Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp. ở Việt Nam,

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3442 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên ngay những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm đến ban hành pháp luật thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần đầu tiên được quy định trong chương "Điền sản" của Bộ luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước ta, các quy định này đã được ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên thực tế tại các Điều 19 Hiến pháp 1959 "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến pháp 1980 "Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến pháp 1992 "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân"... và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, sau đó Bộ luật Dân sự năm 2005 đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng. Bộ luật Dân sự 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá những quy định của pháp luật thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế một cách có hiệu quả nhất. Trong những năm qua dưới góc độ lý luận đã có một số công trình nghiên cứu về pháp luật thừa kế ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác. Tuy vậy cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống về thừa kế, nên lý luận về pháp luật thừa kế chưa trở thành "kim chỉ nam" cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế. Về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật thừa kế hiện hành vẫn chưa thể trù liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Còn một số quy định pháp luật thừa kế chung chung mang tính chất khung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng, lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Vì vậy, còn nhiều quan điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều đó đã xâm phạm quyền thừa kế của công dân, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội. Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng phong phú, thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Hàng năm Toà án nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án thừa kế. Nhiều vụ tranh chấp thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Có những bản án quyết định của toà án vẫn bị coi là chưa "thấu tình đạt lý"... Sở dĩ còn tồn tại những bất cập đó là do nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến là do các quy định của PLTK chưa đồng bộ, cụ thể... Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây nhiều văn kiện của Đảng như Nghị quyết 48 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới... đã xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới, trong đó có pháp luật về thừa kế. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: "Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay" để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thừa kế di sản là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành và phát triển khá phong phú. Do vậy, thừa kế đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu. Trước khi BLDS được ban hành, đã có một số sách nghiên cứu về thừa kế dưới góc độ sách pháp luật thường thức như: "Câu hỏi và giải đáp PLTK" năm 1994 của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về PLTK" năm 1995 của Trần Hữu Bền và TS. Đinh Văn Thành. Các công trình kể trên được thực hiện khi nhà nước ta chưa ban hành BLDS nên tất cả đều dựa chủ yếu vào pháp lệnh thừa kế. Các công trình này chưa giải quyết được bản chất pháp lý về thừa kế, các loại thừa kế, hậu quả pháp lý của nó. Về cơ bản chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu pháp luật. Sau khi Nhà nước ta ban hành BLDS 1995, thì việc nghiên cứu đề tài về thừa kế vẫn tiếp tục được mở rộng. Ngay các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ cũng đã có một số tác giả nghiên cứu về thừa kế. Tiểu biểu là: TS. Phạm ánh Tuyết với đề tài "Thừa kế theo di chúc theo quy định BLDS Việt Nam" năm 2003; TS. Phùng Trung Tập với đề tài "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam" năm 2001; Ths. Nguyễn Hải An nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam" năm 2004. Ths. Nguyễn Hồng Nam nghiên cứu đề tài "Các điều kiện có hiệu lực di chúc" năm 2005... Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên mới dừng lại phân tích các quy định của PLTK theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật của luật thực định và chỉ ra định hướng chủ yếu cho hoàn thiện BLDS 1995 và một số quy định trong nhóm quy phạm chung về thừa kế hiện hành. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khoa học khác cũng có nghiên cứu về thừa kế như: cuốn "Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" xuất bản năm 1999 và cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong BLDS" xuất bản năm 2001 của TS. Nguyễn Ngọc Điện; cuốn "Chế độ hôn sản và thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" xuất bản năm 1993 của tác giả Nguyễn Mạnh Bách; cuốn "Tìm hiểu pháp luật về Luật thừa kế" xuất bản năm 2003 của Mai Văn Duẩn... Đề tài nghiên cứu cấp bộ "Những vấn đề lý luận cơ bản về BLDS Việt Nam" năm 1997 của Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm khoa học xã hội nhân văn... Th.STrần Thị Huệ, "Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10 năm 2006; Thái Công Khanh "Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện điều 679 BLDS về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế", Tạp chí Toà án nhân dân, số 16 năm 2006; Thái Công Khanh "Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật thừa kế", Tạp chí Toà án nhân dân, số 20 năm 2006... Trong các công trình khoa học này, các tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thừa kế: như quy định chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế. Tuy vậy, các tác giả không khái quát được lịch sử hình thành và phát triển các quy định này qua các thời kỳ. Hơn nữa, đa số các đầu sách này viết trước năm 2003, nên có rất nhiều điểm thay đổi cả về mặt pháp luật thực định và thực tiễn cuộc sống. Tóm lại, các công trình nghiên cứu nói trên, đã nêu ra nhiều vấn đề cơ bản cả về lý luận và thực tiễn áp dụng PLTK trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, các công trình này được thực hiện khi Nhà nước ta chưa ban hành BLDS 2005 và nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ luật thực định. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ lý luận hoàn thiện PLTK còn ít, chưa có tính chất hệ thống, khái quát. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, luận văn này là một công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu chuyên sâu hoàn thiện PLTK là một đề tài hoàn toàn độc lập, không có sự trùng lắp với bất kỳ một công trình nào của người khác. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn * Mục đích: Phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng PLTK ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nêu lên những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện PLTK ở nước ta hiện nay. * Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu những vấn đề lý luận về thừa kế ở Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của PLTK cũng như tiêu chí hoàn thiện PLTK. Đồng thời có tìm hiểu PLTK của một số nước trên thế giới. - Phân tích quá trình phát triển và thực trạng PLTK ở Việt Nam. Qua đó, nhận xét, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của PLTK hiện hành, rút ra các nguyên nhân của hạn chế. - Nêu sự cần thiết khách quan, quan điểm, tiêu chí cũng như giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm hoàn thiện PLTK. * Phạm vi nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm PLTK ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Nhưng đặc biệt tập trung nghiên cứu các quy phạm PLTK từ năm 1996 đến nay. Tuy nhiên, để luận văn có độ sâu, rộng cần thiết, trong một chừng mực nhất định, tác giả cũng đề cập đến một số quy định tương ứng trong pháp luật một số nước để so sánh và đưa ra những kết luận, kiến nghị có tính tham khảo nhất định. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập. Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp logíc, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp... 5. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Trên cơ sở phân tích tổng hợp các quan điểm, tác giả đưa ra quan điểm của cá nhân về khái niệm PLTK, cũng như nguyên tắc, vai trò PLTK... nhằm minh chứng tính đặc thù PLTK ở Việt Nam, từ đó góp phần hoàn thiện hơn khoa học trong lĩnh vực thừa kế. - Nghiên cứu một số quy định của PLTK qua các giai đoạn lịch sử, để phân tích đưa ra những nhận định, đánh giá nhằm làm sáng tỏ quá trình phát triển và thực trạng của PLTK ở Việt Nam. - Từ nhận xét, đánh giá sự phát triển và thực trạng PLTK ở Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, luận văn đã đưa ra các quan điểm, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện PLTK ở nước ta hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005. Đồng thời luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ công việc nghiên cứu giảng dạy và học tập của cán bộ, giáo viên và sinh viên chuyên Luật và không chuyên Luật cũng như việc giảng dạy học tập môn Nhà nước pháp luật trong hệ thống các trường chính trị. - Về thực tiễn: Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện PLTK sẽ có ý nghĩa thiết thực góp phần giúp cho những người có thẩm quyền áp dụng luật để giải quyết tranh chấp thừa kế. Ngoài ra luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc để lại di sản thừa kế, lập di chúc cũng như trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của mình về lĩnh vực thừa kế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn được bố cục 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam 1.1. Khái niệm đặc điểm và nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật thừa kế * Khái niệm: Thừa kế theo nghĩa chung nhất, là việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm móng và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. ở thời kỳ này việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Ph.Ăngghen viết: Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với người mẹ [2, tr.79]. Như vậy, ngay dưới chế độ mẫu quyền trong thời kỳ nguyên thuỷ của xã hội loài người, khi mà xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, chế độ sở hữu còn dưới dạng cộng đồng nguyên thuỷ, chỉ là những công cụ lao động thô sơ và những vật phẩm tự nhiên thì vấn đề thừa kế đã được đặt ra. Lúc đó thừa kế được phát sinh dựa trên quan hệ huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Bởi vì xã hội này con người sống quần hôn cho nên không thể xác định được cha của đứa trẻ là ai và con sinh ra hoàn toàn phụ thuộc vào người mẹ. Theo tiến trình phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động ngày càng được nâng cao, từ đó xuất hiện sự dư thừa sản phẩm. Những người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để chiếm hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất hiện, chế độ thị tộc, chế độ cộng sản nguyên thuỷ dần dần bị phá vỡ và nhường chổ cho một chế độ xã hội mà trong đó đã có sự phân hoá giai cấp. Khi giai cấp đã xuất hiện các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau (giai cấp thống trị và giai cấp bị trị), luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Trước bối cảnh đó, dĩ nhiên tổ chức thị tộc trở thành bất lực trước xã hội, không thể phù hợp nữa. Lúc này "xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy hoặc cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện" [50, tr.38]. Nếu trước đây, thừa kế trong xã hội thị tộc được dịch chuyển theo phong tục tập quán thì khi nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển di sản từ một người đã chết cho một người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của nhà nước, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua bộ máy nhà nước, ban hành các quy định để điều chỉnh các quan hệ trong việc xác định phạm vi chủ thể, nội dung, hình thức, điều kiện chuyển dịch tài sản và những vấn đề khác có liên quan đến việc thừa kế tài sản. Như vậy, thừa kế được hình thành từ khi xã hội chưa phân chia giai cấp, nhưng khái niệm PLTK thì chỉ ra đời và tồn tại trong những xã hội đã phân chia giai cấp và có nhà nước. Tuy nhiên, mỗi một xã hội khác nhau sẽ có sự khác nhau trong quy định về thừa kế. Thậm chí, trong cùng một chế độ xã hội của một nhà nước, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, thì PLTK cũng được quy định khác nhau cho phù hợp với sự phát triển. ở Việt Nam, trong các triều đại phong kiến trước đây, PLTK đã được hình thành và dựa trên cơ sở lễ giáo phong kiến. Các quy định về thừa kế trong Bộ luật Hồng Đức của thời Lê và Bộ luật HVLL của thời Nguyễn đều nhằm mục đích duy trì, bảo vệ những truyền thống chế độ gia đình phụ quyền và hiếu nghĩa của con cháu trong dòng tộc. Những quan niệm về gia đình lễ giáo, tín ngưỡng và chuẩn mực đạo đức thờ cúng tổ tiên thời phong kiến đều có sự tác động mạnh lên quan hệ thừa kế. Vì vậy, thừa kế ở thời kỳ này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ. Đối với tài sản của cha mẹ, con trai con gái đều có quyền được chia, nhưng đất hương hoả thì nhất quyết phải dành cho con trưởng nam và cháu đích tôn. Cha mẹ với tư cách là người chủ sở hữu cũng không có quyền làm khác, không thể để cho một người con gái hưởng hoa lợi, hương hoả dù người con gái ấy sống độc thân đến khi chết... Đối với tài sản vợ chồng, nếu vợ chết trước, chồng tiếp tục làm chủ tài sản ấy với tư cách là chủ sở hữu. Nhưng trong trường hợp chồng chết trước người vợ không được quyền thừa kế, chỉ tiếp tục hưởng hoa lợi trên tài sản của chồng. Nếu người vợ tái giá thì người goá phụ mất hết quyền hưởng hoa lợi, bị bên chồng trưng bằng cớ để lấy lại ruộng đất [73, tr.24]. Khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chế độ phong kiến ở Việt Nam hoàn toàn sụp đổ, cùng với chế độ thực dân pháp, những quan niệm lạc hậu về chế độ hôn nhân gia đình "Tứ đức tam tòng" "Quyền huynh thế phụ" "nữ sinh ngoại tộc", "chồng chúa vợ tôi"... cũng dần dần bị xóa bỏ. Quyền bình đẳng về thừa kế và sở hữu dưới chế độ mới đã được pháp luật bảo vệ theo nguyên tắc "Đàn bà ngang quyền với đàn ông" và đã được cụ thể hoá bằng quy định của pháp luật. "trong lúc sinh thời người chồng goá hay người vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin chia tài sản quyền sở hữu người chết sau khi đã thanh toán tài sản chung [74, Đ11] con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ [74, Đ15]. Kể từ đó đến nay PLTK ở nước ta ngày càng được mở rộng, phát triển và được thực hiện, trên thực tế tại thông tư 81 Toà án nhân dân tối cao, PLTK 1990. Đặc biệt là BLDS 1995, 2005 ghi nhận một cách tương đối đầy đủ chế định thừa kế công dân. Trên cơ sở nghiên cứu nội dung pháp luật thừa kế ở Việt Nam, có thể phân loại quy định thừa kế thành 5 nhóm chính. Nhóm thứ nhất gồm các quy định về vấn đề chung của thừa kế mà khi chia di sản theo di chúc và theo pháp luật, phải căn cứ vào đó như nguyên tắc chia thừa kế, di sản thừa kế, thời điểm, địa điểm mở thừa kế, thời hiệu khởi kiện thừa kế… Nhóm thứ hai các quy định thừa kế theo di chúc. Để công nhận di chúc có hiệu lực thì di chúc phải được lập theo một trình tự do pháp luật quy định. Nếu di chúc vi phạm trình tự, thủ tục đó thì vô hiệu. Ngoài ra, trong nhóm này còn có các quy định về hiệu lực của di chúc, các hình thức di chúc... Nhóm thứ ba các quy định về thừa kế theo pháp luật, nhóm này bao gồm các quy phạm pháp luật quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế, thừa kế thế vị. Nhóm thứ tư các quy định về thừa kế quyền sử dụng đất bao gồm các quy định về người thừa kế, trình tự thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất. Nhóm thứ năm các quy định các thủ tục đảm bảo thực hiện quyền thừa kế của công dân bao gồm các quy phạm về thủ tục hành chính, thủ tục tố tụng. Ngoài ra còn có quy phạm quy định về thanh toán, phân chia di sản. Như vậy có thể nói rằng, PLTK là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho cá nhân, tổ chức theo di chúc hoặc theo pháp luật, cũng như quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ, phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế và được thực hiện theo những trình tự thủ tục nhất định. Tóm lại, PLTK ở Việt Nam được cấu thành bởi nhiều quy phạm, trong nhiều văn bản khác nhau. Lịch sử hình thành và phát triển của PLTK ở Việt Nam có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ. Các quy định PLTK ở nước ta luôn bảo đảm quyền tự do cá nhân trong việc thể hiện ý chí của mình và kết hợp hài hoà với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Không ngừng cũng cố, mở rộng phù hợp với đời sống thực tế, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn quyền thừa kế công dân. * Đặc điểm: Từ những phân tích nêu trên về nội dung và qua nghiên cứu PLTK Việt Nam từ khi hình thành cho đến nay, chúng tôi rút ra một số đặc điểm cơ bản PLTK như sau: Thứ nhất: Pháp luật thừa kế ra đời rất sớm. Ngay từ thời kỳ La Mã Cổ Đại đã có pháp luật thừa kế, PLTK thời kỳ này được khắc trên phiến đá để mọi người cùng hiểu mà làm theo. Khi nghiên cứu về vấn đề này các nhà khoa học pháp lý đã nhận định: “thừa kế là sự di chuyển tài sản của người chết cho một hoặc một số người sống khác. Quyền thừa kế với tư cách là một chế định pháp luật của Nhà nước, xuất hiện trên cơ sở chấm dứt quyền sở hữu của một người đã chết và sự chuyển giao mang tính tổng thể tài sản của người đó cho những người còn sống …[35, tr.158]. ở nước ta, trong gần 10 thế kỷ đô hộ, nhà nước phong kiến Trung Hoa luôn tìm cách xoá những truyền thống của dân tộc ta để thể hiện mưu đồ đồng hoá rất thâm hiểm của họ. Theo sử gia lỗi lạc Phan Huy Chú “thì trong thời kỳ giặc Minh đô hộ nước ta vào đầu thế kỷ XV, họ đã tịch thu sách vở của ta đem về làm với mục tiêu triệt xoá nền văn hoá dân tộc Việt để dễ bề cai trị. Tiếp đó đầu nhà Lê gặp “giặc loạn”, một lần nữa sách luật của ta thời kỳ này trở về trước cùng chung số phận” [23, tr.50]. Vì thế, khi nghiên cứu cổ pháp về thừa kế, chúng ta thiếu hẳn những cứ liệu trực tiếp, nên phải lấy bộ luật cổ xưa nhất còn lưu giữ là bộ QTHL làm mốc. Tuy nhiên, dựa vào những ghi chép của các sử gia trong các tài liệu về lịch sử cũng như sự suy đoán pháp lý có thể thấy được pháp luật thừa kế hình thành và phát triển cùng với sự hình thành Nhà nước Việt Nam cổ đại, ở thời Hùng Vương nước ta đã có pháp luật thừa kế “về luật dân sự chủ yếu và tranh chấp dân sự dưới thời Hùng Vương có thể đã có quy định bắt buộc…thời Hùng Vương đã có quy định việc chia tài sản” [88, tr.40]. Ngày nay, các sử gia và các nhà luật học khi nghiên cứu về cổ pháp, đa số đều nhất trí rằng: “pháp luật nước ta đã có từ trước thời Lê và đã được điển chế đến thời Lý, Trần” [23, tr.63] . “Với bộ luật QTHL dù được xem là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam, nhưng chắc chắn khi biên soạn các luật gia Lê Triều cũng đã thừa kế các thành tựu của các bộ luật của các triều đại trước” [30, tr.9]. Với sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng pháp luật thừa kế Việt Nam đã xuất hiện từ lâu, nó trở thành một chế định quan trọng của pháp luật thời bấy giờ. Điều đó được thể hiện qua các tài liệu về lịch sử của các sử gia, Bộ luật QTHL, dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ… Tuy nhiên, pháp luật thừa kế thời kỳ này chỉ bảo vệ giai cấp thống trị, củng cố, duy trì quyền sở hữu của những người có của. Thứ hai: Pháp luật thừa kế có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật về quyền sở hữu Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, tồn tại song song trong mọi hình thức kinh tế - xã hội. Trong phạm vi một chế độ xã hội, hai phạm trù này gắn bó chặt chẽ với nhau mỗi phạm trù là tiền đề và cũng chính là hệ quả đối với nhau. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để từ đó làm xuất hiện thừa kế thì đến lượt mình thừa kế lại là phương tiện để duy trì, củng cố và xác định quan hệ sở hữu. Nếu sở hữu và thừa kế là hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau song song tồn tại bên nhau thì pháp luật về thừa kế với pháp luật về quyền sở hữu cũng có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau. Thông qua việc quy định hình thức sở hữu về tài sản của cá nhân và theo đó pháp luật quy định cho họ các quyền năng trong lĩnh vực thừa kế. Hay nói cách khác, pháp luật về sở hữu là cơ sở cho việc ban hành các văn bản pháp luật về thừa kế. Vì vậy, pháp luật về thừa kế luôn mang một bản chất giai cấp sâu sắc, nó luôn là phương tiện để duy trì, củng cố quyền sở hữu ở những xã hội mà chính bản thân nó đang tồn tại. Trong xã hội phong kiến hoặc trong xã hội chủ nô, những xã hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì pháp luật về thừa kế là một trong những công cụ pháp lý quan trọng để duy trì sự bóc lột sức lao động người khác và củng cố địa vị xã hội của những người thừa kế. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ dựa trên nền tảng công hữu hoá tư liệu sản xuất. Thừa kế là sự kế thừa thành quả lao động của cá nhân gia đình và các giá trị văn hoá của thế hệ này đối với thế hệ khác, nên pháp luật thừa kế, trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, thành quả lao động của họ được chuyển sang cho những người thừa kế của họ. Mặt khác, pháp luật về thừa kế còn là một trong những phương tiện để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế, qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu chính đáng mọi cá nhân trong xã hội. Như vậy, cùng với sự hình thành và phát triển Nhà nước và pháp luật của chế độ tư hữu thì sở hữu và thừa kế đều là những phạm trù pháp luật và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thứ ba: Pháp luật thừa kế tập trung chủ yếu trong BLDS, ngoài ra còn được quy định một số văn bản liên quan. Thừa kế là một chế dịnh của pháp luật dân sự, do đó nó cũng mang những đặc điểm chung của BLDS, như đều là xuất phát từ quan hệ tài sản, đều phản ánh một cách sinh động phong tục, tập quán, đạo đức của người Việt Nam, là công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm sự bình đẳng tự nguyện và an toàn pháp lý của các chủ thể, đáp ứng nhu cầu vật chất, và tinh thần của các thành viên trong xã hội… Do đó, đa số các quy phạm pháp luật về thừa kế được quy định chủ yếu trong bộ luật dân sự. Tuy nhiên, do quan hệ thừa kế cũng có mối quan hệ chặt chẽ với quan hệ về sở hữu, quan hệ hôn nhân huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, quan hệ đất đai... cho nên các quy định pháp luật thừa kế còn được quy định rải rác trong một số văn bản liên quan như luật đất đai, luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật hôn nhân gia đình... Thứ tư: Pháp luật thừa kế thường xuyên có sửa đổi bổ sung và ngày càng hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng giai đoạn. Kể từ khi Thông tư 81 được ban hành cho đến nay, pháp luật thừa kế ở nước ta đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1995, và 2005. Nếu so sánh với các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật về hình sự, pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật về lao động… thì các lĩnh vực pháp luật này ít sửa đổi bổ sung. Trong khi đó pháp luật thừa kế được sửa đổi bổ sung nhiều hơn. Sở dĩ pháp luật thừa kế có đặc điểm này, bởi lẽ bên cạnh những nhân tố ảnh hưởng tới việc sửa đổi bổ sung mà lĩnh vực pháp luật nào cũng có như do sự thay đổi các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hoá… thì việc sửa đổi, bổ sung pháp luật thừa kế, còn phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh tế xã hội qua các thời kỳ. Nhìn lại tiến trình hình thành và phát triển pháp luật thừa kế Việt Nam chúng ta thấy rằng, pháp luật thừa kế được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội qua từng giai đọan lịch sử theo đó quyền thừa kế của công dân được chú ý bảo vệ triệt để. Điều này được thể hiện trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền thừa kế công dân trong bốn hiến pháp Việt Nam, BLDS 1995, 2005 … Thứ năm: Pháp luật thừa kế được quy định tương đối toàn diện và có kết cấu chặt chẽ. Khi xây dựng PLTK chúng ta đã học tập nhiều kinh nghiệm của cha ông và các nước tiên tiến trên thế giới như Pháp, Đức, Nga... vì vậy, pháp luật thừa kế tương đối toàn diện có cấu trúc chặt chẽ. Pháp luật thừa kế được chia thành 5 nhóm. Ngoài nhóm (1) quy định vấn đề chung về thừa kế, làm cơ sở để dẫn chiếu các nhóm quy định cụ thể. Trong mỗi nhóm cụ thể đều có các quy định chung quy định các vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc của phần đó, sau đó mới quy định các vấn đề chi tiết, các cấu trúc này thuận tiện cho việc tra cứu và áp dụng pháp luật thừa kế. 1.1.2. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam Nguyên tắc PLTK là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện PLTK. Thông qua đó góp phần phản ánh bản chất cũng như đặc trưng cơ bản của PLTK ở nước ta. Vì vậy, từ khi hình thành đến nay, những nguyên tắc PLTK ở nước ta có sự thay đổi phù hợp với bản chất của nhà nước ở từng giai đoạn lịch sử. Kể từ 1945 đến nay PLTK ở nước ta có những nguyên tắc sau: Thứ nhất, nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân: Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà nước bảo hộ. Quy định này đã được khẳng định tại Đ58 Hiến pháp 1992 "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân". Trên cơ sở đó Đ631 BLDS 2005 đã xác định rõ nội dung của quyền này. Trước hết đảm bảo cho mọi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình" đều có quyền để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật. Điều quan trọng là mỗi cá nhân đều có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật". Thậm chí là quyền từ chối di sản thừa kế. Mặt khác nhà nước còn bảo hộ quyền thừa kế, thể hiện trong việc đảm bảo cho mọi công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất. Đặc biệt là "tài sản hợp pháp thuộc sở hữu tư nhân không giới hạn về số lượng, giá trị"... Do đó tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân sẽ trở thành di sản thừa kế khi người đó chết, được nhà nước tôn trọng và pháp luật bảo vệ. Đây là một nội dung quan trọng đánh dấu sự phát triển mới và là bản chất ưu việt của PLTK ở nước ta. Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế Nguyên tắc này là sự cụ thể hoá một phần của nguyên tắc cơ bản được quy định tại Đ52 Hiến pháp 1992 "mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" và Đ5 BLDS 2005 "trong quan hệ dân sự các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do về khác biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau". Từ sự quy định mang tính khái quát đó, nên trong chế định riêng về thừa kế (phần thứ 4 BLDS và Luật HNGĐ năm 2000) đã xác định rõ nội dung nguyên tắc này là: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [13, Đ632]. "Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau" [70, Đ31] "có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung [70, K1, Đ27]. Do vậy khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì "chia đôi", phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật. Ngay đối với các con, nhà nước ta không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình. Chính vì vậy mà con đẻ, con nuôi, con riêng, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con trai hay con gái, có năng lực và hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự... đều có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ, đều được hưởng thừa kế bằng nhau, nếu di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Tóm lại, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế, là một nguyên tắc cơ bản trong PLTK ở Việt Nam. Nó không những phản ánh chế độ chính trị nói chung mà điều quan trọng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng của mọi công dân trong lĩnh vực về thừa kế, tạo được sự đoàn kết tốt giữa các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững. Thứ ba, nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người có tài sản, người hưởng di sản Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã ghi nhận sự bảo hộ của pháp luật đối với quyền về thừa kế, mặt khác nó còn thể hiện một cách đầy đủ nhất các quyền dân sự ._.chủ quan của mỗi cá nhân trong việc định đoạt toàn bộ tài sản của mình. Nội dung của nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt được ghi nhận khá đầy đủ trong BLDS. Trước hết đối với cá nhân người để lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Pháp luật không cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe doạ... người lập di chúc. Người để lại thừa kế có thể thực hiện quyền định đoạt thông qua hình thức di chúc viết hoặc di chúc miệng, có thể nhờ người làm chứng cho việc lập di chúc, có thể yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở của mình để lập di chúc. Khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế, dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ di chúc; người quản lý di sản, người phân chia di sản [13, Đ648]. Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu cần có sự thay đổi "ý nguyện" cũng như nội dung, người lập di chúc còn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào" [13, Đ662]. Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản được thể hiện không những trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hịên ngay trong việc họ không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây cũng là một cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật. Đối với cá nhân có quyền hưởng di sản, pháp luật nước ta quy định người thừa kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản của người thừa kế phù hợp với những điều kiện, nguyên tắc, thời hạn mà pháp luật đã quy định. "người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác", "việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phải chia di sản, công chứng nhà nước, UBND xã, phường nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản", "thời điểm từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế" [13, Đ642]. ở nước ta, trước năm 1945 quyền định đoạt của người hưởng di sản bị hạn chế. Theo Đ376 và Đ316 Dân luật Bắc kỳ và Đ308 Dân luật Trung kỳ, những người thừa kế thuộc diện là con, cháu, vợ hay chồng của người chết không có quyền khước từ di sản. Dân luật Trung kỳ chỉ bó buộc vợ hay chồng và con cháu trai phải nhận di sản ở miền Nam, theo án lệ đã định con không có quyền khước từ di sản của người cha để lại, con cháu của người khước từ không được hưởng di sản do cha mẹ của mình đã khước từ. Như vậy dưới thời phong kiến, do tục lệ "phụ trái từ hoàn" nên con cháu, vợ hay chồng của người chết bắt buộc nhận lấy tài sản riêng của mình mà trang trãi các khoản nợ của người chết không có hạn định. Quyền thừa kế của cá nhân người nông dân chỉ là những "khoản nợ chồng chất" mà các con, cháu của người chết phải gánh chịu. Chỉ khi chính quyền nhân dân được thiết lập thì quyền công dân nói chung và quyền tự định đoạt về thừa kế nói riêng mới được bảo đảm một cách thực tế. Nội dung các nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của người để lại di sản và người hưởng di sản ngày càng được bảo đảm, mở rộng cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Thứ tư, nguyên tắc củng cố, giữ vững tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc chung trong quan hệ dân sự, đó là: Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức tốt đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam [13, Đ8]. Từ truyền thống đoàn kết trong gia đình, từ mục đích của chế độ hôn nhân và gia đình nước ta nhằm "xây dựng những gia đình dân chủ hoà thuận, hạnh phúc trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau tiến bộ". Tinh thần đoàn kết tương trợ giữa những người trong gia đình cần được giữ vững ngay cả khi những người trong gia đình chết và vấn đề thừa kế được đặt ra. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật dựa trên cơ sở huyết thống gần gũi, quan hệ hôn nhân trong việc bảo vệ quyền lợi của người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Bằng các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong BLDS, PLTK ở nước ta đã bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi người lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, xoá bỏ tàn tích mà chế độ thừa kế của thực dân phong kiến đã để lại hàng bao đời nay, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người dân trong lĩnh vực thừa kế nói riêng cũng như trong đời sống xã hội nói chung. 1.2. Vai trò và tiêu chí hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam 1.2.1. Vai trò của pháp luật thừa kế ở Việt Nam Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế, ở nước ta hiện nay hệ thống pháp luật nói chung và PLTK nói riêng, ngày càng thể hiện rõ vai trò to lớn đối với đới sống kinh tế, văn hoá, chính trị của đất nước. Cụ thể là: Một là, PLTK đã thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về một số quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực dân sự. Lịch sử phát triển của xã hội đã chứng minh rằng, bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng đều dựa vào pháp luật để thể hiện ý chí và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp mình. Pháp luật là hình thức ghi nhận thể hiện tập trung nhất, là biện pháp sắc bén nhất, hiệu quả nhất để thực hiện những quan điểm, đường lối của giai cấp cầm quyền [32, tr.192]. ở Việt Nam, Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội, sự lãnh đạo của Đảng thể hiện các phương diện khác nhau trong đó có hoạt động xây dựng đường lối, chính sách. Để cho đường lối của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, phải có sức mạnh của Nhà nước mà pháp luật là công cụ hàng đầu để thực hiện sức mạnh đó. Sở dĩ như vậy, bởi vì pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật có thuộc tính phổ biến và tính tổ chức nên nó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. ở nước ta, từ cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến sự nghiệp đổi mới, ngày nay đường lối nhất quán của Đảng trong các Văn kiện VI, VII, VIII, IX, X đều khẳng định việc thực thi quyền con người và quyền công dân được xem như nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt trong Nghị quyết 48 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, Đảng ta đã bổ sung nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo "xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ công dân" [6, tr.112]. Theo tinh thần đó, PLTK ở nước ta trong những năm qua đã và đang là công cụ thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự. Điều 50 Hiến pháp 1992 đã quy định "ở nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật", điều 58 Hiến pháp 1992 còn quy định "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân". Xuất phát từ nguyên tắc hiến định trên BLDS năm 1995, 2005 đảm bảo cho "Chủ sở hữu có quyền bán, tặng, cho để thừa kế tài sản" [13, Đ248] "Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất". Đặc biệt BLDS đã còn đảm bảo cho mọi công dân đều có quyền "lập di chúc để định đoạt tài sản của mình", đều có quyền "để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật". Đồng thời mỗi công dân đều có quyền "hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật", thậm chí là quyền từ chối nhận di sản thừa kế. Hai là, PLTK là phương thức quan trọng trong việc xác lập, củng cố, bảo vệ quyền sở hữu. Thừa kế là một quan hệ xã hội có mầm mống và xuất hiện từ thời sơ khai của xã hội loài người. Cũng chính từ thời sơ khai đó, sở hữu và thừa kế đã xuất hiện như một tất yếu khách quan và mang tính chất là một phạm trù kinh tế, giữa chúng có mối liên quan qua lại ràng buộc với nhau. Khi xã hội phân chia thành giai cấp, nhà nước xuất hiện thì PLTK đã có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì, cũng cố quyền sở hữu, từ chổ pháp luật quy định chế độ sở hữu về tài sản của cá nhân, và cá nhân có các quyền năng đối với tài sản của mình thì dựa theo đó, pháp luật quy định cho họ có những quyền năng trong lĩnh vực thừa kế, công nhận quyền sở hữu được để lại thừa kế sẽ có tác dụng kích thích cổ vũ sự quản lý năng động của mỗi người, bởi họ tin rằng sự nghiệp của mình sẽ được kế tục bởi những người mình yêu thương. Quyền sở hữu chỉ hoàn thành được vai trò động lực phát triển kinh tế nếu nó chuyển giao bằng con đường thừa kế. Về mặt tâm lý cá nhân chỉ cảm thấy được thoả mãn nếu quyền sở hữu vẫn tiếp tục tồn tại sau khi chủ sở hữu chết. Giả sử chủ sở hữu phải đối mặt với viễn cảnh giao trả lại tài sản của mình cho nhà nước khi họ chết, thì họ sẽ không quan tâm chăm sóc tài sản hiện có mà lại tiêu dùng một cách hoang phí vô độ và họ trở nên lười biếng, thờ ơ với lao động, với hoạt động sáng tạo. Vì vậy, PLTK ở nước ta, trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thành quả lao động của bản thân họ được tôn trọng, khi họ chết thành quả đó được chuyển sang cho những người thừa kế của họ. Mặt khác với tư cách là hệ luận của quyền sở hữu, PLTK còn là phương tiện để bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Thông qua thừa kế của cải của một người được chuyển dịch từ đời này qua đời khác. Đặc biệt, ghi nhận và tôn trọng quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc chính là việc pháp luật tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của họ, bảo đảm cho người lập di chúc có quyền sử dụng tài sản ngay cả khi chết, qua đó góp phần củng cố quyền sở hữu chính đáng của mọi cá nhân, bảo toàn và gia tăng tích luỹ của cải cho xã hội. Ba là, PLTK góp phần quan trọng trong việc củng cố mối quan hệ đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình, góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cộng đồng và xã hội. Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế. Người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Với ý nghĩa có tầm quan trọng như vậy, nên trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào, thừa kế là vấn đề "nóng bỏng" trong các quan hệ xã hội. Sự vận động của nó nếu tách khỏi sự điều chỉnh của pháp luật sẽ không tránh khỏi những xung đột, thậm chí là những cuộc "chiến tranh tài sản" kéo dài và có khi là những cuộc đổ máu ngay trong bản thân gia đình, dòng họ của người đã chết. Trong giai đoạn hiện nay, do tác động mặt trái của cơ chế thị trường, cùng với số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú và trị giá ngày càng lớn thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp. Hàng năm có hàng ngàn vụ án kiện về thừa kế mà TAND các cấp phải giải quyết, nhiều vụ tranh chấp về thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Nhiều bản án quyết định của toà án vẫn được coi là "chưa thấu tình đạt lý". Điều đó đã phá vỡ cả hệ thống tiêu chí đạo đức, mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gây bất ổn cho mỗi gia đình, cộng đồng, xã hội. Chính vì lẽ đó nhà nước cần phải tăng cường sự điều chỉnh của pháp luật, đối với quan hệ thừa kế là một yêu cầu tất yếu khách quan. Thông qua các quy phạm PLTK, các bên tham gia quan hệ thừa kế thấy rõ được các quyền và nghĩa vụ của mình cũng như trình tự thủ tục cách thức để thực hiện quyền đó. Trên cơ sở đó, các chủ thể để lại di sản cũng như nhận di sản thừa kế tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực pháp lý, tạo lập được một hệ thống các quan hệ tốt đẹp giữa người với người, sau khi người để lại di sản chết, góp phần vào việc củng cố sự đoàn kết và thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển. Bốn là, PLTK có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Đạo đức, các phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp là nét văn hoá mang bản sắc của mỗi dân tộc, được hình thành từ lâu đời và luôn được mọi người tôn trọng. Đó chính là tính tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau với phong tục, tập quán tốt đẹp "lá lành đùm lá rách". Một nền pháp luật chỉ tồn tại và bền vững khi phù hợp với đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Phong tục tập quán có vai trò rất quan trọng cùng với pháp luật nhà nước tham gia quản lý xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa giao lưu và hội nhập "trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, kế thừa phát huy truyền thống đạo đức tập quán tốt đẹp "[27, tr.111] Tư tưởng chỉ đạo này đã đi vào thực tiễn hoạt động lập pháp của nhà nước ta, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp đã được "luật hoá " thành các quy phạm pháp luật. Chúng ta có thể tìm thấy các quy phạm này trong luật dân sự hoặc hôn nhân gia đình, đặc biệt trong lĩnh vực thừa kế, một lĩnh vực điều chỉnh pháp luật liên quan nhiều đến phong tục, tập quán đạo đức: Trước hết, khi nói về thừa kế theo di chúc, pháp luật quy định cho người lập di chúc có quyền truất quyền hưởng di sản của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Nhưng để bảo vệ lợi ích cho một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc, thể hiện tại điều 699 BLDS 2005 "những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại điều 642 hoặc họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định luật này. Bao gồm: 1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng 2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động". Như vậy, mặc dù người lập di chúc không cho những người này hưởng di sản, nhưng pháp luật quy định ưu tiên cho họ phải được hưởng một kỷ phần nhất định từ di sản của người đã chết. Bởi vì theo truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, trong gia đình các con phải kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Ngược lại cha mẹ phải nuôi dưỡng các con chưa thành niên hoặc con bị tàn phế không tự nuôi sống được bản thân, vợ chồng phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống; giữa những người này ngoài nghĩa vụ pháp lý họ còn có nghĩa vụ đạo đức đối với nhau. Hoặc tại khoản 3 điều 648 và điều 670 BLDS 2005 có quy định "người lập di chúc có quyền dành một khối di sản để thờ cúng". Đây là phong tục, tập quán có từ lâu đời và hiện nay vẫn được coi trọng. Việc thờ cúng tổ tiên được thực hiện trên cơ sở của quan niệm mang tính chất đạo đức và văn hoá, tôn trọng và biết ơn công sinh thành, dưỡng dục, con người có nguồn cội, tổ tông cho nên con cháu phải tôn trọng và biết ơn những thế hệ trước mình. Trong thờ cúng tổ tiên, di sản thờ cúng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất mà còn có giá trị về mặt tinh thần. Vì vậy, từ các Bộ cổ luật xa xưa đến Bộ dân luật Bắc kỳ 1931, Bộ dân luật Trung kỳ 1936 cũng như BLDS 1995, 2005 đều quy định hết sức tỷ mỉ và chặt chẽ về di sản dùng vào thờ cúng. Phải nói rằng, đây là nét đặc thù trong pháp luật Việt Nam, điều mà khó tìm thấy trong các nền luật pháp phương Tây. Như vậy có thể nói một số quy phạm PLTK là các quy phạm đạo đức được nâng lên thành luật. Quy phạm đạo đức này gắn chặt với phong tục tập quán của người Việt Nam trong mối quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Vì lẽ đó giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán ấy trong đời sống xã hội là một đảm bảo quan trọng để các quy định pháp luật đi vào thực tế cuộc sống. 1.2.2. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng, hay nói cách khác, pháp luật phản ánh hiện tại khách quan của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Mà thực tại khách quan luôn vận động biến đổi không ngừng. Chính vì thế, pháp luật cũng luôn phải được hoàn thiện để kịp thời đáp ứng nhu cầu của xã hội, xây dựng hoàn thiện pháp luật là một trong những hoạt động quan trọng của nhà nước, nhất là trong điều kiện hội nhập WTO, cải cách pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. "Một hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ có khả năng tạo lập được các cơ sở pháp lý vững chắc cho toàn bộ sự vận động khách quan của đời sống" [58, tr.28]. Để đánh giá tính hoàn thiện của hệ thống pháp luật có nhiều tiêu chí khác nhau, trong đó có 4 tiêu chí cơ bản, đó là tính toàn diện về nội dung, tính đồng bộ, tính phù hợp đối với các quan hệ xã hội về thừa kế và trình độ kỹ thuật pháp lý. Trên cơ sở đó, tiêu chí hoàn thiện PLTK ở Việt Nam có thể tập trung 4 nội dung sau: Một là, tính toàn diện về nội dung: Như chúng ta đã biết đời sống xã hội là tổng hợp rất nhiều các quan hệ, nhưng không phải tất cả các quan hệ đều có pháp luật điều chỉnh mà về nguyên tắc pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ quan trọng liên quan đến lợi ích chính đáng của cá nhân lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên trong quá trình lựa chọn các quan hệ xã hội để điều chỉnh, nhà nước không thể chỉ coi trọng quan hệ này mà quá xem nhẹ loại quan hệ khác. Không thể chỉ mô hình hoá một loại nhu cầu này mà bỏ trống mô hình hoá loại nhu cầu khác. Vì vậy, tính toàn diện về nội dung là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Có thể nói, đây là tiêu chuẩn để "định lượng" một hệ thống pháp luật, nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ khi nào định lượng được mới có thể tiếp tục nghiên cứu để "định tính". Tính toàn diện về nội dung của PLTK phải thể hiện ở hai cấp độ: ở cấp độ chung, đòi hỏi PLTK phải điều chỉnh đầy đủ các trường hợp thừa kế với các loại di sản (động sản, bất động sản, các quyền về tài sản) của nhiều loại chủ thể (kể cả công dân Việt Nam đang làm ăn sinh sống tại nước ngoài, người không quốc tịch đang làm ăn sinh sống tại Việt Nam, người nước ngoài). Và ở đây không chỉ có pháp luật nội dung mà còn có pháp luật hình thức, tức là quy phạm về thủ tục để đảm bảo về quyền thừa kế của công dân. Có như vậy, quyền thừa kế của mọi cá nhân trong xã hội được đảm bảo, góp phần củng cố mối đoàn kết giữa các thành viên gia đình và di sản thừa kế được truyền lại cho những người thừa kế một cách đúng nghĩa nhất. ở cấp độ cụ thể, mỗi trường hợp thừa kế, mỗi loại di sản thừa kế, mỗi chủ thể thừa kế phải có đầy đủ các quy phạm cần thiết. Có nghĩa là bất cứ vấn đề nào liên quan đến quyền thừa kế của công dân cũng được pháp luật quy định. Ví dụ, về thừa kế thế vị, nhất thiết phải gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề cơ bản, như điều kiện và nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị, các trường hợp thừa kế thế vị, thừa kế thế vị có nhân tố con nuôi, con sinh ra bằng phương pháp khoa học. Hai là, tính đồng bộ, thống nhất: Tính đồng bộ thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và chất lượng của hệ thống pháp luật. Điều này có nghĩa là, khi xem xét mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật thì cần phải xem xét giữa các bộ phận, quy phạm pháp luật có trùng lắp, chồng chéo hay mâu thuẫn với nhau không [72, tr.30]. Tính đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp luật, giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật được thể hiện những điểm sau: Thứ nhất, đó là sự đồng bộ giữa Hiến pháp và các đạo luật và giữa các đạo luật với nhau. Thứ hai, thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng lắp, chồng chéo trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau [37, tr.407-408]. Chính vì vậy, khi xây dựng và hoàn thiện PLTK phải xem xét mối tương quan giữa các quy phạm pháp luật khác, đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung và trong bản thân nó nói riêng. Nghĩa là, PLTK phải loại bỏ mọi mâu thuẫn, trùng lắp, chồng chéo giữa các quy phạm của lĩnh vực này. Chẳng hạn, vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất được quy định trong nhiều văn bản khác nhau, nhưng các văn bản phải đều thống nhất về nội dung, không được để tình trạnh điều luật này mâu thuẫn với điều luật kia, gây khó khăn cho việc thực hiện và áp dụng. Khi xây dựng PLTK, các nhà làm luật cần quán triệt tinh thần của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là văn bản của cấp dưới không được trái với văn bản của cấp trên, kể cả về nội dung và hình thức. Đặc biệt cần nhấn mạnh đến tính tối cao của Hiến pháp. Mặt khác, cũng thấy rằng, PLTK là một phận của hệ thống pháp luật, có mối liên quan chặt chẽ với nhiều bộ phận khác của ngành luật đất đai, luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự... Vì thế, khi xây dựng và hoàn thiện bộ phận PLTK, phải đảm bảo sự thống nhất cả về nguyên tắc và nội dung với các chế định khác như chế định quyền sở hữu, chế định chuyển quyền sử dụng đất, chế định quan hệ pháp luật giữa cha mẹ với các con, chế định quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng... Nếu chỉ đơn lẽ hoàn thiện PLTK mà không chú ý đến việc hoàn thiện các quy định khác có liên quan thì chắc chắn sẽ phá vỡ tính đồng bộ hệ thống pháp luật. Khi đó PLTK cũng khó có tính khả thi và hiệu quả trên thực tế. Ba là, tính phù hợp đối với các quan hệ xã hội về thừa kế. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan giữa trình độ của hệ thống pháp luật và trình độ phát triển của kinh tế xã hội. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện nhiều mặt, khi xem xét tiêu chuẩn này cần chú ý đến các mặt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống và các quy phạm xã hội [37, tr.408]. ở Việt Nam, khi xây dựng và hoàn thiện PLTK cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trước hết, phải có nội dung phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, nguyện vọng của nhân dân, tức là khi đánh giá tiêu chí hoàn thiện của PLTK phải đối chiếu nội dung của nó với đường lối, chính sách của Đảng, với nguyện vọng của nhân dân để xác định mức độ phù hợp giữa các nội dung đó. Tiêu chí này được hình thành trên cơ sở mối quan hệ giữa pháp luật với chính trị. Pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối của mình trong thực tiễn.Vì vậy, nội dung của PLTK phải phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng thì mới đảm bảo sự vận động và phát triển đúng định hướng. Mặt khác khi xây dựng mỗi quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thừa kế, cũng phải luôn bám sát điều kiện kinh tế xã hội của đất nước.Nội dung phải phù hợp không qua cao hay quá thấp so với thực trạng đời sống vật chất và ý thức xã hội. Thực tế cho thấy rằng, sự điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật sẽ không có hiệu quả nếu pháp luật đó không gắn với thực tiễn, không phù hợp với điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của xã hội. Và như vậy, nó sẽ không thúc đẩy các quan hệ kinh tế xã hội phát triển, thậm chí kìm hãm sự phát triển của xã hội. Cho nên để pháp luật thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống, thực sự phát huy chức năng, vai trò của mình, pháp luật phải bắt nguồn từ chính cuộc sống, chính thực tại khách quan. Hơn nữa, trong điều kiện mở rộng quan hệ ngoại giao hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật Việt Nam không thể xa rời với xu thế chung của thời đại. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định Việt Nam sẽ "Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước, chủ động tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới... hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế" [29, tr.204]. Do vậy, PLTK cũng phải có những quy định hài hoà, tương thích với pháp luật quốc tế, đặc biệt là các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, thừa kế con sinh ra bằng phương khoa học... Điều đó đòi hỏi khi xây dựng pháp luật các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu, tham khảo, chon lọc những kinh nghiệm của PLTK các nước, trên cơ sở đó vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam cho phù hợp. Như thế chúng ta mới có thể xây dựng được một hệ thống PLTK có tính khả thi cao, bởi nó sát với thực tế và được quốc tế thừa nhận. Thứ tư, về trình độ kỹ thuật pháp lý: Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó có ba điểm quan trọng, cần thiết phải chú ý: - Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu, được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. - Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật. - Cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô động, lôgíc, chính xác và một nghĩa [75, tr.63]. PLTK muốn đạt trình độ kỹ thuật lập pháp cao thì phải được xây dựng một cách khoa học, đúng nguyên tắc, đúng về thẩm quyền, nội dung và trình tự thủ tục ban hành, bảo đảm sự đồng bộ, phối hợp chặt chẽ giữa các nội dung trong mỗi văn bản, và giữa các văn bản trong cả hệ thống. Đồng thời PLTK phải có kết cấu văn bản hợp lý, phương pháp trình bày rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng, ngôn ngữ chính xác, phổ thông. Để đạt được tiêu chí đó, đòi hỏi các nhà làm luật không những am hiểu về chuyên môn mà còn tinh thông về mặt ngôn ngữ, văn phong. Không những biết kế thừa những truyền thống xây dựng pháp luật giàu bản sắc dân tộc của cha ông, mà còn học tập những tinh hoa, những văn minh của nhân loại. Tóm lại, nếu như ba yếu tố đầu là những tiêu chí về nội dung, thì kỹ thuật pháp lý là tiêu chí về hình thức. Trong đó mỗi tiêu chí đều có ý nghĩa, vai trò riêng, nếu thiếu một trong các tiêu chí đó thì không thể đánh giá được mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. 1.3. pháp luật thừa kế một số nước trên thế giới và kinh nghiệm có thể vận dụng Trong thế giới hiện đại, mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật riêng của mình, thậm chí trong cùng một quốc gia cũng tồn tại vài hệ thống pháp luật khác nhau. Nhưng trong tất cả các hệ thống pháp luật đó có hai hệ thống pháp luật có tính chất kinh điển và ảnh hưởng lớn nhất đó là truyền thống pháp luật lục địa (Civil law) và truyền thống pháp luật án lệ (Com mon law). Trong truyền thống pháp luật lục địa, cơ sở pháp luật dân sự là luật La Mã (Roman law), luật dân sự bắt nguồn trước tiên từ các nước châu Âu lục địa như Pháp, Đức, Italia... các nước đã từng là thuộc địa của các nước này (như Việt Nam) sau đó được thừa nhận ở hệ thống pháp luật phương Tây như Nhật bản, Thái Lan, Trung Quốc, bên cạnh đó, ở một số nước truyền thống luật án lệ cũng tồn tại BLDS, đó là Bang Québec (Canađa) và Bang Lowssiana (Hoa kỳ). Chính vì vậy, khi nghiên cứu PLTK của một số nước trên thế giới, luận văn chỉ tập trung vào một số quốc gia nhất định, cụ thể: Luật La Mã với ý nghĩa là nguồn gốc của pháp luật dân sự. BLDS Pháp với ý nghĩa là BLDS điển hình trên thế giới. BLDS Thái Lan, Nhật Bản là những quốc gia châu á gần gũi với Việt Nam. 1.3.1. Pháp luật thừa kế trong Luật La Mã cổ đại Trong Luật La Mã, luật dân sự là luật phát triển nhất về quy mô, phạm vi và kỹ thuật lập pháp. Các chế định luật dân sự La Mã rất phong phú, bao quát tất cả các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là các chế định về quyền sở hữu, hợp đồng và trái vụ, hôn nhân gia đình, thừa kế. Các quy phạm PLTK trong luật La Mã tương đối đầy đủ, điều chỉnh không chỉ các quan hệ về mặt nội dung mà còn cả trình tự thủ tục kiện thừa kế. Tồn tại trong luật của người La Mã có hai loại thừa kế, thừa kế theo di chúc (Testato); thừa kế theo luật (Inbestato). Nhưng với đặc tính quan trọng của quyền thừa kế ở La Mã là không kết hợp hai hình thức thừa kế cùng một lúc. Tức là, nếu có thừa kế theo di chúc thì không có thừa kế theo pháp luật và ngược lại. Pháp luật không cho phép trong di sản của người chết mà một phần di sản được chia theo di chúc, một phần khác được chia theo pháp luật. Luật La Mã quy định di chúc là việc định đoạt tài sản của con người lúc qua đời với nội dung có sự chỉ định rõ về người thừa kế, việc chỉ định người thừa kế phải được ghi rõ ngay từ đầu và là nội dung cơ bản của di chúc. Nếu trong di chúc không ghi rõ những quy định về nguồn tài sản sẽ phân phát cho ai bao nhiêu và tên người thừa kế thì di chúc không có hiệu lực. Theo luật LaMã, hoàn toàn hiểu di chúc là sự "giao dịch" (Negotio) đơn phương, hay hiểu cách khác đó là sự thể hiện ý chí của người viết di chúc. Chính vì vậy, không được hiểu di chúc là một hợp đồng (Contractu), vì trong di chúc không thể hiện được ý chí của người thừa kế, và người thừa kế có thể khước từ việc tiếp nhận tài sản thừa kế. ý chí của người thừa kế hoàn toàn không phụ thuộc vào địa điểm, không gian, thời gian, thời điểm mở di chúc. Hành vi nhận hoặc chối từ là hành vi độc lập, tách rời với di chúc [35, tr.161]. Xuất phát từ đó chúng ta có thể hiểu luật La Mã quy định người lập di chúc có quyền thay đổi việc chỉ định người thừa kế, truất quyền người thừa kế, thậm chí có quyền huỷ bỏ di chúc nếu điều đó là cần thiết và phù hợp với ý chí của mình. Trong luật La Mã không có quy định cụ thể di sản bao gồm những gì Tuy nhiên, dựa vào đặc diểm kinh tế, xã hội của thời kỳ đó và những quy định về vật trong luật L._.hứng cho di chúc được quy định tại Đ654 BLDS năm 2005 * Về việc thừa kế có yếu tố nước ngoài: hiện nay trong xu thế hội nhập quốc tế, quan hệ mọi mặt giữa nước ta và các nước ngày càng phát triển, công dân nước ngoài ở nước ta cũng như công dân nước ta ở nước ngoài ngày càng đông, tài sản của họ ở nước ngoài ngày càng nhiều. Với tình hình đó, nhất định sẽ phát sinh mối quan hệ PLTK có yếu tố nước ngoài. Trong lúc đó, do bản chất chế độ chính trị, kinh tế mỗi nước, do tình hình, đặc điểm của mỗi dân tộc, nội dung PLTK của mỗi nước sẽ khác nhau như về quyền thừa kế, về năng lực lập di chúc, về hình thức và nội dung lập di chúc về diện và hàng thừa kế, về xác định khối di sản... ví dụ về năng lực lập di chúc, theo pháp luật nước ta cũng như pháp luật của đại đa số các nước quy định người có quyền lập di chúc phải là người đạt tuổi trưởng thành có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Tuy vậy theo pháp luật của một bang Mỹ lại quy định là người 14 tuổi đã được quyền lập di chúc. Hoặc theo pháp luật một số nước khác, người đạt 14, 15 tuổi đã được lập di chúc: Câu hỏi được đặt ra là: Công dân nước ngoài dưới 18 tuổi xin lập di chúc ở cơ quan có thẩm quyền nước ta theo pháp luật của nước ngoài này, thì đương sự đủ điều kiện lập di chúc. Vậy cơ quan có thẩm quyền nước ta chấp thuận hay từ chối trong việc công chứng? Công dân nước ta dưới 18 tuổi xin lập di chúc ở cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài và đã được cơ quan nước này chấp nhận. Vậy pháp luật nước ta coi di chúc hợp lệ hay không hợp lệ? Hoặc về hình thức: Nhìn chung, pháp luật đại đa số các nước quy định có loại di chúc mật, pháp luật nước ta lại không quy định loại di chúc này. Di chúc mật là loại di chúc, mà sau khi người lập di chúc viết xong, tự bỏ di chúc này vào phong bì, có hai người làm chứng và được gián kín lại. Công chứng viên chỉ tiến hành công chứng ngoài phong bì. Câu hỏi đặt ra là: Công dân nước ta xin lập di chúc mật ở cơ quan thẩm quyền ở nước ngoài và được cơ quan này chứng nhận vậy pháp luật nước ta có coi di chúc mật này là hợp lệ hay không? Công dân nước ngoài xuất trình di chúc mật vậy cơ quan có thẩm quyền nước ta để nhận di sản ở nước ta. Vậy pháp luật nước ta có chấp nhận di chúc mật này không? Để giải quyết bất đồng nói trên, trong nội luật các nước có những quy phạm xung đột PLTK. Theo Đ 768 BLDS 2005 Việt Nam, năng lực lập di chúc được điều chỉnh theo pháp luật của nước người lập di chúc "là công dân" hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước "nơi lập di chúc" trong khi đó theo pháp luật Liên Xô lại quy định năng lực lập di chúc được xác định theo pháp luật nơi thường trú" pháp luật một số nước khác lại quy định " theo luật quốc tịch"...Vậy, để giải quyết xung đột PLTK chúng ta nên áp dụng công thức nào cho thích hợp, vừa đảm bảo tính nguyên tắc, vừa đảm bảo tính tự lập cho người lập di chúc, vừa phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Theo chúng tôi cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng các quy phạm xung đột về thừa kế, tiếp tục tham gia các công ước đa phương hoặc ký kết hiệp định song phương để giải quyết vấn đề này. * Về cấu trúc và sử dụng từ ngữ trong một số quy phạm PLTK: Xét về mặt kỹ thuật pháp lý PLTK hiện hành vẫn còn những quy định chưa lôgích, một số từ ngữ sử dụng chưa khoa học, chưa chính xác nên cần thiết phải khắc phục, chẳng hạn cần sửa đổi một số từ trong K3 Đ654 BLDS năm 2005. Bởi vì trong trường hợp người chưa đủ 18 tuổi, theo quy định tại Đ18,19,20,21,22 thì người chưa đủ 18 tuổi gọi là người chưa thành niên được chia thành hai nhóm: nhóm từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là nhóm năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ và nhóm chưa đủ 6 tuổi là nhóm không đủ năng lực hành vi dân sự. Do đó tại K3 điều này quy định: "người chưa đủ 18 tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự" là chưa chính xác. Vì vậy, cần sửa đổi : "người không có năng lực hành vi dân sự" thành người"mất năng lực hành vi dân sự" tức là những người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức hoặc làm chủ được hành vi của mình. Sự sửa đổi này sẽ làm cho quy định của điều luật được chặt chẽ thống nhất với điều 19,20,21,22,23,24 BLDS 2005, Hoặc những quy phạm pháp luật xung đột về thừa kế tại Đ767 và Đ 768 BLDS 2005 cũng cần chỉnh lý lại một số từ ngữ cho thích hợp. Ví dụ: "thừa kế theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết" (17; Đ 767). Theo ý kiến chúng tôi, quy phạm pháp luật xung đột này phải được diễn đạt lại "thừa kế theo pháp luật được điều chỉnh hoặc được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản là công dân". Hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc" (17 Đ 768), theo ý kiến chúng tôi, quy phạm pháp luật xung đột này được diễn đạt như sau: "hình thức di chúc được điều chỉnh, hoặc được xác định theo pháp luật của nước nơi lập di chúc. Ngoài ra, cấu trúc các điều luật trong một số chương không hợp lý, ví dụ như chương thừa kế theo di chúc có những điểm không hợp lý với nội dung cũng như việc sắp xếp các điều luật, điều đó không tạo ra sự liền mạch về cùng một vấn đề gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Theo chúng tôi, những quy định về di chúc và các loại di chúc quy định hết ở phần đầu của chương này gồm các Đ646 (di chúc), Đ647 (người lập di chúc), Đ648 (quyền người lập di chúc) và các điều tiếp theo là thế nào là di chúc hợp pháp, hiệu lực pháp luật của di chúc, người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc, người làm chứng di chúc... sau đó mới quy định các hình thức di chúc. * Về luật tố tụng: Theo Bộ luật tố tụng dân sự 2004 toà án nhân dân cấp huyện thụ lý và giải quyết tất cả các vụ án dân sự, kinh tế, thương mại. Điều này không những không đảm bảo được tính chuyên nghiệp của toà án mà còn kéo theo tình trạng án sửa, án huỷ, án tồn đọng hàng năm. Quan hệ thừa kế có những nét đặc thù ruêng, nó khác nhau về bản chất so với quan hệ pháp luật khác, và khi giải quyết các quan hệ thừa kế toà án cũng phải dựa trên các nguyên tắc khác nhau. Vì vậy, việc xây dựng các cơ sở pháp lý cho các thẩm phán chuyên trách về thừa kế là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay góp phần giúp các thẩm phán có thời gian và điều kiện tập trung chuyên môn sâu hơn về lĩnh vực thừa kế, hạn chế việc sửa án và huỷ án, đồng thời làm giảm thiểu tình trạng án tồn đọng. Ngoài ra, cần sớm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật tố tụng để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc giúp toà án giải quyết chính xác, hiệu quả các tranh chấp về thừa kế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 3.2.3. Kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn về thừa kế Xây dựng luật là công việc hết sức khó khăn nhưng để luật đi được vào cuộc sống, phát huy giá trị trong cuộc sống còn khó khăn hơn gấp bội. Để luật đi được vào cuộc sống, điều chỉnh một cách hiệu quả các quan hệ xã hội thì công tác hướng dẫn thi hành luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng [72, tr.100]. Như chúng tôi đã phân tích ở các phần trước thì các quy định về thừa kế hiện hành còn khái quát cô đọng nhưng thực tiễn lại hết sức đa dạng phong phú và không ngừng biến đổi. Đặc biệt, trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thu nhập của nhân dân ta không chỉ đủ để chi phí sinh hoạt hàng ngày mà còn có điều kiện tích luỹ để lại cho con cháu sau này, rồi đây di sản thừa kế không chỉ đơn thuần là tài sản có thể xác định ngay được ở thời điểm mở thừa kế, mà còn là giá trị phần trăm, cổ phần, sở hữu đối với một công ty, một tập đoàn kinh tế... Do đó, để áp dụng pháp luật đạt hiệu quả không chỉ dựa vào các văn bản đã được pháp điển hoá thành bộ luật mà còn dựa vào các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Vấn đề này đã được quy định trong Nghị quyết của Quốc hội về việc hướng dẫn thi hành BLDS 2005 như sau: "Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Vịên kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn thực hiện BLDS ". Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng chúng tôi thấy những vấn đề sau đây cần có hướng dẫn cụ thể để áp dụng thống nhất : * Về quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế: Đ 679 BLDS 2005 quy định: “Con riêng và bố dượng mẹ kế đều có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và được thừa kế theo quy định tại Đ 676 và 677 Bộ luật này”. Trên tinh thần điều 679 thì tiêu chí để xác định con riêng với bố dượng, mẹ kế có được hưởng thừa kế của nhau hay không là dựa trên quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau. Nếu hai phía không có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng thì không được thừa kế của nhau. Tuy nhiên “ quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng” là một phạm trù rất trừu tượng, không thể xác định một cách cụ thể, rõ ràng. Vậy, dựa vào tiêu chí đâu để đánh giá “ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con?” Mức độ như thế nào? thời gian bao lâu? Nếu chỉ quan hệ một chiều, một bên chăm sóc nuôi dưỡng, còn bên kia không chăm sóc nuôi dưỡng thì có được hưởng thừa kế không? Pháp luật có đòi hỏi con riêng và bố dượng sống chung nhà hay không?....Như vậy, nếu không có sự hướng dẫn kịp thời của cơ quan có thẩm quyền thì việc xác định quyền thưà kế giữa con riêng và cha, mẹ kế là một vấn đề rất phức tạp, sẽ có nhiều quan điểm khác nhau trong việc áp dụng quy phạm này để giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, tuỳ theo cách hiểu của thẩm phán, có trường hợp toà án cho hưởng thừa kế, nhưng có trường hợp chỉ trích công sức nuôi dưỡng lo ma chay và thậm chí không chấp nhận yêu cầu của họ. Lúc đó quyền lợi con riêng với bố dượng, mẹ kế khó có cơ sở pháp lý để bảo vệ, khi xung quanh họ có rất nhiều người, có quan hệ thân thuộc, gần gũi trong diện thừa kế. Vì vậy, chúng tôi đề nghị cơ quan thẩm quyền cần phải có một văn bản hướng dẫn cụ thể Đ 679, để cơ quan chức năng nhất quán thi hành. Theo tác giả, khi xây dựng điều luật về vấn đề thừa kế theo pháp luật giữa con riêng với cha kế, mẹ kế thì phải quy định cụ thể về tiêu chí xác định "quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con mẹ con" như về thời gian chăm sóc, mức độ chăm sóc, căn cứ xác định... có quy định cụ thể như vậy, không những thuận tiện cho việc áp dụng quy phạm để giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế mà còn phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội và truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. * Về sự đồng ý của cha mẹ đối với con từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi lập di chúc. Để đảm bảo quyền tự định đoạt của những người ở độ tuổi này, pháp luật nước ta vẫn quy định cho họ được lập di chúc dù họ chưa thành niên. Tuy nhiên, vì sự nhận thức của họ còn hạn chế nên trong khoản 2 điều 652 BLDS2005 đã quy định việc lập di chúc của những người này phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Do hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể về thời điểm cũng như hình thức đồng ý của cha mẹ người giám hộ là đồng ý về việc lập di chúc hay là đồng ý về sự định đoạt trong nội dung di chúc, nên còn có những ý kiến khác nhau trong khoa học pháp lý. Về nguyên tắc thì do chưa có văn bản nào khác ngoài quy định BLDS 2005, nên cha mẹ có thể đồng ý bất kỳ ở giai đoạn nào của quá trình lập di chúc; Trước, trong, sau khi lập di chúc. Hoặc nếu để cha, mẹ có ý kiến sau khi di chúc đã được lập thì sẽ không đảm bảo được tính khách quan. Nếu như di chúc không có lợi cho cha, mẹ thì việc để cha, mẹ đồng ý là vấn đề rất khó, vì người cha, mẹ chỉ cần không đồng ý thì di chúc đương nhiên không có hiệu lực, di sản được chia theo pháp luật, cha mẹ sẽ là người ở hàng thừa kế thứ nhất của người con chưa thành niên. Nếu hiểu sự đồng ý là đồng ý việc định đoạt nội dung di chúc thì vô hình dung pháp luật đã can thiệp đến quyền tự quản ý chí tự nguyện của người lập di chúc, trong lúc đó ý chí tự nguyện là một trong những điều kiện để di chúc được xem là hợp pháp. Từ những lý lẽ trên, chúng tôi cho rằng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi ban hành các văn bản để giải thích luật hoặc để hướng dẫn thi hành Đ 652 BLDS 2005 thì cần phải quy định cụ thể theo hướng sau: Sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ là ý kiến của họ về việc cho hay không cho người trên 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi lập di chúc chứ không can thiệp sự định đoạt của họ trong nội dung của bản di chúc. ý kiến của những người nói trên phải được thể hiện trong một văn bản riêng và phải thể hiện trước khi di chúc được lập. Nếu di chúc đã được lập mà cha, nẹ hoặc người giám hộ của người lập di chúc không có ý kiến gì thì coi như họ đã đồng ý cho lập di chúc và vì vậy di chúc đó sẽ được coi là hợp pháp. Nếu những người nói trên không đồng ý việc lập di chúc của người chưa đủ 18 tuổi sau khi đã nắm bắt nội dung của di chúc vì sự định đoạt trong nội dung di chúc ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người không đồng ý thì di chúc đó vẫn được coi là có hiệu lực pháp luật. * Về di chúc miệng: hình thức di chúc miệng vốn là một trong những tập quán hình thành từ lâu đời của người Việt Nam. Đó là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của mình cho người khác sau khi chết. Cho tới nay pháp luật vẫn ghi nhận thừa kế theo hình thức di chúc miệng. Tuy nhiên, đây là hình thức di chúc được thực hiện "bằng lời nói" nên thực tế rất khó khăn cho việc ghi nhận sự thật cũng như xác định tính khách quan của di chúc. Do vậy điều 651 BLDS 2005 đã quy định di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp khi nó đáp ứng được những yêu cầu cụ thể: Trước hết, việc lập di chúc miệng chỉ được áp dụng trong trường hợp khi tính mạng của một người bị cái chết đe doạ do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Hai là người lập di chúc phải thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Ba là sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sóng, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng bị huỷ bỏ. Bốn là trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực. Chúng tôi cho rằng, những quy định trên về di chúc miệng là quá sơ sài, đơn giản. Dả dụ như việc ghi ngày, tháng, năm lập di chúc là một quy định bắt buộc đối với di chúc bằng văn bản được quy định tại điểm a K 1 Điều 656 BLDS thì đối với di chúc miệng cũng không thấy nêu gì vấn đề này. Mặt khác, khi những người làm chứng ghi lại nội dung di chúc miệng cũng cần tuân theo các quy định của di chúc văn bản ( Điều 653 BLDS 2005). Hơn nữa, những người nào được mang di chúc miệng đi chứng nhận, chứng thực hay chỉ người làm chứng và trách nhiệm của họ khi không thực hiện việc đi chứng nhận chứng thực cũng là vấn đề cần quy định. Theo BLDS Nhật Bản thì quy định rất cụ thể về người viết cũng như người đi chứng nhận, chứng thực di chúc miệng, các căn cứ cơ quan có thẩm quyền xác định di chúc.( Đ 976), vì vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất chúng tôi đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn kịp thời về hình thức di chúc này, người viết lại di chúc miệng, trách nhiệm của người mang di chúc miệng đi công chứng, chứng thực... 3.2.4. Tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháptrong đó có quyền ban hành các quy phạm pháp luật về thừa kế. Do đó, Quốc hội phải nắm bắt được ý chí nguyện vọng của nhân dân trước những vấn đề mà cuộc sống đang đòi hỏi cần có sự điều chỉnh của pháp luật nói chung và vấn đề thừa kế nói riêng nhằm ban hành, sửa đổi hoặc bổ sung kịp thời những quy định của pháp luật. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau: - Trước hết, kiện toàn tổ chức bộ máy chuyên trách giúp Quốc hội trong công tác lập pháp, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp luật và giám sát các hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan cấp dưới. - Thứ hai, tăng cường số lượng đại biểu chuyên trách để đại biểu quốc hội có đủ điều kiện tham gia hoạt động lập pháp và kiểm tra, giám sát các hoạt động lập pháp, lập quy. Các đại biểu phải nắm bắt sâu sắc nhiều vấn đề trong đó có vấn đề thừa kế. - Ba là, cần có cơ chế phù hợp, đặc biệt là bộ máy giúp việc và kinh phí, trang thiết bị để tạo điều kiện cho đại biểu quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ trong hoạt động xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong đó có pháp luật thừa kế và thực hiện quyền kiến nghị về luật ra trước Quốc hội, - Bốn là, cần trang bị kỹ năng về lập pháp cho đại biểu quốc hội. Mặc dù, đại biểu quốc hội là những nhà hoạt động chính trị nhưng trong sự nghiệp của mình thì việc thực hiện nhiệm vụ lập pháp được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Trong khi đó, không phải bất kỳ ai trở thành đại biểu quốc hội cũng được trang bị kỹ năng này. Do đó, tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng về kỹ năng lập pháp nhằm có đủ phẩm chất và năng lực thực hiện công việc là việc có ý nghĩa quan trọng. Đồng thời, bảo đảm việc cung cấp thông tin cần thiết cho đại biểu quốc hội, thông tin phải đa dạng, nhiều chiều, được cập nhật thường xuyên và có độ tin cậy cao. Đồng thời thường xuyên tạo điều kiện cho các đoàn đại biểu quốc hội sang thăm và làm việc tại nước ngoài nhằm trao đổi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao khả năng chuyên môn của các nhà lập pháp. Tiếp tục đổi mới cách thức và phạm vi các nội dung thảo luận của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội về dự án luật, pháp lệnh cũng như các văn bản pháp luật về thừa kế. Quốc hội chỉ tập trung thảo luận những vấn đề thuộc về đường lối, chính sách, các nội dung cơ bản và những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự án luật. Quốc hội tăng thời gian cho hoạt động lập pháp, đồng thời xây dựng cơ chế để phát huy vai trò và trách nhiệm của đại biểu quốc hội chuyên trách, của các cơ quan giúp việc Quốc hội trong hoạt động lập pháp và giám sát. Ngoài ra, cũng cần phải tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng, quy trình lập pháp, lập quy của chình phủ, hiệu quả văn bản giải thích pháp luật về thừa kế của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao... tăng cường vai trò của cơ quan tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng PLTK, hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật... Kết luận chương 3 Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của PLTK cũng như yêu cầu sự nghiệp đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nhu cầu hội nhập quốc tế hiện nay, việc đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện PLTK là một yêu cầu tất yếu khách quan. Trên cơ sở định hướng các quan điểm của Đảng, nhà nước, và thực trạng PLTK, tác giả phát hiện những quy định pháp luật thiếu tính khái quát, tính đồng bộ, toàn diện và từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện PLTK được nêu ở mục 3.2 chương 3. Kết luận Thừa kế là một trong những quan hệ xã hội ra đời và phát triển cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội loài người. Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất của chế độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh được tính chất từng giai đoạn trong quá trình phát triển của một chế độ xã hội. ở Việt Nam, từ khi hình thành cho đến nay, PLTK luôn được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội qua từng giai đoạn nhất định. PLTK ở giai đoạn sau thường kế thừa và tiếp tục phát huy những quy định có nội dung tiến bộ của giai đoạn trước, đồng thời bổ sung những quy định mới cho phù hợp với yêu cầu của xã hội lúc bấy giờ. Điều này được minh chứng từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Nhà nước ta luôn bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân. Từ đó đến nay, các quy định PLTK không ngừng hoàn thiện; mở rộng, phát triển để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, so với sự vận động mạnh mẽ của nền kinh tế đang chuyển đổi và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Hiện trạng PLTK ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cả về mặt nội dung và hình thức. Thế giới luôn vận động và phát triển nên các quy định của PLTK không thể nào bất biến và mãi mãi trường tồn. Thực tiễn của cuộc sống đang đặt bộ phận pháp luật này trước yêu cầu khách quan phải hoàn thiện. Để việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về thừa kế đạt kết quả tốt, điều đầu tiên phải đánh giá một cách khách quan những thiếu sót, hạn chế, bất cập trong PLTK hiện hành. Cần phải quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện PLTK. Ngoài ra, cũng cần phải biết kế thừa và phát huy những thành quả đã có,những điểm tiến bộ, còn phù hợp đồng thời biết tham khảo có chọn lọc những kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là những nước xây dựng thành công rất sớm bộ phận pháp luật này như nước cộng hoà Pháp, Nhật Bản... Để thực hiện được mục tiêu trên, đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ. Trước hết cần phải rà soát và hệ thống hoá lại toàn bộ các quy phạm, tìm ra các điểm bất cập để tiếp tục hoàn thiện. Đồng thời, cần sửa đổi, bổ sung kịp thời các quy định về thừa kế thế vị, con sinh ra bằng phương pháp khoa học, các điều kiện có hiệu lực di chúc... phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Mặt khác kịp thời ban hành các văn hướng hướng dẫn về các điều khoản chưa rõ ràng, cụ thể để tránh những cách hiểu không đồng bộ, tạo sự thống nhất trong cách giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó tiếp tục hoàn thiện cơ chế xây dựng PLTK, cũng là một biện pháp hữu hiệu trong quá trình hoàn thiện PLTK. Tuy nhiên, các giải pháp này không thể hoàn thành trong một sớm một chiều mà phải có một thời gian nhất định, với một lộ trình phù hợp. Hy vọng rằng, với sự nỗ lực của cơ quan xây dựng pháp luật, PLTK ở Việt Nam sẽ ngày càng hoàn thiện, góp phần tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế, xã hội đất nước. danh mục tài liệu tham khảo Toan ánh (1998), Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, Nxb Đồng Tháp. Ph.Ăngghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội. Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Tập 16, Nxb Sự thật, Hà Nội. Bản thuyết minh về dự thảo Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005). Trần Hữu Biền và TS. Đinh Văn Thanh (1995), Hỏi đáp về pháp luật thừa kế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010. Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931 (1988), Nxb Văn hoá. Bộ dân luật Trung Kỳ 1936 (Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật). Bộ luật giản yếu (3-10-1883). Bộ luật Sài Gòn năm 1972. Bộ luật dân sự Nhật Bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật dân sự thương mại Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật dân sự Pháp (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Quốc triều hình luật 1428 (1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1995), Tài liệu tham khảo cho Ban soạn thảo Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật Dân sự bang Quê béc Canada. Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1998), Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (2001), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996-1999 (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cải cách ruộng đất ở Việt Nam (1968), Nxb Khoa học, Hà Nội. Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam (1968), Nxb Sử học, Hà Nội. Đỗ Văn Chỉnh (10-2006), "Di sản không có người thừa kế hoặc từ chối nhận di sản - vấn đề cần có hướng dẫn", Tạp chí Tòa án nhân dân, (20). Phan Huy Chú (1992), Lịch triều Hiến chương loại chí, Bản dịch XLII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Chính phủ (1996), Nghị định số 76/CP, ngày 29-11-1996 hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự. Chính phủ (1999), Nghị định về phương thức trả nhà ở số 25/1999/NĐ-CP, ngày 19-10-1999. Chính phủ (2000), Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chế Mỹ Phương Đài (1997), Thừa kế theo pháp luật trong bộ luật dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật. Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. Trần Ngọc Đường (1998), Lý luận chung về nhà nước pháp luật, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (1999), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình Luật dân sự (1999), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình Luật La Mã (2001), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình Luật dân sự (2006), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình lý luận chung nhà nước và pháp luật(2006), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Dương Đăng Huệ (2000), Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật. Trần Thị Huệ (2006), "Một số vấn đề về xác định di sản thừa kế", Tạp chí Tòa án nhân dân, (16). Trần Thị Huệ (2006), "Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới", Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, (10). Thái Công Khanh (8-2006), "Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện điều 679 Bộ luật dân sự về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế", Tạp chí Tòa án nhân dân, (16). Thái Công Khanh (10-2006), "Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế", Tạp chí Tòa án nhân dân, (20). Dã Lan - Nguyễn Đức Dụ (1992), Gia phả, khảo du và thực hành, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Ngô Sỹ Liên ( ), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, 2, 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Đức Linh (1974), Danh từ pháp luật lược giải, Nxb Khai Trí, Sài Gòn. Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (1980), tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Lịch sử Việt Nam (1971), tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Lịch sử Việt Nam (1971), tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Lịch sử Việt Nam 1954-1965 (1995), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1984), Tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1986), Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội. Vũ Văn Mẫn (1970), Cổ luật Việt Nam lược khảo, Nxb Sài Gòn. Vũ Văn Mẫn (1972), Cổ luật Việt Nam thông khảo, Nxb Sự thật, Hà Nội. Vũ Văn Mẫn (1972), Dân luật lược giảng, Quyển I, Khoa Luật Đại học Sài Gòn, Nxb Sài Gòn. Vũ Văn Mẫn (1975), Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng, Quyển I, Tập 1, Nxb Sài Gòn. Nguyễn Hồng Nam (2005), Các điều kiện có hiệu lực của di chúc, Luận văn thạc sĩ Luật, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội. Pháp lệnh thừa kế, 30-8-1990. Phạm Thị Phượng (2004), Hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố ngước ngoài, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Lê Kim Quế (1994), 90 câu hỏi - đáp pháp luật về thừa kế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946), Hiến pháp 1946. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959), Hiến pháp 1959. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp 1980. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Hiến pháp 1992 và sửa đổi 2001. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959), Luật hôn nhân và gia đình. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1986), Luật hôn nhân và gia đình. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Luật đất đai. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật đất đai. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật đất đai. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật hôn nhân và gia đình. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Nghị quyết số 35/2000/QH10, ngày 9-6-2000 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình. Trần Văn Quý (2006), Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Quyền thừa kế của công dân (1989), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Sắc lệnh số 97/SL, ngày 22-5-1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Phùng Trung Tập (2001), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật, Đại học Luật Hà Nội. Ngô Trung Thành (2006), Hoàn thiện pháp luật về trưng cầu ý dân, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tòa án nhân dân tối cao (1959), Chỉ thị số 772-CT/TATC về việc đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến. Tòa án nhân dân tối cao (1968), Thông tư số 594-NCPL, ngày 27-8-1968 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế. Tòa án nhân dân tối cao (1972), Thông tư số 02-TATC, ngày 2-8-1972 về thừa kế di sản của liệt sĩ. Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư số 81-TANDTC, ngày 24-7-1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác tòa án toàn quốc năm 2005 và phơng hướng nhiệm vụ ngành Tòa án năm 2006. Phạm ánh Tuyết (2003), Thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (1999), Luật La Mã. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích luật ngữ luật học Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (1998), Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991, số 58/1999/NQ-UBTVQH10. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC, hướng dẫn một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10. Viện Nhà nước và Pháp luật (1994), Tập bài giảng Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam. Nguyễn Thị Vĩnh (1996), Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChau LUAN VAN TOT NGHIEP SUA LAN 3.doc
  • docthem.doc
  • docChau LUAN VAN TOT NGHIEP SUA LAN 2.doc
  • docChau LUAN VAN TOT NGHIEP SUA LAN 5.doc
  • doccong trinh.doc
  • doccong trinh khoa hoc da cong bo.doc
  • docmuc luc.doc
Tài liệu liên quan