Hoàn thiện phương pháp Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương của người lao động tại Công ty Dịch vụ Vật tư Bưu điện Hà Nội trong điều kiện vận dụng các chuẩn mực Kế toán Việt Nam

Lời nói đầu Trong bất kỳ một xã hội nào nếu muốn sản xuất ra vật liệu, của cải hoặc thực hiện quá trình biến đổi thì vấn đề về lao động của con người là vấn đề không thể thiếu được, lao động là một yếu tố cơ bản, là một nhân tố quan trọng trong việc sản xuất cũng như trong việc kinh doanh. Những người lao động làm việc cho những người sử dụng lao động đều nhận được thù lao lao động dưới hình thức tiền lương để sản xuất lao động. Trong giai đoạn hiện nay việc làm đảm bảo lợi ích cá nhân người

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện phương pháp Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương của người lao động tại Công ty Dịch vụ Vật tư Bưu điện Hà Nội trong điều kiện vận dụng các chuẩn mực Kế toán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lao động là một động lực cơ bản trực tiếp khuyến khích mọi người đem hết khả năng nỗ lực phấn đấu, sáng tạo trong sản xuất. Sự đổi mới sâu sắc sẽ là cơ chế quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế và mục tiêu chiến lược hiện đại hoá - công nghiệp hoá ở nước ta. Để tạo điều kiện cho nhân tố con người ngày càng được chú ý coi trọng cả về trí lực và thể lực. Trong đó, yếu tố quyết định sẽ thúc đẩy hay kìm hãm, thậm chí làm tha hoá con người. Đó chính là chế độ tiền lương và chế độ thưởng phạt đối với người lao động. Chính vì vậy các doanh nghiệp phải làm thế nào để khuyến khích việc tăng năng suất lao động và hiệu quả của công việc đối với người lao động đó là nhiệm vụ mà họ được giao. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào công tác tại tổ chức hạch toán lao động và tiền lương trong các doanh nghiệp hiện nay. Tiền lương chỉ thực sự phát huy tác dụng khi các hình thức tiền lương được áp dụng hợp lý nhất, sát thực với tình hình thực tế của các đơn vị sản xuất kinh doanh, sự cống hiến của mỗi người. Trong thời gian thực tập tuy chưa hiểu cặn kẽ và sâu sắc vấn đề, song em đã cố gắng tìm hiểu những vấn đề cơ bản nhất trong công tác kế toán tiền lương tại Công ty Dịch vụ Vật tư Bưu điện Hà Nội, đồng thời mạnh dạn đưa ra một số ý kiến với mong muốn hoàn thiện hơn nữa công tác hạc toán lao động tiền lương và các khoản trích theo liên quan nhằm phát triển doanh nghiệp ngày càng tiến xa hơn. Với nhận thức đó, em đã chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp: “Hoàn thiện phương pháp kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương của người lao động tại Công ty Dịch vụ Vật tư Bưu điện Hà Nội trong điều kiện vận dụng các chuẩn mực kế toán Việt Nam”. Tập trung vào chuyên đề này gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong điều kiện vận dụng các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Chương 2: Thực trạng kế toán tiến lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Dịch vụ Vật tư Bưu điện Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty Dịch vụ Vật tư Bưu điện Hà Nội. Do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nên trong bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét của thầy cô cùng các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 Lý luận chung về Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong ĐIềU KIệN VậN DụNG CáC CHUẩN MựC Kế TOáN VIệT NAM 1.1. Khái niệm cơ bản về tiền lương và các khoản trích theo lương: 1.1.1. Khái niệm tiền lương: Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động, tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá. Tiền lương (tiền công) là phần thù lao lao động để tái sản xuất sức lao động, bù đắp hao phí lao động của công nhân viên đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tiền lương gắn liền với thời gian và kết quả lao động mà công nhân viên đã tham gia, thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực chất công tác tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một bộ phận thu nhập quốc dân biểu hiện bằng tiến phân phối cho người lao động theo số lượng và chất lượng mà họ đã bỏ ra. Tiến lương biểu hiện rõ ràng nhất lợi ích kinh tế của người lao động và trở thành đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ nhất kích thích người lao động quan tâm đến hiệu quả sản xuất. Tổ chức tiền lương có quan hệ mật thiết thường xuyên đến từng người lao động đến mọi mặt hoạt động của sản xuất hoạt động của doanh nghiệp, thể hiện rõ chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Hiện nay có thể hiểu tiền lương là một phần thu nhập quốc dân, là giá trị mới tạo ra mà người sử dụng sức lao động trả cho người lao động phù hợp với sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo hợp đồng lao động đã ký kết giữa hai bên. Tiền lương được coi là một bộ phận trong chi phí của sản xuất kinh doanh, nó cấu thành nên giá trị của sản phẩm hàng hoá hoặc được xác định là một bộ phận của thu nhập. Đó là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy trong giá thành sản phẩm đồng thời tiền lương cũng được xem là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Tiền lương gắn liền với thời gian và kết quả lao động mà công nhân đã thực hiện. Ngoài ra tiền lương để đảm bảo tái sản xuất sức lao động và cuộc sống lâu dài.Theo chế độ tài chính hiện hành doanh nghiệp còn phải tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của một bộ phận chi phí gồm các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ. Có thể nói rằng tiền lương là giá cả của sức lao động là khả năng lao động của con người về thể chất và trí tuệ. Trong các doanh nghiệp Nhà nước cũng như tư nhân, nếu hiệu quả sản xuất kinh doanh cap thì các thu nhập và tiền lương của người lao động cũng được nâng cao và ngược lại, nếu hiệu quả thấp thì tiền lương và các thu nhập khác của người d cũng giảm đi. Khi tiền lương được trả đúng với khả năng lao động và năng suất của người lao động thì nó là động lực thúc đẩy năng suất lao động tăng lên, người lao động lại càng hăng say mang hết khả năng và nhiệt tình để phục vụ và sáng tạo ra của cải vật chất để đem lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao cho doanh nghiệp. * Chức năng của tiền lương: a)Tiền lương là thước đo giá trị: biểu hiện giá cả sức lao động, là cơ sở để điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi giá cả biến động. b) Tiền lương có chức năng tái sản xuất sức lao động : Đây là yêu cầu thấp nhất của tiền lương đúng với nghĩa của nó. Tiền lương trước hết phải đảm bảo tái sản xuất, tức là phải nuôi sống người lao động, duy trì sức lao động, năng lực làm việc lâu dài, có hiệu quả trên cơ sở tiền lương đảm bảo bù đắp được sức lao động đã hao phí. Để đảm bảo tái sản xuất sức lao động, tiền lương phải được tính toán đầy đủ trên 3 mặt: - Duy trì và tăng sức lao động của chính bản thân người lao động. - Tái sản xuất ra sức lao động mới. - Tích luỹ kinh nghiệm, hoàn thành kỹ năng lao động, nâng cao tay nghề. c) Tiền lương có chức năng kích thích sức lao động: Tiền lương là động lực chủ yếu khích lệ người lao động làm việc có hiệu quả, tiết kiệm nguyên liệu, tạo điều kiện phát huy sáng kiến, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân viên. d) Tiền lương là công cụ quản lý của nhà nước: Chế độ tiền lương có tính chất pháp lý của nhà nước buộc người sử dụng lao động phải trả theo công việc hoàn thành của người lao động, đảm bảo quyền lợi tối thiểu mà họ được hưởng. e) Tiền lương làm chức năng điều tiết lao động: Thông qua hệ thống thang lương bảng lươngvà các chế độ phụ cấp được xác định cho từng vùng, từng ngành trên toàn lãnh thổ, góp phần tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý. * ý nghĩa của kế toán lao động và tiền lương: Tiền lương là công cụ để thực hiện chức năng phân phối, thu nhập quốc dân, chức năng thanh toán, tiền lương nhằm tái sản xuất sức lao động thông qua việc sử dụng tiền lương trao đổi lấy các vật sinh hoạt cần thiết cho cuộc sống của người lao động. Do đó tiền lương là một công cụ quan trọng trong quản lý. Người ta sử dụng nó để thúc đẩy người lao động trong công việc, hăng hái lao động và sáng tạo, coi như một công cụ tạo động lực trong lao động. Do vậy, quản lý lao động tiền lương là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý sản xuất biến đổi nó giúp cho doanh nghiệp hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất của mình. Tổ chức tốt hạch toán lao động và tiền lương giúp cho công tác quản lý lao động của doanh nghiệp vào nếp, thúc đẩy người lao động chấp hành tổ chức kỷ luật lao động, tăng năng suất và hiệu suất công tác. Đồng thời công tác ra các cơ sở cho việc tính lương thu đúng nguyên tắc phân phối theo lao động. Tổ chức công tác hạch toán lao động và tiền lương giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt quỹ lương, đảm bảo việc trả lương và trợ cấp BHXH đúng nguyên tắc, đúng chế độ, khuyến khích người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao, đồng thời cũng tạo cơ sở cho việc phân bổ chi phí nhân công vào giá thành sản phẩm được chính thức. * Nhiệm vụ của kế toán lao động tiền lương trong doanh nghiệp là: 1. Tổ chức ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về số lượng lao động, thời gian và kết quả lao động, tính lương và tính trên các khoản theo lương, phân bổ các phần nhân công đúng đối tượng sử dụng lao động. 2. Hướng dẫn, kiểm tra các nhân viên, hạch toán ở các bộ phận sản xuất kinh doanh, các phòng ban về lao động tiền lương, mở cửa số cần thiết và hạch toán nghiệp vụ lao động tiền lương đúng chế độ, đúng phương pháp. 3. Lập báo cáo về lao động, tiền lương thuộc phần việc do mình phụ trách. 4. Phân tích tình hình quản lý, sử dụng thời gian lao động, chi phí phân công năng suất lao động, đề suất các biện pháp nhằm khai thác, sử dụng triệt để có hiệu quả mọi tiềm năng lao động sẵn có trong doanh nghiệp. 1.1.2. Chi phí lao động và tiền lương: Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của đất nước. Lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh và là yếu tố mang tính quyết định nhất. Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả người ta phải tính đến các yếu tố chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất như phí nguyên vật liệu, chi phí hao mòn máy móc thiết bị nhà xưởng, chi phí quản lý doanh nghiệp… Song có một yếu tố góp phần đến yếu tố sản xuất kinh doanh không thể không đề cập đến là chi phí lao động sống. Đó là một yếu tố cơ bản cấu thành nên giá thành sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Sử dụng hợp lý lao động cũng chính là tiết kiệm chi phí lao động do đó hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng doanh lợi cho doanh nghiệp và là điều kiện cải thiện nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho công nhân viên, cho người lao động trong doanh nghiệp. Ngoài tiền lương doanh nghiệp còn phải tính vào chi phí sản xuất kinh doanh một bộ phận chi gồm các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ. - BHXH được trích lập để tài trợ cho công nhân viên tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức nghỉ hưu… - BHYT để tài trợ cho việc phòng chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho người lao động. - KPCĐ để phục vụ chi tiêu cho hoạt động tổ chức của giới lao động nhằm chăm lo bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Vì vậy tiền lương đóng vai trò quyết định trong việc ổn định và phát triển lực lượng lao động. Người lao động dùng tiền lương để trang trải các chi phí trong gia đình, ngoài ra còn dùng để tích luỹ. Nhưng trước hết tiền lương phải đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hàng ngày của người lao động. Có thể nói đây là tác động quan trọng nhất, trực tiếp nhất của tiền lương vì chức năng kinh tế quan trọng nhất của tiền lương là đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Tiền lương phù hợp với hao phí lao động mà người lao động bỏ ra trong quá trình sản xuất vật chất sẽ gắn bó họ với công việc và tinh thần trách nhiệm cao hơn. Được nhận tiền lương phù hợp với sức lao động của mình người lao động tự cảm thấy mình luôn không ngừng nâng cao bồi dưỡng trình độ về mọi mặt cũng như tinh thần lao động. ở họ trách nhiệm về công việc trong phẩm chất mỗi người lao động được nâng cao thể hiện tất cả những gì về năng lực cũng như chuyên môn, đi sâu hơn nữa trong mọi lĩnh vực công việc góp phần hoàn thiện hơn, thúc đẩy bộ mặt doanh nghiệp phát triển. 1.1.3. Các khoản trích theo lương: Ngoài tiền lương công nhân viên chức còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc phúc lợi xã hội trong đó có trợ cấp BHXH, BHYT, KPCĐ. * Bảo hiểm xã hội (BHXH): Theo khái niệm tổ chức lao động quốc tế thì BHXH được hiểu là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khó khăn về tài chính do bị mất hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tàn tật, tuổi già, tử tuất… Theo Nghị định 28/CP ngày 28/02/1997 quy định chế độ BHXH đối với người Việt Nam thì BHXH là một hệ thống 3 tầng bao gồm: - Tầng 1: là tầng cơ sở, áp dụng cho mọi người, mọi cá nhân trong xã hội, trong đó chủ yếu là người nghèo. - Tầng 2: Bắt buộc cho những người có công ăn việc làm ổn định. - Tầng 3: là tầng tự nguyện giành cho những người muốn và có khả năng đóng BHXH cao. Quỹ BHXH được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp của công nhân viên chức thực tế phát sinh trong tháng và một phần hỗ trợ của Nhà nước. Việc quản lý và sử dụng quỹ BHXH phải thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước và các nguyên tắc hạch toán độc lập. Hiện nay, theo quyết định 114TC/CĐKT ngày 01/11/1995 BHXH tại doanh nghiệp bằng 20% so với tổng quỹ lương, trong đó cơ cấu nguồn quỹ được quy định như sau: - 15% doanh nghiệp trả thay, tính vào chi phí kinh doanh. - 5% khấu trừ vào lương công nhân viên. Quỹ BHXH được trích dùng cho các mục đích sau: - Chi chế độ trợ cấp ốm đau cho người lao động bị tai nạn (không phải tai nạn lao động) thì tiền trợ cấp bằng 75% lương. - Chi chế độ trợ cấp thai sản cho người lao động nữ có thai, sinh con. - Cho chế độ trợ cấp = 100% tiền lương cộng với 1 tháng lương khi sinh con. - Chi chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người bị tai nạn hoặc bệnh nghề nghiệp tiền trợ cấp = 100% tiền lương trong suốt quá trình điều trị. - Chi chế độ hưu trí cho người lao động đủ tiêu chuẩn theo luật lao động. - Chi chế độ tử tuất cho thân nhân người lao động khi người lao động chết. * Bảo hiểm y tế (BHYT): BHYT thực chất là sự trợ cấp về y tế cho người tham gia bảo hiểm nhằm góp phần nào đó trang trải tiền khám chữa bệnh, viện phí, thuốc thang. Mục đích của BHYT là tạo một mạng lưới sức khoẻ cho cộng đồng, bất kể địa vị xã hội, mức thu nhập cao hay thấp. Về đối tượng áp dụng co những người tham gia đúng BHYT thông qua việc mua thẻ BH. Mức trích theo chế độ hiện hành là 3% trên tổng tiền lương phải trả cho công nhân viên trong đó. - 2% doanh nghiệp nộp thay, tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. - 1% khấu trừ vào lương của công nhân viên. * Kinh phí công đoàn (KPCĐ): Công đoàn là một tổ chức đoàn thể, đại diện và bảo vệ nguồn lợi hợp pháp của công nhân viên, vì vậy nó phải được duy trì và hoạt động tốt. Đó là một tổ chức đọc lậo có tư cách pháp nhân, công đoàn tự hạch toán thu chi, nguồn quỹ lương thực tế phát sinh với tỷ lệ quy định là 2% và được tình vào chi phí sản xuất kinh doanh trong đó nộp 1% cho cấp trên (liên đoàn lao động), còn 1% để chi tiêu tại công đoàn cơ sở. Một phần doanh nghiệp thực hiện chế độ trả lương cho cán bộ công đoàn chuyên trách thì số tiền lương này được coi là một phần trong số tiền nộp lên công đoàn cấp trên. Các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ cùng với tiền lương phải trả công nhân viên hợp thành loại chi phí về nhân công trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Quản lý việc tính toán trích lập và chỉ tiêu sử dụng các quỹ tiền lương, quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ có những ý nghĩa không những đối với việc tính toán chi phí sản xuất kinh doanh mà còn cả với việc đảm bảo quyền lợi người lao động trong doanh nghiệp. 1.2. Các hình thức trả lương, quỹ tiền lương: Việc tính và trả chi phí lao động có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh tính chất công việc và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Mục đích của chế độ tiền lương là nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động. Trên thực tế các doanh nghiệp thường áp dụng các chế độ trả lương cơ bản, phổ biến là chế độ trả lương theo khối lượng sản phẩm và chế độ tiền lương khoán. 1.2.1. Các hình thức tiền lương: 1.2.1.1. Hình thức trả lương theo thời gian: Hình thức tiền lương thời gian được thực hiện tính lương cho người lao động theo thời gian làm việc, theo ngành nghề và trình độ thành thạo chuyên môn, kỹ thuật. Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau mà mỗi ngành nghề cụ thể có thang lương công nhân cơ khí, công nhân xây dựng. Trong mỗi thang lương với các hệ số lương tương ứng. - Lương tháng được quy định sẵn đối với từng bậc lương trong các thang lương. Lương tháng thường được áp dụng để trả cho nhân viên làm công tác hành chính, quản lý kinh tế và các nhân viên thuộc các ngành hoạt động không có tính sản xuất. - Lương ngày là tiền lương trả cho người lao động theo mức lương ngày, theo số ngày làm việc thực tế trong tháng được tính bằng cách: Mức lương ngày = Mức lương tháng Số ngày làm việc theo chế độ Lương ngày thường được áp dụng để trả lương cho lao động trực tiếp hưởng lương thời gian, tính lương cho kinh doanh trong những ngày hội họp, học tập hoặc làm nghĩa vụ khác và làm căn cứ để tính trợ cấp BHXH. Mức lương giờ = Mức lương ngày Số giờ làm việc theo chế độ Tuỳ theo điều kiện và trình độ quản lý thời gian lao động, hình thức trả lương theo thời gian có thể được áp dụng theo 2 cách: trả lương theo thời gian giản đơn và trả lương theo thời gian có thưởng. + Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn: là số tiền trả cho người lao động chỉ căn cứ vào bậc lương và thời gian thực tế làm việc, không xét đến thái độ làm việc và kết quả công việc. + Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng: Là việc thực hiện chế độ trả lương theo thời gian giản đơn với việc áp dụng các hình thức tiền thưởng của cán bộ công nhân viên đạt các tiêu chuẩn khen thưởng quy định. Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng được áp dụng đối với những bộ phận sản xuất, những công việc chưa có điều kiện trả lương theo sản phẩm hay những công việc đòi hỏi phải đảm bảo tính chính xác cao, những công việc có trình độ cơ khí hoá, tự động hoá cao. *Ưu điểm của hình thức trả lương theo thời gian: - Phù hợp với những công việc mà ở đó không định mức hoặc không nên định mức. - Việc tính toán đơn giản dễ hiểu. *Nhược điểm của hình thức trả lương theo thời gian: Làm suy yếu vai trò làm đòn bẩy kinh tế tiền lương và duy trì chủ nghĩa bình quân trong tiền lương. 1.2.1.2. Hình thức trả lương theo sản phẩm: Tiền lương trả theo sản phẩm là tiền lương mà người lao động nhận được phụ thuộc vào đơn giá sản phẩm, số lượng và chất lượng sản phẩm mà họ đã sản xuất ra theo những điều kiện tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định của doanh nghiệp. Để hình thức trả lương theo sản phẩm phát huy đầy đủ tác dụng, đem lại hiệu quả kinh tế, khi tiến hành trả lương theo sản phẩm cần có những điều kiện cơ bản: - Phải xây dựng được định mức lao động có căn cứ khoa học tạo điều kiện để tính toán đơn giá tiền lương chính xác. - Tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc: kết quả hoàn thành mức lao động trong ca làm việc ngoài sự cố gắng của công nhân chính còn do trình độ tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc sẽ hạn chế đến mức tối đa thời gian tổn thất, tạo điều kiện cho công nhân chính hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch. - Thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm tra nghiệm thu sản phẩm sản xuất ra. Do tiền lương phụ thuộc vào số lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quy định và đơn giá, nên để trả lương chính xác cần tổ chức tốt công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm và xác định đúng đơn giá. - Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho người lao động để họ nhận thức rõ trách nhiệm khi hưởng lương theo sản phẩm, không chú ý tới việc sử dụng nguyên vật liệu, máy móc và đảm bảo chất lượng sản phẩm. - Tiền lương theo sản phẩm có thể áp dụng đối với lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm gọi là tiền lương sản phẩm trực tiếp hoặc có thể áp dụng đối với người gián tiếp phục cụ sản xuất sản phẩm gọi là tiền lương gián tiếp. Tuỳ theo yêu cầu kích thích người lao động trong việc nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hay đẩy nhanh tiến độ sản xuất mà có thể áp dụng các đơn giá, lương sản phẩm khác nhau và do đó có các dạng tiền lương sản phẩm khác nhau. - Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá tiền lương cố định thường được gọi là tiền lương sản phẩm giản đơn. - Tiền lương sản phẩm giản đơn kết hợp với tiền thưởng về năng suất, chất lượng sản phẩm… gọi là tiền lương sản phẩm có thưởng. - Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá lương sản phẩm tăng dần (luỹ tiến) áp dụng theo mức độ hoàn thành vượt mức khối lượng sản phẩm được gọi là tiền lương sản phẩm luỹ tiến. - Tiền lương sản phẩm còn có dạng tiền lương khoán theo khối lượng công việc hoặc cho từng công việc (khoán việc hay khoán gọn, khoán sản phẩm cuối cùng). Lương khoán sản phẩm là một hình thức trả lương theo sản phẩm trong đó người công nhân được nhận một số tiền định trước và sau khi hoàn thành một khối lượng công việc, ở tất cả các loại hình và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (trong công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng và trong thương nghiệp). Hình thức tiền lương sản phẩm có nhiều ưu điểm: đảm bảo được nguyên tắc phân phối theo lao động, tiền lương gắn chặt với số lượng, chất lượng lao động mà công nhân viên đã bỏ ra. Do đó kích thích người lao động quan tâm đến kết quả và chất lượng lao động của bản thân, thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội. Vì vậy hình thức tiền lương này được áp dụng rộng rãi, nó thể hiện tất cả trách nhiệm trong mỗi người lao động, gắn liền với lợi ích kinh tế của người lao động tự họ có thể quyết định được khối lượng công việc và khả năng hoàn thành công việc theo đúng thời gạn cũng như trình độ của mình. Điều cần chú ý là trường hợp trả lương theo sản phẩm tập thể (sản phẩm, công việc một nhóm hoặc tổ chức lao động tham gia) cần tổ chức theo dõi mức độ tham gia của từng người trong tập thể và vận dụng cách tính toán chia lương phù hợp (chia theo thời gian làm việc và cấp bậc kỹ thuật kết hợp với bình điểm hay loại hoặc chia theo bình điểm) Sử dụng hợp lý hình thức tiền lương (hay chế độ trả lương) cũng là một trong những điều quan trọng để huy động và sử dụng có hiệu quả lao động, tiết kiệm hợp lý chi phí về lao động sống, góp phần hạ giá thành sản phẩm, tăng doanh lợi cho doanh nghiệp. 1.2.1.3. Hình thức trả lương khoán: Tiền lương khoán là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc mà họ hoàn thành. Ngoài chế độ tiền lương, các doanh nghiệp còn tiến hành xây dựng chế độ tiền lương thưởng cho các cá nhân, tập thể có thành tích trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiền thưởng bao gồm thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng) và thưởng trong sản xuất kinh doanh (thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm), thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh, sáng kiến… Bên cạnh chế độ tiền lương, tiền thưởng được hưởng trong quá trình kinh doanh, người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc quỹ BHXH, BHYT trong các trường hợp ốm đau, thai sản… Các quỹ này được hình thành một phần do người lao động đóng góp, phần còn lại được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.2. Quỹ tiền lương của doanh nghiệp: Quỹ tiền lương là tổng số tiền mà doanh nghiệp dùng để trả cho người lao động phù hợp với số lượng và chất lượng được chia thành 2 bộ phận: Bộ phận cơ bản và bộ phận biến đổi. Bộ phận cơ bản gồm: Tiền lương cấp bậc hay tiền lương do các thang, bảng lương của từng ngành, từng doanh nghiệp quy định. Hệ thống thang bảng lương này do Nhà nước quy định hoặc doanh nghiệp tham khảo thang bảng lương của Nhà nước để thiết lập các mức lương và chế độ tiền lương. Bộ phận biến đổi bao gồm: Các loại phụ cấp, các loại tiền thưởng bên cạnh tiền lương cơ bản. Bộ phận tiền lương cơ bản thường từ 70 – 75% còn từ 25-30% là bộ phận tiền lương biến đổi. Theo tiêu thức khác, quỹ tiền lương còn phân ra: Quỹ tiền lương báo cáo và quỹ tiền lương kỳ kế hoạch. Quỹ tiền lương kỳ báo cáo là tổng số tiền lương, tiền thưởng, các loại phụ cấp mà doanh nghiệp đã chi. Còn quỹ tiền lương kỳ kế hoạc là những số liệu tính toán dự trù về tiền lương để đảm bảo tiền lương kế hoạc sản xuất, đây là những con số dự kiến. Để xây dựng quỹ tiền lương kế hoạch cần dựa vào các căn cứ sau: - Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh kỳ kế hoạch. - Năng suất lao động của từng loại lao động. - Các thông số tiền lương mà doanh nghiệp lựa chọn để xây dựng kế hoạch tiền lương. - Định mức lao động và các thông số về tiền lương dự kiến. Quỹ tiền lương kế hoạch và báo cáo được phân chia thành quỹ tiền lương của công nhân sản xuất và quỹ tiền lương của viên chức khác. Trong đó quỹ tiền lương của công nhân sản xuất chiếm tỷ trọng lớn và biến động tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thành sản xuất, còn quỹ tiền lương của viên chức khác thường ônt định trên cơ sở biên chế và kết cấu lương đã được cấp trên xét duyệt. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp có bộ phận hưởng lương sản phẩm, quỹ lương của bộ phận này phụ thuộc vào doanh thu hàng tháng mà quyết định là giá trị sản lượng do bộ phận sản xuất trực tiếp tạo ra. Ngoài ra, trong tiền lương kế hoạch còn được tính các khoản tiền trợ cấp BHXH, cho cán bộ công nhân viên trong thời kỳ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,… Về phương diện hạch toán, tiền lương trả cho công nhân viên trong doanh nghiệp sản xuất là tiền lương chính và tiền lương phụ. Tiền lương chính là tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian thực hiện nhiệm vị chính của họ bao gồm tiền lương trả theo cấp bậc và khoản phụ cấp kèm theo (phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực…). Tiền lương phụ là tiền lương trả cho công nhân viên thực hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính và thời gian công nhân nghỉ được hưởng theo chế độ quy định của Nhà nước (nghỉ phép, nghỉ vì ngừng sản xuất). Việc phân chia tiền lương thành lương chính, lương phụ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán và phân tích tiền lương trong giá thành sản phẩm. Tiền lương chính của công nhân sản xuất gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm và được hạch toán trực tiếp vào chi phí sản xuất của từng loại sản phẩm. Tiền lương phụ của công nhân sản xuất không gắn liền với từng loại sản phẩm nên được hạch toán gián tiếp vào chi phí sản xuất của sản phẩm. Quản lý quỹ tiền lương của doanh nghiệp phải trong quan hệ với thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm sử dụng hợp lý quỹ tiền lương, tiền thưởng thúc đẩy tăng nhanh năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm sản xuất. 1.3. kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương: 1.3.1. Quy định kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Trong tháng khi cán bộ công nhân viên nộp giấy, hóa đơn, chứng từ xác nhận việc thuộc diện hưởng BHXH, căn cứ vào mức lương, cấp bậc, số ngày nghỉ, mức ưu tiên… kế toán phụ trách BHXH tính toán để lập phiếu thanh toán trợ cấp BHXH cuối tháng lập “Bảng thanh toán BHXH”. Trước tiên Công ty sẽ nhận các chứng từ hợp lệ của cán bộ công nhân viên “Phiếu nghỉ hưởng BHXH” phản ánh nội dung ngày nghỉ hưởng BHXH, lên tổ chức chịu trách nhiệm lên phiếu, nêu rõ lý do nghỉ, sau đó theo những quy định của Nhà nước và những quy định khác của Công ty (nếu có) để xác định số ngày nghỉ theo chế độ của cán bộ công nhân viên mà hưởng BHXH. Công ty căn cứ và làm theo đúng chế độ quy định. * Đối với trợ cấp đau ốm trong năm. - Tại các phòng ban: + Nếu người lao động đóng BHXH dưới 15 năm thì được hưởng 30 ngày. + Nếu người lao động đóng BHXH trên 15 năm thì được hưởng 45 ngày. - Tại các phân xưởng sản xuất: + Nếu người lao động đóng BHXH dưới 15 năm thì được hưởng 40 ngày. + Nếu người lao động đóng BHXH trên 15 năm thì được hưởng 60 ngày. - Mức trợ cấp: Trong thời gian được hưởng theo quy định trên thì người lao động được hưởng 75% lương cơ bản. Đối với người có con nhỏ ốm phải được nghỉ việc và hưởng trợ cấp. - Về thời gian: + 15 ngày đối với người có con dưới 36 tháng tuổi. + 12 ngày đối với người có con trên 36 tháng tuổi nhưng dưới 72 tháng tuổi. Mức trợ cấp cũng là 75% lương cơ bản. * Chế độ trợ cấp thai sản đối với lao động nữ sinh con lần thứ nhất và lần thứ hai. - Về thời gian được nghỉ: + Nghỉ khám 3 lần là 3 ngày, trường hợp đặc biệt được nghỉ 6 ngày. + Sẩy thai được nghỉ 20 ngày đối với thai trên 3 tháng và được nghỉ 30 ngày với trường hợp thai dưới 3 tháng. - Nếu song sinh: + Công nhân ở các phân xưởng: được nghỉ 150 ngày. + Nhân viên phòng ban: được nghỉ 120 ngày. - Nếu một lần sinh nhiều con thì khi sinh con lần thứ hai trở đi người mẹ được nghỉ ốm 39 ngày. - Mức trợ cấp là 100% ngoài ra trường hợp sinh con còn được hưởng 1 tháng lương. * Chế độ hưu trí trợ cấp một lần khi nghỉ. - Người lao động có 20 – 30 năm đóng BHXH trợ cấp 1 tháng lương. - Người lao động có 30 – 35 năm đóng BHXH trợ cấp 2 tháng lương. - Người lao động có trên 35 năm đóng BHXH bình quân thêm một năm đóng được cộng 2% tối thiểu đến 75% lương bình quân. * Chế độ tử tuất. Chi phí mai táng 7 tháng tiền lương tối thiểu là: 7 x 450.000 = 3.150.000 đ Người lao động đóng BHXH khi chết theo quy định được cấp tiền tuất 1 lần. 1 năm = 1/2 tiền lương đóng BHXH tháng và tính cho không quá 12 tháng. Cuối tháng từ những “Phiếu thanh toán trợ cấp BHXH” để lập “Bảng tổng hợp thanh toán BHXH” trong tháng, lấy số tiền tổng hợp cho biết tổng số tiền quỹ BHXH phải thanh toán trong tháng cũng như theo dõi tình hình chất lượng của lực lượng lao động. Việc thanh toán BHXH do cơ quan BHXH ủy nhiệm cho doanh nghiệp chi trả, sau đó tổng hợp chứng từ liên quan hàng tháng làm cơ sở để thanh toán với cơ quan BHXH. 1.3.2. Nhiệm vụ kế toán Trong hạch toán tiền lương, công việc quan trọng nhất là hạch toán chứng từ ban đầu. Do đó, để có thể trả lương theo đúng số lượng và chất lượng công việc của người lao động, trước hết phải hạch toán về lao động bao gồm: thời gian lao động và kết quả lao động. - Hạch toán thời gian lao động : Là việc ghi chép kịp thời, chính xác số ngày công, giờ công làm việc thực tế hay ngày nghỉ việc, ngừng việc của mỗi người, mỗi bộ phận để trên cơ sở đó tính lương phải trả cho từng người. Chứng từ sử dụng để hạch toán thời gian lao động là "Bảng chấm công - MS01LĐTL". Bảng chấm công được lập riêng cho từng bộ phận, tổ, đội lao động sản xuất, trong đó ghi rõ ngày làm việc của mỗi người lao động. Bảng chấm công do tổ trưởng (hoặc trưởng các phòng, ban) trực tiếp ghi và để nơi công khai để công nhân viên chức giám sát thời gian lao động của từng người. Cuối tháng bảng chấm công được dùng để tổng hợp thời gian lao động và tính lương cho từng bộ phận, tổ, đội sản xuất. - Hạch toán kết quả lao động: Tuỳ theo loại hình và kết quả sản xuất ở từng Doanh nghiệp, ._.kế toán sử dụng chứng từ ban đầu khác nhau. Các chứng từ đó là các báo cáo về kết quả như : " phiếu giao nhận sản phẩm", " phiếu báo làm thêm giờ", " phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành"…. Chứng từ hạch toán lao động do người lập (tổ trưởng) ký, cán bộ kiểm tra kỹ thuật xác nhận, được lãnh đạo duyệt (quản đốc phân xưởng, trưởng bộ phận). Chứng từ này được chuyển cho phòng lao động tiền lương nhận và được chuyển về phòng kế toán làm căn cứ tính lương, tính thưởng. - Ngoài ra, để thanh toán tiền lương, các khoản phụ cấp cho người lao động, hàng tháng kế toán lập "Bảng thanh toán tiền lương" cho từng tổ, đội, phân xưởng và các phòng ban, căn cứ vào kết quả tính lương cho tưng người. Trong bảng thanh toán lương ghi rõ các khoản phụ cấp, số công, các khấu trừ vào lương, số tiền tạm ứng, tổng lương, thanh toán lương. - Để thanh toán bảo hiểm xã hội kế toán dựa vào "phiếu nghỉ thưởng BHXH", "Biên bản điều tra tai nạn lao động" để xác nhận số ngày nghỉ ốm đau, thai sản, các vụ tai nạn lao động xảy ra tại đơn vị làm căn cứ tính trợ cấp BHXH cho người lao động một cách thoả đáng. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra, xác nhận, ký, Giám đốc ký duyệt sẽ được làm căn cứ để thanh toán lương và BHXH cho người lao động. 1.3.3. Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương 1.3.3.1. Thủ tục chứng từ hạch toán: Để thanh toán tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, trợ cấp cho người lao động, hàng tháng kế toán doanh nghiệp phải lập “Bảng thanh toán tiền lương” cho từng tổ, đội, phân xưởng sản xuất và các phòng ban. Căn cứ vào kết quả tính tiền lương cho từng người, trên bảng tính lương cần ghi rõ từng khoản tiền lương (lương sản phẩm, lương thời gian), các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản khấu trừ và số tiền người lao động cần được lĩnh. Khoản thanh toán về trợ cấp BHXH cũng được lập tương tự. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra xác nhận và ký, Giám đốc duyệt y “Bảng thanh toán tiền lương và BHXH” sẽ được làm căn cứ để thanh toán lương và BHXH cho người lao động. Thông thường, tại các doanh nghiệp, việc thanh toán lương và các khoản khác cho người lao động được chia làm 2 kỳ: Kỳ I: Tạm ứng và kỳ II sẽ nhận số còn lại sau khi đã trừ các khoản khấu trừ vào thu nhập. Các khoản thanh toán lương, thanh toán BHXH, bảng kê danh sách những người chưa lĩnh lương cùng với chứng từ và báo cáo thu, chi tiền mặt phải chuyển kịp thời cho phòng kế toán để kiểm tra ghi sổ. Hạch toán tiền lương BHXH, BHYT, KPCĐ chủ yếu sử dụng các chứng từ về tính toán tiền lương, thanh toán tiền lương, tiền thưởng và BHXH: - Bảng thanh toán tiền lương (MS02-LĐLĐ) - Bảng thanh toán tiền thưởng (MS05-LĐLĐ) - Bảng thanh toán BHXH (MS04-LĐLĐ) Các phiếu chi, các chứng từ, tài liệu khác và các khoản khấu trừ, trích nộp liên quan. Các chứng từ trên có thể là căn cứ để ghi sổ trực tiếp hoặc làm cơ sở để tổng hợp rồi mới ghi vào sổ kế toán. Cũng như các đối tượng khác hạch toán tổng hợp tiền lương cũng xuất phát từ 2 đặc điểm của tiền lương. Thứ nhất, tiền lương thể hiện mối quan hệ phân phối (thanh toán) giữa người sử dụng lao động và người lao động, cụ thể khi người lao động thực hiện một công việc hoặc 1 dịch vụ theo yêu cầu của người lao động thì người sử dụng lao động phải trả cho người lao động một số tiền nhất định tương tự một khoản nợ của người lao động sử dụng lao động, từ đó phát sinh ra các quan hệ thanh toán. + Quan hệ phải trả + Quan hệ đã trả + Quan hệ còn phải trả Thứ hai, tiền lương là một yếu tố của chi phí. Hạch toán tổng hợp tiền lương cần thiết phải phản ánh được đầy đủ các mối quan hệ trên, đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho các đối tượng quản lý. 1.3.3.2. Tài khoản sử dụng: Để hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương, kế toán sử dụng tài khoản: - TK 334 “Phải trả công nhân viên” được dùng để phản ánh các khoản phải trả và tình hình thanh toán các khoản phải trả cho công nhân viên về tiền lương, tiền thưởng, BHXH và các khoản thu nhập của công nhân viên. Kết cấu và nội dung phản ánh của TK334 như sau: - Bên Nợ: + Các khoản khấu trừ vào tiền công, tiền lương của công nhân viên. + Tiền lương, tiền công và các khoản khác đã trả cho công nhân viên. + Kết chuyển tiền lương công nhân viên chức chưa lĩnh. - Bên Có: + Tiền lương, tiền công và các khoản khác phải trả cho công nhân viên chức. - Dư có: Tiền lương, tiền công và các khoản khác phải trả cho công nhân viên chức. - Dư nợ (nếu có): Số trả thừa cho công nhân viên chức. Cũng như tiền lương các khoản trích theo lương trước hết là một yếu tố chi phí sản xuất là một phần thu nhập đồng thời nó cũng mang quan hệ thanh toán. Nhưng khác với tiền lương các khoản trích theo lương chỉ gồm 2 mối quan hệ thanh toán. - Thanh toán với cơ quan tài chính, cơ quan BHXH cấp trên, cụ thể xác định. + Số phải nộp + Số đã nộp + Số còn phải nộp - Thanh toán với người lao động + Số tiền phải trả + Số tiền đã trả - Để theo dõi các khoản trích theo lương kế toán sử dụng TK338 (phải trả, phải nộp khác). Tài khoản 338 được dùng để phản ánh tình hình thanh toán các khoản phải trả, phải nộp khác ngoài nội dung đã phản ánh ở các TK công tư phải trả (trừ TK331 đến TK336). Trong các khoản phải trả, phải nộp khác có những TK liên quan trực tiếp đến công nhân viên gồm: BHXH, BHYT, KPCĐ được thực hiện trên các TK cấp 2 thuộc TK 338 (phải trả phải nộp khác) gồm: + Tài khoản 3381 (KPCĐ) + Tài khoản 3382 (BHXH) + Tài khoản 3383 (BHYT) + Tài khoản 3385 (phải nộp cấp trên) + Tài khoản 3387 (Doanh thu nhận trước) + Tài khoản 3388 (phải trả, phải nộp khác) Nội dung và kết cấu của TK338 như sau: - Bên Nợ: + Các khoản phải nộp cho cơ quan quản lý quỹ + Các khoản đã chi về kinh phí công đoàn. + Xử lý giá trị TS thừa + Kết chuyển doanh thu trước của khách hàng vào doanh thu bán hàng tương ứng cùng kỳ kế toán. + Các khoản đã trả, đã nộp khác. - Bên có: + Trích KPCĐ, BHXH, BHYT theo tỷ lệ quy định. + Tổng số doanh thu nhận trước phát sinh trong kỳ. + Các khoản phải trả, phải nộp hay thu hộ. + Giá trị TS thừa chờ xử lý. + Số tiền đã nộp, đã trả lớn hơn số phải nộp, phải trả được hoàn lại. - Dư có: Số tiền còn phải trả, phải nộp và giá trị TS thừa chờ xử lý. - Dư nợ (nếu có): Số trả thừa, nộp thừa, vượt chi chưa được thanh toán. Ngoài ra kế toán còn sử dụng một số TK khác có liên quan trong quá trình hạch toán. Trong đó nội dung phản ánh và TK này có thể tóm tắt như sau: trích BHXH, KPCĐ tính vào chi phí sản xuất kinh doanh và BHYT trừ vào thu nhập của công nhân viên được phản ánh vào bên có. Tình hình chi tiêu sử dụng kinh phí công đoàn, tính trả trợ cấp BHXH cho công nhân viên và nộp BHXH, BHYT, KPCĐ cho cơ quan quản lý chuyên môn được phản ánh ở bên nợ. Số còn phải nộp về BHXH, BHYT, KPCĐ thuộc số dư bên có. - TK335 “Chi phí phải trả”: TK này dùng để phản ánh các khoản được ghi nhận là chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ nhưng thực tế chưa phát sinh mà sẽ phát sinh trong kỳ hoặc nhiều kỳ sau. Bên Nợ: + Các chi phí thực tế phát sinh thuộc nội dung chi phí phải trả. + Chi phí phải trả lớn hơn số chi phí thực tế được hạch toán giảm chi phí thực tế được hạch toán vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. + Chi phí phải trả dự tính trước đã ghi nhận và hạch toán vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Số dư có chi phí phải trả đã tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh. Ngoài các TK334, 335, 338 kế toán tiền lương, BHXH, BHYT,KPCĐ còn liên quan đến các TK khác như TK622 “Chi phí nhân công trực tiếp”, TK627 “chi phí sản xuất chung”, TK642 “chi phí quản lý doanh nghiệp” TK641 “Chi phí bán hàng”. 1.3.3.3. Trình tự hạch toán: Kế toán tổng hợp tiền lương và các khoản trích theo lương được thực hiện trên các TK334, 335, 338 và các TK liên quan khác. Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chính như sau: (1) Hàng tháng, tính tiền lương phải trả cho công nhân viên kế toán ghi: Nợ TK 622 “Chi phí nhân công trực tiếp” Nợ TK 627 “Chi phí sản xuất chung” Nợ TK 641 “Chi phí bán hàng” Nợ TK 642 “Chi phí quản lý doanh nghiệp” Nợ TK 241 “XDCB dở dang: TL công nhân XDCB và sửa chữa TSCĐ. Có TK 334 “Phải trả công nhân viên” (2) Tính số BHXH phải trả công nhân viên: Nợ TK431 “Quỹ khen thưởng phúc lợi” Có TK334 “Phải trả công nhân viên” (3) Tính số BHXH phải trả trực tiếp cho công nhân viên (trường hợp ốm đau, thai sản) Kế toán phản ánh theo quy định cụ thể về việc phân cấp quản lý sử dụng quỹ BHXH. a. Trường hợp phân cấp quản lý sử dụng quỹ BHXH doanh nghiệp được giữ lại một phần BHXH trích được để trực tiếp sử dụng chi tiêu cho công nhân viên như ốm đau, thai sản,… theo quy định. Khi tính số BHXH phải trả trực tiếp cho công nhân viên. Kế toán ghi: Nợ TK 338 “Phải trả phải nộp khác” (3383) Có TK 334 “Phải trả công nhân viên” Số quỹ BHXH để lại doanh nghiệp chi không hết hoặc chi thiếu sẽ thanh quyết toán với cơ quan quản lý chuyên trách cấp trên. b. Trường hợp chế độ tài chính quy định toàn bộ số trích BHXH phải nộp lên cấp trên và việc chi tiêu trợ cấp BHXH cho công nhân viên tại doanh nghiệp được quyết sau khi chi phí thực tế. Vì vậy khi tính số BHXH phải trả trực tiếp cho công nhân viên, kế toán ghi: Nợ TK138 “Phải thu khác” (1388) Có TK334 “Phải trả công nhân viên” Khoản BHXH phải trả trực tiếp công nhân viên là khoản phải thu từ cơ quan quản lý chuyên trách cấp trên. (4) Tính số lương thực tế phải trả công nhân viên: Nợ TK627 “Chi phí sản xuất chung” Nợ TK641 “Chi phí bán hàng” Nợ TK642 “Chi phí quản lý doanh nghiệp” (5) Các khoản phải thu đối với công nhân viên như tiền bắt bồi thường vật chất, tiền BHYT (phần người lao động phải chịu) kế toán ghi sổ: Nợ TK138 “Phải thu khác” (1388) Có TK338 “Phải trả phải nộp khác” Có TK 138 “phải thu khác” (13881) (6) Kết chuyển các khoản thu và tiền tạm ứng dư không hết trừ vào thu của công nhân viên: Nợ TK334 “Phải trả công nhân viên” Có TK141 “Tạm ứng” Có TK138 “Phải thu khác” (7) Tính thuế thu nhập mà công nhân viên người lao động phải nộp Nhà nước. Nợ TK334 “Phải trả công nhân viên” Có TK338 (3382, 3383, 3384) “Thuế và các khoản phải nộp nn” (8) Khi thanh toán (chi trả) tiền lương và các khoản thu nhập cho công nhân viên, kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK334 “Phải trả công nhân viên” Có TK111 “Tiền mặt” Có TK112 “Tiền gửi ngân hàng” (9) Hàng tháng khi trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính vào chi phí sản xuất kinh doanh kế toán ghi: Nợ TK241 “XDCB dở dang” Nợ TK622 “chi phí nhân công trực tiếp” Nợ TK627, 641,642 Có TK338 “Phải trả phải nộp khác” (10) Khi chi tiêu KPCĐ tại doanh nghiệp: Nợ TK338 “phải trả phải nộp khác” (3382) Có TK111,112 * Cuối kỳ kế toán kết chuyển số tiền lương công nhân viên đi vắng chưa lĩnh : Nợ TK334 “Phải trả công nhân viên” Có TK338 “phải trả phải nộp khác” (3888) * Khi trả lương lĩnh chậm cho công nhân viên: Nợ TK338 “phải trả phải nộp khác” (3388) Có TK 111,112 (11) Trường hợp số đã trả, đã nộp về BHXH, KPCĐ kể cả số vượt chi lớn hơn số phải trả phải nộp khác khi được cấp bù. Nợ TK111, 112 (Số tiền được cấp bù đã nhận) Có TK 338 (số được cấp bù) Sơ đồ 1: Sơ đồ hạch toán các khoản thanh toán với cnvc TK 111,112 TK 338 Tính vào chi phí kinh doanh Trừ vào thu nhập của người lao động Thu hồi BHXH,KPCĐ chi hộ, chi vượt TK 334 Số BHXH phải trả trực tiếp cho công nhân viên Nộp KPCĐ,BHXH,BHYT cho cơ quan quản lý TK 111,112 TK 334 Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán thanh toán bhxh, bhyt, kpcđ Các khoản khấu trừ và thu nhập của công nhân viên Thanh toán lương, thưởng Phần đóng góp cho quỹ BHXH, BHYT BHXH và các khoản khác cho công nhân viên TK 3383,3384 TK 111,512.. Tiền lương phải trả cho Công nhân trực tiếp sản xuất Tiền lương phải trả cho nhân viên phân xưởng Tiền lương phải trả cho nhân viên bán hàng,quản lý Doanh nghiệp Tiền thưởng và phúc lợi BHXH phải trả trực tiếp TK 641, 642 TK 6271 TK 622 TK 431 TK 3383 TK 141,138,333 TK 334 Tại các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ, để tránh sự biến động của giá thành sản phẩm, kế toán thường áp dụng phương pháp trích trước chi phí nhân công trực tiếp sản xuất, đều đặn đưa vào giá thành sản phẩm coi như một khoản chi phí khác. Cách tính như sau: Mức trích trước tiền lương phép kế hoạch của CNTTSX = Tiền lương chính thực tế phải trả công nhân trực tiếp trong tháng x Tỷ lệ trích trước Trong đó: Tỷ lệ trích trước = Tổng số lương phép kế hoạch năm của CNTTSX x 100 Tổng số lương chính kế hoạch năm của CNTTSX Hàng tháng khi trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất trực tiếp kế toán ghi: Nợ TK622 “Chi phí nhân công trực tiếp” Có TK335 “Chi phí phải trả” Số tiền lương nghỉ phép thực tế phải trả: Nợ TK335 “Chi phí phải trả” Có TK334 “phải trả công nhân viên” Chương 2 Thực trạng kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty dịch vụ vật tư bưu điện hà nội 2.1. Đặc điểm tình hình chung của Công ty: 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty: Công ty Dịch Vụ Vật Tư Bưu Điện Hà Nội có tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh là: Hanoi Post and Telecommunication Material Service Company (viết tắt là HPTMS) được thành lập theo quyết định số 4352/QĐ - TCCB ngày 18/12/1996 của công ty Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam. Tên gọi chính thức là: Công ty Dịch vụ vật tư Bưu điện Hà Nội. Trụ sở chính: Số 811 Đường Giải Phóng – Quận Hoàng Mai – TP Hà Nội. Điện thoại: 6643807 – 6643795 Fax: 84 – 4 – 6643806 Công ty Dịch vụ vật tư Bưu Điện Hà Nội là doanh nghiệp trực thuộc Bưu Điện Hà Nội, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Được mở tài khoản tiền gửi Việt Nam đồng và ngoại tệ tại ngân hàng. Được thành lập từ những yêu cầu cấp thiết về việc cung ứng vật tư cho các đơn vị thành viên của Bưu Điện Hà Nội, Công ty có quá trình hình thành và phát triển qua các giai đoạn khác nhau: - Năm 1987 Để đáp ứng những đòi hỏi về nhu cầu thông tin và góp phần giúp Bưu Điện thành phố Hà Nội thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh của mình. Công ty cung ứng vật tư đã được thành lập trực thuộc Bưu điện thành phố Hà Nội. Với chức năng là đơn vị phụ trợ cho khối sản xuất kinh doanh chính của Bưu Điện thành phố hà nội, công ty Cung ứng vật tư có nhiệm vụ tổ chức mua sắm trang thiết bị, cung ứng các loại vật tư chủ yếu để đáp ứng nhu cầu duy tu, sửa chữa và phát triển mạng lưới của Bưu Điện thành phố Hà Nội. Tháng 6 năm 1992, do yêu cầu khách quan để tạo điều kiện cho khách hàng được thuận tiện nhanh chóng trong việc chuyển dịch và đặt mới các thiết bị thông tin, hợp lý hoá sản xuất, Công ty phát triển và cung ứng vật tư Bưu Điện Hà Nội được thành lập trên cơ sở Công ty cung ứng vật tư cũ và bộ phận phát triển thuê bao của công ty điện thoại. Trước đây, công ty cung ứng vật tư chỉ là đơn vị cung ứng không tham gia trực tiếp vào các công tác phát triển thuê bao nên việc cung ứng vật tư không chủ động. Khi đó vật tư thường bị ứ đọng hoặc không cung cấp kịp thời cho các đơn vị thi công và bán ra ngoài cho các đơn vị trong ngành. Công ty phát triển và cung ứng vật tư bưu điện đã có kế hoạch vật tư sát hơn, phục vụ cho việc phát triển mạng lưới thuê bao. Đồng thời giải quyết công ăn việc làm hài hoà, hợp lý giữa khối vật tư và khối phát triển, ổn định được thu nhập cho cán bộ công nhân viên toàn công ty. Đầu năm 1997, Công ty phát triển và cung ứng được tách ra làm hai bộ phận, trong đó một bộ phận là công ty dich vụ vật tư Bưu điện Hà Nội và nó được mang tên như vậy cho đến nay. 2.1.2. Nhiệm vụ kinh doanh: - Sản xuất, cung ứng vật tư thiết bị chuyên ngành Bưu chính viễn thông phục vụ nhu cầu phát triển mạng lưới Bưu chính viễn thông của BĐHN, cụ thể là: + Xuất khẩu, nhập khẩu kinh doanh, đaị lý vật tư thiết sbị chuyên ngành Bưu chính viễn thông và các dịch vụ khác trong phạm vi pháp luật cho phép. + Đại lý bán và hoà mạng điện thoại di động Mobi Phone và Vina phone + Lắp đặt hoà mạng tổng đài. + Cung cấp, bảo hành, sửa chữa các loại thiết bị viễn thông. Chức năng hoạt động của Công ty là kinh doanh các thiết bị, dịch vụ, tư vấn trong lĩnh vực bưu chính viễn thông bao gồm: a) Cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực viễn thông - Lắp đặt, sửa chữa và bảo trì các thiết bị thuộc hệ thống mạng cố định và mạng vô tuyến bao gồm: các thiết bị truyền dẫn viba, truyền dẫn quang, các hệ thống chuyển mạch, truy nhập và di động. - Lắp đặt, gài đặt bảo trì và sửa chữa phần cứng và phần mềm các thiết bị và hệ thống máy tính như máy chủ, máy tính cá nhân, các thiết bị mạng Internet, và Intranet. - Thực hiện các dự án viễn thông – tin học theo phương thức chìa khoá trao tay về xấy lắp mạng viễn thông và tin học trên lãnh thổ Việt Nam và nước ngoài. - Tổ chức xuất khẩu lao động theo dự án. - Nghiên cứu công nghệ, thiết kế hệ thống và tổ chức sản xuất từng phần hoặc đồng bộ các thiết bị thuộc hệ thống mạng cố định và mạng vô tuyến. - Lắp ráp các thiết bị điện tử, các thiết bị đầu cuối. - Phát triển phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực quản lý khai thác và dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng viễn thông và mạng Internet. b) Kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông và tin học: - Xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị và hệ thống đồng bộ trong lĩnh vực viễn thông. - Xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị và hệ thống đồng bộ trong lĩnh vực viễn thông. - Cung cấp linh kiện và vật tư phòng phục vụ việc thay thế và sửa chữa các thiết bị thuộc hệ thống mạng cố định và mạng vô tuyến gồm: các thiết bị truyền dẫn Viba, truyền dẫn quang, các hệ thống chuyển mạch, truy nhập và di động. d) Thực hiện dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực viễn thông và tin học: - Lập dự án, thiết kế mạng viễn thông và tin học. - Cung cấp các giải pháp tích hợp ứng dụng công nghệ thông tin và truyền số liệu. e) Sản xuất và kinh doanh các ngành nghề kỹ thuật, dịch vụ khác mà pháp luật không cấm. 2.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý và hoạt động kinh doanh của Công ty: 2.1.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý: Tổ chức bộ máy hoạt động kinh doanh của công ty được thực hiện theo chủ trương cách gọn nhẹ, linh hoạt. Tổng số lao động của công ty có 147 người. Trong số đó lao động trực tiếp là 121 người, tổng số lao động nữ là 46 người chiếm khoảng 31,3% tổng số cán bộ công nhân viên, hầu hết đã qua đào tạo dài hoặc ngắn hạn và được bổ túc về các nghiệp vụ cần thiết. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty có thể được mô tả theo sơ đồ sau: tổ chức bộ máy quản lý của công ty Giám Đốc Khối KD khác Khối BC - VT P. Giám Đốc Phòng kt tài chính Phòng cung ứng Phòng tổng hợp Đội kho vận Đội bảo vệ Phòng xuất nhập khẩu Trung tâm DVTM Xưởng vật liệu Đứng đầu công ty là Giám đốc công ty, người đại diện pháp nhân và có quyền quản lý và điều hành cao nhất ở công ty, Giám đốc công ty do tổng Giám đốc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông bổ nhiệm, miễn nhiệm. Giám đốc Công ty chịu trách nhiệm đối với những quyết định của mình trước pháp luật, trước Tổng công ty và trước tập thể cán bộ công nhân viên của công ty. Phó giám đốc là người giúp việc cho Giám đốc; chủ dộng giải quyết các công việc và quyết định những vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn và trách nhiệm mà giám đốc công ty phân công; thay mặt giám đốc điều hành công việc của đơn vị mình khi giám đốc đi vắng trong phạm vi quyền hạn được giám đốc uỷ quyền. Như đã nêu ở trên, hoạt động kinh doanh của công ty chia làm hai mảng chính là mảng Bưu chính viễn thông và mảng kinh doanh khác, nên bộ máy quản lý của công ty cũng được tổ chức chia thành hai khối tương ứng. Khối Bưu chính viễn thông Phòng tổng hợp : Số lượng công nhân viên 15 người, có chức năng tham mưu cho Giám đốc Công ty tổ chức triển khai thực hiện tốt các mặt công tác sau: + Tổ chức nhân sự, đào tạo lao động và tiền lương. + Lập kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa tài sản. + Hành chính thi đua, tổng hợp văn thư, bảo vệ và an toàn lao động. Phòng kế toán tài chính:Số lượng công nhân viên 10 người, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đóc công ty và có chức năng tham mưu giúp giám đốc chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác kế toán, tài chính, giám sát mọi hoạt động tài chính của công ty, quan hệ với các phòng ban chức năng trên BĐHN trong lĩnh vực kế toán, tài chính, thống kê ........., chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty, trước pháp luật về hoạt động tài chính thuộc phạm vi trách nhiệm quyền hạn của mình. Phòng cung ứng: Số lượng công nhân là 15 người, có nhiệm vu cung ứng các loại vật tư chuyên ngành Bưu Chính viễn thông phục vụ cho yêu cầu xây dựng vải tạo, phát triển mạng lưới thông tin của BĐHN; kinh doanh mua bán các loại vật tư thiết bị chuyên ngành Bưu chính viễn thông. Đội kho vận:Số lượng cán bộ công nhân viên 36 người, là một đơn vị trực thuộc công ty có trách nhiệm tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển, cấp phát vật tư thiết bị phục vu cho yêu cầu xây dựng ; cải tạo nâng cấp phát triển mạng lưới thông tin của Bưu điện Hà Nội; kinh doanh dịch vụ vận chuyển bốc dỡ theo quy định của công ty. Đội bảo vệ: Số lượng cán bộ công nhân viên là 36 người, chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về công tác bảo vệ, giữ gìn an toàn tài sản, phương tiện, vật tư hàng hoá tại các kho thuộc công ty quản lý giao cho các đội làm nhiệm vụ bảo vệ. Khối kinh doanh khác: Phòng xuất nhập khẩu: Số lượng cán bộ công nhân viên 6 người, là một đơn vi trực thuộc công ty có nhiệm vụ: + Thực hiện làm công tác nhập khẩu uỷ thác vật tư thiết bị chuyên ngành Bưu chính viễn thông phục vu cho yêu cầu phát triển mạng lưới thông tin của Bưu điện Hà Nội và các đơn vị ngoài Bưu điện hà nội. + Tư vấn pháp chế cho giám đốc công ty về công tác nhập khẩu và các công tác khác theo yêu cầu nhiệm vụ sản sản xuất kinh doanh của công ty. +Kinh doanh thiết bị đầu cuối theo chỉ tiêu kế hoạch của công ty. Trung tâm dich vụ thương mại:Số lượng cán bộ công nhân viên là 35 người, có nhiệm vụ tổ chức triển khai kinh doanh tốt các dịch vụ sau: + Đại lý bán và hoà mạng điện thoại di động Mobi phone và Vina phone. + Lắp đặt hoà mạng tổng đài. + Cung cấp bảo hành sửa chữa các loại thiết bị viến thông. Xưởng vật liệu:Số lượng cán bộ công nhân viên 10 người, có nhiệm vụ tổ chức sản xuất dây thuê bao và vật liệu, phục vụ cho yêu cầu phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông của BĐHN và phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của công ty. 2.1.3.2. Tổ chức hoạt động kinh doanh Là đơn vị hạch toán phụ thuộc trực thuộc BĐHN, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Dịch vụ Vật tư Bưu Điện Hà Nội được phân theo hai khối: Thứ nhất: Mảng Bưu chính viễn thông Thực chất đây là hoạt động sản xuất theo nhiệm vụ của BĐHN giao cho công ty vật tư Bưu điện Hà Nội. Theo đó, Công ty chịu trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời thiết bị, vật tư cho việc phát triển hệ thống BĐHN ( bao gồm hệ thống tổng đài, hệ thống mạng ngoại vi). Đối với mảng kinh doanh này, Công ty không thực hiện hạch toán doanh thu và xác định kết quả mà Bưu điện Hà Nội trực tiếp thực hiện công việc này và chỉ giao kế hoạch chi cho công ty. Thứ hai : Mảng kinh doanh khác Ngoài mảng Bưu chính viễn thông, Công ty còn được BĐHN giao cho kế hoạch doanh thu khác, bao gồm: Bao, doanh thu vận chuyển, chi phí uỷ thác và hoa hồng đại lý, trong đó doanh thu về dây thuê bao có tỷ trọng lớn nhất, chiếm khoảng 50% doanh thu thực hiện của công ty. Công ty đáp ứng toàn bộ nhu cầu về dây thuê bao của tất cả các bộ phận BĐHN. Trong chỉ tiêu kế hoạch doanh thu kinh doanh khác của BĐHN do tổng công ty Bưu chính viễn thông giao, Công ty chịu trách nhiệm chủ yếu. Đối với mảng kinh doanh này, công ty thực hiện hạch toán và xác định kết quả hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên công ty không trực tiếp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước mà lợi nhuận thu được từ những hoạt động này sẽ được nộp 80% lên BĐHN, còn 20% Công ty sẽ giữ laị để phấn bổ vào các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi nhằm chi tiêu cho các hoạt động cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên của Công ty. Quy trình sản xuất kinh doanh của công ty Với tên gọi là Công ty dịch vụ vật tư Bưu Điện, hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu là cung cấp vật tư thiết bị cho ngành Bưu điện và cung cấp dịch vụ điện thoại nối mạng, hoà mạng. Tuy nhiên, thực tế có một mảng kinh doanh đem lại trên 50% doanh thu cho công ty đó là sản xuất và kinh doanh dây thuê bao. Đây là mặt hàng mà công ty mới chỉ bắt tay vào sản xuất mấy năm gần đây nhưng đem lại lợi nhuận không nhỏ cho Công ty và đóng vai trò chủ yếu trong cơ cấu tổ chức kinh doanh sản xuất của công ty. Công ty đã đầu tư xây dựng xưởng vật liệu chuyên sản xuất dây thuê bao. Xưởng vật liệu gồm nhà xưởng, kho…. Với công nghệ hiện đại được nhập chủ yếu từ Hà Lan, Nhật. Nguyên vật liệu được công ty thu mua ở những nhà cung cấp có uy tín, chất lượng, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật do sản phẩm yêu cầu. Có thể khái quát quy trình sản xuất của Xưởng vật liệu như sau: Quy trình sản xuất dây thuê bao Bộ phận bọc dây Bộ phận làm lạnh dây Bao gói sản phẩm Đánh cuộn dây Mobil quấn dây Sản phẩm sẽ được sản xuất ra theo quy trình này sẽ được hạch toán, xác định chi phí, giá thành rồi tổ chức tiêu thụ, bán ra cho cả các thành viên nội bộ Bưu điện Hà Nội, cả thị trường trong và ngoài nước. 2.1.4. Đặc điểm tổ chức và hoạt động của bộ máy kế toán *Hình thức tổ chức công tác kế toán : Với hình thức tổ chức kế toán theo dạng phân tán ,công tác kế toán không chỉ được tổ chức ở các đơn vị chính mà ở các đơn vị cơ sở cũng tổ chức công tác kế toán tương đối hoàn chỉnh. ở đơn vị cơ sở thành lập tổ kế toán , mở các sổ tổng hợp, sổ chi tiết để phản ánh các hoạt động kinh tế phát sinh tại đơn vị chính đồng thời theo dõi hoạt động kinh tế phát sinh tại đơn vị cơ sở. Cuối kỳ lập báo cáo kế toán cho phần đơn vị chính đồng thời kết hợp với các báo cáo do các đơn vị cơ sở gửi lên để tổng hợp lên các báo cáo chung của đơn vị. Nhờ hình thức tổ chức công tác kế toán này mà công tác kế toán bám sát được quá trình sản xuất, có tác dụng thúc đẩy hạch toán kinh tế nội bộ, đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời phục vụ quản lý ở từng đơn vị cơ sở. Tuy nhiên hình thức kế toán này cũng tồn tại những khó khăn, chậm trễ trong công tác tập hợp thông tin ở đơn vị quản lý cấp cao và trong phạm vi toàn công ty. Hình thức này phù hợp với điều kiện của công ty có quy mô rộng ,các đơn vị thành viên phân tán trên nhiều địa bàn nhưng chưa trang bị được nhiều máy móc và phương tiện kỹ thuật hiện đại. *Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty Để thực hịên một cách có hiệu quẩ công tác kế toán và thực hiện được các mục tiêu quản lý tài chính kế toán, hiện nay công ty áp dụng hình thức tổ chức bộ máy kế toán theo kiểu tập trung, toàn bộ công việc kế toán tập trung tại phòng kế toán và được phân công, bố trí và sắp xếp hợp lý, bao gồm: 01 kế toán trưởng và 8 nhân viên. Mỗi cán bộ đều có chức năng và những nhiệm vụ riêng, đảm đương những phần hành cụ thể riêng: Kế toán trưởng:Đồng thời là trưởng phòng kế toán tài chính của công ty, có nhiệm vụ chỉ đạo nghiệp vụ và tổ chức phòng kế toán tài chính: chịu trách nhiệm quản lý chung phòng kế toán – tài chính và phân công công việc cho các cán bộ dưới quyền. Đảm bảo công việc được thực hiện một cách chính xác, nhanh chóng và hiệu quả; chịu trách nhiệm trước ban quản lý và trước pháp luật về trách nhiệm của mình trong công tác tài chính kế toán. Phó phòng kế toán: Đồng thời là kế toán tổng hợp, thực hiện tổng hợp các số liệu phát sinh của các phần hành kế toán do các kế toán viên thực hiện; hàng quý lập các báo cáo quyết toán, ký và trình kế toán trưởng và Giám đốc kiểm tra và ký; sau đó nộp lên Bưu điện Hà Nội. Ngoài ra, Phó phòng kế toán còn phụ trách theo dõi các hợp đồng ngoại và thanh toán quốc tế. Kế toán thanh toán tiền mặt:Theo dõi việc thu chi tiền mặt; theo dõi các tài khoản (TK) kế toán 111, TK 141, … ghi chép hàng ngày, liên tục trình tự phát sinh các khoản thu , chi nhập quỹ tiền mặt ngân phiếu. Kế toán ngân hàng:Theo dõi các hoạt động thanh toán với ngân hàng và các khoản: TK 112, TK 113, chuyển khoản, uỷ nhiệm chi với khách hàng mua và bán. Kế toán theo dõi thanh toán với người bán:Theo dõi phần nhập vật tư và thanh toán với người bán; theo dõi các tài khoản: TK 151, TK 152, TK 153, TK 155, TK 156 các tài khoản: TK 331………. Kế toán theo dõi thanh toán với người mua:Theo dõi phần xuất vật tư và thanh toán với người mua và các tài khoản: TK 131, TK 136, TK 138. Kế toán sản xuất phụ: Theo dõi các bộ phận: vật tư bán ngoài tự khai thác; đại lý Vina phone; lắpđặt tổng đài; dich vụ vận chuyển, sửa chữa, dây thuê bao. Kế toán máy:Có nhiệm vụ truyền các số liệu liên quan đến vật tư vào máy tính từ các hoá đơn và các chứng từ liên quan khác như phiếu xuất kho, phiếu nhập kho, …. Thủ quỹ:Quản lý tiền mặt; thực hiện các nghiệp vụ thu chi tiền mặt tại quỹ trên cơ sở chứng từ kế toán hợp lý, hợp lệ theo đúng quy định. Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán của công ty Dịch vụ Vật tư Bưu điện Hà Nội. Thủ quỹ Kế toán máy Kế toán thanh toán với người bán hàng Kế toán SX phụ Kế toán TT với người mua Kế toán ngân hàng Kế toán tiền mặt Kế toán trưởng P kế toán Trưởng (KTTH) *Hình thức kế toán Công ty áp dụng kế toán bằng máy vi tính ,tổ chức bộ sổ kế toán theo hình thức Chứng từ ghi sổ. Các chứng từ ban đầu làm cơ sở để ghi sổ kế toán của công ty được lập theo mẫu quy định của Bộ Tài chính như: Phiếu thu, Phiếu chi, Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho….. Niên độ kế toán công ty bắt đầu từ ngày 01/01/N và kết thúc ngày 31/12/N Hằng ngày căn cứ vào chứng từ gốc, kế toán xử lý nghiệp vụ trên chứng từ ghi sổ đồng thời nhập dữ liêu vào máy vi tính. Tất cả các dữ liệu này được chuyển vào kho dữ liệu sau khi được sử lý bàng phần mền của chương trình máy tính, dữ liệu sẽ tự động cập nhật vào các danh mục liên quan như sổ chi tiết tài khoản đã được chi tiết tiểu khoản. * Các loại sổ kế toán Công ty sử dụng: (1) Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ: Cán bộ kế toán phải căn cứ vào chứng từ gốc hoặc bảng tổng hợp chứng từ gốc cùng loại, lập định khoản ghi vào chứng từ ghi sổ để làm căn cứ ghi sổ kế toán tổng hợp. (2) Sổ cái: Là sổ kế toán tổng hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ phát sinh theo từng tài khoản kế toán. Căn cứ vào chứng từ ghi sổ kế toán lấy số liệu để ghi vào sổ cái của từng tài khoản._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3340.doc
Tài liệu liên quan