Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư sử dụng vốn Ngân sách nhà nước tại Vụ Thẩm định & Giám sát đầu tư - Bộ Khoa học và đầu tư

Lời mở đầu Một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc quản lý đầu tư và xây dựng là quản lý tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Thẩm định dự án được xem như một nhu cầu không thể thiếu và là cơ sở để ra quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư. Thẩm định dự án được tiến hành đối với tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế như:Vốn trong nước và vốn nước ngoài, vốn của ngân sách nhà nước (vốn của các doanh nghiệp Nhà nước,

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư sử dụng vốn Ngân sách nhà nước tại Vụ Thẩm định & Giám sát đầu tư - Bộ Khoa học và đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn của các tổ chức kinh tế xã hội, vốn hỗ trợ phát triển chính thức -ODA) và vốn của dân, vốn của các thành phần kinh tế Nhà nước và vốn của các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, yêu cầu thẩm định đối với các dự án này là khác nhau về mức độ và chi tiết giữa các dự án, tuỳ thuộc vào quy mô, tính chất của dự án, nguồn vốn được huy động và chủ thể có thẩm quyền thẩm định. Quỹ Ngân sách Nhà nước là một nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển Kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng,lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Trong những năm gần đây,quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau.Đi cùng với mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư từ Ngân sách Nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Để hiệu quả sử dụng đồng vốn đúng mục đích, có hiệu quả cao và phù hợp với quy hoạch phát triển chung của đất nước thì công tác thẩm định đánh giá các dự án đầu tư là rất quan trọng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư với tư cách là cơ quan đầu mối trong việc quản lý các dự án đầu tư thường xuyên chú trọng tới công tác thẩm định dự án đầu tư để ra quyết định đầu tư hoặc đề xuất báo cáo trình Chính Phủ quyết định. Để đưa ra những quyết định ngày càng đúng đắn và phát huy mạnh mẽ hơn nữa hiệu qủa của nguồn vốn đầu tư, việc nâng cao chất lượng tiến tới hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư được đặt ra ngày càng bức xúc. Xuất phát từ lý do trên, cùng với lòng nhiệt tình muốn nâng cao hiểu biết về lĩnh vực thẩm định dự án, trong thời gian thực tập tại Vụ Thẩm định và Giám sát Đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, em đã tập trung đi sâu tìm hiểu công tác thẩm định đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước và đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Thực trạng và Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ”. chương 1:những vấn đề chung về công tác thẩm định dự án đầu tư I. Khái niệm và phân loại dự án đầu tư: 1.Khái niệm dự án đầu tư: Đầu tư là một hoạt động bỏ vốn với hy vọng thu lợi trong tương lai. Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư, đặc điểm và sự phức tạp về mặt kỹ thuật, hậu quả và hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư đòi hỏi để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự chuẩn bị này được thể hiện ở việc soạn thảo các dự án đầu tư. Có nghĩa là mọi công cuộc đầu tư phải được thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu quả mong muốn. Dự án đầu tư được xem xét từ nhiều góc độ tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu của chủ thể đầu tư: Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là công cụ quản lý thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư, quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế chung. Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau để kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Theo nghị định 52/ 1999/ NĐ-CP thì dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. 2. Phân loại dự án đầu tư. Có nhiều cách phân loại dự án đầu tư nhằm mục đích để tiện cho việc theo dõi, quản lý hoạt động đầu tư: a. Theo trình độ hiện đại của sản xuất: Dự án được chia thành dự án đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu. Dự án đầu tư theo chiều rộng là việc mở rộng sản xuất được thực hiện bằng kỹ thuật lặp lại như cũ nhưng quy mô lớn hơn. Dự án đầu tư theo chiều sâu là việc mở rộng sản xuất được thực hiện bằng kỹ thuật tiến bộ hơn và kỹ thuật hơn. b. Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội: Người ta phân chia dự án thành:dự án đầu tư cho sản xuất kinh doanh dự án đầu tư cho khoa học kỹ thuật; dự án đầu tư cho kết cấu hạ tầng.Trong đó hoạt động của các loại đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Dự án đầu tư khoa học và công nghệ và dự án đầu tư kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho dự án đầu tư cho sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Còn dự án đầu tư cho sản xuất kinh doanh lại tạo tiềm lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học công nghệ và dự án đầu tư cho kết cấu hạ tầng. c. Theo quá trình tái sản xuất xã hội: Dự án được phân thành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất. Dự án đầu tư thương mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư là ngắn. Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án đầu tư có thời hạn hoạt động dài, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, tính chất kỹ thuật phức tạp do vậy tính rủi ro cao. d. Theo nguồn vốn đầu tư: Dự án được chia thành: dự án đầu tư có vốn huy động trong nước( vốn của ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của nhân dân). Dự án có vốn đầu tư huy động từ nước ngoài( vốn đầu tư trực tiếp FDI và gián tiếp ODA). e. Theo phân cấp quản lý: Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 12/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 phân thành 3 nhóm A, B và C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định. II. Tổng quan về thẩm định dự án. 1. Khái niệm: Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án, từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư .Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư . 2. Sự cần thiết phải thẩm định dự án: Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với các hoạt động đầu tư. Nhà nước với chức năng công quyền của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư . Chủ đầu tư muốn khẳng định quyết định đầu tư của mình là đúng đắn, các tổ chức tài chính tiền tệ muốn tài trợ hay cho vay vốn đối với dự án, để ngăn chặn sự đổ bể, lãng phí vốn đầu tư, thì cần kiểm tra lại tính hiệu quả, tính khả thi và tính hiện thực của dự án. Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước. Bởi vậy trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cần biết xem dự án đó có góp phần đạt được mục tiêu của quốc gia hay không, nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào. Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo. Vì vậy để đảm bảo tính khách quan của dự án , cần thiết phải thẩm định. Các nhà thẩm định thường có cách nhìn rộng trong việc đánh giá dự án. Họ xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, toàn cộng đồng để xem xét các lợi ích kinh tế- xã hội mà dự án đem lại. Mặt khác, khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các ý kiến có thể mâu thuẫn, không logic, thậm chí có thể có những sơ hở gây ra tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư. Thẩm định dự án là cần thiết. Nó là một bộ phận của công tác quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. 3.Mục đích và yêu cầu của thẩm định dự án: 3.1.Mục đích của thẩm định dự án: - Đánh giá tính hợp lý của dự án : tính hợp lý được biểu hiện một cách tổng hợp ( biểu hiện trong tính hiệu quả và tính khả thi) và được biểu hiện ở từng nội dung và cách thức tính toán của dự án. - Đánh giá tính phù hợp của dự án: Mục tiêu của dự án phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế_xã hội. - Đánh giá tính hiệu quả của dự án: hiệu quả của dự án được xem xét trên hai phương diện: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án. - Đánh giá tính khả thi của dự án: đây là mục đích hết sức quan trọng trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi. Tất nhiên hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả thi. Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của dự án (các kế hoạch tổ chức thực hiện, môi trường pháp lý của dự án ). 3.2.Yêu cầu của thẩm định dự án: Dù đứng trên góc độ nào, để ý kiến có sức thuyết phục thì chủ thể có thẩm quyền thẩm định cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Nắm vững chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương và các quy chế ,luật pháp về quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và xây dựng của nhà nước. - Hiểu biết về bối cảnh, điều kiện cụ thể của dự án, tình hình và trình độ kinh tế chung của địa phương, đất nước và thế giới. Nắm vững tình hình sản xuất kinh doanh ,các số liệu tài chính của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, với ngân hàng và ngân sách nhà nước. - Biết khai thác số liệu trong các báo cáo tài chính của chủ đầu tư, các thông tin về giá cả, thị trường để phân tích hoạt động chung của chủ đầu tư, từ đó có thêm căn cứ để quyết định hoặc cho phép đầu tư. - Biết xác định và kiểm tra các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng của dự án, đồng thời thường xuyên thu thập, đúc kết, xây dựngcác chỉ tiêu định mức kinh tế-kỹ thuật tổng hợp, trong và ngoài nước để phục vụ cho việc thẩm định. - Đánh giá khách quan, khoa học và toàn diện về nội dung dự án, có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia. - Thẩm định kịp thời, tham gia ý kiến ngay từ khi nhận được hồ sơ dự án. - Thường xuyên hoàn thiện các quy trình thẩm định , phối hợp phát huy được trí tuệ tập thể, tránh sách nhiễu. 4.ý nghĩa của việc thẩm định các dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư có nhiều ý nghĩa khác nhau tuỳ thuộc các chủ thể khác nhau: - Giúp cho cơ quan quản lý Nhà nước đánh giá được tính hợp lý của dự án đứng trên giác độ hiệu quả kinh tế xã hội. - Giúp cho chủ đầu tư lựa chọn phương án đầu tư tốt nhất theo quan điểm hiệu quả tài chính và tính khả thi của dự án. - Giúp cho các định chế tài chính ra quyết định chính xác cho vay hoặc tài trợ cho dự án theo các quan điểm khác nhau. - Giúp cho mọi người nhận thức và xác định rõ những cái lợi, cái hại của dự án trên các mặt để có các biện pháp khai thác và khống chế. - Xác định rõ tư cách pháp nhân của các bên tham gia đầu tư. III. Nội dung và các nguyên tắc trong thẩm định dự án sử dụng vốn nhà nước. 1.Nội dung: Đối với các dự án đầu tư bằng vốn nhà nước phải thẩm định các nội dung sau đây: 1.1. Mục tiêu và căn cứ pháp lý của dự án. Xem xét mục tiêu của dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đất nước,mục tiêu phát triển kinh tế trong từng thời kỳ phát triển. Xem xét tư cách pháp nhân ,năng lực của chủ đầu tư. Đây là nội dung quyết định phần lớn đến việc đình hoãn hay huỷ bỏ dự án. 1.2. Thẩm định sản phẩm, thị trường. Đánh giá mức độ tham gia và khả năng cạnh tranh mà sản phẩm của dự án có khả năng đạt được.Nếu kết quả phân tích cho thấy triển vọng thị trường chỉ mang tính chất nhất thời hay đang dần thu hẹp lại thì cần thận trọng xem xét đầu tư cho dự án. 1.3. Thẩm định về phương diện kỹ thuật, về thiết bị công nghệ của dự án. Đây là phần cốt lõi của dự án, quyết định kết quả và hiệu quả của đầu tư, nên được xem xét kỹ trước khi đánh giá khía cạnh khác ,kể cả khả năng sinh lời về mặt tài chính và kinh tế của dự án. Vì vậy cần thu thập đủ ý kiến của chuyên viên kỹ thuật (kể cả những ý kiến được đăng tải trên báo chí). Có thể kết hợp với tiến hành điều tra riêng rẽ các vấn đề khác nhau với việc tập hợp nhóm các chuyên gia có trách nhiệm xem xét, đánh giá tổng hợp. Tuy nhiên, bước nghiên cứu này phải đi đến kết luận thiết kế công nghệ hiện tại có giúp dự án đạt mục tiêu đã nêu, có khả thi về mặt kỹ thuật hay không? Tất cả dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất,khu công nghệ cao, các dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ,thiết bị đều phải thẩm định thiết bị công nghệ. + Xem xét việc lựa chọn hình thức đầu tư và công suất của dự án: Từ việc nghiên cứu kỹ năng lực và điều kiện sản xuất hiện tại của doanh nghiệp,đề xuất hình thức đầu tư phù hợp. Xem xét việc lựa chọn công suất thiết bị cần dựa vào nhu cầu thị trường của sản phẩm, tính năng của thiết bị có thể lựa chọn và khả năng tài chính của chủ đầu tư. + Nghiên cứu về dây chuyền công nghệ và lựa chọn thiết bị : Việc thẩm định phải phân tích được rõ ưu điểm và những hạn chế của công nghệ lựa chọn. Đối với điều kiện cụ thể của Việt nam công nghệ được lựa chọn nên là cong nghệ đã qua kiểm chứng thành công, vì vậy cần thu thập, tích luỹ thông tin về kinh ngiệm của các nhà sản xuất có sản phẩm và công nghệ tương tự. Nếu là công nghệ áp dụng lần đầu trong nước cần có kết luận của cơ quan giám định công nghệ. Thẩm định kỹ thuật Sơ đồ: Vai trò của thẩm định kỹ thuật Thành công Chấp nhận Không khả thi Bác bỏ Phân tích tài chính Bỏ lỡ mất cơ hội thu lợi nhuận Chấp nhận Bác bỏ Thông qua luận chứng kinh tế kỹ thuật Lãng phí nguồn lực Tiết kiệm nguồn lực Không khả thi Khả thi Chấp nhận Bác bỏ Bác bỏ Chấp nhận Thất bại Bỏ mất nguồn lực Thu được nguồn lực Tiết kiệm nguồn lực Tổn thất nguồn lực Thành công Thất bại 1.4. Sự hợp lý của phương án địa điểm, sử dụng đất đai, chế độ khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia. Các dự án đầu tư mới, mở rộng quy mô sản xuất lớn cần có các phương án về địa điểm để xem xét lựa chọn. Đối với các dự án đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, cải tạo nhà xưởng, do đặt trên nền bệ của xí nghiệp đang hoạt động nên không cần nhiều phương án về địa điểm. Vị trí của dự án phải được tối ưu vì vậy cần đảm bảo các yêu cầu như: tuân thủ các quy định về quy hoạch xây dựng, kiến trúc của địa phương và các quy hoạch của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về phòng cháy chữa cháy, quản lý di tích lịch sử…thuận lợi về giao thông, phương tiện và chi phí vận tải phù hợp, giá cước hạ. Gần nguồn cung cấp nguyên vật liệu, cơ sở phục vụ sản xuất chủ yếu, cơ sở tiêu thụ sản phẩm quan trọng. Hợp lí với việc đi lại của cán bộ công nhân. Tận dụng được các cơ sở hạ tầng sẵn có trong vùng như: lưới điện quốc gia, hệ thống cung cấp nước, đường giao thông, thông tin liên lạc, bưu điện. Các chất phế thải, nước thải nếu độc hại phải qua khâu xử lý và gần tuyến nước thải cho phép. Phải xa khu dân cư nếu có khí độc hại và tiếng ồn. Mặt bằng được chọn phải đủ rộng để có thể phát triển trong tương lai phù hợp với tiềm năng phát triển doanh nghiệp. Xem xét số liệu địa chất công trình để ước tính chi phí xây dựng và gia cố nền móng (một số dự án cần tránh đầu tư vào những địa điểm có chi phí nền móng quá lớn). Xem xét khả năng giải phóng mặt bằng, đền bù: nếu việc đầu tư đòi hỏi phải xây dựng ở địa điểm mới, để ước tính tương đối đúng chi phí và thời gian thực hiện dự án, cần xem xét khả năng giải phóng mặt bằng và đền bù thiệt hại cho cộng đồng nơi có dự án. 1.5. Thẩm định ảnh hưởng của dự án đến môi trường: Tất cả các dự án đầu tư được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam đều phải thẩm định ảnh hưởng của dự án đến môi trường và biện pháp xử lí hạn chế mức độ độc hại đến môi trường và biện pháp xử lý hạn chế mức độ độc hại đến môi trường sống. Các dự án được phân ra làm hai loại: loại 1 và loại 2. Các dự án loại 1 là những dự án có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng, dễ gây dự cố môi trường khó khống chế và khó xác định tiêu chuẩn môi trường được Nhà nước xác định danh mục và công bố cụ thể. Các dự án loại 2 là những dự án khong nằm trong danh mục các dự án loại 1. Đối với các dự án loại 1 nằm ngoài Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao, chủ đầu tư dành riêng một phần để nêu sơ lược về tác động tiềm tàng của dự án đến môi trường “Báo cáo đánh giá tác động môi trường”. Đối với các dự án nằm trong Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao mà Khu đó đã được cấp có thảm quyền quyết định phê chuẩn “Báo cáo đánh giá tác động môi trường” thì chủ đầu tư lập phiếu “Đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường” như các dự án loại 2. Đối với các dự án loại 2, chủ đầu tư lập phiếu “Đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường”. - Việc thẩm định ảnh hưởng của dự án đến môi trường được tiến hành trong 3 giai đoạn + Giai đoạn xin giấy phép đầu tư: cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định phê duyệt “Báo cáo đánh giá tác động môi trường” hoặc xác nhận phiếu “Đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường” sơ bộ. + Giai đoạn thiết kế xây dựng : Sau khi có giấy phép đầu tư hoặc Quyết định đầu tư và xác định địa điểm đầu tư ,chủ đầu tư phải lập chi tiết “Báo cáo đánh giá tác động môi trường” hoặc xác nhận phiếu “Đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường”. + Giai đoạn kết thúc xây dựng :Trước khi dưa công trình vào sử dụng, cơ quan nhà nước về bảo vệ môi trường (BVMT) cùng cơ quan cấp giấy phép đầu tư kiểm tra các công trình xử lý chất thải, các điều kiện an toàn khác, theo quy định BVMT và cấp phép tương ứng. 1.6. Thẩm định về phương diện tổ chức: - Xem xét các đơn vị thiết kế thi công: Phải có tư cách pháp nhân, có năng lực chuyên môn, có giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. - Xem xét các đơn vị cung ứng thiết bị công nghệ. - Xem xét về tiến độ thi công công trình và chương trình sản xuất của dự án. 1.7. Thẩm định về phương diện tài chính của dự án. - Thẩm tra việc tính toán và xác định tổng vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn: + Vốn đầu tư xây lắp: Nội dung kiểm tra tập rung vào việc xác định nhu cầu xây dựng hợp lý của các dự án và mức độ hợp lý của đơn giá xây lắp tổng hợp, được áp dụng so với kinh nghiệm đúc kết từ các dự án hoặc loại công tác xây lắp tương tự. + Vốn đầu tư thiết bị: Căn cứ vào danh mục thiết bị kiểm tra giá mua và chi phí vận chuyển, bảo quản theo định mức chung về giá thiết bị, chi phí vận chuyển cần thiết. Đối với các loại thiết bị có kèm theo chuyển giao công nghệ mới thì vốn đầu tư thiết bị còn bao gồm cả chi phí chuyển giao công nghệ. + Chi phí khác: các khoản mục chi phí này cần được tính toán, kiểm tra theo qui định hiện hành của nhà nước. Những chi phí này được phân theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và xây dựng. Các khoản chi phí này được xác định theo định mức và nhóm chi phí xác định bằng cách lập dự toán như chi phí cho việc điều tra, khảo sát thu thập số liệu phục vụ cho việc lập dự án, chi phí tuyên truyền, quảng cáo dự án... Ngoài các yếu tố về vốn đầu tư trên cần kiểm tra một số nội dung chi phí sau: + Chi phí trả lãi vay ngân hàng trong thời gian thi công + Nhu cầu về vốn lưu động ban đầu hoặc nhu cầu vốn lưu động bổ sung để dự án sau khi hoàn thành có thể đi vào hoạt động ngay được. Việc xác định hợp lý vốn đầu tư của dự án là cần thiết tránh hai khuynh hướng tính quá cao hoặc quá thấp. Sau khi xác định hợp lý vốn đầu tư cần xem xét việc phân bổ vốn đầu tư theo chương trình tiến độ đầu tư. Việc này đặc biệt cần thiết với các công trình có thời gian xây dựng dài. - Xem xét suất đầu tư (theo từng ngành nghề). Việc xem xét này mục đích là để đánh giá mức độ hiện đại của công nghệ thiết bị. - Kiểm tra về cơ cấu vốn và cơ cấu nguồn vốn. Cơ cấu vốn theo công dụng: thường được coi là hợp lý nếu tỷ lệ đầu tư cho thiết bị cao hơn xây lắp, tuy nhiên cần linh hoạt tuỳ theo tính chất và điều kiện cụ thể của dự án, không nên quá máy móc áp đặt. Cơ cấu vốn bằng nội tệ và ngoại tệ: cần xác định đủ số vốn đầu tư và chi phí sản xuất bằng ngoại tệ của dự án để có cơ sở qui đổi tính toán hiệu quả của dự án, mặt khác việc phân định rõ các loại chi phí bằng ngoại tệ để xác định được nguồn vốn ngoại tệ cần thiết đáp ứng nhu cầu của dự án. Phân tích cơ cấu nguồn vốn và khả năng đảm bảo nguồn vốn; việc thẩm định chỉ tiêu này cần chỉ rõ mức vốn đầu tư cần thiết từ nguồn vốn dự kiến để đi sâu phân tích tìm hiểu các khả năng thực hiện của cá nguồn vốn đó. Căn cứ vào các nguồn vốn có thể huy động cần quan tâm xử lý các nội dung để đảm bảo khả năng về nguồn vốn như: + Vốn tự có của doanh nghiệp: cần kiểm tra phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để xác định số vốn tự có của doanh nghiệp + Vốn trợ cấp của ngân sách: cần xem xét các cam kết bảo đảm của các cấp có thẩm quyền đối với nguồn vốn ngân sách. + Vốn vay ngân hàng: cần xem xét độ tin cậy về khả năng cho vay của ngân hàng đã cam kết cho vay. + Vốn vay nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả: cần xem xét kỹ việc chấp hành đúng qui định của nhà nước về vay vốn nước ngoài của doanh nghiệp và xem xét kỹ việc chấp hành đúng các qui định của nhà nước về các cam kết đã đạt được với phía nước ngoài cũng như khả năng thực tế để thực hiện cam kết đó. * Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án thông qua các chỉ tiêu: + Hệ số vốn tự có so với vốn đi vay: Hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1. Đối với dự án có triển vọng, hiệu quả thu được rõ ràng thì hệ số này có thể nhỏ hơn 1 mà dự án vẫn thuận lợi. Tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn đầutư phải lớn hơn hoặc bằng 50%. Đối với các dự án triển vọng, có hiệu quả rõ ràng tỷ trọng này có thể thấp hơn. + Tỷ suất sinh lời vốn đầu tư( hệ số hoàn vốn). RR = Wpv: Lợi nhuận bình quân hàng năm của dự án quy về mặt bằng hiện tại. Ivo: Vốn đầu tư tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động. RR: Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư tính bình quân năm của đời dự án. + Tỷ số lợi ích – chi phí ( B/ C ). Chỉ tiêu lợi ích – chi phí được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra. Trong đó: Bi: Doanh thu hay lợi ích ở năm i. Ci: Chi phí năm i. PV( B): Giá trị hiện tại của các khoản thu bao gồm doanh thu ở các năm của đời dự án . PV(C): Giá trị hiện tại của các khoản chi phí. Chỉ tiêu B/ C >= 1 thì dự án được chấp nhận. Khi đó tổng các khoản thu của dự án đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Còn ngược lại B/ C < 1 thì dự án bị bác bỏ. + Chỉ tiêu thu nhập thuần của dự án. Chỉ tiêu thu nhập thuần của dự án đánh giá tính hiệu quả của dự án trong suốt thời gian hoạt động. NPV = Bi: Khoản thu của dự án năm i. Ci: Khoản chi của dự án năm i. r: Tỷ suất chiết khấu xã hội được chọn. n: Số năm hoạt động của dự án. + Thời gian thu hồi vốn đầu tư. Thời gian thu hồi vốn đầu tư là thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ vốn đã bỏ ra. T: Năm thu hồi vốn đầu tư. (W+ D)ipv: Khoản thu lợi nhuận thuần và khấu hao năm i quy về thời điểm hiện tại. Ivo: Vốn đầu tư ban đầu. Dự án được chấp nhận khi thời gian hoàn vốn đầu tư <= Tđm Tđm: thời gian hoàn vốn định mức được xác định tuỳ theo ngành. + Hệ số hoàn vốn nội bộ. Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng hiện tại thì tổng thu bằng tổng chi. IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ. Dự án được coi là khả thi nếu IRR >= rđm rđm: Lãi suất định mức quy định có thể là lãi suất định mức do nhà nước quy định hoặc là chi phí cơ hội. + Điểm hoà vốn. Điểm hoà vốn là điểm tại đó doanh thu vừa đủ trang trải các khoản chi phí bỏ ra. Điểm hoà vốn được biểu diễn bằng chỉ tiêu hiện vật ( sản lượng) và chỉ tiêu giá trị( doanh thu tại điểm hoà vốn). Nếu sản lượng hoăch doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu tại thời điểm hoà vốn thì dự án có lãi, ngược lại nếu đạt thấp hơn thi dự án bị lỗ. Do đó chỉ tiêu hoà vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự án càng cao, thời hạn thu hồi vốn càng ngắn. 1.8. Thẩm định hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án Thẩm định kinh tế-xã hội là một nội dung quan trọng của dự án. Trên góc độ người đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích quy tụ là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Khả năng sinh lợi càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên, không phải mọi dự án có khả năng sinh lợi cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với kinh tế-xã hội. Do đó, trên giác độ quản lý vĩ mô phải xem xét, đánh giá việc thực hiện dự án đầu tư có những tác động gì đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, có nghĩa là phải xem xét mặt kinh tế-xã hội của dự án, xem xét những lợi ích kinh tế-xã hội do thực hiện dự án đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các tổ chức tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho dự án. Lợi ích kinh tế-xã hội của dự án đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội phải bỏ ra khi thực hiện dự án. Đối với mọi quốc gia, mục tiêu chủ yếu của nền sản xuất xã hội là tối đa hoá phúc lợi. Mục tiêu này thường thể hiện trong các chủ trương chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước. Với các nước đang phát triển, lợi ích kinh tế-xã hội thường được đề cập là : Nâng cao mức sống của dân cư: được thể hiện gián tiếp qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc dân, mức gia tăng tích luỹ vốn, mức gia tăng đầu tư, tốc độ phát triển, tốc độ tăng trưởng… Phân phối lại thu nhập thể hiện qua sự đóng góp của dự án vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển, nâng cao đời sống của tầng lớp dân cư nghèo. Gia tăng số lao động có việc làm. Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của các nước thừa lao động, thiếu việc làm. Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ. Những nước đang phát triển không chỉ nghèo mà còn là các nước nhập siêu. Do đó đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu là những mục tiêu quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Các mục tiêu khác: Tận dụng, khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện Nâng cao năng suất lao động, đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật để hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nền kinh tế Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây chuyền thúc đẩy phát triển các ngành nghề khác Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án là việc xem xét lợi ích mà dự án mang lại cho quốc gia và cho cộng đồng thông qua các xem xét sau: + Xem xét việc điều chỉnh các khoản chuyển nhượng. +Xem xét cách xác định giá kinh tế. + Xem xét tỷ giá hối đoái được sử dụng để chuyển đổi các khoản thu chi của dự án về cùng một đơn vị tiền tệ. +Xem xét tỷ suất chiết khấu xã hội được sử dụng để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về cùng một mặt bằng thời gian. + Xem xét các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thông qua: - Giá trị gia tăng thuần tuý. NVA = O- ( MI+Iv ). NVA: Giá tri gia tăng thuần tuý do dự án mang lại. O: Giá trị đầu vào/ hay giá trị đầu ra. MI: Giá trị vật chất đầu vào thường xuyên. Iv: Vốn đầu tư bao gồm: chi phí xây dựng, nhà xưởng, máy móc thiết bị. - Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư. - Giá trị sản phẩm thuần tuý quốc gia. NNVA= NVA- RP. RP: Giá trị lợi ích chuyển ra nước ngoài. - Chỉ tiêu mức gia tăng của mỗi nhóm dân cư( những người làm công ăn lương, những người có vốn hưởng lợi tức, nhà nước thu thuế…) hoặc vùng lãnh thổ. - Chỉ tiêu ngoại hối ròng( tiết kiệm ngoại tệ). - Chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế. - Những tác động khác của dự án gồm: ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng, ảnh hưởng đến môi trường, trình độ nghề nghiệp của người lao động, tác động về xã hội, chính trị kinh tế khác. 2. Nguyên tắc trong thẩm định. Trên giác độ quản lý các dự án đầu tư, việc thẩm định cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây: - Các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tin dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn do doanh nghiệp nhà nước đầu tư đều phải tổ chức thẩm định trước khi phê duyệt và quyết định đầu tư. - Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn và mọi thành phần kinh tế khi ra quyết định và cấp giấy phép đầu tư phải qua khâu thẩm định về hiệu quả kinh tế xã hội, về quy hoạch xây dựng , các phương án kiến trúc, công nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên. Nguyên tắc này đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội cho các dự án đầu tư. Tránh thực hiện những dự án chỉ đơn thuần có lợi về hiệu quả tài chính. Các cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý Nhà nước các dự án đầu tư trước hết phải bảo đảm sự hài hoà giữa lợi ích kinh tế xã hội và lợi ích của các chủ đầu tư. - Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn phải được thẩm định về phương diện tài chính của dự án ngoài phương diện kinh tế xã hội đã nêu ở nguyên tắc đầu. Nhà nước với tư cách vừa là chủ đầu tư vừa là cơ quan quản lý chung các dự án thực hiện cả hai chức năng quản lý dự án: quản lý dự án với chức năng là chủ đầu tư và quản lý dự án với chức năng quản lý vĩ mô( quản lý nhà nước). Thực hiện nguyên tắc này nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu quả nhất những đồng vốn của Nhà nước. Trong mọi dự án đầu tư không thể tách rời giữa lợi ích của chủ đầu tư quan tâm đặc biệt đến hiệu quả tài chính mà ít quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hôi, Nhà nước cần quan tâm đến phương diện kinh tế xã hội. - Cấp nào có quyền ra quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư thì cấp đó có trách nhiệm thẩm định dự án. Thẩm định dự án được coi như là chức năng quan trọng trong quản lý dự án của Nhà nước. Thẩm định đảm bảo cho các cơ quan quản lý Nhà nước ở cấp khác nhau ra quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư đúng theo thẩm quyền của mình. - Nguyên tắc thẩm định có thời hạn: Theo nguyên tắc này các cơ quan quản lý đầu tư của Nhà nước cần nhanh chóng thẩm định, tránh những thủ tục rườm rà, châm trễ, gây phiền hà trong việc ra quyết định và cấp giấy phép đầu tư. IV.Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thẩm định dự án. 1. Môi trường pháp lý. Các văn bả._.n pháp luật là yếu tố trực tiếp định hướng và ảnh hưởng đến công tác thẩm định. Các văn bản pháp luật liên quan đến công tác thẩm định các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước đã được quy định cụ thể và gần đây đã được bổ sung sửa đổi để ngày càng phù hợp và cập nhật hơn với thực tế hiện nay. Những tiến bộ hay những mặt còn hạn chế của các văn bản pháp luật chính là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp nhất đến chất lượng của công tác thẩm định cũng như việc ra quyết định đầu tư. 2. Phương pháp thẩm định Dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp thẩm định khoa học kết hợp với các kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy. Việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào từng nội dung của dự án cần xem xét. Việc lựa chọn phương pháp thẩm định phù hợp đối với từng dự án là một yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng thẩm định. Các phương pháp thường được sử dụng đó là phương pháp so sánh, phương pháp thẩm định theo trình tự, phương pháp phân tích độ nhạy của dự án. Tuy nhiên phương pháp chung để thẩm định là so sánh, đối chiếu nội dung dự án với các chuẩn mực đã được quy định bởi pháp luật và các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật thích hợp cũng như các kinh nghiệm thực tế. 3. Thông tin Thông tin là một yếu tố cực kỳ quan trọng và không thể thiếu được trong công tác thẩm định. Thông tin đầy đủ và chính xác là cơ sở cho việc thẩm định đạt kết quả cao. Ngược lại thông tin không đầy đủ và phiến diện sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm về tính khả thi của dự án, từ đó có thể đưa đến những quyết định đầu tư sai lầm. Càng có nhiều thông tin về dự án giúp cho cán bộ thẩm định càng có nhiều cơ sở hơn cho những kết luận của mình về dự án. Khi đã thu thập đủ thông tin liên quan đến dự án giúp cho cán bộ thẩm định có cái nhìn tổng quát, tổng thể về dự án dẫn đến thời gian thẩm định dự án được rút ngắn mà chất lượng thẩm định dự án được nâng cao hơn. Một khi thẩm định dự án mà hạn chế về lượng thông tin cần thiết sẽ gây ra nhiều khó khăn cho công tác thẩm định, các kết luận thẩm định về dự án không có sức thuyết phục và không đảm bảo độ chính xác đối với những kết luận của mình. Nhất là trong thời đại ngày nay, công nghệ thông tin bùng nổ, khoa học kỹ thuật công nghệ không ngừng phát triển, các thiết bị công nghệ, luôn thay đổi, việc cập nhật đủ các thông tin cần thiết giúp chúng ta có thể lựa chọn những dự án khả thi về mặt công nghệ, quy mô công suất của dự án mang lại lựa chọn tối ưu cho dự án. Trong quá trình thẩm định dự án, các cán bộ thẩm định phải thu thập đầy đủ những thông tin cần thiết cho việc thẩm và ra kết luận về dự án. Một dự án đầu tư có liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế và thường có hiệu quả tác dụng lâu dài cho nên người thẩm định phải có kiến thức, thông tin tổng hợp về mọi mặt kinh tế xã hội. Có như vậy, trong quá trình thẩm định mới đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, đưa ra được những kết luận có tính chính xác về dự án. Từ những thông tin thu thập được, cán bộ thẩm định phải đi vào xử lý các thông tin nhằm phục vụ cho công tác thẩm định. Những thông tin mà cán bộ thẩm định thu thập được thường ở dạng thô, do vậy yêu cầu phải xử lý những thông tin đó.Việc xử lý những thông tin đó rất quan trọng và góp phần vào trong các kết luận về dự án. Ngày nay, công nghệ thông tin không ngừng phát triển, các thông tin được cán bộ thẩm định tiếp cận qua nhiều kênh thông tin khác nhau: phương tiện thông tin đại chung: sách báo, tạp chi, đài, ti vi, điện thoại, internet…Nhưng để vận dụng những thông tin mà mình thu thập được cho công tác thẩm định đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có phương pháp xử lý thông tin thích hợp, có trình độ chuyên môn sâu. Để có được nguồn thông tin có chất lượng thì phương pháp thu thập, xử lý, lưu trữ thông tin cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Vì vậy bên cạnh việc phối hợp giữa các Nhà nước, cơ quan, công ty để thu được những thông tin từ nhiều nguồn và nhiều chiều, vấn đề xử lý, phân tích và lưu trữ thông tin cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng và từng bước nâng cao chất lượng của hoạt động này. 4. Quy trình thực hiện thẩm định Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện các công việc thẩm định. Thực hiện tốt khâu này sẽ đảm bảo được những yêu cầu đặt ra trong công tác thẩm định. Để thực hiện tốt khâu này phải có một quy trình thẩm định hợp lý, khoa học. Cơ sở hình thành quy trình thẩm định dự án là nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm định dự án: . Phân tích, đánh giá tính khả thi của dự án về công nghệ, kinh tế, xã hội, môi trường… . Đề xuất và kiến nghị với nhà nước chấp nhận hay không chấp nhận dự án, nếu chấp nhận thì với những điều kiện nào. Việc thứ nhất chủ yếu là công việc xem xét, đánh giá chuyên môn của các chuyên gia. Việc thứ hai là của các nhà quản lý: lựa chọn phương án và điều kiện phù hợp nhất. Xây dựng được một quy trình thẩm định phù hợp sẽ đảm bảo được các yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý ngành và phối hợp các ngành, các địa phương trong việc đánh giá, thẩm định và xử lý những vấn đề tồn tại của dự án; đồng thời đảm bảo tính khách quan trong việc thẩm định các dự án, cho phép phân tích đánh giá sâu sắc các căn cứ khoa học và thực tế các vấn đề chuyên môn; bên cạnh đó còn đơn giản hoá được công tác tổ chức thẩm định mà vẫn nâng cao được chất lượng thẩm định. 4.1 Tiếp nhận hồ sơ. Hồ sơ dự án phải đầy đủ và hợp lệ theo đúng Thông tư 04/ 2003/ BKH ngày 17 tháng 6 năm 2003 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hưỡng dẫn về thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư sửa đổi, bổ sung một số điểm về Hồ sơ thẩm định dự án, Báo cáo đầu tư và Tổng mức đầu tư 4.2 Lập hội đồng thẩm định. Tuỳ theo quy mô của dự án mà thành lập Hội đồng thẩm định Nhà nước, Hội đồng thẩm định Bộ, ngành hay hội đồng thẩm định thành phố, địa phương. - Hội đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ để thẩm định hoặc thẩm định lại các dự án sau: + Các dự án đầu tư lớn, quan trọng trước khi Chính phủ trình Quốc hội thông qua và quyết định chủ trương đầu tư. + Các dự án đã thông qua quá trình thẩm định nhưng Thủ tướng Chính phủ thấy cần thiết phải thẩm định lại. + Các dự án đầu tư và dự án quy hoạch theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư là Chủ tịch Hội đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư. Tuy nhiên việc thành lập hội đồng thẩm định thường chỉ áp dụng đối với những dự án có vốn đầu tư lớn, tính chất phức tạp còn những dự án đầu tư nước ngoài không lập hội đồng thẩm định. 4.3 Tổ chức thẩm định. Quá trình thẩm định đóng vai trò quyết định trong tiến trình thẩm định dự án, vì vậy quá trình này phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về mức độ chính xác, khách quan và hợp lý, tập trung vào nội dung cơ bản của dự án tránh những câu hỏi không cần thiết. Do đó, trong quá trình thực hiện tổ chức thẩm định yêu cầu phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, các tổ chức tư vấn, các bộ, ngành, vụ, viện có liên quan. Đồng thời phải có sự phân công chặt chẽ, phù hợp các cán bộ vào dự án cụ thể. Làm tốt các khâu từ xử lý hồ sơ sơ bộ đến khi dự thảo trình duyệt cấp giấy phép đầu tư hoặc quyết định đầu tư. 4.4 Dự thảo quyết định đầu tư hay cấp phép đầu tư. Việc dự thảo quyết định đầu tư hay cấp phép đầu tư phải căn cứ vào điều 30 Nghị định 52/ 1999/ NĐ- CP. Nội dung bao gồm : - Mục tiêu đầu tư. - Xác định chủ đầu tư. - Hình thức quản lý dự án. - Địa điểm, diện tích đất sử dụng, phương án bảo vệ môi trường và kế hoạch tái định cư và phục hồi ( nếu có). - Công nghệ, công suất thiết kế, phương án kiến trúc, tiêu chuẩn kỹ thuật và cấp công trình. - Chế độ khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia( nếu có). - Tổng mức đầu tư. - Nguồn vốn đầu tư, khả năng và kế hoạch vốn của dự án. - Các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước mà dự án đầu tư có thể được hưởng theo quy chế chung. - Phương thức thực hiện dự án. Nguyên tắc phân chia gói thầu và hình thức lựa chọn nhà thầu… Sau khi lập dự thảo này phải trình người có thẩm quyền ký duyệt. - Đối với dự án nhóm A và một số dự án nhóm B phức tạp thì người ký duyệt là TTCP. - Đối với dự án nhóm B và C thì người ký duyệt là Bộ trưởng Bộ KH&ĐT, Chủ tịch UBND tỉnh, Thành phố 4.5 Phê duyệt báo cáo khả thi. Việc phê duyệt BCKT được thực hiện bởi Thủ trưởng cấp có thẩm quyền thẩm định. Một dự án khi được trình duyệt thì tính pháp lý của nó phải được đảm bảo bằng luật. Dự án có thể bị đình chỉ hoặc huỷ bỏ do chủ đầu tư hoặc người có thẩm quyền quyết định đầu tư nhưng phải nói rõ lý do chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Quy trình thẩm định dự án thể hiện thông qua sơ đồ sau đây: Sơ đồ: quy trình thực hiện thẩm định dự án Tiếp nhận hồ sơ dự án Đơn vị đầu mốicủacơ quan thẩm định Nhóm chuyên gia Báo cáo thẩm định của Nhóm chuyên gia/ phản biện Phản biện độc lập Các bộ phận quản lý( sở, vụ chuyên ngành Báo cáo thẩm định trình Thủ trưởng cơ quan thẩm định Hội nghị tư vấn thẩm định ý kiến của bộ ngành, địa phương có liên quan Người có thẩm quyền thẩm định Thủ trưởng cơ quan thẩm định 5. Quản lý nhà nước đối với đầu tư. Các chủ trương chính sách của nhà nước đối với hoạt động đầu tư cũng có ảnh hưởng rất lớn đến công tác thẩm định. Đó là: Phân cấp thẩm định và ra quyết định đầu tư, khuyến khích đầu tư ; các định hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội theo lãnh thổ; các quy định trong việc nhập thiết bị, chuyển giao công nghệ. Các quy định này không chỉ tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt động thẩm định mà còn tác động trực tiếp đến việc thực thi các dự án sau này. Việc xây dựng một hệ thống quản lý gọn nhẹ sẽ góp phần nâng cao chất lượng và tiết kiệm thời gian cho công tác thẩm định. Phân cấp thẩm định là việc phân chia quyền hạn và trách nhiệm cho các cá nhân, tổ chức nhà nước hoặc tư nhân thẩm định, quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư quy định về đầu tư. Các cá nhân, tổ chức dựa vào quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cùng với các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành quy chế hiện hành, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong phạm vi được Chính phủ phân cấp và hướng dẫn. Chủ đầu tư( hoặc tư vấn) có trách nhiệm lập và chịu trách nhiệm về tính chuẩn xác của các thông tin trong dự án, chuyển trực tiếp đến cá nhân, tổ chức có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt. Cá nhân, tổ chức có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt chịu trách nhiệm về các ý kiến và quyết định của mình. a. Đối với dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư tổ chức thẩm định dự án trình TTCP quyết định đầu tư. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị- xã hội( được xác định trong Luật Ngân sách Nhà nước), Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư các dự án nhóm A đã có trong quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển ngành được duyệt hoặc đã có quyết định chủ trương đầu tư bằng văn bản của cấp có thẩm quyền, sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư. Người có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án nhóm A tổ chức thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi, có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của bộ quản lý ngành; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng( đối với các dự án đầu tư xây dựng), Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương có liên quan đến dự án để báo cáo TTCP cho phép đầu tư. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, các Bộ, ngành, địa phương được hỏi ý kiến phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản. Trường hợp dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương phải đưa ra Hội đồng nhân nhân thảo luận, quyết định và công bố công khai. Trường hợp các dự án nhóm A chưa có trong quy hoạch phát triển kinh- xã hội, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng được duyệt hoặc chưa có văn bản quyết định chủ trương đầu tư của cấp có thẩm quyền thì trước khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi phải được TTCP xem xét, thông qua báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và cho phép đầu tư. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị- xã hội, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm B và C phù hợp với quy hoạch được duyệt. Đối với các dự án nhóm B chưa có trong quy hoạch được duyệt thì trước khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi phải có ý kiến đồng ý bằng văn bản của người có thẩm quyền. Riêng đối với các dự án nhóm C, cơ quan quyết định đầu tư phải đảm bảo cân đối vốn đầu tư để thực hiện dự án không quá 2 năm. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của các Bộ ngành, địa phương, người có thẩm quyền quyết định đầu tư được phép uỷ quyền cho các đối tượng quy định tại điểm d khoản này quyết định đầu tư các dự án nhóm B, C. Người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự uỷ quyền của mình. Người được uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật và người được uỷ quyền. Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư các dự án trong phạm vi ngân sách của địa phương( bao gồm tất cả các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên) có mức vốn dưới 3 tỷ đồng( đối với cấp huyện) và dưới 1 tỷ đồng( đối với dự án cấp xã) tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương do uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và năng lực thực hiện của các đối tượng được phân cấp. Trước khi quyết định đầu tư, uỷ ban nhân dân cấp huyện, xã có trách nhiệm lấy ý kiến các tổ chức chuyên môn đủ năng lực để thẩm định dự án. Việc quản lý thực hiện dự án phải theo đúng quy định của pháp luật. Đối với dự án cấp xã sử dụng vốn ngân sách nhà nước đầu tư và xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội sau khi được hội đồng nhân dân cấp xã thông qua phải được uỷ ban nhân dân cấp huyện chấp thuận về mục tiêu đầu tư và quy hoạch. Nếu đầu tư từ nguồn vốn đóng góp của dân, uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đầu tư và xây dựng theo Quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn ban hành kèm theo Nghị định số 24/ 1999/ NĐ- CP ngày 16 tháng 4 năm 1999. Người có thẩm quyền quyết định đầu tư không được sử dụng nguồn vốn sự nghiệp để đầu tư xây dựng mới. Đối với việc cải tạo, mở rộng, nếu sử dụng nguồn vốn sự nghiệp có mức vốn từ 01 tỷ đồng trở lên để đầu tư phải thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư theo quy định của Nghị định này. b. Đối với dự án sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh. Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng của quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư tổ chức thẩm định dự án trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư. Các dự án nhóm A, B, C do doanh nghiệp đầu tư, doanh nghiệp tự thẩm định dự án, tự quyết định đầu tư theo quy định và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, dự án đầu tư nhóm A, B phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch được duyệt, dự án đầu tư nhóm A, trước khi quyết định đầu tư phải được TTCP cho phép đầu tư. Nội dung báo cáo xin phép đầu tư như quy định tại khoản (4) điều 1 của Nghị định này. Bộ quản lý ngành, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi dự án nhóm A của doanh nghiệp thuộc quyền quản lý và có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính và các Bộ ngành, địa phương có liên quan đến dự án để tổng hợp báo cáo TTCP cho phép đầu tư. Nội dung thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án là những nội dung chủ đầu tư phải xin phép đầu tư đã nêu ở khoản(4) điều 1 của Nghị định này. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, các Bộ, ngành địa phương được hỏi ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản. Trường hợp các dự án đầu tư thuộc nhóm A hoặc nhóm B chưa có trong quy hoạch được duyệt thì thực hiện theo quy định tại điểm b khoản (4) điều 1 của Nghị định này. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp, người có thẩm quyền quyết định đầu tư được phép uỷ quyền cho Giám đốc đơn vị trực thuộc quyết định đầu tư các dự án nhóm B, C. Người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự uỷ quyền của mình. Người được uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật và người uỷ quyền 6. Đội ngũ cán bộ thẩm định Đội ngũ cán bộ thẩm định là nhân tố quyết định chất lượng công tác thẩm định và góp phần không nhỏ trong việc giúp Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn. Họ là những người trực tiếp tổ chức, thực hiện công tác thẩm định và đưa ra những đánh giá, xem xét mang tính chủ quan của mình về dự án đầu tư dựa trên những cơ sở khoa học và tiêu thức chuẩn mực khác nhau. Các tố chất của cán bộ thẩm định bao gồm cả năng lực, trình độ, kinh nghiệm và tư cách đạo đức nghề nghiệp. Để công tác thẩm định đạt kết quả cao đòi hỏi người cán bộ thẩm định phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa năng lực sẵn có của bản thân, trình độ chuyên môn và những kinh nghiệm từ thực tế, đặc biệt phải có một phẩm chất đạo đức nghề nghiệp vô tư trong sáng, biết đặt lợi ích của công việc lên hàng đầu trong quá trình thực thi nhiệm vụ trách nhiệm của mình để đưa ra những kết luận khách quan về dự án, làm cơ sở đúng đắn cho việc ra quyết định đầu tư. 7. Vấn đề định lượng và tiêu chuẩn trong phân tích, đánh giá dự án Để thẩm định đánh giá dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật, mặc dù trong thẩm định đánh giá dự án cũng có những vấn đề được phân tích lựa chọn trên cơ sở định tính. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật cần thiết phải giải quyết hai vấn đề là định lượng và xây dựng tiêu chuẩn để đánh giá các chỉ tiêu đó. Để có cơ sở đánh giá dự án thì việc nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn hoặc chỉ tiêu hướng dẫn là rất cần thiết, trước hết là các chỉ tiêu về tài chính và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả dự án như: tỷ lệ chiết khấu áp dụng cho từng loại dự án, thời gian hoàn vốn tiêu chuẩn, hệ số bảo đảm trả nợ, suất đầu tư hoặc suất chi phí cho các loại công trình, hạng mục công trình… Đây là những điểm cần phải được đặc biệt chú ý đối với các cơ quan quản lý đầu tư tổng hợp như các bộ và từng địa phương. Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. I. Sơ lược về Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 1. Cơ cấu tổ chức. Vụ Thẩm định làm việc theo chế độ chuyên viên. Ông Vụ trưởng phụ trách chung, các ông Vụ phó được giao phụ trách việc thẩm định và giám sát theo từng lĩnh vực chuyên môn. Các chuyên viên làm việc thông qua sự chỉ đạo của phó Vụ trưởng và Vụ trưởng. Cơ cấu của Vụ được thể hiện thông qua sơ đồ sau: Vụ trưởng Phó vụ trưởng - Các dự án công nghiệp. - Các dự án nông ngiệp Phó vụ trưởng - Các dự án VH-XH - Các dự án giáo dục và đào tạo Phó vụ trưởng - Các dự án dịch vụ - Các dự án CSHT Chuyên viên Chuyên viên Chuyên viên 2. Chức năng, nhiệm vụ. * Về chức năng Vụ thẩm định và giám sát đầu tư thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Bộ trưởng thực hiện các chức năng quản lý nhà nước trong việc thẩm định dự án và giám sát đầu tư. * Về nhiệm vụ + Chủ trì tổ chức thực hiện công tác thẩm định, thẩm tra các quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng lãnh thổ, các dự án đầu tư trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài do Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc cho phép đầu tư và các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền cấp phép của bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tham gia với các vụ liên quan trong bộ xem xét để Bộ có ý kiến đối với các dự án đầu tư ,các dự án quy hoạch thuộc thẩm quyền quyết định của các bộ ngành địa phương và doanh nghiệp. + Làm nhiệm vụ thường trực của Hội đồng Thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư; tổ chức thẩm định các dự án đầu tư quan trọng quốc gia theo quy chế làm việc của Hội đồng. + Làm đầu mối tổ chức thực hiện công tác giám sát tổng thể đầu tư trong phạm vi toàn quốc; giám sát, đánh giá các dự án đầu tư trong nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hoặc Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, phối hợp với các đơn vị trong bộ thực hiện đánh giá tổng thể đầu tư cho nền kinh tế quốc dân. + Tham gia nghiên cứu, soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư; chủ trì soạn thảo các văn băn quy phạm cụ thể trong lĩnh vực thẩm định và giám sát đầu tư; hướng dẫn nghiệp vụ thẩm định, giám sát đầu tư cho các bộ, ngành địa phương. + Tổng kết đánh giá, báo cáo về công tác thẩm định, giám sát các dự án đầu tư cung cấp thông tin cần thiết cho mạng thông tin nội bộ. + Phối hợp Văn phòng Bộ quản lý và sử dụng lệ phí thẩm định theo quy định của nhà nước. + Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư giao II. Khái quát chung về các dự án được thẩm định từ năm 2002- 2004. Trong quá trình thực hiện công tác thẩm định dự án đầu tư, Vụ Thẩm định đã thực hiện một cách nghiêm túc theo quy định thẩm định dự án đầu tư mà Nhà nước quy định. Trong đó phải kể đến việc áp dụng các kế hoạch, quy hoạch đã được duyệt vào việc thẩm định tính phù hợp của dự án với mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Điều đó thể hiện qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hầu hết các dự án chuyển đến Vụ Thẩm định đều được tổ chức thẩm định theo đúng thời hạn, xử lý việc ra quyết định hoặc điều chỉnh quyết định đầu tư kịp thời. Số lượng các dự án tồn đọng không nhiều, cụ thể năm 2002 và 2003: TT Loại dự án Số lượng Ghi chú 1 Tổng số dự án nhómA trong nước phải trìnhTTCP, bao gồm: 163 Trong đó có 38 dự án chuyển tiếp từ 2001 DAđã thẩm định xong trìnhTTCP 112 117 dự ánTTCP có ý kiến Dự án còn xử lý tiếp 42 Xử lý tiếp năm 2003 DAngừng xem xét 4 2 Tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án đầu tư ra nước ngoài, trong đó: 100 Trong đó có 19 DA chuyển tiếp từ năm 2002, đã thẩm định xong 83 và đã trình 68 DA, có 13 dự án ngừng xem xét, 2 dự án chủ đầu tư rút hồ sơ,17 DA chuyên sang năm 2003 xử lý tiếp Bảng 1 Nguồn : Bộ Kế hoạch và đầu tư, 2003 Năm 2003 TT Loại dự án Số lượng Ghi chú 1 Tổng số dự án nhómA trong nước phải trìnhTTCP, bao gồm: 151 Trong đó có 47 dự án chuyển tiếp từ 2002 DAđã thẩm định xong trìnhTTCP 124 95 dự ánTTCP hoặc VPCPđã có ý kiến Dự án còn xử lý tiếp 24 Xử lý tiếp năm 2003 DAngừng xem xét 3 2 Góp ý kiến thẩm tra DA nhómA trong nước do các bộ, ngành địa phương quyết định, trong đó: 108 Đã có văn bản góp ý 23 DA(còn 5 dự án xử lý tiếp ) 3 Tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án đầu tư ra nước ngoài, trong đó: 108 Trong đó có 26 DA chuyển tiếp từ năm 2002 đã trình TTCP hoặc trình lãnh đạo Bộ cấp phép 72 TTCP đã đồng ý cấp phép 66 DA Đang thẩm định tiếp 24 Trong đó đã trình lãnh đạo 7 DA Từ chối, ngừng xem xét cấp phép 12 4 Thẩm định bổ sung chức năng kinh doanh trò chơi điện tử 11 Đã trình TTCP 5 dự án (còn 6 hồ sơ xử lý tiếp) Tổng số hồ sơ dự án xử lý trong năm 298 Đã xử lý xong 239 hồ sơ, 59 hồ sơ chuyển sang năm 2004 xử lý tiếp Bảng 2 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2004 - Vụ đã tiếp nhận và tổ chức thẩmđịnh, thẩm tra tổng số 298 hồ sơ dự án và quy hoạch, trong đó có 179 dự án trong nước; 108 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài; 11 hồ sơ xin đăng ký kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử có thưởng cho người nước ngoài. - So với năm 2002 số hồ sơ dự án xử lý tăng 35 hồ sơ, số hồ sơ hoàn thành tăng 35 hồ sơ và số hồ sơ chuyển tiếp sang năm sau bằng năm trước( năm 2002 xứ lý 263 hồ sơ, hoàn thành 204 và chuyển tiếp 59 hồ sơ). - Trong số 59 dự án chuyển sang năm 2004 xử lý tiếp có 24 dự án nhóm A đầu tư trong nước cần trình TTCP( có 5 dự án mới nhận hồ sơ, 13 dự án yêu cầu bổ sung hồ sơ; 4 dự án đang viết báo cáo và 2 dự án đang trình lãnh đạo bộ), 24 dự án đầu tư nước ngoài (gồm 7 dự án yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ; 13 dự án mới nhận và chờ ý kiến của các bộ ngành liên quan và 4 dự án đang trình lãnh đạo Bộ), 5 dự án cần có ý kiến cho các bộ, các tỉnh và 6 hồ sơ thẩm định cấp phép kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng (phần lớn là các dự án mới nhận hồ sơ). - Số hồ sơ tồn đọng chuyển sang năm 2004 tuy không giảm về số lượng nhưng tỉ lệ trên tổng số hồ sơ xử lý giảm nhiều so với năm 2002( 59/ 298= 19,7% năm 2003 so với 59/ 263= 22,4% năm 2002), trong đó phần lớn các hồ sơ dự án chuyển tiếp là hồ sơ cần bổ sung đã có yêu cầu chủ đầu tư thực hiện nhưng chưa hoàn thành. Trong quá trình thẩm định, có nhiều dự án được phép triển khai điển hình như: - Dự án thuỷ điện Sê San 3A do Bộ Xây dựng làm chủ đầu tư với tổng mức vốn đầu tư là 1946 tỷ đồng. - Dự án nghiên cứu đầu tư phương tiện vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt- TP HCM do uỷ ban nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh làm chủ đầu tư với tổng mức vốn đầu tư là 1364 tỷ đồng. - Dự án Tổng mức đầu tư cầu Thanh trì và đoạn Nam vành đai III Hà nội do Bộ Giao thông vân tải làm chủ đầu tư với tổng mức đầu tư đạt 3921 tỷ đồng. - Điều chỉnh dự án phục hồi hệ thống cấp nước sông Đồng Nai vốn vay ADB do UBND TP HCM làm chủ đầu tư với tổng mức đầu tư là 1128 tỷ đồng… Trong năm 2003 với vai trò là cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đâù tư, cán bộ và chuyên viên của Vụ Thẩm định đã tham gia và tổ chức thẩm định các dự án do Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư thực hiện thẩm định ( các dự án: Vùng nguyên liệu và nhà máy giấy Kon Tum, Bauxit Lâm Đồng). Ngoài ra, cán bộ và chuyên viên của Vụ còn tham gia trực tiếp thực hiện công tác thẩm định dự án thuỷ điện Sơn La, thẩm định các quy hoạch có liên quan đến dự án thuỷ điện Sơn La. TT Loại dự án Số lượng Ghi chú 1 Tổng số DA nhóm A trong nước phải trình TTCP, gồm: Dự án TKT Quy hoạch Dự án điều chỉnh Các KCN Các dự án khác 116 23 21 15 33 25 Trong đó có 25DA chuyển tiếp từ 2003 (giảm so với năm 2003) - DA đã trình TTCP 82 - Dự án còn xử lý tiếp 34 Xử lý tiếp năm 2004 2 Góp ý kiến thẩm tra DA nhóm A trong nước do các Bộ, ngành, địa phương quyết định trong đó: 61 Đã có văn bản góp ý kiến 59 DA (còn 5 dự án xử lý tiếp) 3 Tổng số DA đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án đầu tư ra nước ngoài, trong đó: 115 Trong đó có 32 DA chuyển tiếp từ năm 2003 - Số DA đã xử lý xong 98 + Đã trình Thủ tướng Chính phủ 46 dự án + Dự án thuộc thẩm quyền cấp phép của bộ 52 dự án - Đang thẩm định tiếp chuyển sang năm 2005 17 Trong đó đã trình LĐ Bộ 7 DA - Đã cấp phép - Từ chối/ngừng xem xét cấp phép 16 Từ chối cấp phép 3 dự án 4 Thẩm định bổ sung chức năng kinh doanh trò chơi điện tử theo QĐ32/TTg 15 Đã trình Thủ tướng Chính phủ 5 dự án (còn 6 hồ sơ xử lý tiếp) Tổng số hồ sơ DA xử lý trong năm 231 Đã xử lý xong 180 hồ sơ, 51 hồ sơ chuyển sang năm 2005 xử lý tiếp Bảng 3 Nguồn: Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư Trong năm 2004 Vụ đã tiếp nhận và tổ chức thẩm định, thẩm tra tổng số 231 hồ sơ dự án và quy hoạch,trong đó có 116 hồ sơ dự án trong nước; 115 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài: 15 hồ sơ xin đăng ký kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử có thưởng cho người nước ngoài. So với năm 2003 số hồ sơ dự án xử lý giảm 56 hồ sơ, trong đó số hồ sơ dự án trong nước giảm 63 dự án, hồ sơ dự án đầu tư nước ngoài tăng 7 dự án; hoàn thành giảm 56 hồ sơ và số hồ sơ chuyển tiếp sang năm sau giảm 11 hồ sơ (năm 2003 xử lý 298 hồ sơ, hoàn thành 236 hồ sơ dự án và chuyển tiếp 62 hồ sơ sang năm 2004). Ngoài ra, Vụ còn tham gia góp ý kiến 190 lượt theo yêu cầu của các vụ chuyên ngành. Trong năm 2004 với vai trò là cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư, cán bộ và chuyên viên của Vụ đã tham gia và tổ chức thẩm định các dự án do Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư thực hiện thẩm định (các dự án: Vùng nguyên liệu và nhà máy giấy Kon Tum; Bauxit Lâm Đồng, Dự án liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn). III. Quy trình tổ chức thẩm định tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư. 1.Tiếp nhận hồ sơ: Văn thư tiếp nhận hồ sơ từ văn phòng Bộ hoặc các đơn vị khác chuyển cho Vụ trưởng (hoặc vụ phó được phân công) xem xét phân công chuyên viên xử lý. Chuyên viên tiếp nhận hồ sơ theo sự phân công của lãnh đạo Vụ qua văn thư của Vụ. Chuyên viên kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ theo quy định và xử lý bước đầu trong thời gian một ngày làm việc sau khi nhận được hồ sơ. Đối với hồ sơ không hợp lệ thì chuyển lại văn phòng Bộ đề nghị chuyển gửi nơi gửi; hồ sơ không thuộc phạm vi niệm vụ của Vụ thì đề nghị chuyển lại văn phòng Bộ để giao đơn vị khác xử lý; hồ sơ thiếu một số văn bản, phải bổ sung hồ sơ pháp lý cần có văn bản yêu cầu bổ sung ngay. 2.Lập kế hoạch và xử lý công việc được giao. Chuyên viên phải xem xét hồ sơ ngay sau khi nhận được hồ sơ. Sau 2ngày nhận được hồ sơ phỉa có kế hoạch triển khai thích hợp với từng loại công việc: - Đối với việc thẩm định dự án đầu tư trong nước hoặc dự án quy hoạch do Vụ tổ chức thẩm định theo quy định của Bộ; phải có kế hoạch thẩm định thêo nội dung quy trình lãnh đạo bộ phê duyệt. Các dự án đầu tư nước ngoài có quy mô lớn ,có nội dung phức tạp hoặc yêu cầu thẩm định đặc biệt càn báo cáo lãnh đạo Vụ về kế hoạch thẩm định .Kế hoach thẩm định thông qua Lãnh đạo Vụ phụ trách khối để ký trình Lãnh đạo Bộ. - Đối với các dự án cần xem xét cần dự thảo văn bản gửi hồ sơ xin ý kiến của các Bộ ,nghành địa phương có liên quan về dự án trình chánh văn phòng Bộ ký gửi theo quy trình chung của Bộ. 3.Quy trình xử lý công việc. - Lãnh đạo vụ phân giao nhiệm vụ và chuyển hồ sơ tới chuyên viên xử lý kèm ý kiến chỉ đạo nếu thấy cần thiết. - Chuyên viên theo dõi và nghiên cứu hồ sơ, nội dung các việc cần giải quyết theo nhiệm vụ được giao, chuẩn bị các văn bản xử lý theo yêu cầu (đề nghị bổ sung hồ sơ; lấy ý kiến hoặc trả lời các Bộ, Ngành, Địa phương hay đơn vị liên quan trong Bộ; báo cáo lãnh đạo Bộ, văn bản trình Thủ tướng Chính phủ, văn bản gửi các cơ quan nhà nước…) ._. tác thẩm định. - Công tác thẩm định đã đáp ứng được cơ bản các nội dung cần xem xét. Nhưng trong các nội dung thẩm định vẫn còn tồn tại những hạn chế. Nội dung tiến hành thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án khá đơn giản. Các báo cáo thẩm định chưa có sự phân tích sâu về thị trường, công nghệ thiết bị , công suất, các tiêu chí xây dựng giá thành sản phẩm, tổ chức thực hiện…Đặc biệt là phân tích và dự báo về mức độ rủi ro tiềm ẩn của đầu tư chưa được đặt ra. Tính khả thi, tính hiệu quả, mức độ chắc chắn, an toàn… của dự án phụ thuộc rất lớn vào việc nghiên cứu và thẩm định về thị trường. Tuy nhiên trên thực tế việc nghiên cứu đánhgiá nội dung này rất sơ sài, phần lớn dừng lại ở mức đưa ra một vài nhận xét định tính. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng, một mặt do hạn chế về nhận thức, mặt khác không có cở sở dữ liệu về thị trường. Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính dự án sử dụng đều khá đơn giản, dễ tính toán nhưng phần lớn chỉ quan tâm đến việc thu hồi vốn mà không chú ý phần tích luỹ do dự án đem lại sau khi hoàn vốn thông qua chỉ tiêu sử dụng NPV. Thực sự đây là chỉ tiêu hiệu quả tài chính quan trọng nhất, phản ánh được cả phần chủ đầu tư thu được cũng như sự đóng góp của dự án vào sự tăng trưởng GDP của nền kinh tế.Trong việc phân tích dòng tiền của dự án chỉ mới tính đến ròng tiền lời, lỗ, còn bỏ sót khá nhiều khoản mục cấu thành nên dòng ngân quỹ, làm giảm mức độ chính xác của việc tính toán hiệu quả. Phần thẩm định dự án về kỹ thuật và công nghệ do thiếu kinh nghiệm và yếu tố về năng lực nên chủ yếu phải dựa vào nội dung đã trình bày trong dự án, hầu hết các trường hợp chưa xác định được chính xác tính tiên tiến, tính phù hợp của thiết bị- công nghệ, công suất, đặc biệt là nhu cầu vốn, nguồn cung ứng và các giải pháp cho các yếu tố đầu vào. Phần thẩm định về hiệu quả kinh tế xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều trường hợp khi dự án vào hoạt động người ta mới phát hiện ra những tác động tiêu cực của nó đối với môi trường, đối với các ngành liên quan cũng như các bất lợi đối với đời sống xã hội. Việc khắc phục rất tốn kém, mất thời gian, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có một số nguyên nhân của tình trạng trên, cụ thể là: - Lực lượng của đơn vị trong năm qua chưa được tăng cường trong khi đó khối lượng công việc ngày càng tăng dẫn đến việc cán bộ chạy theo yêu cầu thời gian thẩm định do đó mà công tác thẩm định phần nào bị ảnh hưởng. - Báo cáo của các bộ, ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu về thời gian và nội dung báo - Công tác lập dự án chưa đảm bảo tính khả thi: Chất lượng và công tác thẩm định phụ thuộc vào nội dung của dự án trình duyệt. Đó là căn cứ quan trọng giúp nhà thẩm định cho các ý kiến về tính khả thi của dự án. Nếu dự án đầu tư được lập một cách đầy đủ các mặt của dự án, thông qua đó những cán bộ thẩm định có được cơ sở vững chắc trong việc thẩm định dự án. Hiện nay, trong quá trình thẩm định dự án, cán bộ thẩm định rất thiếu thông tin về các lĩnh vực của dự án, điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định, độ chính xác của những kết luận.Việc có không đầy đủ những thông tin dẫn đến thời gian thẩm định bị kéo dài làm ảnh hưởng đến các kế hoạch triển khai dự án. Để có những nhận xét tổng thể về dự án yêu cầu trước hết chủ đầu tư phải lập dự án một cách đầy đủ, trung thực phản ảnh được tổng thể các mặt của dự án. - Các văn bản pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, không rõ ràng: Các văn bản pháp luật nêu lên rất chung chung về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định dự án. Rất nhiều văn bản pháp luật đang ở trong giai đoạn điều chỉnh, sửa đổi và hoàn thiện, một số văn bản đã không kịp thời được ban hành để thay thế những văn bản hiện có nhưng đã lỗi thời gây ra nhiều khó khăn cho công tác thẩm định. Các quy định hiện hành cho phép một dự án có thể sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau song không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong khâu thẩm định và phê duyệt đối với các dự án loại này, nhất là các dự án sử dụng một phần bằng vốn nhà nước. Do đó trong việc giải thích và hướng dẫn thực hiện Bộ KH&ĐT gặp rất nhiều khó khăn. - Mặc dù mới ban hành Nghị định 07/ 2003/ TT- BKH về sửa đổi một số nội dung trong quy chế đầu tư và xây dựng; thông tư 05/ 2003/ TT- BKH ban hành ngày 22/ 7/ 2003 về hưỡng dẫn nội dung, trình tự lập và thẩm định các dự án quy hoạch phát triển ngành, phát triển kinh tế- xã hội. Nhưng vẫn còn tồn tại một vài điểm bất cập trong công việc quy định nội dung thẩm định dự án đầu tư. Các nội dung thẩm định trong đó không đầy đủ không phản ánh được toàn diện các mặt của dự án dẫn đến việc thực thi thẩm định dự án không đánh giá được một cách đầy đủ, chính xác tính khả thi của dự án do đó có thể ra những quyết định thiếu tính chính xác. - Thiếu những thông tin cần thiết cho công tác thẩm định dự án : Trong quá trình thẩm định, các cán bộ thẩm định chủ yếu là căn cứ vào hồ sơ dự án để thẩm định. Điều này ảnh hưởng đến tính khách quan của dự án, bởi vì hồ sơ dự án do chủ đầu tư lập nên không tránh khỏi tình trạng thông tin liên quan đến dự án không chính xác. Trong khi đó do hạn chế về thời gian thẩm định nên cán bộ thẩm định không có đủ lượng thông tin cần thiết, làm ảnh hưởng đến những kết luận trong quá trình thẩm định. -Phần thẩm định công nghệ của dự án thì đa số các cán bộ chỉ dựa vào nội dung đã trình bày trong dự án mà không nắm bắt được chính xác được những thông tin về công nghệ sử dụng trong dự án trên thị trường nên hầu hết chưa xác định được chính xác tính tiên tiến, tính phù hợp của thiết bị công nghệ, công suất liên quan đến dự án. Nhất là dự án mà sử dụng thiết bị công nghệ hoàn toàn mới thì gây rất nhiều khó khăn trong công tác thẩm định, dẫn đến việc thẩm định chỉ mang tính chất cảm tính mà không xác định được giá trị thực của công nghệ có thể dẫn đến tình trạng công nghệ sử dụng trong dự án không phù hợp mà giá cả lại cao hơn so với thị trường điều này ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tính toán hiệu quả của dự án. Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại vụ thẩm định và giám sát đầu tư. I.Triển vọng đầu tư tại Việt Nam đến 2010. 1.Bối cảnh tình hình: 1.1.Những thuận lợi. Tình hình kinh tế- xã hội của nước ta tiếp tục ổn định và phát triển. Đặc biệt, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của những năm đổi mới đã làm cho thế và lực của ta mạnh lên, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Sự phát triển có nhiều triển vọng của nền kinh tế trong môi trường chính trị xã hội cơ bản ổn định, môi trường hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi cùng với những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động của đất nước sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp tục thu hút mạnh hơn nữa các dự án đầu tư để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách nhà nước, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể tăng từ mức 6.1% GDP năm 1996 lên 12.3% GDP năm 2004. Môi trường kinh doanh nói chung và môi trường đầu tư nói riêng không ngừng được cải thiện; công tác quản lý nhà nước về đầu tư đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm và dần đi vào nền nếp; đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đầu tư ngày một trưởng thành. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang gia tăng mạnh cùng với sự phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức, tạo nên sự dịch chuyển mạnh cơ cấu kinh tế quốc tế và gia tăng mạnh các dòng chuyển vốn trên thế giới. 1.2.Những khó khăn. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế 5 năm qua chậm dần. Năm 2005 có chiều hướng tăng lên nhưng chưa đạt được mức tăng trưởng cao như 5 năm đầu thập niên 90. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm, tích luỹ nội bộ nên kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô còn thiếu vững chắc. Môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều hạn chế. Nhu cầu thị trường tăng chậm, dung lượng thị trường nhỏ và sức mua trong nước còn rất thấp trong khi cung về nhiều sản phẩm trong nước đã bão hoà. Quản lý nhà nước về đầu tư còn một số bất cập, đặc biệt thủ tục hành chính còn phiền hà, tình trạng chấp hành chưa nghiêm luật pháp chính sách còn khá phổ biến. 2.Triển vọng Đầu tư đến năm 2010. Chính phủ Việt Nam đã đề ra những mục tiêu phát triển kinh tế cho đến năm 2010 bao gồm: - Tăng trưởng GDP 10%/ năm. - Tăng trưởng Công nghiệp 10- 10,5%/ năm. - Tăng trưởng Nông nghiệp 4- 4,5%/ năm - Tăng trưởng Xuất khẩu 14%/ năm. Trong khi theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng đầy thử thách này cần phải quan tâm thích đáng đến đầu tư. Như vậy Nhà nước sẽ cần rất nhiều vốn để có thể theo đuổi mục tiêu phát triển, và việc để những dự án thực sự có hiệu quả thì công tác thẩm định còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện hơn nữa để có thể theo kịp, đáp ứng ngày càng tốt hơn. II.Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư. 1.Giải pháp. 1.1.Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính. Tuy trong những năm qua công tác cải cách thủ tục hành chính đã được quan tâm nhưng để làm cho công tác thẩm định thêm tiện lợi, nhanh chóng và chính xác, cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cải cách thủ tục hành chính, khắc phục sự trì trệ trong các cơ quan quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa”, “một đầu mối”. Khi tiến hành thẩm định dự án, các cơ quan cần tiến hành đồng thời, nếu chấp nhận chẳng hạn về quyền sử dụng đất cần phải tiến hành giải phóng mặt bằng ngay để khi nhận được quyết định đầu tư có thể đưa dự án vào thực hiện. Các cơ quan phụ trách đầu tư là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi xin phép. Về hồ sơ đăng ký xin phép đầu tư, các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần có, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, nhà đầu tư phải đăng ký theo mẫu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nên chăng cần tiến tới tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá thủ tục phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư từ địa phương đến trung ương và phổ biến rộng rãi các tiêu chuẩn ấy trong và ngoài nước. 1.2. Giải pháp về nâng cao chất lượng khai thác, xủ lý và lưu trữ thông tin . Thông tin là một yếu tố rất quan trọng để tiến hành công tác thẩm định và là điều kiện tiên quyết để lựa chọn được những dự án đầu tư có chất lượng tốt. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có thể đa dạng hóa nguồn thông tin từ các bạn hàng của đối tác để nắm được tình hình tài chính, quan hệ thanh toán, tư cách, uy tín và năng lực của nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là việc thuê các công ty kiểm toán có uy tín xác định tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cần thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ tư vấn để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật và vận động đầu tư. Bên cạnh đó, thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài với các đối tác có thể trợ giúp cũng là một trong những giải pháp không kém phần hiệu quả để giải quyết vấn đề thiếu hụt thông tin. Việc thiết lập được mối quan hệ lâu dài sẽ giảm chi phí và thời gian thu thập thông tin, chưa kể đến thông tin thu thập được chắc chắn sẽ có tính chính xác cao hơn. Trong phạm vi quốc gia, đầu tư sử dụng vốn Ngân sách nhà nước là một hoạt động phức tạp, liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của những cơ quan quản lý khác nhau. Vì vậy để tạo được nguồn thông tin tốt cho công tác thẩm định cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở các cấp. Vấn đề then chốt là nhằm đảm bảo duy trì chế độ báo cáo định kỳ theo quy định. Ngoài chế độ báo cáo thống kê theo quy định chung của nhà nước, các Sở kế hoạch và đầu tư cần có báo cáo và thông tin nhanh về tình hình đầu tư trên địa bàn để Bộ Kế hoạch và Đầu tư kịp thời nắm bắt và xử lý các vấn đề phát sinh. Những năm gần đây, chúng ta đã có một bước nhảy vọt trong ngành viễn thông, trong mạng thông tin kinh tế giúp cho việc khai thác thông tin được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một định huớng cụ thể, chưa có một hoạch định đúng đắn để mạng thông tin toàn cầu phục vụ đắc lực và tối đa cho các cơ quan cần nắm bắt thông tin như cơ quan thẩm định. Để có được nguồn thông tin tốt thì vấn đề lưu trữ và xử lý thông tin cũng hết sức quan trọng. Với sự giúp đỡ của công nghệ tin học, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện những phương pháp thu thập, phân tích, xử lý và lưu trữ thông tin có hiệu quả. Xây dựng một hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ thuận tiện hiện đại, phải làm sao để thông tin được thông suốt trong toàn bộ hệ thống các phòng ban. Những thông tin cần thiết liên quan đến nhiều dự án có thể được truy cập một cách nhanh chóng. Tổ chức hệ thống thu thập thông tin, xử lý, lưu trữ và quản lý thông tin nhăm trao đổi cung cấp kịp thời phục vụ cho công tác thẩm định, đồng thời có khuyến cáo sớm những thông tin dự báo cần thiết. Vụ Thẩm định cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng cho hoạt động thẩm định. Trong dó phải tập hợp, lưu trữ thông tin cần thiết về ngành, lĩnh vực, tình hình kinh tế các khu vực khác nhau trong cả nước, phát triển theo hướng lấy thông tin theo ngành dọc từ các Sở Kế hoạch và Đầu tư của các địa phương sau đó truyền về sắp xếp lại thông qua mạng nội bộ. Trung tâm thông tin của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã và đang là một nguồn cung cấp thông tin quan trọng phục vụ không nhỏ cho công tác của Bộ. Tuy nhiên cũng cần phải cải tiến hơn nữa hoạt động của đội ngũ nhân viên trong việc khai thác và xử lý các thông tin trên mạng máy tính, đồng thời nâng cấp hệ thống máy tính để khai thác có hiệu quả hơn nguồn thông tin cả về số lượng và chất lượng. 1.3. Giải pháp về xây dựng một quy trình thẩm định hợp lý. Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện các công việc thẩm định. Để thực hiện tôt khâu này cần phải có một quy trình thực hiện thẩm định hợp lý, khoa học. Do nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm định dự án là: Thứ nhất: Phân tích đánh giá tính khả thi của dự án về các mặt. Thứ hai: Đề xuất kiến nghị với nhà nước liệu chấp nhận hay không chấp nhận dự án. Tức công việc thứ nhất chủ yếu là xem xét đánh giá chuyên môn, công việc thứ hai là lựa chọn phương án và điều kiện phù hợp nên để công tác thẩm định được cặn kẽ và chính xác, việc tổ chức thẩm định dự án nên chia các thành viên tham gia thẩm định thành hai khối: + Khối chuyên môn: gồm các cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia có trình độ chuyên môn cao liên quan đến nội dung dự án. + Khối quản lý: gồm các cơ quan hoặc chuyên gia về quản lý (ngành, lãnh thổ) có hiểu biết chung về chuyên môn nhưng có thể không sâu về chuyên ngành. Đối với khối tư vấn về chuyên môn, có thể có các cách sử dụng tư vấn sau: . Thành lập nhóm chuyên gia: bao gồm các chuyên gia làm việc tại các Bộ, sở quản lý chuyên ngành, có thể có thêm vài chuyên gia độc lập từ các viện nghiên cứu, trường đại học bên ngoài. Trong những trường hợp cần thiết, nhóm chuyên gia này có thể chia thành các tiểu ban chuyên môn để thực hiện đánh giá theo từng nôị dung chuyên môn. Ví dụ: tiểu ban công nghệ, tiều ban xây dựng, tiểu ban kinh tế… . Các tư vấn độc lập trong và ngoài nước: đó là các tổ chức hoặc cá nhân có trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực có liên quan. Các tổ chức tư vấn hoặc chuyên gia này làm nhiệm vụ phản biện toàn bộ hoặc từng phần dự án theo chuyên đề. Tuỳ thuộc nội dung, tính chất dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể trình người có thẩm quyền quyết định thành lập Nhóm chuyên gia hoặc chọn tư vấn phản biện để tiến hành thẩm định các dự án. Cách thức sử dụng tư vấn chuyên môn thẩm định đối với từng dự án có thể áp dụng các cách linh hoạt: có thể đầy đủ các hình thức tổ chức nói trên (có cả nhóm chuyên gia, có cả các tư vấn độc lập), có thể sử dụng một hay một vài hình thức nêu trên (chỉ gồm nhóm chuyên gia hay một vài tiểu ban chuyên môn, thậm chí có thể chỉ yêu cầu một vài chuyên gia phản biện). Trên cơ sở ý kiến của các tư vấn chuyên môn nói trên, cơ quan thẩm định sẽ xem xét quyết định để có ý kiến trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư. Mặt khác, Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư_ với tư cách là cơ quan thẩm định _ cần phối hợp với các Bộ chuyên ngành, Hiệp hội tư vấn để hình thành mạng lưới đội ngũ chuyên gia và tổ chức tư vấn tương đối ổn định, có mối quan hệ thường xuyên hơn để huy động nhanh, đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác thẩm định. Nhóm chuyên gia liên ngành, các tiểu ban chuyên môn và tư vấn độc lập cũng cần sử dụng thông tin, trao đổi, phối hợp với nhau trong quá trình thẩm định đánh giá dự án theo nhiệm vụ được giao. Việc thực hiện tốt một quy trình thẩm định hợp lý một mặt sẽ đảm bảo các yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý ngành và phối hợp được giữa các ngành, các địa phương trong việc đánh giá thẩm định dự án, đồng thời đảm bảo tính khách quan, cho phép phân tích sâu sắc, có căn cứ khoa học và thực tế các vấn đề chuyên môn, giúp Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ thẩm định của mình. 1.4. Giải pháp về xác định các tiêu chuẩn trong phân tích thẩm định, đánh giá dự án . Để thẩm định đánh giá dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cần phải giải quyết hai vấn đề là định lượng và xác định tiêu chuẩn để đánh giá của các chỉ tiêu đó. Khâu yếu trong công tác thẩm định hiện nay chính là hai vấn đề trên. Để khắc phục mặt yếu kém này, cần phải có một số giải pháp kịp thời và đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp của các cơ quan chuyên môn có liên quan: + Cần nhanh chóng thống nhất về nội dung, phương pháp đo lường một số chỉ tiêu như chỉ tiêu sử dụng đất ở các khu công nghiệp, tính toán yếu tố lạm phát trong các chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu và phương pháp tính các chỉ tiêu đánh giá kinh tế, chỉ tiêu đánh giá về các yếu tố xã hội…. + Xây dựng các chỉ tiêu hướng dẫn hoặc các tiêu chuẩn áp dụng cho từng loại hình dự án, đặc biệt là các chỉ tiêu phân tích tài chính. + Phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và các cơ quan khác có liên quan trong việc khai thác các thông tin về các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật có tính chất kinh nghiệm, thực tế trong và ngoài nước, đặc biệt là các thông tin về công nghệ, thiết bị, giá cả các loại vật tư thiết bị, các tỷ lệ chi phí tư vấn, chuyển giao công nghệ. Những điểm này cần phải được đặc biệt chú trọng đối với các cơ quan đầu tư tổng hợp không chỉ Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà còn đối với các bộ khác như Bộ tài chính, Bộ xây dựng, Bộ thương mại, Bộ khoa học công nghệ môi trường và cả các địa phương. Việc nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn và các chỉ tiêu hướng dẫn là rất cần thiết cho công tác thẩm định, bởi chúng chính là những cơ sở cho việc đánh giá dự án. 1.5. Giải pháp về nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thẩm định. Một trong những yếu tố khiến cho công tác thẩm định dự án chưa đạt được hiệu quả như mong muốn là do một bộ phận những cán bộ làm công tác thẩm định còn chưa được trang bị những kiến thức đầy đủ và cập nhật về dự án và kỹ năng thẩm định dự án. Vì vậy, để công tác thẩm định được tốt hơn, cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những kiến thức mới, những quy định mới nhất của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Đây là những quy định có tính chất nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Bên cạnh đó, một nhiệm vụ không thể thiếu được và mang tính cấp bách là đẩy mạnh công tác đào tạo. Công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ từ trước đến nay vẫn luôn được Bộ Kế hoạch và Đầu tư quan tâm và luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Các cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói chung và cán bộ chuyên trách công tác thẩm định nói riêng tại Vụ Thẩm định Giám sát đầ tư đều đã được cử đi đào tạo ở nhiều loại hình khác nhau, cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên với nhu cầu đòi hỏi cấp bách hiện nay đối với đội ngũ làm công tác thẩm định dự án, thiết thực nhất vẫn là phải mở thêm các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ chuyên môn. Bên cạnh việc trang bị hệ thống lý thuyết đầy đủ và cập nhật, cần chú trọng kỹ năng thực hành bằng các chương trình phần mềm thẩm định trực tiếp trên máy vi tính với những ví dụ thực tế, cụ thể hơn là phương pháp truyền đạt một chiều sẽ không kích thích được tính tích cực, chủ động và không đạt được mục tiêu nâng cao kỹ năng thực hành cho đối tượng đang làm công tác thực tế. Với các lớp học, chương trình tập huấn nghiệp vụ hạn chế về chỉ tiêu, cần ưu tiên tuyển chọn những cán bộ đã được trang bị hoặc đã có tích luỹ kiến thức tương đối về thẩm định dự án, có khả năng tiếp thu và hướng dẫn lại nghiệp vụ khi về công tác tại cơ quan. Có như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thẩm định mới mang lại kết quả thiết thực và tiết kiệm được chi phí. Cần sớm tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thẩm định theo hướng chuyên môn hóa. Có như vậy, Vụ Thẩm định Giám sát đầ tư mới đào tạo được những chuyên gia chuyên sâu về từng mặt nghiệp vụ, từng loại dự án, đặc biệt là những nghiệp vụ đặc thù. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ kết hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tượng, hiệu quả cao hơn. Mặt khác, cũng trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ được công khai hoá, đội ngũ cán bộ sẽ có điều kiện chủ động trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, phát huy cao độ ý chí và nghị lực của mình, tự tin trong quá trình phấn đấu và công tác. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là một đơn vị then chốt, tập trung nhiều cán bộ quản lý kinh tế, quản lý dự án và cũng là nơi cung cấp nhiều cán bộ quản lý cho hệ thống các Sở kế hoạch và đầu tư của các tỉnh trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy, đẩy mạnh công tác đào tạo cần phải gắn liền với thực hiện đa dạng hoá đào tạo, phù hợp với nhu cầu đào tạo của từng địa phương, từng lĩnh vực chuyên môn. Chỉ có đa dạng hoá các loại hình đào tạo mới phát huy được nội lực của mỗi cán bộ nhân viên, của từng đơn vị thành viên và toàn hệ thống, thực hiện mục tiêu cập nhật kiến thức, vừa nâng cao trình độ cán bộ hiện tại, vừa chuẩn bị nguồn cán bộ cho tương lai để sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ. Xây dựng trung tâm đào tạo của Bộ thật sự trở thành một trung tâm mạnh về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với cán bộ nhân viên. Với cách tổ chức như vậy đã tạo nên một đội ngũ đông đảo cán bộ được nâng cao trình độ, kiến thức đáp ứng yêu cầu công tác. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã mở các lớp tập huấn cho các tỉnh và thành phố về công tác kế hoạch, tài chính, đầu tư, thẩm định dự án, đấu thầu, quản lý ODA…cho hàng nghìn lượt người. Công tác này cần được tiếp tục phát huy và mở rộng: + Cần tăng cường trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy tốt hơn, có thêm một số phòng học, hội trường, thư viện, phòng đọc rộng rãi hơn. + Xây dựng kế hoạch đào tạo gắn liền với việc tổ chức biên soạn và thẩm định, xét duyệt tài liệu, giáo trình đào tạo. Phát huy hơn nữa chức năng của Trung tâm thông tin và Tạp chí kinh tế và dự báo trong việc cung cấp các thông tin cập nhật và tài liệu tham khảo trên các lĩnh vực kinh tế như thẩm định dự án, quản lý ODA, đầu tư nước ngoài, đấu thầu… Song song với đào tạo, cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý nhất là cán bộ trẻ để thu hút những người có năng lực và trình độ được đào tạo chuyên sâu trong và ngoài nước về lĩnh vực thẩm định dự án. Bên cạnh đó, cần thưòng xuyên mời những chuyên gia giỏi làm cố vấn hay cộng tác viên phối hợp với cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong công tác thẩm định. 2.Kiến nghị với Bộ Kế hoạch - Đầu tư. - Cần nghiên cứu xây dựng một quy trình thẩm định hiện đại, phù hợp với từng loại hình dự án đầu tư nhằm hướng đến mục tiêu đơn giản và hiệu quả. Thực hiện đúng chức năng là cơ quan thẩm định đứng trên góc độ của nhà nước và Chính phủ. Tránh can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các chủ đầu tư mà lơ là nhiều mặt làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế xã hội của đất nước mà dự án đem lại. - Đẩy mạnh cải cách hành chính trong từng bộ phận tham gia thẩm định và quyết định đầu tư. - Hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ. Phải làm sao để thông tin được thông suốt, đầy đủ, không phiến diện, làm cơ sở cho việc cung cấp thông tin cho hoạt động thẩm định dự án được nhanh chóng, thuận tiện. - Khẩn trương xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực và các tiêu chuẩn đánh giá dự án cho các dự án đầu tư theo từng lĩnh vực, từng địa bàn, từng ngành…để làm cơ sở so sánh, đánh giá dự án và ra quyết định đầu tư. - Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng nhà nước trong việc thẩm định mặt tài chính của các dự án đầu tư nước ngoài. Cố gắng xây dựng những cơ sở và tiêu chuẩn thẩm định về mặt tài chính thống nhất và chặt chẽ để giảm bớt gánh nặng cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong mặt thẩm định tài chính đối với những dự án được phép, hoặc ít nhất, những khía cạnh tài chính đã được thẩm định bởi ngân hàng có thể trở thành cơ sở tin cậy để Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra những đánh giá cho tính khả thi về mặt tài chính của dự án. - Phối hợp chặt chẽ với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trong việc thẩm định mặt kỹ thuật công nghệ của dự án. Thường xuyên có sự trao đổi, đào tạo cán bộ thẩm định thuộc chuyên môn kỹ thuật của Bộ Kế hoạch và Đầu tư với Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường để nâng cao trình độ cũng như cập nhật các kiến thức mới nhất về công nghệ của thế giới nhằm nâng cao chất lượng thẩm định về mặt kỹ thuật công nghệ của dự án. Kết luận Qua chuyên đề này em đã đề cập đến phần nào tình hình công tác thẩm định các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước và có một số giải pháp và kiến nghị về công tác thẩm định những dự án sử dụng nguồn vốn này. Do sự hiểu biết và thời gian thực tập có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để Chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo,Tiến sỹ Phạm Văn Hùng và Tiến sỹ Nguyễn Đức Chung (Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nơi em thực tập) đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Hà nội ngày 06 tháng 05 năm 2005. MụC LụC Lời mở đầu 1 chương 1:những vấn đề chung về công tác thẩm định dự án đầu tư 3 I.Khái niệm và phân loại dự án đầu tư 3 1.Khái niệm dự án đầu tư 3 2.Phân loại dự án đầu tư 3 II.Tổng quan về thẩm định dự án. 4 1.Khái niệm 4 2.Sự cần thiết phải thẩm định dự án 5 3.Mục đích và yêu cầu của thẩm định dự án 5 3.1.Mục đích của thẩm định dự án 5 3.2.Yêu cầu của thẩm định dự án 6 4. ý nghĩa của thẩm định dự án 6 III.Nội dung và các bước thẩm định dự án sử dụng vốn nhà nước 1.Nội dung 7 1.1. Mục tiêu và căn cứ pháp lý của dự án 7. 1.2. Thẩm định sản phẩm, thị trưòng 7 1.3. Thẩm định về phương diện kỹ thuật 7. 1.4. Sự hợp lý của phương án địa điểm, sử dụng đất đai, chế độ khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia 9 1.5. Thẩm định ảnh hưởng của dự án đến môi trường 9 1.6. Thẩm định về phương diện tổ chức 10 1.7. Thẩm định về phương diện tài chính của dự án. 10 1.8. Thẩm định hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án 14 2. Các nguyên tắc trong thẩm định 16 IV.Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thẩm định dự án. 17 1. Môi trường pháp lý 17 2. Phương pháp thẩm định 17 3. Thông tin 18 4. Quy trình thực hiện thẩm định 19 5. Quản lý nhà nước đối với đầu tư. 22 6. Đội ngũ cán bộ thẩm định 26 7. Vấn đề định lượng và tiêu chuẩn trong phân tích, đánh giá dự án 26 Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 27 I.Sơ lược về Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 27 1. Cơ cấu tổ chức 27 2. Chức năng, nhiệm vụ 27 II.Khái quát chung về các dự án được thẩm định trong năm 2004. 28 III.Quy trình tổ chức thẩm định tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư. 33 1.Tiếp nhận hồ sơ. 33 2.Lập kế hoạch và xử lý công việc được giao. 33 3.Quy trình xử lý công việc. 34 4.Thời hạn xử lý công việc. 35 IV.Ví dụ về một dự án được thẩm định tại Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư 35 1.Tóm tắt nội dung chính của dự án. 35 2.Các mặt được thẩm định của dự án: 38 2.1.Tư cách pháp lý và năng lực tài chính của nhà đầu tư 38 2.2.Thẩm định mặt tài chính của dự án 38 2.3.Lợi ích về mặt kinh tế xã hội của dự án .48 2.4.Đánh giá tác động môi trường của dự án. 49 3.Tóm tắt ý kiến của các bộ nghành và các đơn vị liên quan liên quan (trước khi có giải trình, bổ sung hồ sơ Dự án) 50 3.1. Bộ Công nghiệp 50 3.2. Bộ khoa học và Công nghệ 51 3.3. Bộ Giao thông Vận tải 51 3.4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 51 3.5. Bộ Quốc phòng 52 3.6. Bộ tài nguyên và môi trường 53 3.7.Bộ Xây dựng 53 8.Bộ Tài chính 54 4.Nội dung giải trình bổ sung hồ sơ dự án. 55 5. Nhận xét ,đánh giá và kiến nghị của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư. 57 5.1. Nhận xét, đánh giá 57: 5.2. Kiến nghị 60. IV.Đánh giá về công tác thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 60 1.Những kết quả đạt được. 61 2.Những tồn tại và hạn chế. 62 Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại vụ thẩm định và giám sát đầu tư. 66 I.Triển vọng đầu tư tại Việt Nam đến 2010. 66 1.Bối cảnh tình hình: 66 1.1.Những thuận lợi 66. 1.2.Những khó khăn 66. 2.Triển vọng Đầu tư đến 2010. 67 II.Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư. 67 1.Giải pháp. 67 1.1.Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính 67 1.2. Giải pháp về nâng cao chất lượng khai thác, xủ lý và lưu trữ thông tin 68 1.3. Giải pháp về xây dựng một quy trình thẩm định hợp lý. 69 1.4. Giải pháp về xác định các tiêu chuẩn trong phân tích thẩm định, đánh giá dự án . 71 1.5. Giải pháp về nâng cao trình độ cho cán bộ thẩm định 72 2.Kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 74 Kết luận 75 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0064.doc
Tài liệu liên quan