặc thuê ngoài gia công mặt hàng đó. Sau đó hàng hóa được đóng gói bao bì, in mã hiệu và kiểm nghiệm để giao cho bên nhập khẩu vào thời điểm ghi trong hợp đồng. - Giai đoạn bán hàng ra nước ngoài: Để bán hàng ra nước ngoài có nhiều hình thức giao dịch nhưng hiện nay các đơn vị xuất nhập khẩu thường áp dụng chủ yếu phương pháp xuất khẩu hàng hóa theo hình thức giao dịch trực tiếp và xuất khẩu hàng hóa qua khâu trung gian đồng thời cùng tham gia giao dịch trên mạng Internet… 2. Các phương thức và hình thức kinh doanh xuất khẩu hàng hóa 2.1. Các phương thức kinh doanh xuất khẩu hàng hóa 2.1.1. Xuất khẩu theo nghị định, hiệp định thư. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chính phủ ta ký kết với chính phủ của các nước khác những nghị định thư hiệp định thư về trao đổi hàng hóa với nhau trên cơ sở nhưng nội dung đã ký kết, nhà nước xây dựng kế hoạch và giao cho một số đơn vị thực hiện kinh doanh theo nghị định thư có trách nhiệm thu mua hoặc giao hàng cho nước bạn theo đúng số lượng, chất lượng, chủng loại và thời gian ghi trong hợp đồng. Đối với ngoại tệ thu được đơn vị phải nộp vào quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước thông qua tài khoản của Bộ Thương Mại và được thanh toán lại bằng đồng Việt Nam tương ứng với số ngoại tệ đã nộp cho Nhà nước với tỷ giá do Nhà nước quy định. 2.1.2. Xuất khẩu cân đối (Tự sản xuất kinh doanh thông qua hoạt động xuất khẩu thường). Theo phương thức này các đơn vị hoàn toàn tự chủ kinh doanh, nghiên cứu tìm hiểu thị trường, đàm phán ký kết hợp đồng nhưng phải tuân thủ theo các chính sách và biện pháp của Nhà nước. Đối với các hoạt động kinh doanh này Doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc thực hiện cũng như phân phối kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 2.2. Các hình thức kinh doanh xuất khẩu hàng hóa 2.2.1. Hình thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị tham gia hoạt động xuất khẩu có thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài; trực tiếp giao, nhận hàng và thanh toán tiền hàng. Các Doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tự cân đối về tài chính, có quyền tìm kiếm bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn phương thức thanh toán và thị trường, xác định phạm vi kinh doanh nhưng trong khuôn khổ chính sách quản lý xuất khẩu của Nhà nước. 2.2.2. Hình thức kinh doanh xuất khẩu ủy thác. Xuất khẩu ủy thác là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị tham gia hoạt động xuất khẩu không đứng ra trực tiếp đàm phán với nước ngoài mà phải nhờ qua một đơn vị xuất khẩu có uy tín thực hiện hoạt động xuất khẩu cho mình. Đặc điểm xuất khẩu ủy thác là có hai bên tham gia trong hoạt động xuất khẩu: + Bên giao ủy thác xuất khẩu (bên ủy thác): Bên ủy thác là bên có đủ điều kiện mua hoặc bán hàng xuất khẩu. + Bên nhận ủy thác xuất khẩu (bên nhận ủy thác): Bên nhận ủy thác xuất khẩu là bên đứng ra thay mặt bên ủy thác ký kết hợp đồng với bên nước ngoài. Hợp đồng này được thực hiện thông qua hợp đồng ủy thác và chịu sự điều chỉnh của luật kinh doanh trong nước. Bên nhận ủy thác sau khi ký kết hợp đồng ủy thác xuất khẩu, họ sẽ đóng vai trò là một bên của hợp đồng mua, bán ngoại thương. Do vậy, bên nhận ủy thác sẽ phải chịu sự điều chỉnh về mặt pháp lý của Luật kinh doanh trong nước, Luật kinh doanh của bên đối tác và Luật buôn bán quốc tế. Theo phương thức kinh doanh xuất khẩu ủy thác, doanh nghiệp giao ủy thác giữ vai trò là người sử dụng dịch vụ, còn doanh nghiệp nhận ủy thác lại giữu vai trò là người cung cấp dịch vụ, hưởng hoa hồng theo sự thỏa thuận giữa hai bên ký trong hợp đồng ủy thác. 2.3. Các phương thức thanh toán quốc tế dùng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa 2.3.1. Phương thức chuyển tiền (Remittance). Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó, khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Các bên tham gia trong phương thức thanh toán này bao gồm: + Người trả tiền (người mua, người mắc nợ) hoặc người chuyển tiền( người đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, người chuyển kinh phí ra nước ngoài...) là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài. + Người hưởng lợi (người chủ, chủ nợ, người bán, người tiếp nhận vốn đầu tư ) hoặc người nào đó do người chuyển tiền chỉ định. + Ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người chuyển tiền. + Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng ở nước người hưởng lợi. Thời điểm chuyển tiền: Việc chuyển tiền thường tiến hành sau khi nhận xong hàng hóa hoặc là sau khi nhận được chứng từ về hàng hóa đã chuyển đi. Thanh toán trong lĩnh vực phi mậu dịch và các chi phí có liên quan đến xuất khẩu hàng hóa. Để chuyển tiền, doanh nghiệp phải lập đơn chuyển tiền gửi đến VIETCOMBANK hoặc một ngân hàng thương mại được phép thanh toán quốc tế. Đơn chuyển tiền cần ghi đầy đủ: + Tên, địa chỉ của người hưởng lợi, số tài khoản nếu người hưởng lợi yêu cầu. + Số ngoại tệ xin chuyển (cần ghi rõ bằng số và bằng chủ loại ngoại tệ). + Lý do chuyển tiền. + Những yêu cầu khác. + Ký tên, đóng dấu. 2.3.2. Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng ( Letter of credit - L/C ). Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) là một sự thỏa thuận mà trong đó, một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định để nhập khẩu trong thư tín dụng. Thư tín dụng có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có: + Người xin mở thư tín dụng : Là người mua, người nhập khẩu hàng hóa. + Ngân hàng mở thư tín dụng : Là Ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu. + Người hưởng lợi thư tín dụng : Là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định. + Ngân hàng thông báo thư tín dụng ở nước người hưởng lợi. Các loại thư tín dụng thương mại: + Thư tín dụng không huỷ ngang: Là loại thư tín dụng sau khi đã được mở ra thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ trong thời gian hiệu lực của nó, trừ khi có thỏa thuận khác của các bên tham gia thư tín dụng. Thư tín dụng không thể huỷ bỏ được áp dụng rộng rãi nhất trong thanh toán quốc tế, nó là loại L/C cơ bản nhất. + Thư tín dụng không thể hủy bỏ có xác nhận: Là loại thư tín dụng không thể hủy bỏ được một ngân hàng khác bảo đảm trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng. Ngân hàng xác nhận chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán nếu như ngân hàng mở thư tín dụng bị phá sản, không trả tiền được. + Thư tín dụng không hủy bỏ, miễn truy đòi: Là loại thư tín dụng không thể hủy bỏ mà sau khi người bán đã được ngân hàng thanh toán rồi thì không phải truy hoàn lại số tiền họ đã nhận (kể cả khi có tranh chấp về chứng từ). + Thư tín dụng chuyển nhượng: Là thư tín dụng không thể hủy bỏ, trong đó quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người khác. L/C chuyển nhượng chỉ được dùng một lần. Chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiền chịu. + Thư tín dụng tuần hoàn. + Thư tín dụng giáp lưng. + Thư tín dụng với điều khoản đỏ. + Thư tín dụng dự phòng. 2.3.3. Phương thức ghi sổ hay phương thức mở tài khoản (Open account). Theo phương thức này, người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi bán đã hoàn thành giao hàng dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quý, nửa năm) người mua trả tiền cho người bán. Đặc điểm của phương thức này: Đây là một phương thức thanh toán không có sự tham gia của Ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh toán. Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, không có giá trị thanh quyết toán giữa hai bên. Chỉ có hai bên tham gia thanh toán: Người bán và người mua. Các trường hợp áp dụng phương thức thanh toán ghi sổ: - Thường dùng cho thanh toán nội địa. - Hai bên mua, bán phải có sự tin cậy lẫn nhau. - Dùng cho phương thức mua, bán hàng đổi hàng nhiều lần, thường xuyên trong một thời kỳ nhất định (6 tháng, 1năm... ). - Phương thức này chỉ có lợi cho người mua. - Dùng cho thanh toán tiền bán hàng ở nước ngoài. - Dùng cho thanh toán tiền phí mậu dịch như tiền cước phí vận tải, tiền phí bảo hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới ủy thác, tiền lãi cho người vay và đầu tư. 2.3.4. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment). Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng ủy thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra. Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có: + Người bán tức là người hưởng lợi. + Ngân hàng bên bán là ngân hàng nhận sự ủy thác của người bán. + Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán là ngân hàng ở nước người mua. + Người mua tức là người trả tiền. Phương thức thanh toán nhờ thu gồm có các loại sau: + Nhờ thu phiếu trơn: Là phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng. Các trường hợp áp dụng phiếu trơn: - Người bán và người mua tin cậy lẫn nhau hoặc có quan hệ liên doanh với nhau giữa công ty mẹ, công ty con hoặc chi nhánh của nhau. - Thanh toán về các dịch vụ có liên quan tới xuất khẩu hàng hóa, vì việc thanh toán này không cần thiết phải kèm theo chứng từ như tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, phạt bồi thường. + Phương thức nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn cắn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng gửi kèm theo điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận phạt tiền hối phiếu thỉ ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng. 3. Các phương thức định giá Tuỳ theo phương thức quy định, người ta phân biệt các loại giá sau đây: Giá cố định, giá quy định sau, giá linh hoạt và giá di động. 3.1. Giá cố định Là giá cả được quy định vào lúc ký kết hợp đồng và không được sửa đổi nếu không có sự thỏa thuận khác. Giá cố định được vận dụng một cách phổ biến trong các giao dịch nhất là trong giao dịch về các mặt hàng bách hóa, các mặt hàng có thời hạn chế tạo ngắn ngày... 3.2. Giá quy định sau Là giá cả không được định ngay khi ký kết hợp đồng mua bán, mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hợp đồng, người ta chỉ thỏa thuận với nhau một thời điểm nào đó và những nguyên tắc nào đó để dựa vào đó có hai bên sẽ gặp nhau xác định giá. 3.3. Giá linh hoạt ( giá có thể điều chỉnh lại ) Là giá đã được xác định trong lúc ký kết hợp đồng nhưng có thể được xem xét lại nếu sau này, vào lúc giao hàng, giá thị trường của hàng hóa đó có sự biến động tới một mức nhất định. Trong trường hợp vận dụng để phán đoán sự biến động giá cả và thỏa thuận quy định mức chênh lệch tối đa giữa giá thị trường với giá hợp đồng, khi quá mức này, hai bên có thể xét lại giá hợp đồng. Ngày nay, trong các hợp đồng dài hạn về mua bán nguyên liệu công nghiệp, lương thực, người ta thường thỏa thuận điều khoản cho phép xét lại giá hợp đồng khi giá thị trường biến động vượt quá mức độ 2 hoặc 5% so với giá hợp đồng. 3.4. Giá di động Là giá cả được tính toán dứt khoát vào lúc thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá cả quy định ban đầu, có đề cập tới những biến động về chi phí sản xuất trong thời kỳ thực hiện hợp đồng. Giá di động thường được vận dụng trong các giao dịch về những mặt hàng có thời hạn chế tạo lâu dài như thiết bị toàn bộ, tàu biển, các thiết bị lớn trong công nghiệp... Trong trường hợp này, khi ký kết hợp đồng người ta quy định một giá ban đầu, gọi là giá cơ sở và quy định cơ cấu của giá đó (như lợi nhuận, chi phí khấu hao, tạp phí... ) đồng thời quy định phương pháp tính giá di động sẽ được vận dụng. 4. Giá cả và tiền tệ áp dụng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa 4.1. Giá cả Giá cả trong hợp đồng mua bán ngoại thương sẽ là điều kiện để xác định địa điểm giao hàng trong hợp đồng. Điều kiện về địa điểm giao hàng chính là sự phân chia trách nhiệm giữa người bán và người mua về các khoản chi phí và về rủi ro, được quy định trong luật buôn bán quốc tế ( Incoterms 2000 ). Như vậy, căn cứ vào điều kiện về địa điểm giao hàng, giá trong hợp đồng mua bán ngoại thương có thể có 4 nhóm C, D, E, F. Các điều kiện giao hàng, theo Incortem, bao gồm: + EXW : giao hàng tại xưởng + FCA : giao hàng cho người vận chuyển + FAS : giao dọc mạn tàu + FOB : giao lên tàu + CFR : tiền cước và chi phí + CIF : tiền hàng, phí bảo hiểm và phí vận chuyển + CPT : cước trả tới + CIP : cước và bảo hiểm đã trả tới + DAF : giao tại biên giới + DES : giao tại tàu Trong các điều kiện giao hàng thì giá FOB và giá CIF được sử dụng nhiều trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Giá FOB (giao hàng trên tàu) nghĩa là người bán giao hàng xong khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gởi hàng có nêu tên. Điều này có nghĩa người mua phải chịu mọi phí tổn và rủi ro về mất hoặc hư hàng kể từ thời điểm đó. Điều kiện FOB đòi hỏi người bán khai hải quan hàng để xuất khẩu. Điều kiện này chỉ được dùng cho vận tải đường biển hoặc vận tải đường thuỷ nội địa. Giá CIF (tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí) nghĩa là người bán giao hàng xong khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi. Người bán phải trả tiền hàng và cước phí vận chuyển cần thiết để mang hàng tới cảng đến đã nêu tên nhưng rủi ro về mất mát hoặc hư hàng, cũng như mọi chi phí phát sinh thêm sau thời gian giao hàng đã được chuyển từ người bán sang người mua. Tuy nhiên, với điều kiện CIF, người bán phải mua bảo hiểm hàng để tránh cho người mua rủi ro mất mát hoặc hư hại hàng trong suốt quá trình vận chuyển. 4.2. Tiền tệ Tiền tệ thanh toán: Là tiền tệ được dùng để xác định giá trị thanh toán trong hợp đồng mua - bán ngoại thương. Đồng tiền thanh toán thường là các ngoại tệ chuyển đổi tự do. Trong nhiều trường hợp thì đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính toán phù hợp với nhau. Có thể là đồng tiền của một trong hai đối tác hoặc ngoại tệ của một nước thứ ba. 5. Hạch toán nghiệp vụ xuất khẩu hàng hóa 5.1. Phạm vi và thời điểm xác định hàng xuất khẩu 5.1.1. Phạm vi xác định hàng xuất khẩu. Phạm vi xác định hàng xuất khẩu. + Hàng xuất bán cho các thương nhân nước ngoài theo hợp đồng đã ký kết. + Hàng gửi đi triển lãm sau đó bán thu bằng ngoại tệ. + Hàng bán cho du khách nước ngoài, cho Việt kiều, thu bằng ngoại tệ. + Hàng viện trợ cho nước ngoài thông qua các hiệp định nghị định thư, ký kết giữa hai chính phủ. 5.1.2. Thời điểm xác định hàng xuất khẩu. Thời điểm xác định hàng hóa đã hoàn thành việc xuất khẩu là thời điểm chuyển giao quyển sở hữu về hàng hóa, tức là khi người xuất khẩu mất quyền sở hữu về hàng hoá và nắm quyền sở hữu về tiền tệ hoặc quyền đòi tiền ở người nhập khẩu. Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu nên thời điểm ghi chép hàng hoàn thành xuất khẩu là thời điểm hàng hoá đã hoàn thành thủ tục hải quan, xếp lên phương tiện vận chuyển và đã rời sân ga, biên giới, cầu cảng... 5.2. Yêu cầu hạch toán hàng xuất khẩu hàng hóa Theo dõi, ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, từ khâu mua hàng xuất khẩu, xuất khẩu và thanh toán hàng xuất khẩu, từ đó kiểm tra giám sát tình hình thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Mở sổ theo dõi, ghi chép, phản ánh chi tiết theo từng hợp đồng xuất khẩu từ khi đàm phán, ký kết, thực hiện thanh toán và quyết toán hợp đồng. Tính toán, xác định chính xác giá mua hàng xuất khẩu, thuế và các khoản chi có liên quan đến hợp đồng xuất khẩu để xác định kết quả nghiệp vụ xuất khẩu. 5.3. Chứng từ sử dụng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa 5.3.1. Chứng từ. Chứng từ kế toán là những chứng minh bằng giấy về các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh và hệ thống bán chứng từ theo mẫu quy định. Chứng từ sử dụng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa: + Hợp đồng kinh tế. + Vận đơn. + Giấy chứng nhận phẩm chất. + Giấy chứng nhận xuất xứ . + Giấy chứng nhận bảo hiểm. + Bảng kê đóng gói. + Giấy chứng nhận kiểm định. Ngoài ra còn có các chứng từ khác như: Phiếu xuất kho, hoá đơn thương mại, bộ chứng từ xuất khẩu trực tiếp, phiếu thu, phiếu chi, giấy báo nợ, giấy báo có... 5.3.2. Tài khoản sử dụng. Số lượng tài khoản mà doanh nghiệp sử dụng phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp và nhu cầu thông tin mà doanh nghiệp muốn sử dụng để hạch toán nghiệp vụ xuất khẩu. + TK 157 “Hàng gửi đi bán” phản ánh số hiện có về tình hình biến động trị giá hàng gửi bán trong kỳ. + TK 413 “Chênh lệch tỷ giá” theo dõi số chênh lệch do thay đổi tỷ giá ngoại tệ của doanh nghiệp (ngoại tệ tồn quỹ, ngoại tệ gửi Nhân hàng và ngoại tệ đang chuyển, công nợ bằng ngoại tệ) và tình hình xử lý số chênh lệch ngoại tệ. + TK 131 “Phải thu khách hàng” phản ánh hiện có và tình hình biến động của các khoản thanh toán với khách hàng. + TK 133 “Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ” phản ánh số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và tình hình khấu trừ thuế. + TK 511 “Doanh thu bán hàng” để tập hợp doanh thu bán hàng trong kỳ theo giá bán và kết chuyển doanh thu bán hàng thuần để xác định kết quả. + TK 632 “Giá vốn hàng bán” để tập hợp trị giá vốn hàng bán trong kỳ theo giá xuất hoặc giá mua thực tế. + TK 911 “Xác định kết quả kinh doanh” là tài khoản tạm thời được sử dụng để so sánh giữa doanh thu của các hoạt động với chi phí tương ứng nhằm mục đích xác định lãi hoặc lỗ. + TK 333 “Thuế và các khoản phải nộp ngân sách”. Theo thông tư 108 và thông tư 55 thì đối với hoạt động xuất nhập khẩu n._.ói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng thì cần phải quan đến nguyên tắc hạch toán tỷ giá. Được sử dụng khi quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam đơn vị có thể sử dụng hai tỷ giá: + Đơn vị sử dụng tỷ giá thực tế : Tỷ giá thực tế là tỷ giá bình quân liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố. Tất cả các nghiệp vụ kế toán phát sinh liên quan đến ngoại tệ đều được quy đổi theo tỷ giá thực tế. + Đơn vị sử dụng tỷ giá hạch toán : Tỷ giá hạch toán là tỷ giá cố định mà doanh nghiệp sử dụng để quy đổi ngoại tệ trong kỳ thông thường tỷ giá hạch toán là tỷ giá thực tế cuối kỳ trước. Các chỉ tiêu liên quan đến tiền và công nợ trong thanh toán được quy đổi theo tỷ giá hạch toán. Các chỉ tiêu liên quan đến tài sản cố định, hàng tồn kho, doanh thu, chi phí, và thuế luôn luôn quy đổi theo tỷ giá thực tế. 5.4. Hạch toán nghiệp vụ xuất khẩu trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên Trình tự kế toán thể hiện như sau: - Khi xuất kho để xuất khẩu Nợ TK157 trị giá xuất kho Có TK156 - Hàng mua chuyển thẳng đến cảng không qua kho Nợ TK157 : giá thực tế hàng mua Nợ TK133 : thuế giá trị gia tăng Có TK331,111,112 : giá thanh toán - Chi phí phát sinh trong quá trình xuất khẩu * Chi phí bằng tiền Việt Nam Nợ TK641 : giá cước chưa thuế Nợ TK133(1) : thuế giá trị gia tăng Có TK111,112 : giá thanh toán * Chi phí bằng ngoại tệ Nợ TK641 : tỷ giá thực tế Nợ TK133(1) : tỷ giá thực tế Có TK112,112(2) : tỷ giá hạch toán Nợ hoặc Có TK431 : phần chênh lệch Đồng thời ghi Có TK 007 : số nguyên tệ - Khi hàng hoàn thành thủ tục hải quan dời khỏi ga cảng biên giới, kế toán xác định tiêu thụ cho hàng xuất khẩu. * Doanh thu Nợ TK1112 hoặc 1122,131 : tỷ giá hạch toán Có TK511 : tỷ giá thực tế Nợ hoặc Có TK413 : phần chênh lệch Đồng thời ghi Nợ TK007 : số nguyên tệ * Giá vốn Nợ TK632 giá vốn Có TK157 - Thuế xuất khẩu phải nộp ( tính trên trị giá FOB). Nợ TK511 tỷ giá thực tế Có TK333(3) - Nộp thuế. Nợ TK333(3) Có TK111,112 - Thu nợ từ nhà nhập khẩu ở nước ngoài. Nợ TK1112,1122 theo giá hạch toán Có TK131 5.5. Hạch toán nghiệp vụ xuất khẩu uỷ thác 5.5.1. Những vấn đề chung về xuất khẩu uỷ thác. Theo chế độ hiện hành, bên ủy thác xuất khẩu khi giao hàng cho bên nhận ủy thác phải lập Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ kèm theo Lệnh điều động nội bộ. Khi hàng hóa đã thực xuất khẩu có xác nhận của Hải quan, căn cứ váo các chứng từ đối chiếu, xác nhận về số lượng, giá trị hàng hóa thực tế xuất khẩu của cơ sở nhận ủy thác xuất khẩu, bên ủy thác xuất khẩu lập hóa đơn GTGT với thuế suất 0% giao cho bên nhận ủy thác. Bên nhận ủy thác xuất khẩu phải xuất hóa đơn GTGT đối với hoa hồng ủy thác xuất khẩu với thuế suất 10%. Bên ủy thác được ghi nhận số thuế tính trên hoa hồng ủy thác vào số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, còn bên nhận ủy thác sẽ ghi vào số thuế GTGT đầu ra phải nộp. Giá tính thuế GTGT của dịch vụ ủy thác là toàn bộ tiền hoa hồng ủy thác và các khoản chi hộ (nếu có – trừ khoản nộp thuế hộ) chưa có thuế GTGT. Các chứng từ chi hộ nếu có thuế GTGT thì bên hận ủy thác được khấu trừ ở đầu vào. Trường hợp các chứng từ chi hộ có ghi rõ tên, địa chỉ, mã số thuế của bên ủy thác thì bên nhận ủy thác không phải tính vào doanh thu của mình. Trong trường hợp hợp đồng quy định theo giá dịch vụ có thuế GTGT thì phải quy ngược lại để xác định giá chưa có thuế GTGT. Số thuế xuất khẩu phải nộp, theo quy định, bên nhận ủy thác phải chịu trách nhiệm thanh toán cho Ngân sách. Khi thực hiện xong dịch vụ xuất khẩu, bên nhận ủy thác phải chuyển cho bên ủy thác các chứng từ sau: - Ngoài bộ chứng từ như xuất khẩu trực tiếp thêm các chứng từ sau. - Hợp đồng uỷ thác xuất khẩu. - Tờ khai hàng hóa xuất khẩu có xác nhận thực xuất và đóng dấu của cơ quan Hải quan cửa khẩu (1 bản sao). - Biên bản thanh lý hợp đồng uỷ thác xuất khẩu (1 bản chính). - Các chứng từ giao nhận giữa đơn vị giao ủy thác và nhận ủy thác. Các bản sao phải được bên nhận ủy thác sao và ký, đóng dấu. Trường hợp bên nhận ủy thác cùng một lúc xuất khẩu hàng hóa ủy thác cho nhiều đơn vị, không có hoá đơn xuất hàng và tờ khai hải quan riêng cho từng đơn vị thì vẫn gửi bản sao cho các đơn vị ủy thác nhưng phải kèm theo bảng kê chi tiết tên hàng hoá, số lượng, đơn giá và doanh thu hàng đã xuất chi từng đơn vị. Tài khoản sử dụng: 511, 632, 157, 003, 131(138), 331(338). 5.5.1.1. Hạch toán đơn vị giao ủy thác. Để theo dõi tình hình thanh toán tiền hàng và hoa hồng ủy thác xuất khẩu với đơn vị nhận ủy thác, kế toán sử dụng tài khoản 331 hoặc 338(3388), mở chi tiết theo từng đơn vị nhận ủy thác xuất khẩu; bởi vì, trong quan hệ này, đơn vị ủy thác là đơn vị sử dụng dịch vụ của đơn vị nhận ủy thác. Khi chuyển giao hàng cho bên nhận ủy thác xuất khẩu, kế toán phản ánh trị giá mua của hàng giao. + Khi giao hàng cho đơn vị nhận ủy thác. Nợ TK157 Có TK156 + Nhận được chứng từ thuế - chuyển tiền nhờ đơn vị nhận ủy thác nộp hộ thuế. Nợ TK131(138) Có TK111,112 + Nhận tiền từ đơn vị nhận ủy thác kế toán xác định tiêu thụ cho lô hàng. Doanh thu - Trường hợp trừ ngay tiền hoa hồng khi thanh toán. Nợ TK111,112 : giá bán -hoa hồng Nợ TK641(7) : tỷ giá thực tế Có TK511 : tỷ giá thực tế Nợ hoặc Có TK413 : chênh lệch - Nếu chưa trừ ngay tiền hoa hồng. Nợ TK111,112 : tỷ giá hạch toán Có TK511 : tỷ giá thực tế Nợ hoặc Có TK413 : số chênh lệch Nợ TK007 : số nguyên tệ (nếu có ) Giá vốn Nợ TK632 Có TK157 Thuế xuất khẩu Nợ TK511 Có TK333(3) Đồng thời ghi Nợ TK333(3) Có TK131(138) + Chuyển trả tiền hoa hồng cho đơn vị nhận uỷ thác (nếu chưa trừ tiền hoa hồng). Nợ TK641 tỷ giá thực tế Nợ TK133 Có TK111,112 : tỷ giá hạch toán Đồng thời Nợ hoặc Có TK413 : chênh lệch tỷ giá 5.5.1.2. Hạch toán đơn vị nhận ủy thác. + Khi nhận hàng từ đơn vị giao. Nợ TK003 + Làm thủ tục hải quan tính thuế khẩu phải nộp chuyển chứng từ thuế cho đơn vị giao ủy thác. + Nhận tiền thuế do đơn vị ủy thác chuyển đến. Nợ TK111,112 Có TK331(338) Nộp thuế Nợ TK331(338) Có TK111,112 + Khi hàng hoàn thành thủ tục hải quan rời khỏi ga cảng, biên giới kế toán xác định hàng tiêu thụ. Phản ánh số thu từ nhà nhập khẩu. - Trừ ngay tiền hoa hồng khi xác định là tiêu thụ. Nợ TK111,112,131 : giá bán - hoa hồng Có TK511 : hoa hồng Có TK333(11) : VAT hoa hồng Có TK331(338) : số tiền phải trả Nợ hoặc Có TK413 : chênh lệch giá ngoại tệ - Nếu chưa trừ ngay tiền hoa hồng. Nợ TK111,112,131 : tỷ giá hạch toán Có TK331(338) : giá hạch toán Đồng thời Nợ TK007 : số nguyên tệ + Khi nhận tiền hàng do đơn vị giao ủy thác. Nợ TK331(338) : tỷ giá hạch toán Nợ hoặc Có TK413 : chênh lệch tỷ giá hạch toán Có TK511(3 : tỷ giá thực tế Có TK333(11) : tỷ giá thực tế Có TK111,112 : tỷ giá hạch toán + Nhận tiền hoa hồng từ ủy thác. Nợ TK111,112 : tỷ giá hạch toán Nợ hoặc Có TK413 : chênh lệch tỷ giá Có TK511(2) : tỷ giá thực tế Có TK333(11) : tỷ giá thực tế Chi phí. - Nếu đơn vị nhận ủy thác chịu Nợ TK641 : số thực chi Nợ TK133 : thuế VAT Có TK111,112 : số thanh toán - Nếu đơn vị nhận ủy thác chi hộ(bên giao chịu). Nợ TK131(138) Có TK111,112 - Có thể trừ ngay nếu chi bằng ngoại tệ khi thanh toán. Nợ TK111,112 Có TK511 Có TK333 Có TK138(131) Có TK338(331 - Khi trả. Nợ TK331 Có TK111,112 - Nếu chi phí bằng tiền mặt. Nợ TK641 Có TK331(338) - Chuyển tiền. Nợ TK131 Có TK111,112 III. Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ kế toán xuất khẩu hàng hóa 1. Yêu cầu quản lý Xuất khẩu là một hợp đồng Ngoại thương nó không giới hạn ở việc ký kết mua bán hàng hóa trong nước giống như nội thương mà nó có hợp đồng buôn bán ở phạm vi quốc tế. Do vậy, hợp đồng xuất khẩu hết sức phức tạp, điều đó thể hiện từ khâu giao dịch đàm phán ký kết đến khâu thực hiện và thanh toán hợp đồng. Nó liên quan đến nhiều yếu tố trong nước và nước ngoài mà mỗi đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu khó có thể kiểm soát một cách toàn diện chặt chẽ, đề ra yêu cầu quản lý chặt chẽ. Các nhà quản lý phải thu thập thônh tin đầy đủ, chính xác về thị trường trong và ngoài nước để từ đó có cơ sở đề ra các quyết định kinh doanh một cách đúng đắn việc ký kết hợp đồng phải chặt chẽ đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp và thực hiện tốt hợp đồng. Sau đây là những yêu cầu cơ bản đối với từng giai đoạn trong việc ký kết thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa. Yêu cầu đầu tiên đối với nhà quản lý trước khi ký kết hợp đồng là phải nắm chắc, kịp thời những thông tin về thị trường về tình hình sản xuất trong nước cũng như nhu cầu về tiêu thụ hàng hóa của phía nước ngoài, về quy luật vận động của thị trường về giá cả hàng hóa. Nghiên cứu thị trường cần phải trả lời các câu hỏi sau: Xuất khẩu cái gì? Nhu cầu thị trường nhập khẩu như thế nào? Sự biến động giá cả của mặt hàng này trên thị trường thế giới ra sao? Từ đó xem xét tình hình sản xuất các mặt hàng này có khả năng tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới không? Yêu cầu thứ hai là khi ký kết hợp đồng xuất khẩu phải chọn đối tượng để giao dịch và ký kết hợp đồng. Trong hợp đồng xuất khẩu bạn hàng và khách hàng là những người hoặc tổ chức có quan hệ với nhau nhằm thực hiện đúng hợp đồng về cung ứng hàng hóa. Cần phải xem xét nghiên cứu kỹ bạn hàng cũng như xem xét khả năng cạnh tranh của mặt hàng đó trên thị trường xuất khẩu đồng thời cũng phải tìm hiểu kỹ về chính sách và tập quán thương mại của nưóc đó. Bên cạnh đó, yêu cầu của nhà quản lý khi tham gia ký kết hợp đồng phải nắm vững pháp luật về hợp đồng kinh tế, có kiến thức chuyên môn về hợp đồng thương mại, nắm vững thông lệ quốc tế và luật thương mại quốc tế. Cụ thể như sau: Nắm vững các điều kiện tham gia ký kết hợp đồng ngoại thương, tìm hiểu cụ thể rõ ràng về mọi mặt của các bên đối tác như tìm hiểu về tư cách pháp nhân, tình hình tổ chính, uy tín của công ty đó trên thương trường… các yêu tố này rất quan trọng nó giúp cho việc đảm bảo tính hợp pháp của các bên trong hợp đồng và khả năng thực hiện hợp đồng đó, nhu cầu nắm vững đối tượng của hợp đồng, các chỉ tiêu chất lượng, mãu mã, giá cả hàng hóa… Ngoài ra công tác quản lý đòi hỏi việc dự thảo và phân tích hợp đồng phải chặt chẽ, chính xác, đồng thời đảm bảo các điều khoản của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng, hợp pháp, để đảm bảo quyền lợi tối cao cho doanh nghiệp bao gồm các điều khoản sau: Điều khoản về tên hàng, điều khoản về chất lượng, điều khoản về số lượng, về điều kiện giao hàng, về giá cả,về thanh toán… Cuối cùng công tác quản lý đối với công tác hạch toán kế toán. Công tác này giúp cho các nhà quản lý theo dõi cụ thể, chính xác thông tin về hiệu quả của hợp đồng cũng như thông tin về thu hồi công nợ đối với khách hàng. Hạch toán kế toán không chỉ thực hiện ở việc thu nhận thông tin về hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị phục vụ cho công tác quản lý kinh doanh, hợp đồng xuất khẩu là một hợp đồng kinh doanh phức tạp thể hiện sự vận động tiền hàng, tài sản qua nhiều công đoạn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Do vậy, kế toán xuất khẩu phải cung cấp thông tin một cách chính xác, kịp thời và đầy đủ về tình trạng về sự biện động tài sản của doanh nghiệp trong mọi thời điểm. Kế toán hoạt động xuất khẩu phải vận dụng đúng hình thức tổ chức công tác thích hợp nhất với đặc điểm hoạt động xuất khẩu và đặc điểm của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải nắm vững được phạm vi xác định hàng xuất khẩu. Có như vậy kế toán mới đảm bảo ghi chép, phản ánh một cách chính xác, kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, đồng thời kế toán phải đảm bảo chính xác từng nghiệp vụ xuất khẩu, từng lần thanh toán, từng khoản chi phí, sự biến động của giá ngoại tệ và cung cấp những thông tin toàn diện về hợp đồng xuất khẩu trong kỳ kinh doanh và trong từng nghiệp vụ. Yêu cầu đặt ra là kế toán phải kết hợp các yếu tố chứng từ , tài khoản, sổ kế toán. 2. Nhiệm vụ kế toán xuất khẩu hàng hóa Để xác định được kết quả và đánh giá được hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu kế toán nên mở sổ theo dõi chi tiết theo từng lô hàng. Đối với hàng xuất khẩu theo dõi từ khi mua hàng để xuất khẩu khi hoàn thành việc xuất khẩu hàng hóa. Đồng thời cần phải lưu ý tác động của chênh lệch tỷ giá đến kết quả kinh doanh. IV. Hoàn thiện kế toán hoạt động xuất khẩu hàng hóa 1. Nội dung hoàn thiện công tác hạch toán ban đầu Để tiến hành hạch toán ban đầu, khi xuất khẩu doanh nghiệp cần có đủ bộ chứng từ sau đây: + Hóa đơn thương mại. + Vận tải đơn. + Chứng từ bảo hiểm. + Giấy chứng nhận bảo hiểm. + Bảng kê đóng gói bao bì. + Giấy chứng nhận phẩm chất. + Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Ngoài ra theo chứng từ hợp đồng xuất khẩu và theo quy định trong thư tín dụng, bộ chứng từ thanh toán còn có: + Giấy chứng nhận kiểm dịch đối với hàng nông sản, thực phẩm. + Hối phiếu. + Hoặc các tài liệu khác kèm theo như biên bản quyết toán, biên bản hư hỏng tổn thất. Ngoài bộ chứng từ thanh toán, còn có các chứng từ sau: Biên lai thu thuế, tờ khai hải quan, phiếu xuất kho, chứng từ thanh toán... 2. Nội dung hoàn thiện quy trình hạch toán Hoạt động kinh tế tài chính ở doanh nghiệp xuất khẩu có liên quan đến nhiều bộ phận trong doanh nghiệp. Vì vậy, tổ chức công tác hạch toán ban đầu ở các bộ phận là vấn đề cơ bản để thu nhận được những thông tin kịp thời, đầy đủ phục vụ yêu cầu quản lý. Nội dung công việc hạch toán ban đầu ở các bộ phận nội bộ bao gồm những vấn đề chủ yếu sau: Căn cứ vào hệ thống chứng từ ban đầu của Bộ tài chính, ngành và một số chứng từ hướng dẫn do doanh nghiệp quy định cụ thể để lập danh mục chứng từ sử dụng trong hạch toán ban đầu đối với trong loại nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh ở trong bộ phận nội bộ. Phân công cụ thể và quy định rõ trách nhiệm cho từng người trong việc ghi nhận thông tin về trong loại nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào chứng từ ban đầu phù hợp. Phòng kế toán của doanh nghiệp có trách nhiệm hướng dẫn việc ghi chép ban đầu ở tất cả bộ phận trong doanh nghệp và có trách nhiệm xây dựng chương trình luân chuyển chứng từ thích hợp đối với từng loại chứng từ ban đầu, đảm bảo cho việc kiểm tra, kiểm soát ngay trong nội bộ các bộ phận và nội bộ doanh nghiệp. Yêu cầu của việc lập chứng từ và hạch toán ban đầu là phản ánh trung thực nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh và hoàn thành, chính xác về các yếu tốđã ghi trên chứng từ nhằm đảm bảo sự chính xác, trung thực của toàn bộ số liệu, tài liệu kế toán của doanh nghiệp. Chương II tHựC TRạNG Tổ CHứC CÔNG TáC HạCH TOáN NGHIệP Vụ XUấT KHẩU TạI CÔNG TY GIầY HảI DƯƠNG I. Đặc điểm tổ chức kinh doanh và tổ chức công tác kế toán tại Công ty Giầy Hải Dương 1. Đặc điểm tổ chức kinh doanh 1.1.Quá trình hình thành và phát triển Công ty Giầy Hải Dương. Công ty giầy Hải Dương tiền thân là “ Xí nghiệp thuộc da Hải Hưng”. Trụ sở chính của doanh nghiệp đặt tại: 99 - Phủ Lỗ - Hải Tân - Hải Dương. Với tổng mức vốn kinh doanh ban đầu: 905.361.376 đồng. (Trong đó vốn cố định là: 580.223.026 đồng, vốn lưu động 321.180.350 đồng). Theo nguồn vốn: vốn ngân sách nhà nước cấp 365.435.350, vốn doanh nghiệp tự bổ sung 48.126.050, vốn vay 491.799.976. Ngày 05/07/1984 chấp hành Nghị quyết của Ban thường vụ tỉnh ủy Hải Hưng, UBND tỉnh đã ký quyết định thành lập Xí nghiệp thuộc da và chế biến da với nhiệm vụ thu mua da của gia súc giết mổ ở các địa phương, tập trung lại để thuộc và chế biến thành da từ đó dùng để sản xuất các đồ dùng bằng da như: bóng, cặp, túi sách... phục vụ cho nhu cầu trong nước. Như vậy theo tính toán trên lý thuyết thì dự án này tỏ ra có hiệu quả về mặt kinh tế vì vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng về các mặt hàng da vừa tận dụng được nguồn nguyên liệu khai thác được trong nước tránh lãng phí. Nhưng khi thực thi Xí nghiệp đã gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất là do điều kiện về trình độ kỹ thuật, công nghệ thuộc da còn kém, thứ hai là việc tận dụng da khó thực hiện. Cho nên Xí nghiệp đã không thành công ngay từ bước đầu. Trước khó khăn đó Xí nghiệp đã nhanh chóng chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Được sự cho phép của ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Hưng, Xí nghiệp đã đổi tên thành “ Xí nghiệp da giầy Hải Hưng”. Từ năm 1985 đến năm 1988 Xí nghiệp da giầy Hải Hưng với trên 120 công nhân đã sản xuất ra nhiều sản phẩm bằng da phục vụ cho nhân dân trong nước. Tháng 10/1988 được sự giúp đỡ của Hội liên hiệp da giầy Việt Nam, xí nghiệp đã nhập 2 dây chuyền may đồng bộ của Nhật Bản và Liên Xô với nhiệm vụ chuyên may mũ giầy xuất khẩu cho Liên Xô, găng tay da cho Đức, Ba Lan... Đến cuối năm 1989, thị trường Đông Âu có nhiều biến động các mặt hàng xuất khẩu của xí nghiệp sang thị trường này gặp khó khăn không tiêu thụ được. Hơn nữa là một xí nghiệp với quy mô nhỏ, dây chuyền công nghệ còn lạc hậu nên mặt hàng sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thời gian này, xí nghiệp gặp muôn vàn khó khăn: sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, công nhân không có việc làm... Năm 1993 do yêu cầu của công tác sản xuất phù hợp với những vấn đề do thị trường đặt ra như chất lượng sản xuất, khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giá thành, giá bán... và được sự đồng ý của Sở công nghiệp, UBND tỉnh trong việc thành lập lại Doanh nghiệp Nhà nước theo quyết định 388 của Thủ tướng Chính phủ, xí nghiệp đã chủ động cải tiến bộ máy quản lý từ mô hình xí nghiệp thành mô hình Công ty với nhiều phân xưởng sản xuất và mang tên“ Công ty giầy Hải Hưng”. Đến cuối năm 1993 công ty đã tích cực tìm kiếm thị trường, tạo điều kiện tiếp thu công nghệ mới, thực hiện chủ trương đó Công ty giầy Hải Hưng đã tiếp cận với Công ty FREEDOM - Hàn Quốc. Công ty này đã đồng ý bán máy trả chậm cho công ty và nhận bao tiêu sản phẩm với một số điều kiện là: Công ty FREEDOM cung cấp những nguyên liệu chính và mua lại sản phẩm theo giá mà bên FREEDOM đã đưa ra. Công ty giầy Hải Hưng đã nhận thấy với phương thức này sẽ giúp cho Công ty có vốn, có thị trường tiêu thụ để mở rộng sản xuất, đổi mới được dây chuyền công nghệ, phát huy được lực lượng có tay nghề của Công ty. Qua tính toán cho thấy về lâu dài, phương thức này tỏ ra có hiệu quả. Công ty đã quyết định ký hợp đồng nhập 3 dây chuyền sản xuất giầy thể thao xuất khẩu trị giá 1.176.000 USD, đồng thời công ty đã tiến hành nâng cấp, sửa chữa lại và xây dựng thêm hệ thống nhà xưởng, tuyển thêm công nhân, đào tạo mới và bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân của công ty với sự giúp đỡ của các chuyên gia Hàn Quốc. Tháng 7/1994 lắp đặt và chạy thử 3 dây chuyền sản xuất, tháng 9/1994 Công ty đã chính thức đi vào hoạt động chuyên sản xuất giầy thể thao xuất khẩu cho các nước Đông Âu như: Anh, Ba Lan... Sản lượng sản xuất ra ngày càng tăng và được thị trường chấp nhận... Điều này thể hiện qua con số sản lượng sau: Chỉ tiêu Năm 1994 Năm 1995 Sản lượng 317.000 đôi 800.000 đôi Doanh thu 17.000.000 đồng 43.000.000 đồng Chỉ qua 2 năm 1994 và 1995 bắt đầu đi vào sản xuất Công ty đã thành công và đạt được kết quả khả quan ngay từ bước đầu Công ty không những tăng sản lượng sản xuất hàng năm (Năm 1995 sản lượng tăng 2,5 lần so với năm 1994 mà sản phẩm giầy thể thao của công ty sản xuất ra đạt tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng được yêu cầu của thị trường do đó sản xuất ra tiêu thụ hết. Điều này thể hiện qua chỉ tiêu doanh thu: ta thấy doanh thu năm 1995 là 43 tỷ đồng tăng 2,5 lần so với năm 1994). Đây thực sự là sự khởi đầu tốt đẹp, là tiền đề cho cả quá trình đi lên của Công ty. Tháng 1 năm 1997 tỉnh Hải Hưng được tách thành hai tỉnh: Hải Dương và Hưng Yên. Từ đó, Công ty giầy Hải Hưng trực thuộc Sở công nghiệp Hải Dương và được đổi tên thành “Công ty giầy Hải Dương”. Hiện nay “Công ty giầy Hải Dương” là một doanh nghiệp thuộc Hội liên hiệp da giầy Việt Nam do UBND tỉnh Hải Dương quản lý. 1.2. Nhiệm vụ của Công ty giầy Hải Dương Nhiệm vụ chính của Công ty Giầy Hải Dương là sản xuất giầy thể thao xuất khẩu. Nguyên vật liệu sản xuất chính hiện nay là các loại da, giả da,đế... đều nhập từ Hàn Quốc. 1.3. Cơ cấu tổ chức quản lý tại Công ty giầy Hải Dương Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp được coi là một tế bào của nền kinh tế, doanh nghiệp có phát triển thì nền kinh tế mới tăng trưởng vững mạnh. Để đạt được điều đó thì quan trọng hơn cả là việc tổ chức một bộ máy quản lý vừa gọn nhẹ vừa có hiệu quả. Do có sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển theo xu thế chung, nhất là trong điều kiện vừa chuyển từ mô hình xí nghiệp nên mô hình công ty với nhiều phân xưởng. Công ty giầy Hải Dương đã hết sức cố gắng từng bước chấn chỉnh và hoàn thiện bộ máy quản lý. Qua nhiều năm, Công ty đã dần dần tổ chức được bộ máy tương đối gọn nhẹ, hiệu quả góp phần to lớn trong việc thúc đẩy tăng năng suất lao động, hiệu quả lao động. Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức đảm bảo phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất. Chính vì vậy mà Công ty ngày càng mở rộng được quy mô sản xuất và đứng vững trên thị trường. Tổng số cán bộ công nhân viên là 1600 người trong đó nhân viên quản lý là 60 người, công nhân sản xuất tại các phân xưởng là 1540 người.Với số lượng cán bộ công nhân viên như trên bộ máy quản lý Công ty Giầy Hải Dương được quản lý theo sơ đồ sau: 1.3.1. Sơ đồ bộ máy quản lý Công ty Giầy Hải Dương Giám đốc Phó giám đốc hành chính Phó giám đốc sản xuất phòng hành chính phòng tổ chức phòng kế toán tài vụ phòng vật tư phòng kế hoạch xuất nhập khẩu phòng kỹ thuật xưởng sản xuất xưởng cơ khí xưởng may xưởng gò ép xưởng chặt 1.3.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. + Ban lãnh đạo Công ty Giầy Hải Dương Giám đốc: Là người đại diện hợp pháp của Công ty chịu trách nhiệm trước Nhà nước về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đồng thời cũng chịu trách nhiệm trước toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty về các vấn đề về đảm bảo quyền lợi của người lao động. Giám đốc là người quản lý cao nhất của công ty và là người quyết định cuối cùng các vấn đề quan trọng trong phạm vi Công ty. Phó giám đốc hành chính: Là người giúp việc cho giám đốc, thay mặt giám đốc điều hành, chỉ đạo kiểm tra các mặt công tác hành chính, tổ chức, sử dụng và quản lý lao động một cách hiệu quả. Phó giám đốc sản xuất: Là người giúp việc cho giám đốc phụ trách toàn bộ lĩnh vực sản xuất, thay mặt giám đốc điều hành sản xuất của công ty, đảm bảo quá trình sản xuất thực hiện đúng tiến độ. + Các phòng chức năng của Công ty Giầy Hải Dương Phòng tài vụ: Tham mưu cho giám đốc về các chính sách, chế độ tài chính, thể lệ kế toán của Nhà nước, phản ánh kịp thời, thường xuyên toàn bộ hoạt động kinh tế, tài chính giúp giám đốc nắm bắt kịp thời tình hình tài chính của Công ty. Phòng hành chính: Quản lý và sử dụng con dấu của đơn vị, dấu chức danh theo đúng qui định. Phụ trách về điều kiện làm việc của các phòng ban. Quản lý và sử dụng các trang thiết bị liên quan đến công tác nghiệp vụ có hiệu quả, tiết kiệm, hợp lý. Phòng tổ chức: Quản lý toàn bộ hồ sơ nhân sự. Thực hiện qui trình tiếp nhận, tuyển dụng cán bộ công nhân viên. Tham mưu cho lãnh đạo về công tác quản lý đào tạo cán bộ công nhân viên. Xây dựng các chế độ lương, thưởng, phụ cấp cho người lao động để phù hợp với điều kiện của Công ty. Phòng vật tư: - Lập và thực hiện kế hoạch cung ứng vật tư cho sản xuất. - Triển khai quy trình kiểm tra hàng hóa từ khâu nhập hàng, xuất hàng, ghi hàng vào sổ, xếp hàng hóa khoa học, hợp lý. - Quản lý số lượng, chất lượng hàng hóa khi tham gia kiểm kê. - Cập nhật được số lượng, chủng loại vật tư trong ngày, tháng, quí. Phòng kế hoạch - xuất nhập khẩu: - Lập và triển khai kế hoạch sản xuất tới từng bộ phận. - Tiếp nhận chứng từ, tài liệu liên quan đến các đơn hàng sản xuất. - Dịch thuật các tài liệu từ nước ngoài ra tiếng Việt, lập các văn bản hồ sơ nhập hàng để trình với Hải quan sở tại. - Khiếu nại với khách hàng về số lượng, chất lượng hàng hóa sai quy cách. - Lập các chứng từ thanh toán với ngân hàng để đổi tiền khách hàng ra tiền Việt. - Lập các biểu mẫu báo cáo tình hình sản xuất và kinh doanh của đơn vị với các cơ quan chức năng quản lý. Phòng kỹ thuật - KCS: - Xây dựng cải tiến quy trình công nghệ sản xuất, tổng hợp và đưa vào thực tiễn các sáng kiến cải tiến kỹ thuật phụ trách các vấn đề về mặt kỹ thuật sản xuất. - Bộ phận KCS có nhiệm vụ kiểm tra, nghiệm thu chất lượng sản phẩm ở từng công đoạn để xử lý kịp thời những khiếm khuyết. Đánh giá được chất lượng hàng hóa của từng lô hàng trước khi xuất xưởng. Xưởng cơ khí: - Thực hiện sửa chữa, kiểm tra trung đại tu hoặc sửa chữa thay thế sự cố tức thì theo phương án kỹ thuật, lắp đặt các thiết bị, căn chỉnh độ chính xác của thiết bị theo yêu cầu kỹ thuật, bảo trì thiết bị theo định kỳ, thay thế thiết bị theo bản vẽ thiết kế. Các xưởng sản xuất: Là nơi trực tiếp sản xuất sản phẩm. Như xưởng chặt, xưởng gò ráp, xưởng may, xưởng cán sấy, xưởng đế. - Xưởng chặt: Xưởng này được chia làm 2 bộ phận Bộ phận cán: chia làm 3 tổ, bộ phận này có nhiệm vụ cán một số nguyên liệu cần phải được áp dính vào nhau trước khi đem chặt Bộ phận chặt: chia làm 3 tổ, bộ phận này có nhiệm vụ nhận nguyên liệu từ kho là các loại da, giả da... và một số nguyên liệu đã cán do bộ phận cán chuyển sang để chặt thành các chi tiết nhỏ của một đôi giầy - Xưởng may: Xưởng may được chia làm 3 phân xưởng nhỏ đó là phân xưởng may I, phân xưởng may II, phân xưởng may III và một bộ phận thêu. Các phân xưởng may có nhiệm vụ nhận những chi tiết nhỏ của một đôi giầy do phân xưởng chặt chuyển sang cùng với các vật liệu phụ khác như chỉ may, gòn... từ kho để may thành các đôi mũ giầy. Bộ phận thêu nhận các đôi mũ giầy và thêu trang trí theo các mẫu thêu khác nhau tùy từng mẫu giầy. - Xưởng gò ráp: Xưởng gò ráp được chia thành 2 dây chuyền mỗi dây chuyền có 3 tổ. Xưởng này có nhiệm vụ nhận đế và các chất phụ gia từ kho chủ yếu là keo, nhận các đôi mũ giầy từ xưởng may chuyển sang để gò thành các đôi hoàn chỉnh. Xưởng này còn có một bộ phận chuyên đóng gói giầy và nhập kho thành phẩm được gọi là bộ phận đóng hộp. Để việc quản lý sản xuất ở từng phân xưởng được chặt chẽ, Công ty bố trí mỗi xưởng một quản đốc, một phó giám đốc, một kế toán và một thống kê xưởng. Các nhân viên xưởng này có nhiệm vụ theo dõi, giám sát và đôn đốc sản xuất đảm bảo đúng tiến độ sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng như việc quản lý chi phí, tránh tình trạng lãng phí các yếu tố sản xuất. Ngoài các xưởng trực tiếp sản xuất sản phẩm còn có một số bộ phận gián tiếp sản xuất như: bộ phận cơ điện 1.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu tại Công ty Giầy Hải Dương 1.4.1. Hoạt động sản xuất. 1.4.1.1. Mặt hàng sản xuất của Công ty Giầy Hải Dương. Mặt hàng sản xuất chủ yếu của Công ty là giầy thể thao các loại phục vụ cho hoạt động xuất khẩu như : + Giầy thể thao người lớn( da thật) Giầy TECONE Giầy BEWILL ........................ + Giầy thể thao người lớn( giả da) Giầy FERFECT Giầy MAGIC ........................ + Giầy trẻ em Giầy LEVI’S Giầy BOZ ........................ 1.4.1.2. Công nghệ sản xuất của Công ty Giầy Hải Dương Công nghệ sản xuất của Công ty Giầy Hải Dương được đánh giá là tiên tiến, dây chuyền công nghệ được nhập từ Hàn Quốc với sự hướng dẫn kỹ thuật của các kỹ sư Việt Nam và Hàn Quốc. Điều này đảm bảo quy trình sản xuất giầy thể thao tại công ty được liên tục, không bị gián đoạn về mặt thời gian, cũng như đảm bảo tốt mẫu mã chất lượng, đúng đủ số lượng kịp thời cho hoạt động xuất khẩu. Quy trình sản xuất giầy thể thao tại công ty trải qua các công đoạn sau: + Chặt: Nguyên liệu được lấy từ kho của công ty đó là các loại da, giả da, xốp... được đưa vào các máy chặt theo các cỡ dao khác nhau của từng cỡ giầy thành những chi tiết nhỏ của một đôi giầy. Có một số nguyên liệu như các loại vải cần phải trải qua công đoạn bồi( hay còn gọi là cán) để gia công cho áp dính 2 mặt vào nhau sau đó mới đem chặt. + May: Các chi tiết nhỏ được chuyển sang xưởng may để may thành các đôi mũ giầy. Việc may do các công nhân xưởng may thực hiện bằng các máy khâu chuyên dùng cho việc may giầy thể thao. Các đôi mũ giầy được chuyển qua công đoạn thêu dùng nguyên liệu là chỉ thêu màu theo mẫu được nhập từ Hàn Quốc. + Gò: Đế giầy lấy từ kho được kết hợp với các đôi mũ giầy, dùng cho các chất phụ gia chủ yếu là keo để gò thành đôi hoàn chỉnh. Sau cùng, các đôi giầy được đóng thành từng hộp và nhập kho thành phẩm. Việc đóng hộp sử dụng các nguyên liệu như: giấy, bìa cát tông, băng dính... Mũ giầy Đóng hộp Kho thành phẩm Hoàn chỉnh sản phẩm Nguyên liệu Bồi Chặt May Thêu Đế Quy trình công nghệ sản xuất giầy thể thao được khái quát bằng sơ đồ 1.4.1.3. Môi trường kinh doanh của Công ty Giầy Hải Dương. + Thị trường xuất khẩu Khách hàng hiện tại của Công ty giầy Hải Dương Châu Âu có : Italia, France, Austra, Germany, England .... Nam Mỹ có : Achentina, Chilê... Châu á có : Hàn Quốc , Nhật Bản. Thị trường EU là thị trường xuất khẩu giầy chủ yếu của Công ty giầy Hải Dương trong những năm qua. Song đây là một thị trường khó tính có sự đòi hỏi cao về chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm. Mỹ là thị trường nhập khẩu giầy lớn nhất thế giới song số lượng xuất khẩu sang Mỹ của Công ty giầy Hải Dương còn hạn chế do Việt Nam chưa được hưởng Quy chế tối hụê quốc (Most Favoured Nation) nên khi giầy Việt Nam xâm nhập vào thị trường này còn chịu mức thuế cao (30%). Thị trường Nga và Đông Âu cùng là một thị trường khá tiềm năng của Công ty, song còn tồn tại khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường này là khả năng thanh toán. + Nguồn lực của Công ty: Khả năng tài chính của Công ty giầy Hải Dương được thể hiện là tốt qua bảng sau: Đơn vị:1000 đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Vốn kinh doanh 50.638.500 39.560.000 47.076.000 a.Vốn cố định 10.510.000 13.542.424 12.566.000 b.Vốn lưu động 39.856.500 50.843.000 41.029.000 Vốn đầu tư hàng năm 1.500.000 2.000.000 1.950.000 Trong những năm qua với nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty, hoạt động sản xuất của Công ty tăng một cách rõ rệt thể hiện. Đơn vị : Đôi Tên sản phẩm Năm 2000 Năm 2001 Năm 2003(dự tính) Giầy thể tha._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29674.doc