Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp hoá chất

Bảng kê chữ viết tắt Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ STT Số thứ tự NVL Nguyên vật liệu SP Sản phẩm SX Sản xuất SXKD Sản xuất kinh doanh GTGT Giá trị gia tăng NVLTT Nguyên vật liệu trực tiếp NCTT Nhân công trực tiếp SXC Sản xuất chung TK Tài khoản BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế KPCĐ Kinh phí công đoàn TSCĐ Tài sản cố định BTH Bảng tổng hợp BPB Bảng phân bổ SXDD Sản xuất dở dang SPDD Sản phẩm dở dang KC Kết chuyển CCDC Công cụ dụng cụ CP Chi phí C

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp hoá chất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHH Chi phí hoa hồng CPDV Chi phí dịch vụ CPKHTSCĐ Chi phí khấu hao tài sản cố định DN Doanh nghiệp Lời mở đầu T rong những năm qua, cơ chế hạch toán độc lập đã khẳng định được vị thế của mình trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế quốc dân. Mỗi doanh nghiệp là một đơn vị hạch toán độc lập, họ phải tự mình quyết định nên sản xuất những sản phẩm như thế nào để vừa có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng vừa có tính canh tranh trên thị trường. Để làm được điều đó, mỗi doanh nghiệp phải không ngừng tìm kiếm các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, tiết kiêm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Là một khâu trong hệ thống hạch toán kế toán, kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm giữ vai trò trọng tâm trong công tác kế toán trong các doanh nghiệp. Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không chỉ dừng lại ở việc tính đúng, tính đủ chi phí trong giá thành mà còn phải cung cấp thông tin cho chính xác, kịp thời cho các nhà quản trị doanh nghiệp để kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm cũng như phân tích, tìm ra các nhân tố làm biến động chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Đối với Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất, một doanh nghiệp hạch toán kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực khảo sát thiết kế các công trình hóa chất, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cũng được coi trọng đúng mức. Việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành luôn được đặt lên hàng đầu và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phần hành kế toán trong Công ty. Từ thực tế có được trong quá trình thực tập tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất, trên cơ sở những kiến thức đã học cùng với sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của các bác, các cô Phòng kế toán – tài chính, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu chuyên đề: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất”. Chuyên đề gồm ba phần: Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại các đơn vị khảo sát thiết kế. Phần 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất. Phần 3: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất. những vấn đề lý luận về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các đơn vị khảo sát thiết kế. Đặc điểm hoạt động khảo sát thiết kế tác động đến công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Khảo sát thiết kế là một công việc quan trọng, được tiến hành trước khi bắt đầu bất kỳ công trình xây dựng nào và nó quyết định đến sự thành công và chất lượng công trình đó. Công việc khảo sát thiết kế có thể được coi như một bộ phận của ngành xây dựng cơ bản vì kết quả của có được sử dụng cho việc xây lắp, thi công công trình. Những đặc điểm hết sức riêng biệt này được biểu hiện xuyên suốt trong quá trình hình thành nên sản phẩm cũng như trong đặc điểm của sản phẩm khảo sát thiết kế. Đặc điểm của sản phẩm khảo sát thiết kế: Trong các ngành sản xuất vật chất, các sản phẩm sản xuất ra thường có hình thái vật chất cụ thể, với nhiều mẫu mã, chủng loại, quy cách riêng.Tuy nhiên, sản phẩm khảo sát thiết kế lại rất đặc biệt. Đó là các dự án khả thi,dợ án tiền khả thi, các bản vẽ thiết kế...cho từng công trình, hạng mục công trình.Như vậy, các sản phẩm này mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài, theo chu kỳ khác nhau, kết cấu phức tạp. Đối với các báo cáo nghiên cứu khả thi, tiền khả thi thì thời gian hoàn thành sản phẩm ngắn, tứ 3 đến 6 tháng, còn đối với các đồ án thiết kế thì có thể kéo dài từ 2 đến 3 năm mới kết thúc.Mỗi sản phẩm lại có yêu cầu về kỹ thuật, đặc biệt là có sự đòi hỏi lớn về lao động chất xám của con người. Chính vì thế, đồi với các sản phẩm khảo sát thiết kế, chi phí về vật hoá chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng chi phí về còn lao động sống kết tinh trong sản phẩm lại chiếm trên 50% tổng chi phí. Điều này đòi hỏi kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải xác định cho mình một phương pháp và trình tự hạch toán thích hợp sao cho vừa đúng chế độ kế toán hiện hành, vừa linh hoạt, phù hợp với đặc thù sản phẩm, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, kết cấu sản phẩm khảo sát thiết kế thường rất phức tạp do trong quá trình sản xuất phải thực hiện nhiều phương thức thi công(khảo sát tại hiện trường kết hợp với thiết kế trong doanh nghiệp). Chính vì thế, chi phí phát sinh cho từng công trình rất đa dạng và không hoàn toàn giống nhau cho mỗi công trình. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho việc tập hợp và khân loại chi phí theo khoản mục, do đó ảnh hưởng đến việc phân tích sự biến động của chi phí đến giá thành theo từng yếu tố chi phí. Đồng thời, việc quản lý hạch toán chi phí, giá thành sản phẩm cũng đòi hỏi phải được tỏ chức chặt chẽ hơn ở hiện trường cũng như tại doanh nghiệp. Việc đánh giá sản phẩm cũng không chỉ đơn thuần tính trên tổng sản lượng mà còn được phản ánh qua chi phí phát sinh được tập hợp riêng cho từng công trình, hạng mục công trình hoặc công việc cụ thể. Một đặc điểm nữa là cũng như các sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản, các sản phẩm khảo sát thiết kế thường không được nhập kho sau khi hoàn thành mà được chuyển ngay cho khách hàng theo gía dự toán (giá chỉ định thầu) hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu) sau khi được phê duyệt. Vì thế, tính chất sản phẩm của hàng hóa không được thể hiện rõ do giá cả, người mua, người bán đã được xác định trước khi tiến hành sản xuất. Chất lượng của sản phẩm khảo sát thiết kế có ảnh hưởng lớn đến các công trình sau này. Vì thế, sau khi thiết kế xong và giao lại cho khách hàng theo bản vẽ thiết kế, đơn vị phải cử cán bộ đi theo dõi việc thực hiện (giám sát thi công, chạy thử...). Sản phẩm chỉ được coi là hoàn thành khi công trình trên giấy của khách hàng đã được nghiệm thu đưa vào sử dụng. Do đặc thù của sản phẩm, đơn vị sẽ nhận được số tiền tạm ứng trước khi thiết kế sản phẩm khoảng 20% đến 30% giá trị công trình và bên A sẽ được giữ lại 5% giá trị công trình sau khi quyết toán. Đặc điểm trên cũng dẫn tới việc sau khi công trình bàn giao cho người sử dụng, các khoản chi phí vẫn có thể phát sinh và do đó kế toán vẫn phải tiếp tục theo dõi, tập hợp để xử lý. 1.1.2 Đặc điểm quá trình thực hiện hoạt động khảo sát thiết kế: Hoạt động khảo sát thiết kế của các đơn vị chủ yếu được thực hiện bởi hình thức chỉ định thầu của cơ quan Nhà nước cấp trên hoặc đấu thầu. Chính vì thế, trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp khảo sát thiết kế sẽ không phải tiến hành các hoạt động xúc tiến tiêu thụ, do đó chi phí lưu thông trong các doanh nghiệp này hầu như không có. Mặt khác, do giá của sản phẩm được xác định trước khi sản xuất theo giá đấu thầu hoặc giá chỉ định thầu nên doanh nghiệp phải dự toán một cách chính xác chi phí cho từng công trình, hạng mục công trình dựa trên các định mức về chi phí của Bộ xây dựng, của cơ quan cấp trên hoặc theo các định mức ban hành trong nội bộ đơn vị. Quá trình khảo sát thiết kế thường gồm hai quá trình nối tiếp nhau là khảo sát và thiết kế. Hai quá trình này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả của giai đoạn trước là tiền đề để tiến hành giai đoạn sau. Tuy nhiên, hai giai đoạn này lại được tiến hành theo những phương thức khác nhau, các loại chi phí phát sinh không chỉ khác nhau về lượng mà còn khác nhau cả về chất. Chính vì thế, kế toán cần phải có phương thức phân bổ chi phí phù hợp đồng thời cũng phải xác định được phương pháp tính giá hợp lý. Trong thực tế, do thời gian tiến hành sản xuất sản phẩm khảo sát thiết kế kéo dài nên công việc khảo sát thiết kế thường được tiến hành song song với nhau, vừa khảo sát địa hình, địa chất, vừa thiết kế. Bởi vậy, công tác kế toán cần theo dõi và xác định chi phí chính xác cho từng công trình, hạng mục công trình cũng như theo từng đơn vị phát sinh chi phí. Như vậy, đặc điểm riêng biệt của ngành khảo sát thiết kế đã chi phối rất lớn tới công tác hạch toán chi phi sản xuất và tinh giá thành sản phẩm. Tuy nhiên cũng như kế toán ở các ngành sản xuất khác, kế toán ở các đơn vị khảo sát thiết kế vẫn đảm bảo các chức năng cung cấp và phản ánh chính xác, kịp thời và đầy đủ các thông tin phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp. Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế: Chi phí sản xuất: Khái niệm chi phí sản xuất: Nền sản xuất của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao của các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Cu thể, sản xuất là quá trình kết hợp của ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời quá trình sản xuất là quá trình tiêu hao của chính các yếu tố trên. Để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra các chi phi về thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí là tất yếu khách quan. Theo hệ thống kế toán Việt Nam, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao động sống và lao động vật hoá mà thực tế doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh và tính cho một thời kỳ nhất định. Nói cách khác, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn, dịch chuyển giá trị các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá thành. Trên cơ sở đó, ta có thể định nghĩa chi phí sản xuất sản phẩm khảo sát thiết kế như sau: Chi phí sản xuất sản phẩm khảo sát thiết kế là toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra liên quan đến hoạt động khảo sát thiết kế trong một thời kỳ nhất định. Tuy nhiên khi đề cập đến các chi phí sản xuất cần chú ý phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chỉ được tính vào chi phí của kỳ hạch toán nếu hao phí về tài sản có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ hạch toán chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư. tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Sở dĩ như vậy là vì có những khoản chi tiêu kỳ này chưa được tính vào chi phí (chi phí chờ phân bổ và chi phí phải trả) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trả trước). Tuy nhiên, việc phân biệt chi phí và chi tiêu chỉ là tương đối vì nếu xét tại một thời điểm thì chi tiêu khác với chi phí nhưng nếu xét trong một quá trình thì chi tiêu sẽ là chi phí bởi vì tất cả các nghiệp vụ chi tiêu đều với mục đích là tiêu dùng để tạo ra doanh lợi cho doanh nghiệp. Phân loại chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất có rất nhiều loại, khác nhau cả về nội dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí ... trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để thuận tiện cho công tác quản lý và hạch toán cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Trên thực tế có rất nhiều cách phân loại khác nhau, mỗi cách phân loại có những vai trò nhất định trong quản lý, hạch toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh cũng như trong quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Sau đây là một số cách phân loại được sử dụng phổ biến trong hạch toán chi phí sản xuất: ĩPhân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí (theo nội dung kinh tế của chi phí). Cách phân loại này dựa trên nguyên tắc những chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế ban đầu thì được xếp vào một loại yếu tố chi phí mà không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực hoạt động sản xuất nào, ở đâu, mục đích hay tác dụng của chi phí đó như thế nào. Theo qui định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm bảy yếu tố sau: ỡ Yếu tố nhiên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ... sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). ỡYếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi). ỡYếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên chức. ỡYếu tố bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức. ỡYếu tố khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ cho tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ. ỡYếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. ỡYếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố có tác dụng rất lớn trong việc quản lý chi phí sản xuất. Nó cho biết kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi phí làm cơ sở cho việc lập, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, lập kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động. Tuy nhiên cách phân loại này có nhược điểm là trong thực tế, có những khoản mục chi trực tiếp theo từng yếu tố nhưng các yếu tố đó không được tính trực tiếp vào giá thành thực tế từng sản phẩm, do đó không thể xác định được giá bán phù hợp. Để giải quyết nhược điểm trên, ta phải phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. ĩPhân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Cách phân loại này dựa trên công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất ( giá thành công xưởng) bao gồm 4 khoản mục chi phí: ỡChi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. ỡChi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương, các khoản phụ cấp có tính chất lương và các khoản trích theo lương của cán bộ, công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm. ỡChi phí sản xuất chung: gồm các chi phí sản xuất phục vụ cho việc sản xuất sản phẩm nhưng không được tính cho một đối tượng cụ thể và phát sinh trong phạm vi các phân xưởng như tiền lương nhân viên quản lý đội, các khoản trích theo lương theo quy định ( kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế), khấu hao máy móc thiết bị, dịch vụ mua ngoài... Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ ( giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng. Phân loại theo cách này rất thuận tiện cho việc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, cung cấp thông tin cho việc lập báo cáo tài chín, đồng thời giúp cho việc đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản xuất. phân tích được sự ảnh hưởng của từng khoản mục chi phí tới giá thành sản xuất và thấy được vị trí của các loại chi phí sản xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do trong lĩnh vực khảo sát thiết kế, công việc không tiến hành tại các phân xưởng mà tại hiện trường hay ngay trong các phòng ban trong doanh nghiệp. Vì vậy, việc phân chia giữa chi phí sản xuất chung và chi phí sản xuất trực tiếp ( CP NVLTT, CP NCTT) là không rõ ràng. Chính điều này đã tạo ra đặc điểm riêng trong cách phân loại chi phí của các đơn vị khảo sát thiết kế. ĩPhân loại chi phí theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành. Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí được chia theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành tức là được chia thành biến phí và định phí ỡBiến phí: là những chi phí thay đổi về tổng số và tỷ lệ với khối lượng công việc hoàn thành như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí biến đổi này được tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định. ỡĐịnh phí: là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành như các chi phí khấu hao về tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh. Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi. Phân loại chi phí theo cách này thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, có tác dụng rất lớn trong công tác kế toán quản trị, phân tích điểm hoà vốn và tình hình tiết kiệm chi phí sản xuất, đồng thời làm căn cứ để đề ra các biện pháp thích hợp nhằm hạ thấp chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm cũng như xác định phương án đầu tư thích hợp. ĩPhân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh: Dựa vào chức năng hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng mà chia chi phí sản xuất- kinh doanh làm ba loại: Chi phí thực hiện chức năng sản xuất: gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng. ỡChi phí thực hiện chức năng tiêu thụ:gồm tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ.. . ỡChi phí thực hiện chức năng quản lý: gồm các chi phí quản lý kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. ĩPhân loại chi phí theo cách kết chuyển chi phi: Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ: ỡChi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua. ỡChi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một thời kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất hoặc được mua nên được xem là các phí tổn cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh (chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp) Ngoài các cách phân loại chính kể trên, chi phí sản xuất còn được phân loại thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp; chi phí ban đầu và chi phí chuyển đổi; chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, chi phí hoạt động tài chính, chi phí bất thường... Mỗi cách phân loại đều có vai trò, vị trí riêng trong công tác quản lý chi phí trong doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và điều tiết chi phí. Do đó, tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một hình thức phân loại chi phí sao cho phù hợp với yêu cầu quản lý của doanh nghiệp mình. Giá thành sản phẩm: Khái niệm giá thành sản phẩm: Giá thành sản phẩm nói chung là biểu hiện bằng tiền của toàn bọ lao động sống và lao động vật hoá đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ. Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những lao động sống và lao động vật hoá đã thực chi ra cho sản phẩm.Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất được bồi hoàn đế tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành cản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất và các khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan không phản ánh đúng các yếu tố trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuât mở rộng Trên cơ sở đó ta có thể định nghĩa: Giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế là toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra liên quan đến khối lượng công việc khảo sát thiết kế hoàn thành trong kỳ. Khác với giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp khác, giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế không thể được tính cho toàn bộ các công trình, hạng mục công trình hoàn thành trong kỳ vì nó mang tính cá biệt, mối sản phẩm khảo sát thiết kế sau khi hoàn thành đều có giá trị riêng.Vì thế, chỉ tiêu giá thành sản phẩm cũng chính là chỉ tiêu giá thành đơn vị sản phẩm. Với đặc trưng này, chỉ tiêu giá thành sẽ cho phép xác định được hiệu quả kinh doanh, tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, hoà thiện kỹ thuật, giảm thời gian thiết kế, sử dụng hợp lý vốn cũng như đưa ra các giải pháp kinh tế kỹ thuật khác. Phân loại giá thành: Để đáp ứng các yêu cầu quản lý hạch toán, kế hoạch hoá giá thành, cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưói nhiều góc độ, phạm vi tính toán khác nhau. Việc phân loại giá thành sẽ giúp phân tích những biến động của chỉ tiêu giá thành và chiều hướng quản lý để có biện pháp thích hợp. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta phân giá thành thành hai loại sau: ĩPhân loại giá thành theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành: Theo cách phân loại này, giá thành được chia thành giá thành kế hoạch , giá thành dự toán và giá thành thực tế. ỡGiá thành dự toán: được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.. Như vậy, giá thành dự toán tại các đơn vị khảo sát thiết kế là chi phí xã hội cần thiết theo dự tính để hoàn thành toàn bộ khối lượng công việc khảo sát thiết kế theo một phương án đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trước khi ký hợp đồng khảo sát thiết kế, đơn vị phải lập dự toán vè chi phí, xác định giá thành dự toán dựa trên các định mức về chi phí khảo sát thiết kế của Bộ xây dựng và của Ngành, dựa trên khung giá khảo sát thiết kế mà Nhà nước ban hànhc cho từng loại và từng khối lượng công việc nhất định. Mức giá dự toán này là mức tối đa để thực hiện khối lượng công việc tho phương án khảo sát thiết kế được phê duyệt. Đây là cơ sở để các chủ đầu tư chọn thầu ký kết hợp đồng khảo sát thiết kế. Giá ký kết hợp đồng = Giá dự toán + Lợi nhuận định mức Trong đó, giá dự toán gồm cả chi phí khảo sát thiết kế và chi phí quản lý doanh nghiệp. Trong trường hợp cơ quan quyết định đầu tư chỉ định thầu thì giá ký kết hợp đồng là giá dự toán đã được duyệt. ỡGiá thành kế hoạch: là giá thành được xác dịnh từ những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp trên cơ sở phấn đấu hạ giá thành so với giá dự toán bằng các biện pháp tăng cường quản lý kỹ thuật, tăng cường quản lý vật tư thi công... Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán - Mức hạ giá thành kế hoạch ỡGiá thành thực tế: là giá thành được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế ở đơn vị khảo sát thiết kế là toàn bộ chi phí thực tế để hoàn thành bàn giao khối lượng công việc thiết kế mà doanh nghiệp nhận thầu. Giá thành này bao gồm tất cả các khoản phí tổn ngoài định mức như các khoản thiệt hại trong sản xuất, bội chi về vật tư, tiền vốn trong quá trình khảo sát thiết kế được phép tính vào giá thành. Về nguyên tắc, mối quan hệ giữa ba loại chi phí này phải đảm bảo như sau: Giá thành dự toán >= Giá thành kế hoạch >= Giá thành thực tế ĩPhânloại giá thành sản phẩm theo phạm vi phát sinh chi phí: Theo cách phân loại này, giá thành được chia thành hai loại: ỡGiá thành sản xuất (giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung) Giá thành sản xuất tại các đơn vị khảo sát thiết kế là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan tới công việc khảo sát thiết kế tại hiện trường cũng như tại doanh nghiệp trong phạm vi tổ, đội khảo sát thiết kế. Giá thành sản xuất được xác định cho sản phẩm khảo sát thiết kế đã hoàn thành bàn giao cho khách hàng nghiệm thu đưa vào sử dụng. ỡGiá thành tiêu thụ ( giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng). Giá thành toàn bộ được tính toán để phục vụ cho công tác quản trị đồng thời xác định được chính xác giá vốn và lãi về bán hàng cho từng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Sử dụng chỉ tiêu giá thành toàn bộ rất cần thiết cho công tác quản trị tại các doanh nghiệp khảo sát thiết kế do đặc trưng của sản phẩm là thời gian thực hiện kéo dài, một công trình có thể được thực hiện trong nhiều năm và trong kỳ có thể có rất nhiều công trình dở dang chưa quyết toán. Do đó, nếu không xác định chính xác giá thành toàn bộ, không phân bổ chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng công trình sẽ dẫn đến việc xác định kết quả trong kỳ không chính xác, ảnh hưởng đến việc ra quyết định của nhà quản lý. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm: Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. Chi phí phản ánh mặt hao phí còn giá thành phản ánh mặt kết quả. Như vậy, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ Chi phí phát sinh trong kỳ DC C B A Giá thành sản phẩm hoàn thành Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD – CD Hay: Giá thành sản phẩm hoàn thành = Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều giống nhau về chất vì đều là những lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình chế tạo sản xuất sản phẩm. Tuy vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không giống nhau về lượng, thể hiện: ỡChi phí sản xuất gắn liền với một kỳ nhất định còn giá thành sản xuất gắn liền với một loại sản phẩm, lao vụ nhất định. ỡGiá thành sản phẩm chỉ bao gồm một phần chi phí thực tế đã phát sinh (chi phí trả trước) hoặc một phần chi phí sẽ phát sinh ở kỳ sau nhưng đã ghi nhận chi phí ở kỳ này (chi phí phải trả). ỡGiá thành sản phẩm chứa đựng cat một phần chi phí của kỳ trước chuyển sang (chi phí dở dang đầu kỳ). Việc phân biệt trên giúp cho công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được đầy đủ và kịp thời. Ngoài ra, qua mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm, ta thấy để hạ thấp được giá thành sản phẩm thì một mặt, doanh nghiệp phải có biện pháp tiết kiệm chi phí, mặt khác phải có biện pháp đầu tư sử dụng chi phí hợp lý, nâng cao năng suất lao động tăng cường kết quả sản xuất sản phẩm. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế: Trong công tác quản lý doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu quan trọng luôn được các nhà doanh nghiệp quan tâm vì chúng gắn liền với kết quả hoạt động kinh doanh. Bộ phận kế toán tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cung cấp cho các nhà lãnh đạo quản lý số liệu thực tế về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của từng loại hoạt động, từng loại sản phẩm lao vụ cũng như toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đánh giá phân tích tình hình các định mức, dự toán chi phí, tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn có hiệu quả, tiết kiệm hay lãng phí..... để từ đó đề ra các biện pháp hữu hiệu, các quyết định phù hợp cho sự phát triển sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Việc phân tích, đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Sự chính xác của giá thành lại chịu sự ảnh hưởng của kết quả tập hợp chi phí. Do vậy, tổ chức tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sẽ đảm bảo đúng nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành sản phẩm, lượng giá trị các yếu tố chi phí đã được chuyển dịch vào sản phẩm đã hoàn thành có ý nghĩa quan trọng và là yêu cầu cấp bách trong nền kinh tế thị trường. Nhằm tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, kế toán cần thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ sau: _Xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. _Tổ chức kế toán tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất đúng đối tượng đã xác định và phương pháp kế toán tập hợp chi phí thích hợp. _Xác định chính xác chi phí về sản phẩm dở dang cuối kỳ. _Thực hiện tính giá thành sản phẩm kịp thời chính xác theo đúng đối tượng tính giá thành và phương pháp tính giá thành thích hợp. _Thực hiện phân tích tình hình định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có những kiến nghị đề xuất cho lãnh đạo ra những quyết định thích hợp trước mắt cũng như lâu dài cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất: Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất: Trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các chi phí phát sinh với nhiều nội dung kinh tế khác nhau, có công dụng khác nhau và phát sinh ở những địa điểm khác nhau. Để có thể tiến hành hạch toán chi phí đúng đắn và hợp lý, kế toán phải xác định đối tượng hạch toán chi phí cho phù hợp. Đối tượng hạch toán chi phí là phạm vi giới hạn mà chi phí sản xuất cần tập hợp nhằm đáp ứng nhu cầu kiểm tra, giám sát chi phí và tổ chức tính giá thành. Giới hạn tập hợp chi phí có thể là nơi phát sinh chi phí (phân xưởng, bộ phận....) hoặc có thể là đối tượng chịu chi phí (sản phẩm, công trình, hạng mục công trình....). Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thì mới có thể tổ chức tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số liệu đến mở tài khoản và tổ chức hệ thống sổ sách kế toán. Việc xác đị._.nh đối tượng kế toán tập hợp chi phí cần phải dựa trên các đặc điểm về sản xuất của doanh nghiệp, đặc điểm của sản phẩm, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm chi phí, mục đích, công dụng của chi phí, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Thông thường, đối tượng kế toán tập hợp trong doanh nghiệp có thể là: ĩTừng phân xưởng, tổ, đội sản xuất, bộ phận sản xuất hoặc từng doanh nghiệp. ĩTừng giai đoạn công nghệ hoặc toàn bộ quy trình công nghệ. ĩTừng sản phẩm, từng đơn đặt hàng hoặc hạng mục công trình . ĩTừng nhóm sản phẩm... Riêng đối với các đơn vị khảo sát thiết kế, do đặc điểm của sản phẩm là những sản phẩm đơn chiếc, thời gian thực hiện kéo dài, mỗi sản phẩm (công trình, hạng mục công trình) lại có yêu cầu riêng về kỹ thuật, đòi hỏi sự kết hợp giữa nhiều phòng ban với nhau, mỗi công trình lại có dự toán riêng. Vì vậy, đôi tượng hạch toán chi phí sản xuất trong các đơn vị này thường là các công trình, hạng mục công trình, các đơn đặt hàng, các giai đoạn công việc hoàn thành có dự toán riêng. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất: Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp sau: ĩPhương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm ĩPhương pháp hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng ĩPhương pháp hạch toán chi phí theo giai đoạn công nghệ ĩPhương pháp hạch toán chi phí theo phân xưởng ĩPhương pháp hạch toán chi phí theo nhóm sản phẩm... Nội dung chủ yếu của phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng, tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm: Đối tượng tính giá thành: Các loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra cần phải tính tổng giá thành và giá thành đơn vị. Xác định đối tượng tính giá thành là công việc cân thiết đầu tiên trong toàn bộ công việc tính giá thành sản phẩm của kế toán. Nếu xác định đúng và phù hợp với điều kiện, đặc điểm của doanh nghiệp sẽ giúp cho kế toán tổ chức mở, lập bảng tính giá thành sản phẩm theo từng đối tượng một cách chính xác, đồng thời quản lý và kiểm tra được tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Bộ phận kế toán phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất củ doanh nghiệp, của các loại sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất, tính chất sản xuất để xác định đối tượng tính giá thành cho thích hợp. Đối tượng tính giá thành có thể là: ĩChi tiết sản phẩm ĩBán thành phẩm ĩSản phẩm hoàn chỉnh ĩĐơn đặt hàng ĩCông trình hoặc hạng mục công trình Đối với các doanh nghiệp khảo sát thiết kế, dựa vào đặc điểm hoạt động và tính chất đặc thù của sản phẩm khảo sát thiết kế nên đối tượng tính giá thành sản phẩm thường là các công trình, hạng mục công trình hoặc các giai đoạn công việc hoàn thành có dự toán riêng. Phương pháp tính giá thành sản phẩm: Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu tập hợp trong kỳ để tính toán giá thành theo từng đối tượng hạch toán. Về cơ bản, phương pháp tính giá thành bao gồm các phương pháp sau: ĩPhương pháp tính giá thành giản đơn (hay phương pháp tính giá thành trực tiếp). Hiện nay, phương pháp này được sử dụng phổ biến trong các đơn vị khảo sát thiết kế do tính chất đơn chiếc của sản phẩm và sự phù hợp giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế. Đặc điểm của việc của việc tập hợp chi phí sản xuất trong các đơn vị khảo sát thiết kế là toàn bộ chi phí phát sinh đều được tập hợp theo công trình hoặc hạng mục công trình. Đối với các chi phí trực tiếp như: chi phí nguyên vật liêu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp phát sinh trực tiếp đối với các công trình nào thì hạch toán trực tiếp cho công trình đó theo chứng từ gốc hoặc bảng phân bổ chi phí. Đối với chi phí sản xuất chung, sau khi tập hợp xong sẽ phân bổ theo các tiêu thức phù hợp đã trình bày ở phần trên. Theo phương pháp tính giá thành giản đơn, giá thành thực tế của công trình (giai đoạn công việc) chính là tập hợp chi phí sản xuất phát sinh trực tiếp cho một công trình hay giai đoạn công việc từ khi bắt đầu đến khi hoàn thành khảo sát thiết kế. Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành công trình = Chi phí sản xuất dở dáng đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ - Các khoản làm giảm chi phí Tuy nhiên, phương pháp tính giá thành trực tiếp chỉ áp dụng được trong trường hợp đối tượng hạch toán chi phí trùng với đối tượng tính giá thành. Đối với trường hợp đơn vị khảo sát thiết kế nhận theo đơn đặt hàng với nhiều công trình, hạng mục công trình, đối tượng tập hợp chi phí là các đơn đặt hàng trong khi đối tượng tính giá thành lại là các công trình, hạng mục công trình. Do đó, kế toán phải sử dụng kết hợp phương pháp tính giá thành trực tiếp (để tính giá thành cho đơn đặt hàng) với phương pháp hệ số hoặc phương pháp tỷ lệ (để tính giá thành cho từng công trình, hạng mục công trình). ĩPhương pháp hệ số: Phương pháp này được áp dụng khi trong cùng một đơn đặt hàng có nhiều công trình, hạng mục công trình với các yêu cầu về kinh tế kỹ thuật giống nhau. Giữa các công trình này có hệ số quy đổi (quy đổi thành công trình chuẩn). Giá thành công trình chuẩn = Tổng giá thành của đơn đặt hàng Tổng số công trình chuẩn hoàn thành trong kỳ Giá thành mỗi công trình = Giá thành công trình chuẩn x Hệ số quy đổi mỗi công trình ĩPhương pháp tỷ lệ: Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp đơn vị tập hợp chi phí theo đơn đặt hàng và tính giá thành sản phẩm theo từng công trình giống như trong phương pháp hệ số nhưng giữa các công trình không có hệ số quy đổi. Do vậy, kế toán phải xác định tỷ lệ giữa tổng giá thành thực tế và tổng giá thành kế hoạch để qua đó xác định được giá thành cho từng công trình. Tỷ lệ = Tổng giá thành thực tế của các công trình hoàn thành trong kỳ Tổng giá thành kế hoạch của các công trình Giá thành thực tế của từng công trình = Tổng giá thành kế hoạch của các công trình x Tỷ lệ ĩPhương pháp tổng cộng chi phí: Khi các công trình khảo sát thiết kế có quy mô lớn và yêu cầu kỹ thuật phức tạp, với đối tượng tập hợp chi phí là từng đội, từng phòng sản xuất, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng, để tính được giá thành sản phẩm thì phải tổng cộng các chi phí ở tổ, đội. Do đó, giá thành được tính theo công thức sau: Z= D đk +Z1 +Z2+...+Zn – D ck Trong đó: Z: là giá thành sản phẩm Z1, Z2,...,Zn là giá thành ở các bộ phận sản xuất D đk, D ck: là các chi phí dở dang đầu kỳ và cuối kỳ ĩPhương pháp loại trừ giá trị sản phẩmt phụ: Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một qúa trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ. Để tính giá thành sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phị khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như: giá có thể sử dụng, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên vật liệu ban đầu... ĩPhương pháp lỉên hợp: Phương pháp này áp dụng cho những doanh nghiệp có tính chát quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm phức tạp đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Trên thực tế kế toán có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp tổng cộng chi phí với phương pháp tỷ lệ, phương pháp hệ số với phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số với phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ... Việc vận dụng phương pháp nào là tuỳ điều kiện của mỗi doanh nghiệp. Song trên thực tế trong các đơn vị khảo sát thiết kế, phương pháp giản đơn và phương pháp tổng cộng chi phí là hai phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên: Phương pháp kê khai thường xuyên dùng để phản ánh thường xuyên, liên tục tình hình biến động tăng giảm các loại hàng hoá tồn kho. Kế toán hạch toán theo phương pháp này sẽ ghi chép và theo dõi trên hệ thống sổ sách ngay khi phát sinh nghiệp vụ. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Khái niệm và tài khoản sử dụng: ĩKhái niệm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm tất cả các chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu...dược sử dụng trực tiếp cho quá trình sản xuất sản phẩm. ĩTài khoản sử dụng: Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất...) hoặc từng đối tượng tính giá thành (sản phẩm, công trình, hạng mục công trình, hạng mục công trình) Kết cấu của tài khoản 621 như sau: Bên Nợ: Phản ánh giá trị thực tế NVL xuất dùng cho chế tạo SP trong kỳ. Bên Có: ĩPhản ánh giá trị NVL sử dụng không hết nhập lại kho. ĩPhân bổ và kết chuyển giá trị NVL thực tế sử dụng cho chế tạo trong kỳ vào Bên Nợ tài khoản 154 – chi phí SXKD dở dang. Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư. Phương pháp hạch toán: Trong khảo sát thiết kế, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chủ yếu là các dụng cụ khảo sát (thước đo địa hình...) hoặc giấy, bút, mực in, văn phòng phẩm,nhìn chung các loại chi phí này thường chiém tỷ trọng nhỏ rong giá thành sản phẩm và không phải là yếu tố cấu thành nên thực thể sản phẩm. Mặt khác, các loại nguyên vật liệu này không được sử dụng riêng cho từng công trình mà nó liên quan đến nhiều công trình khác nhau. Do đó, yêu cầu hạch toán chi phí nguyên vật liệu đòi hỏi phải có sự phân bổ chính xác mức tiêu hao cụ thể cho từng đối tượng chịu chi phí. Chính vì thế đối với chi phí nguyên vật liệu chỉ liên quan đến một đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất thì kế toán sử dụng phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp. Trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, kế toán sử dụng phương pháp phân bổ gián tiếp. Do không thể xác định được mức tiêu hao thực tế cho từng loại sản phẩm nên để phân bổ hợp lý cho các đối tượng cần xác định, lựa chọn tiêu thức phân bổ hợp lý. Tiêu thức phân bổ hợp lý phải đảm bảo được mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tổng chi phí cần phân bổ với tiêu thức phân bổ của từng đối tượng. Các tiêu thức có thể là định mức tiêu hao cho từng loại sản phẩm, hệ số phân bổ được quy đinh tỷ lệ với trọng lượng sản phẩm được sản xuất. Mức phân bổ chi phí về nguyên vật liệu chính được dùng cho từng loại sản phẩm theo công thức sau: Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng = Tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng x Hệ số phân bổ Hệ số phân bổ = Tổng chi phí nguyên vật liệu cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên được thể hiện bằng sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên. TK 152 TK 621 TK 111,112,331 Xuất nguyên vật liệu dùng trực tiếp sản xuất Mua nguyên vật liệu đưa thẳng vào sản xuất TK 1331 Thuế GTGT Giá trị nguyên vật liệu không sử dụng hết cuối kỳ nhập lại kho Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp: Khái niệm và tài khoản sử dụng: ĩKhái niệm: chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp độc hại, làm thêm giờ, làm đêm....). Ngoài ra, chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn do chủ sử dụng lao động chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của nhân công trực tiếp sản xuất. ĩTài khoản sử dụng: Để hạch toán và theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 622 – chi phí nhân công trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí hoặc đối tượng tính giá thành. Kết cấu và nội dung của tài khoản 622 như sau: Bên Nợ: Phản ánh chi phí nhân công trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm: tiền lương, tiền công, phụ cấp có tính chất lương và các khoản trích theo lương. Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào bên Nợ tài khoản 154 – chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư. Phương pháp hạch toán: Khác với các doanh nghiệp xây lắp do có thể coi khảo sát thiết kế là một ngành dịch vụ tư vấn nên các khoản trích theo lương (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn) vẫn được tính vào chi phí nhân công trực tiếp. Đối với các đơn vị khảo sát thiết kế do sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao nên chi phí nhân công trực tiếp là nhân tố chính cấu thành nên giá trị sản phẩm bao gồm cả các khoản phải trả cho người lao động thuộc doanh nghiệp và lao động thuê ngoài. Chi phí nhân công trực tiếp nếu tính trả lương theo sản phẩm hoặc trả lương theo thời gian nhưng có liên hệ trực tiếp với từng đối tượng tập hợp chi phí cụ thể thì dùng phương pháp tập hợp trực tiếp. Đối với chi phí nhân công trực tiếp sản xuất trả theo thời gian có liên quan tới nhiều đối tượng và không hạch toán trực tiếp được thì dùng phương pháp phân bổ gián tiếp. Tiêu chuẩn dùng phân bổ có thể theo giờ công định mức, theo tiền lương định mức hoặc theo giờ công thực tế. Trên cơ sở tiền lương được phân bổ sẽ tiến hành trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định để tính vào chi phí. Theo chế độ kế toán hiện nay quy định: ĩTrích bảo hiểm xã hội: 20% theo lương trong đó: 15 % tính vào chi phí sản xuất 5 % khấu trừ vào lương của người lao động ĩTrích bảo hiểm y tế: 3% theo lương trong đó: 2 % tính vào chi phí sản xuất 1 % khấu trừ vào lương của người lao động ĩTrích kinh phí công đoàn: 2 % theo lương và tính cả vào chi phí sản xuất Phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp (Sơ đồ 3): Sơ đồ 3: Sơ đồ hạch toán chi phí nhân công trực tiếp theo phương pháp kê khai thường xuyên. TK 334,338 TK 622 TK 154 Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất TK 335 Trích tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất Cuối kỳ kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Hạch toán chi phí sản xuất chung: Khái niệm và tài khoản sử dụng: ĩKhái niệm: chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. ĩTài khoản sử dụng: Để hạch toán và theo dõi chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng tài khoản 627 – chi phí sản xuất chung. Tài khoản này mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ. Kết cấu và nội dung của tài khoản 627 như sau: Bên Nợ: phản ánh các chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ bao gồm lương nhân viên quản lý phân xưởng, khấu hao tài sản cố định dùng chung cho hoạt động của phân xưởng và những chi phí khác liên quan tới hoạt động của phân xưởng. Bên Có: ĩPhản ánh các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung ĩKết chuyển chi phí sản xuất chung vào bên Nợ tài khoản 154 – chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Tài khoản 627 cuối kỳ không có số dư. Tài khoản 627 trong các đơn vị khảo sát thiết kế không bao gồm khoản trích theo lương của cán bộ, công nhân trực tiếp khảo sát thiết kế như các đơn vị xây lắp. Các khoản này vẫn được tính vào chi phí nhân công trực tiếp do ngành khảo sát thiết kế có thể coi là một ngành dịch vụ hoạt động trong lĩnh vực tư vấn. Tài khoản 627 có 6 tài khoản cấp hai: ỡTài khoản 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng ỡTài khoản 6272: Chí phí vật liệu ỡTài khoản 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất ỡTài khoản 6274: Chi phí khấu hao tài sản cố định ỡTài khoản 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài ỡTài khoản 6278: Chi phí bằng tiền khác Phương pháp hạch toán: Chi phí sản xuất chung được tập hợp vào các đối tượng tập hợp chi phí cũng giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp nhưng do đặc điểm của chi phí sản xuất chung thường không được tính trực tiếp vào các đối tượng tập hợp chi phí nên phải tiến hành phân bổ. Chi phí sản xuất chung được tập hợp theo từng địa điểm phát sinh chi phí, cuối kỳ phân bổ cho từng đối tượng tập hợp chi phí theo tiêu thức phù hợp. Tiêu thức sử dụng để phân bổ chi phí sản xuất chung có thể theo chi phí tiền lương trực tiếp, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hay định mức chi phí sản xuất chung. Mức chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng đối tượng = Tổng tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng x Tổng chi phí sản xuất chung cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ cho tất cả các đối tượng Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất chung (Sơ đồ 4): Sơ đồ 4: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất chung theo phương pháp kê khai thường xuyên. TK 334, 338 TK 627 TK 154 Chi phí nhân viên quản lý phân xưởng TK 152, 153, 142 Chi phí vật liệu dùng cho sản xuất Cuối kỳ kết chuyển chi phí sản xuất chung TK214 Chi phí khấu hao tài sản cố định TK 331 Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 111, 112 Chi phí bằng tiền khác TK 1331 Thuế GTGT Thuế GTGT TK 142, 335 Phân bổ hoặc trích trước chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất: Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng: Sản phẩm hỏng là các sản phẩm không thỏa mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ thuật của sản xuất. Sản phẩm hỏng có thể được chia thành hai loại: ĩSản phẩm hỏng có thể sửa chữa được: là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế. ĩSản phẩm hỏng không thể sửa chữa được: là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật là không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng việc sửa chữa đó không có lợi về mặt kinh tế. Cả hai loại sản phẩm nói trên lại được chi tiết thành: sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Những sản phẩm hỏng trong định mức là những sản phẩm hỏng nằm trong dự kiến của doanh nghiệp. Chi phí cho các sản phẩm này được coi là chi phí sản xuất chính phẩm. Sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm hỏng nằm ngoài dự kiến của doanh nghiệp, xảy ra do các nguyên nhân bất thường như hỏng máy, hoả hoạn....Các chi phí cho các sản phẩm hỏng ngoài định mức do xảy ra bất thường nên không được tính vào chi phí sản xuất chính phẩm mà thường được xem như một khoản phí tổn thời kỳ trừ vào thu nhập. Đối với các đơn vị khảo sát thiết kế, sản phẩm hỏng thường là các bản vẽ thiết kế công trình bị vẽ sai hoặc không có tính khả thi và chi phí thiệt hại phát sinh hầu hết là chi phí nhân công trực tiếp. Các sản phẩm hỏng này là những sản phẩm không thể sửa chữa được. Phương pháp hạch toán (Sơ đồ 5): Sơ đồ 5: Sơ đồ hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng. TK 152, 153,334 TK 138, 142 TK 138, 152,334 Chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng Giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được Giá trị phế liệu thu hồi và các khoản bồi thường TK 627 Giá trị thiệt hại tính vào giá thành TK 811, 415 Giá trị thiệt hại ngoài định mức TK 154 Hạch toán thiệt hại về ngừng sản xuất: Trong thời gian ngừng sản xuất, vì những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan, các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một sô khoản chi phí để duy trì hoạt động như: tiền công lao động, khấu hao tài sản cố định, chi phí bảo dưỡng..... Những khoản chi phí này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất. Đối với trường hợp ngừng sản xuất theo kế hoạch, kế toán theo dõi thiệt hại trên tài khoản 335-chi phí phải trả. Trường hợp ngừng sản xuất bất thường do không được chấp nhận nên phải theo dõi riêng trên tài khoản 142-chi phí trích trước. Cuối kỳ, sau khi trừ phần thu hồi, giá trị thiệt hại thực tế sẽ trừ vào thu nhập như các khoản chi phí thời kỳ. Phương pháp hạch toán (Sơ đồ 6): Sơ đồ 6: Sơ đồ hạch toán thiệt hại về ngừng sản xuất. TK 152, 153,334, 214, 111 ... TK 335 TK 622, 627, 641, 642 Chi phí ngừng sản xuất trong kế hoạch Chi phí ngừng sản xuất theo kế hoạch Trích trứơc chi phí ngừng sản xuất theo kế hoạch TK 138, 152,334 Giá trị bồi thường, thu hồi TK 415,811 Thiệt hại thực tế TK 142 Tổng hợp chi phí sản xuất kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang: Tổng hợp chi phí sản xuất: Sau khi đã tập hợp đầy đủ chi phí phát sinh trong kỳ, kế toán căn cứ vào đối tượng hạch toán chi phí và phương pháp hạch toán chi phí đã được xác định tương ứng. Cuối kỳ kế toán kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung cho từng công trình. Để tổng hợp chi phí sản xuất, kế toán sử dụng tài khoản 154-chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Tài khoản 154 được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh hay từng loại sản phẩm..... Kết cấu và nội dung tài khoản 154 như sau: Bên Nợ: Tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung) Bên Có: ĩCác khoản ghi giảm chi phí sản xuất ĩTổng giá thành sản xuất thực tế của sản phẩm, lao vụ,dịch vụ đã hoàn thành Dư Nợ : Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang, chưa hoàn thành. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất (Sơ đồ 7) Sơ đồ 7: Sơ đồ hạch toán chi phí sản phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên. TK 621 TK 154 TK 152, 111... Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp TK 622 Chi phí nhân công trực tiếp TK 627 Chi phí sản xuất chung Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm TK 155, 152 TK 157 TK 632 Tổng giá thành thực tế Nhập kho Gửi bán Tiêu thụ thẳng Dck: xxx D đk:xxx Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang: Sản phẩm dở dang là khối lượng sản phẩm, công việc còn đang trong quá trình sản xuất, chế biến. Sản phẩm dở dang trong khảo sát thiết kế được xác định bằng phương pháp kiểm kê hàng tháng. Việc tính và đánh giá sản phẩm dở dang trong khảo sát thiết kế phụ thuộc vào phương thức thanh toán khối lượng công việc khảo sát thiết kế hoàn thành giữa người nhận thầu và người giao thầu. ĩNếu quy định thanh toán sản phẩm khảo sát thiết kế sau khi hoàn thành toàn bộ thì sản phẩm dở dang là tổng số chi phí phát sinh từ khi khởi công đến thời điểm đánh giá khi công trình hoặc hạng mục công trình được hoàn thành bàn giao thanh toán thì toàn bộ chi phí phát sinh sẽ được tính vào giá thành sản phẩm. ĩNếu quy định thanh toán sản phẩm khảo sát thiết kế hoàn thành theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý thì sản phẩm dở dang là khối lượng khảo sát thiết kế chưa đạt tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy định và được đánh giá theo chi phí thực tế trên cơ sở phân bổ chi phí thực tế của hạng mục công trình đó cho các giai đoạn, tổ hợp công việc đã hoàn thành và giai đoạn dở dang theo dự toán. Chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ = Chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ x Giá dự toán của khối lượng dở dang cuối kỳ Giá dự toán của khối lượng khảo sát thiết kế hoàn thành + Giá dự toán của các khối lượng dở dang cuối kỳ Thông thường ở các đơn vị khảo sát thiết kế thường áp dụng phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trực tiếp cho các đối tượng tính giá thành, các chi phí liên quan tới nhiều đối tượng hạch toán thì được phân bổ theo tỷ lệ sản lượng thực hiện trong kỳ. Vì thế, phương pháp tính giá trị sản phẩm dở dang thường được sử dụng là phương pháp trực tiếp. Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ: Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp phản ánh không thường xuyên các nghiệp vụ phát sinh đặc biệt là sự biến động các loại hàng hoá tồn kho, phương pháp này cho phép kế toán ghi chép định kỳ chứ không phải ghi sổ hàng ngày. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Do đặc điểm của phương pháp kiểm kê định kỳ nên chi phí vật liệu xuất dùng rất khó phân định được là xuất dùng cho mục đích sản xuất, quản lý hay cho tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm, kế toán cần theo dõi chi tiết các chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng (phân xưởng, bộ phận sản xuất .....) hoặc dựa vào mục đích sử dụng hay tỷ lệ định mức để phân bổ vật liệu xuất dùng cho từng mục đích. Để phản ánh các chi phí vật liệu đã xuất dùng cho sản xuất sản phẩm, kế toán sử dụng tài khoản 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Các chi phí được phản ánh trên tài khoản 621 không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu mà được ghi một lần vào cuối kỳ hạch toán, sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu tồn kho và đang đi đường. Kết cấu và nội dung của tài khoản 622 như sau: Bên Nợ: Giá trị NVL đã xuất dùng cho các hoạt động SXKD trong kỳ. Bên Có: Kết chuyển chi phí NVL vào bên Nợ tài khoản 621 – giá thành sản xuất sản phẩm . Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư. Phương pháp hạch toán: ĩTrị giá nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp để chế tạo sản phẩm: Nợ TK 621 (chi tiết theo từng đối tượng) Có TK 611 (6111): (Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng) ĩCuối kỳ kết chuyển chi phí nguyên vật liệu vào giá thành sản xuất sản phẩm Nợ TK 631 (giá thành sản xuất sản phẩm) Có TK 621 (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp) Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp: Về chi phí nhân công trực tiếp, tài khoản sử dụng và cách tập hợp chi phí trong kỳ giống như phương pháp kê khai thường xuyên. Cuối kỳ, để tính giá thành sản phẩm, lao vụ... kế toán kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản 631 – Giá thành sản xuất sản phẩm. Nợ TK 631 (giá thành sản xuất sản phẩm) Có TK 622 (chi phí nhân công trực tiếp) Hạch toán chi phí sản xuất chung: Toàn bộ chi phí sản xuất chung được tập hợp vào tài khoản 627 – Chi phí sản xuất chung và được ghi theo các tiểu khoản tương ứng và tương tự như với doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên. Sau đó được phân bổ vào tài khoản 631 – Giá thành sản xuất sản phẩm, được ghi chi tiết theo từng đối tượng để tính giá thành. Nợ TK 631 (giá thành sản xuất sản phẩm) Có TK 627 (Chi phí sản xuất chung) Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang: Tài khoản sử dụng: Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, để tập hợp chi phí sản xuất, kế toán sử dụng tài khoản 631 – Giá thành sản xuất. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng hạch toán. Kết cấu và nội dung của tài khoản 631 như sau: Bên Nợ: ĩPhản ánh chi phí sản xuất kinh doanh dở dang đầu kỳ được kết chuyển sang từ tài khoản 154 – Chi phí SXKD dở dang ĩTổng hợp chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ . Bên Có: ĩPhản ánh chi phí sản xuất kinh doanh dở dang cuối kỳ kết chuyển sang tài khoản 154 – Chi phí SXKD dở dang. ĩPhản ánh giá thành lao vụ sản phẩm hoàn thành. Tài khoản 631 cuối kỳ không có số dư. Phương pháp hạch toán: Quy trình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ (Sơ đồ 8). Sơ đồ 8: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ. TK 154 TK 631 Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ TK 632 TK 611 TK 621 TK 334, 338 TK 622 TK 214, 111,112,611 TK 627 Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp Kết chuyển chi phí sản xuất chung Giá thành các sản phẩm hoàn thành trong kỳ Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng chế tạo sản phẩm Chi phí nhân công trực tiếp phát sinh trong kỳ Chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ Kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang: Việc kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang cũng được tiến hành tương tự như phương pháp kê khai thường xuyên. Trong ngành khảo sát thiết kế nói riêng thì sản phẩm dở dang là những sản phẩm còn chưa hoàn thành giai đoạn khảo sát thiết kế hay những sản phẩm chưa được nghiệm thu.Do vậy, việc đánh giá sản phẩm dở dang một cách hợp lý sẽ giúp cho công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế được chính xác, từ đó cung cấp thông tin cần thiết,kịp thời cho nhà quản trị. Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất Khái quát chung về Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty thiết kế Công nghiệp Hoá chất: Công ty thiết kế Công nghiệp Hoá chất là một doanh nghiệp Nhà nước, thuộc Tổng công ty Hoá chất Việt Nam, tiền thân là Viện thiết kế Hoá chất thuộc Bộ công nghiệp nặng, được thành lập ngày 29/5/1967 theo quyết định số 1775/CNNg của Bộ công nghiệp. Trong những năm qua doanh nghiệp luôn là một đơn vị dẫn đầu trong việc thiết kế công trình Hoá chất, có uy tín rộng rãi với các đơn vị bạn hàng và các tổ chức kinh tế trong cả nước. Năm 1973, để phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ được giao của Nhà nước, Viện thiết kế Hoá chất được cho phép thành lập Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất theo quyết số 789/HC-QLKT ngày 2/6/1973 của Tổng cục Hoá chất trên cơ sở sáp nhập bộ phận thiết kế xây dựng cơ khí của viện thiết kế hoá chất và bộ phận thiết kế của Viện hoá học Công nghiệp gồm các bộ môn: Thiết kế công nghiệp hoá chất, Thiết kế cơ khí, cơ giới hoá lắp đặt, thiết kế năng lượng, thiết kế xây dựng. Năm 1978, để thuận tiện cho công tác quản lý và tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ phát huy hết khả năng chuyên môn của mình trong việc độc lập thiết kế các công trình sản xuất với quy mô vừa và nhỏ trong phạm vi cả nước cũng như thực hiện một số đề tài nghiên cứu. Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 112/HĐBT ngày 22/5/1978. Năm 1993, ngày 17/6 Viện đăng ký trở thành doanh nghiệp Nhà nước theo quyết định số 338/CNNg của Bộ Công nghiệp nặng và đổi tên trở lại là Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất theo quyết định số 370 QĐ/TCNSĐT của Tổ chức Ngân sách Đầu tư. Tên giao dịch của công ty là: Chemical Engineering Corporation (CECO). Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất có trụ sở chính tại 21A Cát Linh Hà Nội, điện thoại: 04.8436141, 04.845577. Sự chuyển đổi hoạt động được thực hiện theo Nghị định 388/ HĐBT của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ). Hiện nay, Công ty Thiết kế Công ._.như sau: Về công tác luân chuyển chứng từ: Công tác thu nhận chứng từ chưa kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin nhanh cho việc ra quyết định. Các chứng từ thu thập và gửi về Phòng tài chinh – kế toán tuy đầy đủ nhưng được gửi về muộn do đến khi kết thúc công trình các chi nhánh, các phòng ban mới gửi về Công ty. Điều này dẫn đến chi phí phát sinh trong tháng không được phản ánh đầy đủ và đúng kỳ tại Công ty, đặc biẹt với các công trình có thời gian thi công kéo dài, xa rtụ sở của Công ty. Mặt khác chế độ kê khai thuế giá trị gia tăng quy định: Đối với chứng từ hàng hoá dịch vụ mua vào nếu quá hạn ba tháng kể từ ngày xuất hoá đơn mà đơn vị cơ sở không kê khai thuế thi không được kấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Vì vậy, nếu chứng từ hoá đơn không được thu nhận, xử lý kịp thời thì đơn vị sẽ không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Về hệ thống tài khoản: Hiện nay, Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất không sử dụng các tài khoản 621- chi phí nguyên vật liệu trực tiếp , tài khoản 622- chi phí nhân công trực tiếp, tài khoản 627- chi phí sản xuất chung để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mà chỉ sử dụng một tài khoản 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang để tập hợp và tính giá thành sản phẩm . Do vậy, công tác kế toán nói chung và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tính chính xác trong giá thành sản phẩm cũng như việc cung cấp thông tin đầy đủ cho Ban giám đốc. Về sổ sách kế toán: Trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Công ty chưa mở các Sổ chi tiết cũng như Sổ cái các tài khoản 621, 622, 627 mà chỉ mở sổ chi tiết và Sổ cái tài khoản 154 – chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Do vậy không phản ánh được chi tiết từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo từng đối tượng kế toán riêng biệt mà trên sổ tổng hợp chưa thực hiện được. Về công tác quản lý: Trên thực tế công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty gặp rất nhiều khó khăn do hoạt động của xâ dựng cơ bản có những đặc điểm riêng như địa bàn phát sinh chi phí ở nhiều nơi khác nhau nên việc kiểm tra, theo dõi các khoản chi phí thực sự phát sinh trong quá trình thi công được không tiến hành thường xuyên. Do đó tình trạng chi phí ở các chi nhánh, phòng ban cao hơn thực tế. Về tổ chức kế toán quản trị: Công ty chưa tổ chức kế toán quản trị, các báo cáo kế toán mới được lập theo yêu cầu của quản lý. Phòng kế toán chưa thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Giám đốc, phục vụ việc hoàn thiện tổ chức sản xuất và kinh doanh của Công ty. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất: Nhằm nâng cao hiệu quả công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế, Công ty cần phát huy các ưu điểm đã có và tìm cách khắc phục các nhược điểm hiện tại. Mặc dù khả năng nhìn nhận đánh giá còn hạn chế song em cũng mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất như sau: Giải pháp 1: Hoàn thiện quy trình luân chuyển chứng từ kế toán: Các chứng từ gốc khi phát sinh theo quy định phải được chuyển ngay về Phòng kế toán – tài chính để tổng hợp, kê khai thuế hàng tháng và hạch toán chi phí sản xuất để tính giá thành sản phẩm. Song do các công trình xa trụ sở của Công ty nên chứng từ gốc được chuyển về chưa kịp thời mà thường để vào thời gian khi kết thúc công trình. Vì thế việc theo dõi chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào đôi khi còn khó khăn cho công tác kế toán. Do vậy, chi phí phát sinh trong tháng không được hạch toán đầy đủ và đúng kỳ, chi phí phát sinh tháng này nhưng chỉ được Công ty ghi sổ khi kết thúc công trình. Hơn nữa, điều này không đáp ứng được tính kịp thời trong việc kê khai khấu trừ thuế. Nhằm phục vụ cho công tác tổng hợp, kê khai thuế hàng tháng và để kịp thời cập nhật chứng từ và ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán phải quy định ngày nộp chứng từ cụ thể của các chi nhánh, các phòng ban lên Công ty, đảm bảo được tiến độ ghi chép và hạch toán. Mặt khác, kế toán cần ghi chép định kỳ ngắn hơn (có thể là hàng tháng) để công tác kế toán đỡ tập trung vào cuối kỳ. Hàng ngày, căn cứ vào các hóa đơn, chứng từ phát sinh tại các Phòng ban, các Trưởng phòng phải tổng hợp số liệu của từng công trình theo từng tháng. Cuối tháng hoặc ngày đầu tháng sau, Trưởng phòng phải gửi toàn bộ hóa đơn, chứng từ phát sinh trong tháng của từng công trình theo tháng về Phòng kế toán – tài chính của Công ty để kế toán Công ty tiến hành hạch toán chi phí sản xuất phát sinh trong tháng và tiến hành kê khai khấu trừ thuế. Tại Phòng kế toán – tài chính Công ty, kế toán Công ty sẽ kiểm tra lại tính hợp lý, hợp pháp, hợp lệ của chứng từ. Sau đó, căn cứ vào Bảng tổng hợp chi phí hàng tháng để lập chứng từ ghi sổ rồi ghi vào Sổ cái các tài khoản có liên quan. Ngoài ra cần quản lý chặt chẽ tiến độ thi công, kết hợp với việc theo dõi chứng từ xem có đầy đủ, hợp lý, hợp lệ hay không. Biện pháp này giúp Công ty tránh được tình trạng công việc dồn vào những tháng khi có công trình hoàn thành bàn giao, dãn đến việc hạch toán nhiều khi không chính xác, ảnh hưởng đến việc cung cấp thông tin cho việc ra quyết định. Giải pháp 2: Hoàn thiện việc vận dụng hệ thống tài khoản kế toán: Hiện nay, để thuận tiện cho công tác hạch toán, công ty đang sử dụng tài khoản 154-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang để đồng thời tập hợp chi phí và tính giá thành trực tiếp. Đồng thời, tài khoản 154 chỉ dùng để theo dõi giá trị sản phẩm dở dang của các công trình cuối kỳ hạch toán chứ không dùng để phản ánh giá thành công trình khảo sát thiết kế. Vì vậy để đảm bảo nguyên tắc dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, theo em Công ty nên thực hiện theo đúng quy định của Bộ tài chính về tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Công ty nên sử dụng các tài khoản tập hợp chi phí theo đúng quy định của Bộ tài chính nhằm tránh tình trạng chồng chéo, sai sót, bao gồm các tài khoản: 621 – chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, tài khoản 622 – chi phí nhân công trực tiếp, 627 – chi phí sản xuất chung. Mặt khác, để có thể theo dõi được chính xác giá thành của từng công trình hoàn thành và dở dang cuối kỳ, kế toán nên sử dụng thêm tài khoản 631 – giá thành công trình để tính giá thành theo phương pháp kiểm kê định kỳ. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng công trình qua các tài khoản cấp 2. Khi đó trình tự hạch toán như sau: (Sơ đồ 14) TK 621 TK 631 TK 632 TK 911 TK 622 TK 627 TK 154 KC chi phí NVLTT KC giá vốn công trình hoàn thành KC giá trị công trình bàn giao trong kỳ KC chi phí NCTT KC chi phí SXC KC giá trị SP DD cuối kỳ KC giá trị SPDD đầu kỳ Sơ đồ14: Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ. Giải pháp 3: Hoàn thiện sổ sách kế toán: Về sổ sách kế toán, cùng với việc mở thêm các tài khoản 621, 622, 627, 631, 632 kế toán phải tiến hành lập các Sổ chi tiết và Sổ cái các tài khoản này. Sổ chi tiết là sổ dùng để phản ánh chi tiết từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo từng đối tượng kế toán riêng biệt mà trên sổ tổng hợp chưa thực hiện được. Sổ liệu trên sổ kế toán chi tiết dùng để phản ánh tình hình tài sản, vật tư, tiền vốn, tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty. Việc phân loại rõ ràng, đúng đắn, tình toán đầy đủ, chính xác từng loại chi phí trong các Sổ chi tiết TK 621, 622, 627 có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin chi tiết, chính xác cho nhà quản trị. Nếu Sổ chi tiết được tổ chức ghi chép đầy đủ, chính xác thì việc quản lý theo dõi các chi phí phát sinh tại mỗi công trình rất thuận tiện, có thể phát hiện các khoản chi sai, chưa hợp lý. Từ đó có biện pháp để tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời để phục vụ tốt cho công tác thông tin và kiểm tra kế toán, Công ty nên in ra hệ thống sổ để tiện cho việc kiểm tra đối chiếu. Mẫu Sổ chi tiết và Sổ cái các tài khoản 621, 622, 627 sẽ được trình bày ở phần sau. Giải pháp 4: Hoàn thiện phương pháp hạch toán hàng tồn kho: Tại công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất, chi phí nguyên vật liệu như vật tư, văn phòng phẩm chiếm tỷ lệ nhỏ và thường mua về sử dụng ngay do đó kế toán cũng không đưa qua tài khoản 152 – nguyên vật liệu, tài khoản 153 – công cụ dụng cụ. Tuy nhiên, cách hạch toán trên là quá tắt, không phản ánh được sự tồn tại và phát sinh của các loại vật tư vì từ Bên Có của các tài khoản 111 – Tiền mặt, tài khoản 112 – Tiền gửi ngân hàng, tài khoản 331 – Phải trả người bán, được kết chuyển luôn sang tài khoản 154 – Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Chính vì vậy, theo em để phù hợp với chế độ kế toán, theo em công ty nên sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ để hạch toán hàng tồn kho và sử dụng tài khoản 611 – Mua hàng để theo dõi đầy đủ các nghiệp vụ về mua vật liệu và xuất vật tư cho các Phòng ban. Trình tự hạch toán như sau (Sơ đồ 15). Sơ đồ 15: Sơ đồ hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ. TK 152, 153 TK 611 TK 631 TK 111, 112, 331 TK 621 K/c giá trị vật tư tồn đầu kỳ Giá trị vật tư dùng trong kỳ K/c giá trị vật tư vào giá thành Mua vật tư trong kỳ TK 133 Thuế GTGT KC vật tư tồn cuối kỳ Ngoài ra, để theo dõi được các vật tư mua vào và xuất cho các phòng ban, Công ty cũng nên mở các Sổ danh điểm vật tư (Mẫu số 32), Sổ chi tiết vật tư (Mẫu số 33) cho vật liệu Mẫu số 32: Sổ danh điểm vật tư Quý 4/2003 STT Danh điểm vật tư Đơn vị tính Số lượng Nhà cung cấp ... ... ... ... ... Người lập: (Ký, họ và tên) Mẫu số 33: Sổ chi tiết vật tư Quý 4/2003 STT Chứng từ Tên vật tư Đơn vị tính Số lượng Đơn giá (đồng) Thành tiền (đồng) Số hiệu Ngày, tháng Tổng cộng xxx Người lập: (Ký, họ và tên) Giải pháp 5: Hoàn thiện kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Đối với khoản chi phí nguyên vât liệu, văn phòng phẩm: Mặc dù đây là khoản chi phí chiếm tỷ lệ không đáng kể trong toàn bộ chi phí sản xuất. Nhưng đối với những công trình lớn thì khoản chi phí này cũng không còn là nhỏ, cho nên không vì thế mà không quan tâm đến việc sử dụng lãng phí hay tiết kiệm. Hiện tại ở Công ty các khoản chi phí này do các bộ phận tự kê, tự mua, chưa có người quản lý giám sát. Bên cạnh đó, đối với khâu xuất bản của Công ty hiện nay chưa có định mức cụ thể. Vậy theo em để có thể đánh giá đúng đắn việc quản lý và sử dụng nguyên vật liệu, nâng cao trách nhiệm đối với bộ phận sử dụng để tránh tình trạng sử dụng lãng phí, thiếu trung thực trong việc thu mua sử dụng thì Công ty nên bố trí người phụ trách vấn đề này, việc thu mua và quản lý vật tư cần được thông về một mối, đồng thời Công ty cũng nên xây dựng định mức cụ thể cho bộ phận xuất bản. Hiện nay tại Công ty kế toán sử dụng tài khoản 154 – chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, để hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp điều này không hợp lý. Vậy để hạch toán chính xác chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cũng như xác định giá thành sản phẩm, theo em Công ty nên sử dụng tài khoản 622 – chi phí NVLTT để hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp sẽ không bao gồm chi phí về công cụ dụng cụ. Yếu tố này sẽ đựơc đưa vào tài khoản 6273 – Chi phí dụng cụ sản xuất và phân bổ theo tiêu thức thích hợp. Cách hạch toán như sau: Dựa vào các hoá đơn như hoá đơn GTGT... và các chứng từ về vật tư có liên quan như Phiếu yêu cầu mua vật tư..., kế toán lập Bảng kê chi tiết xuất vật tư (Mẫu số 34) vào cuối tháng. Mẫu số 34: Bảng kê chi tiết xuất vật tư Tháng12/2003 Chứng từ Nội dung Số phát sinh Số hiệu tài khoản Số hiệu Ngày, tháng Nợ Có Tổng cộng xxx Người lập: (ký, họ và tên) Cuối quý, kế toán vật tư sẽ dựa trên Bảng kê chi tiết xuất vật tư hàng tháng (Mẫu số 34) để lập Bảng tổng hợp xuất vật tư (Mẫu số 35) Mẫu số 35: Bảng tổng hợp xuất vật tư Quý 4/2003 (Đơn vị tính: Đồng) Diễn giải Số phát sinh Ghi Nợ TK 621, ghi có các TK Tổng cộng xxx Người lập: (ký, họ và tên) Căn cứ vào bảng kê chi tiết xuất vật tư kế toán sẽ lập Sổ chi tiết tài khoản 621 (Mẫu số 36) Mẫu số 36: Sổ chi tiết TK 621 – chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Quý 4/2003 Công trình: Cải tạo nhà hội trường (Đơn vị tính: Đồng) Ngày, tháng ghi sổ Chứng từ Diễn giải TK đối ứng Số tiền Số hiệu Ngày, tháng Nợ Có Tổng cộng xxx Người lập: (ký, họ và tên) Kế toán trưởng: (ký, họ và tên) Từ bảng tổng hợp, kế toán lập Chứng từ ghi sổ về chi vật tư trong quý và từ đó vào Sổ cái tài khoản 621 (Mẫu số 37) nguyên vật liệu trực tiếp để hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Mẫu sổ 37: Sổ cái TK 621 – chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Quý 4/2003 Công trình: Cải tạo nhà hội trường (Đơn vị tính: Đồng) Chứng từ Diễn giải TK đối ứng Số phát sinh Số hiệu Ngày, tháng Nợ Có Số dư đầu kỳ ....... Cộng năm Người lập: (ký, họ và tên) Kế toán trưởng: (ký, họ và tên) Giải pháp 6: Hoàn thiện cách hạch toán đúng và đủ chi phí: Do đặc thù của sản phẩm và phương thức tiêu thụ sản phẩm nên giá thành sản phẩm không thể hiện tính chất hàng hóa nhiều. Đây là nguyên nhân Công ty ít chú trọng đến khía cạnh phân tích, đánh giá sản phẩm. Thực tế ở Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất, có những chi phí phát sinh tại các phòng ban trực tiếp khảo sát thiết kế nhưng lại không được tính và phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh dở dang mà kế toán lại đưa vào chi phí quản lý doanh nghiệp như các chi phí dịch vụ mua ngoài, điện, điện nước, điện thoại. Các chi phí văn phòng phẩm như giấy A3, A4, bút, mực sử dụng để vẽ các bản thiết kế không được phân bổ cho các công trình mà được tính vào chi phí quản lý doanh nghiệp. Phản ánh không đày đủ chi phí thì khi phân tích cơ cấu chi phí trong tổng chi phí cũng như việc đánh giá mức độ tiết kiệm chi phí so với kế hoạch, dự toán là không chính xác. Do đó, theo em Công ty nên sử dụng phương pháp phân bổ cho thích hợp để đảm bảo nguyên tắc tính đúng, đủ trong giá thành. Tiêu thức phân bổ có thể theo định mức chung về chi phí sản xuất chung và xhi phí quản lý doanh nghiệp. Tại đơn vị cũng có thể phân chia chi phí sản xuất chung và chi phí quản lý doanh nghiệp theo tỷ lệ 85% và 15% như phân bổ chi phí khấu hao TSCĐ. Khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp quý 4/2003 của Công ty gồm: Chỉ tiêu Số tiền (đồng) 1. Tiền lương cán bộ quản lý 163.258.647 2. Trích BHXH 40.814.662 3. Chi phí văn phòng phẩm, CCDC 10.236.589 4.Chi phí khấu hao TSCĐ 11.236.640 5.Chi phí dịch vụ mua ngoài 13.258.759 6. Chi phí bằng tiền khác 10.698.342 Tổng cộng 249.503.639 Như vậy, trong số 10.236.589 đồng chi phí văn phòng phẩm, công cụ dụng cụ và 13.258.759 đồng chi phí dịch vụ mua ngoài bao gồm cả các chi phí được phép tính vào giá thành sản phẩm. Kế toán có thê phân bổ như sau: Chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho quản lý:(TK 6425) 13.258.759 đồng x 15% =1.988.814 đồng Chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho sản xuất kinh doanh: (TK 6275) 13.258.759 đồng x 85% = 11.269.945 đồng Vậy chi phí dịch vụ mua ngoài phân bổ cho công trình Cải tạo nhà hội trường được tính như sau: 11.269.945 đồng x 260.756.250 đồng = 288.599 đồng 10.182.648.000 đồng Chi phí nguyên vật liệu và công cu dụng cụ hiện nay chưa tách biệt nhưng kế toán phải tập hợp riêng hai loại chi phí này sau đó phân bổ vào giá thành công trình và vào chi phí quản lý doanh nghiệp cho thích hợp. Giải pháp 7: Hoàn thiện hạch toán chi phí nhân công và các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ): Đối với Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất, mặc dù hoạt độngkhảo sát mang tính đặc thù xây lắp, song có một điểm khác biệt đó là: quá trình xây lắp là quá trình thi công còn quá trình thi công là quá trình khảo sát chỉ là quá trình thăm dò thực tế để phục vụ cho thiết kế công trình. Vì vậy khi thực hiện sẽ không phát sinh tiền lương phụ, việc hạch toán lương được thực hiện tập trung và theo dõi ở Công ty, các kỹ sư không chỉ khảo sát mà còn thực hiệncả thiết kế tại Công ty sau khi khảo sát thực địa. Hơn nữa do đặc thù của Công ty mang tính dịch vụ, do đó việc hạch toán các khoản trích theo lương nên hạch toán trên tài khoản 622- chi phí nhân công trực tiếp để có thể theo dõi tập trung các khoản trích này mà không cần hạch toán vào chi phí sản xuất chung như cách đơn vị đang hạch toán. Chi phí tiền lương được tập hợp lương chính, lương phụ của toàn bộ công việc rồi mới phân bổ. Do dó mà Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội của Công ty được lập theo quý và không theo đúngmẫu quy định của Bộ tài chính, nhưng thực tế Công ty có khả năng lập Bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương theo đúng quy định của Bộ tài chính nhẵm đảm bảo yêu cầu rõ ràng, dễ hiểu. Như vậy, theo em kế toán thay vì lập Bảng phân bổ tiền lương sẽ lập “Bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương” có mẫu như sau: Mẫu số 38: Bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương Quý 4/2003 Công trình: Cải tạo nhà hội trường (Đơn vị tính: Đồng) Stt Ghi Có TK Ghi Nợ TK TK 334- phải trả CNV TK 338 – Phải trả , phải nộp khác Lương chính Lương phụ Các khoản khác Cộng Có TK 334 KPCĐ (3382) BHXH (3383) BHYT (3384) Công Có TK 338 01 TK 622(Phòng xây dựng) 02 TK 642(Phòng tài chính-kế toán) ... ... ... ... ... ... ... ... ... Tổng cộng xxx xxx Người lập: (ký, họ và tên) Kế toán trưởng: (ký, họ và tên) Đồng thời chi phí nhân công trực tiếp công trình “Cải tạo nhà hội trường” bao gồm: _Chi phí nhân công: gồm cán bộ công nhân viên và lương thợ thuê ngoài _Các khoản trích theo lương: gồm BHXH, BHYT, KPCĐ Cũng tương tự như chi phí NVL trực tiếp, kế toán Công ty cũng nên mở Sổ chi tiết và Sổ cái TK 622 – chi phí nhân công trực tiếp để theo dõi và tập hợp các chi phí về nhân công. Giải pháp 8: Hoàn thiện hạch toán chi phí trực tiếp khác: Vì khoản chi phí này chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế. Vì thế việc hạch toán phù hợp là điều kiện quan trọng để hạch toán đúng chi phí. Tuy nhiên, theo chế độ kế toán hiện hành trong các khoản mục chi phí không có khoản mục “chi phí trực tiếp khác”. Do đó, theo em Công ty nên chuyển các chi phí này sang tài khoản 627- chi phí sản xuất chung và để đảm bảo yêu cầu hạch toán. Công ty có thể chi tiết tài khoản 627 thành các tài khoản cấp hai, cấp ba theo từng yếu tố chi phí cũng như theo từng công trình, hạng mục công trình. Việc hạch toán sẽ được trình bày ở phần tiếp theo. Giải pháp 9: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất chung: Hiện nay cũng giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, Công ty chưa mở TK 627- chi phí sản xuất chung để hạch toán.Theo cách phân loại của Công ty thì khoản mục chi phí sản xuất chung bao gồm hai yếu tố là các khoản trích theo lương và chi phí khấu hao TSCĐ dùng cho công tác khảo sát thiết kế. Các chi phí khác được tính vào khoản mục chi phí trực tiếp khác phát sinh trong quý. Cho nên, theo em để phù hợp với quy định của kế toán hiện hành Công ty nên đưa các chi phí trực tiếp khác phát sinh cho từng công trình vào khoản mục chi phí sản xuất chung. Và để phù hợp với yêu cầu quản lý, TK 627 nên chia thành các tài khoản cấp hai như sau: _TK 6271: chi phí nhân viên phân xưởng _TK 6272: chi phí nguyên vật liệu _TK 6273: chi phí dụng cụ sản xuất _TK 6274: ci phí khấu hao TSCĐ _TK 6275: chi phí dịch vụ mua ngoài _TK 6278: chi phí bằng tiền khác Mặt khác, do các khoản chi phí bằng tièn khác như: công tác phí, chi phí chia thầu, chi phí môi giới dẫn việc, chi phí xuất bản tài liệu chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành vì vậy, để dễ dàng quản lý các chi phí này, kế toán có thể mở chi tiết các tài khoản cấp ba như sau: _ TK 62781: Công tác phí _ TK 62782: Chi phí chia thầu _ TK 62783: Chi phí môi giới _ TK 62784: Chi phí xuất bản tài liệu _ TK 62788: Chi phí bằng tiền khác Để hạch toán khoản mục chi phí sản xuất chung, kế toán sẽ tập hợp các chứng từ có liên quan, trên cơ sở đó lập các Bảng tổng hợp chi tiết và bảng tính phân bổ khấu hao TSCĐ, từ đó vào Sổ chi tiết và Sổ cái TK 627 tương tự như TK 621. Mẫu số 39: Sổ chi tiết TK 627: Chi phí sản xuất chung Quý 4/2003 (Đơn vị tính: Đồng) Chứng từ ghi sổ Diễn giải Tai khoản đối ứng Ghi Nợ tài khoản 627 Ghi Có tài khoản 627 Số hiệu Ngày tháng Tổng Nợ 6273 6274 6275 6278 Người lập: (ký, họ và tên) Kế toán trưởng: (ký, họ và tên) Trong quá trình tính toán và phân bổ khấu hao để rõ ràng và thuận tiện cho việc hạch toán, kế toán nên sử dụng “Bảng tính và phân bổ khấu hao” (Mẫu số 39) theo mẫu của Bộ tài chính như sau: Mẫu số 39: Bảng tính và phân bổ khấu hao Quý 4/2003 Công trình: Cải tạo nhà hội trường (Đơn vị tính: Đồng) Stt Chỉ tiêu Thời gian sử dụng Nội dung Toàn DN TK 627- chi phí sản xuất chung TK 642- chi phí quản lý DN Nguyên giá TSCĐ Số khấu hao Phòng...… Phòng...… ... 01 I. Số khấu hao đã trích tháng trước 02 II. Số khấu hao TSCĐ tăng tháng này 03 ... III. Số khấu hao giảm tháng này Người lập: (ký, họ và tên) Kế toán trưởng: (ký, họ và tên) Giải pháp 10: Hoàn thiện tổng hợp chi phí sản xuất tại Công ty: Để tổng hợp chi phí, khi vào sổ chi tiết và sổ cái TK 621, 622, 627 đến cuối kỳ khi các công trình thực hiện xong quyết toán để lập báo cáo chung và giải trình cuối quý, cuối năm, kế toán Công ty nên sử dụng các số liệu trên Bảng tổng hợp chi phí riêng cho từng công trình để tiện cho việc phân tích chi phí theo mẫu sau (Mẫu số 40): Mẫu số 40 : Bảng tổng hợp chi phí cho các công trình hoàn thành Quý 4/2003 (Đơn vị tính: Đồng) Tên công trình CPNVLTT CPNCTT CP dụng cụ SX CP KH TSCĐ Công tác phí CP chia thầu CPHH môi giới CPXB tài liệu CPDV ngoài khác CP bằng tiền khác Cộng Công trình cải tạo nhà hội trường ... ... ... ... ... ... .. ... ... ... 260.756.250 ... ... Tổng cộng Người lập: (ký, họ và tên) Kế toán trưởng: (ký, họ và tên) Giải pháp 11: Vận dụng máy vi tính trong công tác kế toán: Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay, nền sản xuất cũng không ngừng phát triển để đáp ứng những yêu cầu mới. Để có thể phát triển được sản xuất thì yêu cầu về thông tin là hết sức quan trọng. Yêu cầu của công tác quản lý về khối lượng và chất lượng thông tin hạch toán ngày càng tăng. Đặc biệt, công tác quản trị trong cơ chế thị trường cạnh tranh đòi hỏi phải tính toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chính xác, kịp thời để có thể đưa ra những quyết định nhanh nhạy, tạo được sự cạnh tranh trên thị trường. Tất cả những điều này khẳng định sự cần thiết phải áp dụng máy tính trong công tác kế toán nói chung và trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng. Sử dụng máy vi tính trong công tác kế toán sẽ giúp cho việc đưa ra những con số nhanh, chính xác, tự động hoá trong luân chuyển sổ sách giúp tránh được những nhầm lẫn, tiết kiệm, thời gian, việc lưu trữ thông tin trở nên nhẹ nhàng và thuận tiện hơn. Hiện nay, tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất, bộ phận kế toán được trang bị một máy vi tính nhưng kế toán sử dụng máy vi tính chủ yếu để đánh các văn bản hoặc lập các bảng biểu, các báo cáo chi tiết số dư tài khoản, để quản lý nhân viên, ứng dụng của máy vi tính trong công tác hạch toán chưa thực sự được khai thác và phát huy. Do vậy, toàn bộ công tác hạch toán vẫn được các nhân viên kế toán thực hiện thủ công bằng tay. Để có thể cải thiện công tác kế toán thủ công như hiện nay, theo em Công ty cần phải tổ chức ứng dụng máy vi tính trong công tác kế toán. Muốn vậy, trước hết Công ty phải tổ chức đào tạo đội ngũ nhân viên kế toán không những thành thạo về chuyên môn mà còn biết sử dụng thành thạo và phát huy các tính năng của máy tính. Bên cạnh đó, Công ty cũng có thể nghiên cứu áp dụng một phần mềm kế toán phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu cung cấp thông tin cho quản lý của doanh nghiệp. Nếu các công việc trên được Công ty lưu ý thực hiện thì với khối lượng nghiệp vụ như ngày nay, chỉ cần một máy vi tính và số nhân viên kế toán ít hơn hiện tại, mọi công việc kế toán vẫn được thực hiện một cách nhanh chóng mà vẫn đạt hiệu quả. Giải pháp 12: Hoàn thiện việc vận dụng công tác kế toán quản trị: Mỗi một doanh nghiệp, ngoài các thông tin kế toán phục vụ cho việc phản ánh các mối quan hệ với đối tượng bên ngoài còn phải có các thông tin kế toán phục vụ cho việc phản ánh các mối quan hệ bên trong của doanh nghiệp.Tại Công ty, các thông tin về kế toán đặc biệt là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành chưa phản ánh được điều này. Nhìn chung, công tác quản trị tại Công ty chưa được quan tâm đúng mức. Việc phân tích cụ thể chi phí theo khoản mục và theo yếu tố chưa được thực hiện, do đó sự đóng góp của công tác kế toán vào các mục tiêu quản lý chung của Công ty chưa hoàn toàn tương xứng với nhiệm vụ và trình độ của bộ máy kế toán. Công tác kế toán mới chỉ thiên về chức năng tài chính chứ chưa coi trọng việc lập báo cáo mang tính chất nội bộ. Để các thông tin về chi phí mang lại hiệu quả cao cho quá trình ra quyết định của lãnh đạo, hàng năm Công ty nên tiến hành phân tích giá thành. Sở dĩ như vậy là vì thông qua công tác phân tích giá thành Công ty có thể biết được những nhân tố nào ảnh hưởng tích cực đến giá thành sản phẩm. Đồng thời, thông qua đó cũng xem được các phòng thi công đã tiết kiệm hay lãng phí phần chi phí Công ty giao cho Phòng tự lo liệu. Qua đó có biện pháp khắc phục để giảm bớt các nhân tố tiêu cực, phát huy những nhân tố tích cực. Bảng phân tích giá thành: Mẫu số 41: Bảng phân tích giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế Quý 4/2003 (Đơn vị tính: Đồng) Stt Khoản mục chi phí Dự toán Thực tế Chênh lệch Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 01 Chi phí NVLTT 02 Chi phí NCTT 03 Chi phí SXC Tổng giá thành Người lập: (ký, họ và tên) Kế toán trưởng: (ký, họ và tên) Kết luận T rong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vô cùng gay go, quyết lịêt, yêu cầu đặt ra với mỗi doanh nghiệp là làm thế nào với một khối lượng nguyên vâth liệu và tiền vốn nhất định có thể tạo ra một sản phẩm có chất lượng cao nhất, đạt hiệu quả nhất. Để có được lợi nhuận phục vụ cho việc tái sản xuất mở rộng, mỗi doanh nghiệp phải hạ được giá thành sản phẩm của mình thấp hơn giá thành bình quân rên thị trường. Hạ được giá thành nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, độ thẩm mỹ cao. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khảo sát thiết kế cũng không nằm ngoài quy luật đó. Không những thế, yêu cầu về chất lượng và độ thẩm mỹ của sản phẩm còn khắt khe hơn. Để có được các thông tin cần thiết cho các quyết định đầu tư, cần tổ chức tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Một thực tế đặt ra là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải không ngừng được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước hiện nay. Việc kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đối với quá trình lĩnh hội kiến thức là rất quan trọng, đặc biệt là đối với sinh viên khoa kế toán. Chính vì vậy, sau thời gian nghiên cứu lý luận thì thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế của sinh viên là điều hết sức cần thiết. Qua đó, sinh viên sẽ tự bổ sung và hoàn thiện những kiến thức của mình cho phù hợp với thực tiễn. Đồng thời áp dụng nguyên tắc lý thuyết đã được học trong Nhà trường vào thực tế một cách linh hoạt hơn. Do trình độ lý luận, thời gian tìm hiểu thực tế tại doanh nghiệp có hạn nên trong quá trình nhận thức, nghiên cứu và trình bày đề tài không tránh khỏi những sai sót. Em kinh mong được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Khoa kế toán cùng tập thể Cán bộ kế toán trong Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Thạc sỹ Phạm Bích Chi và các Cán bộ kế toán Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo Stt Tên sách Tên tác giả Nhà xuất bản 01 Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính PTS Nguyễn Văn Công Nhà xuất bản Tài chính – Hà Nội 2001 02 Hệ thống kế toán doanh nghiệp xây lắp PTS Phùng Thị Đoan Nhà xuất bản Tài chính năm 2000 03 Hạch toán kế toán trong xây dựng Nguyễn Đăng Hạc Nguyễn Quốc Trân Nhà xuất bản xây dựng năm 2001 04 Kinh tế và kinh doanh xây dựng PTS Lê Công Hoan Trường DH Kinh tế quốc dân 05 Kinh tế quản trị kinh doanh xây dựng GS.TS Nguyễn Văn Chọn Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật Hà Nội – 1996 06 Tạp trí kế toán 07 Các chuyên đề thực tập tốt nghiệp năm 2002 Viện ĐH Mở HN 08 Một số tài liệu của Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất Mục lục Tên đề mục Trang Lời mở đầu 1 Phần 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các đơn vị khảo sát thiết kế. 1.1 Đặc điểm hoạt động khảo sát thiết kế tác động đến công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 2 1.2 Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm khảo sát thiết kế 4 1.3 Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 12 1.4 Hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên 16 1.5 Đặc điểm hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ: 26 Phần 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất 2.1 Khái quát chung về Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất 28 2.2 Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và bộ sổ kế toán tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất 36 2.3 Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất. 40 2.4 Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hóa chất Phần 3: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty thiết kế công nghiệp hoá chất 3.1 Đánh giá khái quát tình hình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất 73 3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Thiết kế Công nghiệp Hoá chất 76 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0201.doc
Tài liệu liên quan