Hoạt động khai thác Bảo hiểm Cháy & các rủi ro đặc biệt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long trong giai đoạn 2003-2007

Tài liệu Hoạt động khai thác Bảo hiểm Cháy & các rủi ro đặc biệt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long trong giai đoạn 2003-2007: MỤC LỤC Trang PHỤ LỤC 1 (Hợp đồng Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt) iv DANH MỤC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ Trang Sơ đố 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của PVI Thăng Long 28 Bảng 2.1: Doanh thu từ các nghiệp vụ bảo hiểm của PVI Thăng Long (2003 - 2007) 31 Bảng 2.2: Tình hình thực hiện bảo hiểm Cháy và các RR ĐB tại PVI Thăng Long (2003-2007) 35 Sơ đồ 2.2: Sơ đồ quy trình khai thác bảo hiểm Cháy và các RRĐB trong phân cấp 40 Sơ đồ 2.3: Sơ đồ quy trình khai thác bảo hiểm Cháy và các RRĐB trên phân cấp ... Ebook Hoạt động khai thác Bảo hiểm Cháy & các rủi ro đặc biệt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long trong giai đoạn 2003-2007

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động khai thác Bảo hiểm Cháy & các rủi ro đặc biệt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long trong giai đoạn 2003-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
47 Bảng 2.3: Tình hình thực hiện kế hoạch khai thác bảo hiểm Cháy và các RR ĐB tại PVI Thăng Long (2003-2007) 49 Bảng 2.4: STBH bình quân một hợp đồng bảo hiểm Cháy và các RRĐB của PVI Thăng Long (2003-2007) 51 Bảng 2.5: Chi phí khai thác bảo hiểm Cháy và các RRĐB của PVI Thăng Long (2003-2007) 54 Bảng 2.6: Hiệu quả khai thác bảo hiểm Cháy và các RR ĐB tại PVI Thăng Long (2003-2007) 55 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT KD : Kinh doanh TBH : Tái Bảo hiểm CN : Chi nhánh KT : Bộ phận Kế toán KTCN : Bộ phận kế toán chi nhánh GCNBH : Giấy chứng nhận bảo hiểm SĐBS : Sửa đổi bổ sung PVI : Bảo hiểm Dầu khí PVI Thăng Long : Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long RRĐB : Rủi ro đặc biệt PCCC : Phòng cháy chữa cháy KV : Khu vực ĐL : Đại lý MG : Môi giới CBKT : Cán bộ khai thác GTBH : Giá trị bảo hiểm STBH : Số tiền bảo hiểm MTN : Mức trách nhiệm HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm Lời mở đầu Từ xa xưa, tổ tiên chúng ta đã hiểu rõ tầm quan trọng của lửa, lửa dùng để nấu chín thức ăn, để sưởi ấm khi trời trở lạnh… để làm rất nhiều công việc khác phục vụ trong sinh hoạt và dường như lửa là người bạn rất nồng ấm của con người chúng ta. Tuy nhiên khi lửa vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của con người, lửa không còn vẻ thân thiện vồn có của nó nữa, nó sẽ gây ra những vụ cháy lớn, những vụ thảm họa ngoài sức tương tượng của chúng ta. Mặc dù có rất nhiều biện pháp Phòng cháy chữa cháy (PCCC). Nhưng hàng năm vẫn xảy ra trên 10.000 vụ cháy, làm thiệt hại hàng nghìn các khu dân cư, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Làm bao nhiêu người lâm vào cảnh lầm than, mất nhà, mất người thân. Không chỉ có Cháy, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta còn luôn phải đương đầu với rất nhiều những nguy cơ tiềm ẩn gây hại khác cho con người, như thảm họa sóng thần tại Ấn Độ Dương cuối năm 2004, khiến 232.000 nạn nhân thiệt mạng và mất tích. Ngoài ra, còn rất nhiều đợt bão, lũ thường xuyên càn quét nước ra vào những tháng mùa mưa làm cho nhân dân ta điêu đứng. Để bù đắp cho những mất mát đó Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt (RRĐB) đã ra đời. Tuy không thể bù đắp được những sự mất mát về tinh thần, nhưng nó sẽ phần nào giúp ta vực dậy được để lấy lại được những gì đã mất. Nhận thức được ý nghĩa to lớn của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Trong thời gian thực tập tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long – một trong những doanh nghiệp bảo hiểm có triển khai Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt, tôi đã nghiên cứu về loại hình bảo hiểm này với đề tài: “Hoạt động khai thác Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long trong giai đoạn 2003-2007” Nội dung của chuyên đề bao gồm 3 phần: Chương I: Lý thuyết cơ bản về Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt & hoạt động khai thác bảo hiểm. Chương II: Hoạt động khai thác Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long (giai đoạn 2003-2007). Chương III: Một số đề xuất làm tăng hiệu quả khai thác bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt của Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long. Em xin chân thành cảm ơn cô Tôn Thị Thanh Huyền đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này! CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT & HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BẢO HIỂM 1.1. LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT 1.1.1. Sự cần thiết của Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt Có rất nhiều khái niệm khác nhau về Cháy, theo luật Phòng cháy chữa cháy, Cháy được hiểu là trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát được có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi trường. Khi Cháy xảy ra thì thường để lại những hậu quả rất nặng nề cho chúng ta. Theo con số thống kê, trong 5 năm từ năm 2002 đến năm 2006, trên cả nước ta xảy ra 12.934 vụ cháy, trong đó 8.271 vụ cháy ở các khu dân cư và cơ sở (cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, trụ sở cơ quan...) và 4.663 vụ cháy rừng; làm chết và bị thương 1.468 người, thiêu hủy tài sản trị giá 1.548 tỷ đồng và 33.273ha rừng các loại. Trong đó, có 83 vụ cháy lớn, gây thiệt hại 841,6 tỷ đồng. Trung bình mỗi năm xảy ra 2.587 vụ cháy, làm chết và bị thương 293 người, thiệt hại về tài sản trị giá 310 tỷ đồng và 6.655 ha rừng các loại. Trung bình mỗi ngày, cả nước xảy ra 7 vụ cháy, làm chết hoặc bị thương 1 người, thiệt hại về tài sản tính thành tiền là 1,4 tỷ đồng và trên 18 ha rừng. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra các vụ cháy. Trước hết phải kể đến nguyên nhân do chập điện, đây là nguyên nhân chủ yếu gây ra cháy. Theo thống kê từ Phòng Cảnh sát PCCC Công an Hà Nội, từ tháng một đến tháng năm năm 2007, cả thành phố đã xảy ra gần 80 vụ cháy, trong đó các vụ cháy do chập điện chiếm 80%, khiến 8 người bị thương, thiệt hại về tải sản trên 2,6 tỷ. Nguyên nhân thứ hai, đó là do nổ gas. Gas vốn là nhiên liệu dạng khí, được “hoá lỏng” để dễ lưu trữ, sang chiết và sử dụng. Ở thể lỏng, gas vẫn luôn có xu thế hoá hơi, dễ rò và rất dễ cháy nổ. Theo thống kê của Phòng cảnh sát PCCC - Công an Hà Nội thì trên địa bàn Thành phố Hà Nội, mỗi năm trung bình xảy ra khoảng 15 vụ cháy nổ do gas, gây hậu quả nghiêm trọng về người và tài sản. Ngoài ra còn rất nhiều nguyên nhân khác có thể dẫn đến cháy như: do những hành động bất cẩn của con người, do sét… Để đối phó với cháy con người đã dùng rất nhiều các biện pháp tuyên truyền nhằm tăng ý thức của con người về phòng cháy và chữa cháy, xây dựng thiết kế nhà cửa, công trình... bằng các vật liệu an toàn, chịu nhiệt và chịu lửa. Tuy nhiên, để đối phó với cháy và những hậu quả do nó gây ra thì bảo hiểm vẫn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Ngoài ra khi tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm còn được tư vấn và hỗ trợ về việc quản lý rủi ro, các biện pháp phòng cháy chữa cháy hữu hiệu từ phía Nhà bảo hiểm. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần ngày càng nhiều, theo đó sự tự chủ của các doanh nghiệp cũng ngày một cao. Họ tự tìm lối đi cho mình và cũng rất cần có một sự bảo đảm cho chính bản thân doanh nghiệp họ. Bởi trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa, như: cháy, bão lũ, đình công, nổi loạn… Đối với các cá nhân, các hộ gia đình, trong cuộc sống hàng ngày của họ cung luôn phải tiếp xúc với các nguồn rủi ro khác nhau, như: nổ gas, chập điện… Bên cạnh việc thiết lập hệ thống an ninh bảo vệ, phòng cháy chữa cháy, một Đơn bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với toàn xã hội, bản thân doanh nghiệp, các cá nhân và hộ gia đình. Bảo hiểm cháy đã ra đời từ rất lâu. Lịch sử ra đời của loại hình bảo hiểm này được bắt nguồn từ một vụ cháy lớn ở thành phố LonDon cổ vào năm 1666, vụ cháy đã thiêu trụi 13.000 dãy nhà và 87 nhà thờ của thành phố này. Khi mới ra đời, các công ty bảo hiểm chỉ đảm bảo cho hậu quả của sự cố “hoả hoạn” gọi là bảo hiểm cháy đơn thuần. Trước nhu cầu của nhiều khách hàng muốn được bảo hiểm chống lại các rủi ro đặc biệt, có mức độ tổn thất tương tự hoả hoạn với giá phí thấp và thể thức đơn giản, các công ty bảo hiểm đã phải thiết kế các bản Hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) phối hợp giữa rủi ro hoả hoạn và các rủi ro khác như: đa rủi ro nhà ở, đa rủi ro doanh nghiệp hoặc tổ chức nghề nghiệp... Do đó Bảo hiểm cháy dần dần đã được kết hợp thêm bảo hiểm cho các rủi ro đặc biệt. Ở Việt Nam, Nghiệp vụ bảo hiểm cháy được triển khai từ cuối năm 1989. Ngày nay đã có rât nhiều doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh sản phẩm bảo hiểm cháy và còn mở rộng thêm phạm vi bảo hiểm là các rủi ro đặc biệt cho thuận tiện trong việc tham gia bảo hiểm và bảo bảo an toàn cho mọi người. Những năm gần đây, doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ này tăng lên không ngừng. Năm 2003, Bảo hiểm cháy toàn thị trường năm 2003 đạt 265,7 tỷ đồng. Năm 2004, Bảo hiểm cháy nổ: Đạt doanh thu 412 tỷ tăng 87,7% so với 2003. Đến sáu tháng đầu năm 2007, doanh thu phí bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt đã đạt gần 418 tỷ đồng. Ngày 24/04/2007 thấy rõ sự cần thiết của Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt, Bộ tài chính đã ban hành quyết định 28/2007/QĐ-BTC, trong đó quy định nêu rõ biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, quyết định này có hiệu lực từ ngày 28/07/2007. Từ năm 2008 trở đi, khi các đối tượng có nguy hiểm về cháy nổ sẽ được công khai minh bạch, được cấp Giấy chứng nhận an toàn về phòng cháy chữa cháy và đối tượng sử dụng ngân sách Nhà nước được cấp kinh phí mua bảo hiểm, thì doanh thu phí bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt sẽ tăng nhiều, và sẽ đóng góp đáng kể vào sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. 1.1.2. Nội dung cơ bản của Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt 1.1.2.1. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm là những tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Đối tượng này được chia ra theo các nhóm như sau: Công trình xây dựng, kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai). Các máy móc, thiết bị, phương tiện lao động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vật tư, hàng hóa dự trữ trong kho. Nguyên, vật liệu, làm dở thành phẩm và thành phẩm trên dây chuyền sản xuất. Các loại tài sản khác như: kho, bãi, nhà hàng khách sạn… Theo nghị định 35/2003/NĐ-CP, danh mục cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ tại phụ lục 1 là những đối tượng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm Cháy nổ. 1. Cơ sở sản xuất vật liệu nổ, cơ sở khai thác, chế biến dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ, khí đốt; cơ sở sản xuất, chế biến hàng hoá khác cháy được có khối tích từ 5.000 m3 trở lên. 2. Kho vật liệu nổ, kho dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ, kho khí đốt hoá lỏng; cảng xuất nhập vật liệu nổ, cảng xuất nhập dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ, cảng xuất nhập khí đốt hoá lỏng. 3. Cửa hàng kinh doanh xăng dầu, khí đốt hoá lỏng. 4. Nhà máy điện; trạm biến áp từ 110 KV trở lên. 5. Chợ kiên cố, bán kiên cố thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên; các chợ kiên cố, bán kiên cố khác, trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng bách hoá có tổng diện tích các gian hàng từ 300m2 trở lên  hoặc có khối tích từ 1.000 m3 trở lên. 6. Nhà ở tập thể, nhà  chung cư, khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ cao từ 5 tầng trở lên hoặc có khối tích từ 5.000 m3 trở lên. 7. Bệnh viện tỉnh, bộ, ngành; các cơ sở y tế khám chữa bệnh khác có từ 50 giường trở lên.  8. Rạp hát, rạp chiếu phim, hội trường, nhà văn hoá, nhà thi đấu thể thao trong nhà có thiết kế từ 200 chỗ ngồi trở lên, vũ trường, câu lạc bộ trong nhà, cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí và phục vụ công cộng khác trong nhà có diện tích từ 200 m2 trở lên; sân vận động 5.000 chỗ ngồi trở lên. 9. Nhà ga, cảng hàng không; cảng biển, cảng sông, bến tàu thuỷ, bến xe khách cấp tỉnh trở lên; bãi đỗ có 200 xe ôtô trở lên; nhà ga hành khách đường sắt loại 1, loại 2 và loại 3; ga hàng hoá đường sắt loại 1 và loại 2. 10. Cơ sở lưu trữ, thư viện, bảo tàng, di tích lịch sử, nhà hội chợ, triển lãm thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của Bộ, cơ quan ngang Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 11. Cơ sở phát thanh, truyền hình, cơ sở bưu chính viễn thông cấp tỉnh trở lên. 12. Trung tâm chỉ huy, điều độ, điều hành, điều khiển với quy mô khu vực và quốc gia thuộc mọi lĩnh vực. 13. Kho hàng hoá, vật tư cháy được hoặc hàng hoá vật tư không cháy đựng trong các bao bì cháy được có khối tích từ  5.000 m3 trở lên; bãi hàng hoá, vật tư cháy được có diện tích từ 500 m2 trở lên. 14. Trụ sở cơ quan, văn phòng làm việc, cơ sở nghiên cứu từ 6 tầng trở lên hoặc có khối tích từ 25.000 m3 trở lên. 15. Hầm mỏ khai thác than và các khoáng sản khác cháy được; công trình giao thông ngầm có chiều dài từ 400 m trở lên; công trình trong hang hầm trong hoạt động có sản xuất, bảo quản, sử dụng chất cháy, nổ và có khối tích từ  1.000 m3 trở lên. 16. Cơ sở và công trình có hạng mục hay bộ phận chính nếu xẩy ra cháy nổ ở đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới toàn bộ cơ sở, công trình hoặc có tổng diện tích hay khối tích của hạng mục, bộ phận chiếm từ 25% tổng diện tích trở lên hoặc khối tích của toàn bộ cơ sở, công trình mà các hạng mục hay bộ phận đó trong quá trình hoạt động thường xuyên có số lượng chất nguy hiểm cháy, nổ thuộc một trong các trường hợp sau đây : a) Khí cháy với khối lượng có thể tạo thành hỗn hợp dễ nổ chiếm từ 5% thể tích không khí trong phòng trở lên hoặc có từ 70 kg khí cháy trở lên; b) Chất lỏng có nhiệt độ bùng cháy đến 610C với khối lượng có thể tạo thành hỗn hợp dễ nổ chiếm từ 5% thể tích không khí trong phòng trở lên hoặc các chất lỏng cháy khác có nhiệt độ bùng cháy cao hơn 610C với khối lượng từ 1.000 lít trở lên; c) Bụi hay xơ cháy được có giới hạn nổ dưới bằng hoặc nhỏ hơn 65 g/m3 với khối lượng có thể tạo thành hỗn hợp dễ nổ chiếm từ 5% thể tích không khí trong phòng trở lên; các chất rắn, hàng hoá, vật tư là chất rắn cháy được với khối lượng trung bình từ 100 kg trên một mét vuông sàn trở lên; d) Các chất có thể cháy, nổ hoặc sinh ra chất cháy, nổ khi tác dụng với nhau với tổng khối lượng từ 1.000 kg trở lên; đ) Các chất có thể cháy, nổ hoặc sinh ra chất cháy, nổ khi tác dụng với nước hay với ôxy trong không khí với khối lượng từ 500 kg trở lên. Đối tượng bảo hiểm trên thường được tham gia bảo hiểm theo các đơn vị rủi ro. Theo Quyết định số 909/ QĐ- PVI ngày 01 tháng 10 năm 2007 của Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam, Đơn vị rủi ro: Là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác, tuy nhiên khoảng cách gần nhất không dưới 12 mét. 1.1.2.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm là giới hạn những rủi ro được bảo hiểm và giới hạn trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Trong bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt, Công ty bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại và những chi phí sau: Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho tài sản được bảo hiểm ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm. Chi phí cần thiết và hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản được bảo hiểm trong và sau khi cháy. Chi phí thu dọn hiện trường sau khi cháy. a. Rủi ro được bảo hiểm Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm Các rủi ro chính và các rủi ro đặc biệt. Rủi ro chính: thực chất là những rủi ro : Cháy, sét và nổ. Rủi ro “cháy” sẽ được bảo hiểm nếu hộ tụ đủ ba yếu tố: Phải thực sự có phát lửa, lửa đó không phải là lửa chuyên dùng, lửa đó phải là lửa bất ngờ hay ngẫu nhiên phát ra. Khi có đủ 3 yếu tố đó và có thiệt hại về vật chất, những thiệt hại đó sẽ được bồi thường cho dù đó là do bị cháy, do nhiệt hay do khói gây nên. Sét: Với rủi ro này, Người được bảo hiểm sẽ được bồi thương khi tài sản bị phá hủy trực tiếp do sét hoặc do sét đánh gây cháy. Nếu sét đánh mà không phát lửa hoặc không pha hủy trực tiếp tài sản thì không thuộc trách nhiệm bồi thường của Công ty bảo hiểm. Ví dụ: Khi sét đánh làm phá hủy trực tiếp các thiết bị điện tử thì sẽ được bối thường, còn nếu sét đánh làm thay đổi dòng điện dẫn đến thiệt hại cho thiết bị điện tử thì sẽ không được bồi thường. Nổ: nổ do những nguyên nhân sau thì Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường. + Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt như: nồi áp suất,... + Nổ hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hoặc sưởi ấm trong một ngôi nhà (không phải nhà xưởng) làm các công việc sử dụng hơi đốt, ví dụ như: Nổ khí gas,… + Bất kỳ thiệt hại nào do nổ gây ra cháy. Các rủi ro đặc biệt Bên cạnh các rủi ro chính là cháy, sét và nổ, còn có các rủi ro đặc biệt có thể được bảo hiểm nếu Người được bảo hiểm yêu cầu và đồng ý nộp phí bảo hiểm tăng lên. Các rủi ro đặc biệt bao gồm: Nổi loạn, đình công, bạo loạn dân sự, động đất, hệ thống chữa cháy rò rỉ nước, giông bão, máy bay và các phương tiện hàng không khác rơi vào,… b. Rủi ro loại trừ Mặc dù loại bảo hiểm này có bao gồm cả một số rủi ro đặc biệt, tuy nhiên cũng như các loại bảo hiểm khác, bảo hiểm Cháy và các RRĐB cũng có những loại rủi ro không thể bảo hiểm được. Đó là những rủi ro sau: Tổn thất do hành động cố ý hay đồng lõa của người được bảo hiểm gây ra. Những tổn thất về: + Hàng hóa nhận uỷ thác hay ký gửi trừ khi những hàng hóa đó được xác nhận trong Giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm và Người được bảo hiểm trả thêm phí bảo hiểm theo tỷ lệ phí quy định. + Tiền bạc, kim loại quý, đá quý, chứng khoản, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế, trừ khi những hạng mục này được xác nhận trong giấy chứng nhận là được bảo hiểm. + Chất nổ nhưng không bao gồm nhiên liệu, xăng, dầu. + Người, động vật và thực vật sống. + Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt quá số tiền được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải hoặc lẽ ra được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải và dù có hay không có bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt. + Tài sản bị cướp hay bị mất cắp. + Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào trừ thiệt hại về tiền thuê nhà nếu tiền thuê nhà được xác nhận trong Giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm. + Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba. + Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn thường. Bất kỳ tổn thất nào (dù là tổn thất trực tiếp hay chi phí có liên quan hay tổn thất có tính chất hậu quả) trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến: + Phóng xạ ion hóa hay nhiễm phóng xạ từ nhiên liệu hạt nhân hay từ chất thải hạt nhân do đốt cháy nhiên liệu hạt nhân. + Các thuộc tính phóng xạ, độc, nổ, hoặc các thuộc tính nguy hiểm khác của thiết bị nổ hạt nhân hay các bộ phận của thiết bị đó. 1.1.2.3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm a. Giá trị bảo hiểm Giá trị bảo hiểm (GTBH) là giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới của tài sản được bảo hiểm. Có nghĩa là đối với các tài sản mới mua chưa qua sử dụng, thì GTBH của tài sản đó chính là giá trị mua mới của tài sản đó trên thị trường. Còn đối với các tài sản đã đi vào sử dụng thì GTBH của nó được tính bằng giá trị thực tế hay giá trị còn lại của tài sản đó tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Giá trị thực tế = Giá trị mua mới (Nguyên giá) – Hao mòn Những tài sản tham gia loại bảo hiểm này thường có giá trị rất lớn, như: các công trình lớn, nhà cửa, nhà máy, xí nghiệp, phương tiện vận tải, hàng hóa trong kho… Đối với các công trình xây dựng (nhà máy, xí nghiệp, nhà ở, văn phòng), Giá trị mua mới là giá trị mới xây của công trình bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế. Đối với máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác: giá trị mua mới của tài sản loại này bao gồm cả chi phí vận chuyển và chi phí lắp đặt (nếu có). GTBH của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất. GTBH của hàng hóa mua về để trong kho, cửa hàng được xác định theo giá mua cộng với chi phí vận chuyển. b. Số tiền bảo hiểm (STBH) Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thường tối đa của Nhà bảo hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm gặp phải rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và bị tổn thất toàn bộ. STBH cũng là căn cứ để xác định chính xác phí bảo hiểm . Do đó, xác định chính xác STBH có nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở kiểm tra đối tượng bảo hiểm của Người được bảo hiểm và các giấy tờ sổ sách có liên quan, Công ty bảo hiểm và Người được bảo hiểm thỏa thuận STBH của tài sản. Đối với các tài sản cố định, việc xác định STBH căn cứ vào GTBH của tài sản. Đối với các tài sản lưu động, giá trị thường xuyên biến động thì có thể bảo hiểm theo giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa (còn gọi là giá trị điều chỉnh). Bảo hiểm theo giá trị trung bình: Người được bảo hiểm ước tính và thông báo cho công ty bảo hiểm giá trị của số hàng hóa trung bình có trong kho, trong cửa hàng… trong thời hạn bảo hiểm. Giá trị trung bình này được coi là STBH. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị trung bình khi tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm bảo hiểm, hoặc công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trung bình đã khai báo. Bảo hiểm theo giá trị tối đa (hay còn gọi là giá trị điều chỉnh) Người được bảo hiểm ước tính và thông báo cho công ty bảo hiểm giá trị của số hàng hóa tối đa vào một thời điểm nào đó trong thời hạn bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa này nhưng chỉ thu trước 75%. Khi tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị tối đa đã khai báo. Đầu mỗi tháng hoặc mỗi quý (tuỳ hai bên thỏa thuận), Người được bảo hiểm thông báo cho công ty bảo hiểm số hàng tối đa thực có trong tháng (trong quý) trước đó. Cuối thời hạn bảo hiểm, trên cơ sở các giá trị được thông báo công ty bảo hiểm tính giá trị số hàng tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm trên cơ sở giá trị tối đa bình quân này. Nếu số phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa bình quân nhiều hơn số phí bảo hiểm đã nộp, thì Người được bảo hiểm trả thêm cho công ty bảo hiểm số phí còn thiếu. Ngược lại, nếu số phí bảo hiểm đã nộp nhiều hơn số phí bảo hiểm tính được trên cơ sở giá trị tối đa bình quân thì công ty bảo hiểm hoàn trả số chênh lệch cho Người được bảo hiểm. Tuy nhiên, số phí bảo hiểm chính thức phải nộp không được thấp hơn 2/3 số phí bảo hiểm đã nộp đầu năm. Nếu trong thời hạn bảo hiểm đã có tổn thất được công ty bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân tính được thì phí bảo hiểm được tính trên cơ sở số tiền bồi thường đã trả (trong trường hợp này, số tiền được bồi thường coi như STBH). Công ty bảo hiểm có quyền yêu cầu Người được bảo hiểm xuất trình sổ sách kế toán để kiểm tra số liệu được thông báo. Việc áp dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp đòi hỏi công ty bảo hiểm phải biết giá trị hàng hóa được bảo hiểm, theo dõi chặt chẽ số hàng hóa đó trong suốt thời gian bảo hiểm. Những tài sản lớn công ty bảo hiểm khó có thể tái bảo hiểm được vì tính phí phức tạp và khó khăn. Ngược lại, bảo hiểm theo giá trị trung bình lại đơn giản, dễ theo dõi. Đối với các loại hàng hóa có giá trị ít biến động trên thị trường thì áp dụng phương pháp này rất thuận tiện. 1.1.2.4. Phí Bảo hiểm Phí bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt được tính theo tỷ lệ phí và số tiền bảo hiểm: P = Sb x R Trong đó: P là Phí bảo hiểm, Sb là Số tiền bảo hiểm, R là Tỷ lệ phí bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt rất đa dạng về chủng loại và mức độ rủi ro. Một ngôi nhà ở giữa một vùng đất trống và một ngôi nhà ở cạnh là cây xăng... thì không thể có cùng một mức phí bảo hiểm như nhau. Bởi vậy tỷ lệ phí sẽ được quy định riêng cho từng loại rủi ro hay được tính theo từng loại đối tượng và ngành nghề kinh doanh. Tỷ lệ phí bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt thường chia làm 2 phần: Tỷ lệ phí thuần và tỷ lệ phụ phí. R = R1 + R2 Trong đó: R1 là Tỷ lệ phí thuần, R2 là Tỷ lệ phụ phí. Xác định lỷ lệ phí thuần thường phải căn cứ vào số liệu thống kê trong một số năm trước đó, như: Tổng số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm , số đơn vị rủi ro bị gặp tổn thất, tổng số tiền bồi thường... Có 2 phương pháp xác định tỷ lệ phí thuần: xác định theo phân loại và theo danh mục . Xác định Tỷ lệ phí thuần theo phân loại. Theo phương pháp này, các đơn vị rủi ro có thể so sánh được sẽ được kết hợp lại với nhau. Các tiêu chí dùng để so sánh mức độ rủi ro của các đơn vị rủi ro này là: Vật liệu xây dựng bằng gì? Khả năng phòng cháy, chữa cháy. Những vật hay công trình bố trí xung quanh, bên ngoài. Người sử dụng (chủ ở hay cho thuê). Phương pháp này phù họp với những tài sản tương đối đồng nhất với nhau, như: nhà ở, văn phòng,... Xác định Tỷ lệ phí thuần theo danh mục Phương pháp này được thực hiện theo một quy trình gồm 3 bước: Bước 1: Rà sét lại danh mục tài sản tham gia bảo hiểm rồi phân loại theo danh mục khác nhau. Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để chọn một tỷ lệ phí phù hợp trong bảng tỷ lệ phí có sẵn. Bước 3: Điều chỉnh Tỷ lệ đã chọn theo các yếu tố làm tăng (giảm). + Để xác định mức độ tăng giảm Tỷ lệ phí, trước hết phải xem đối tượng tham gia bảo hiểm thuộc loại công trình nào sau đây: Loại D: Giảm tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí. Các công trình thuộc loại này phải được xây dựng bằng các vật liệu chịu lửa. Loại N: Giữ nguyên tỷ lệ phí. Khi kết cấu chính của công trình được xây dựng bằng vật liệu chịu lửa. Loại L: Tăng tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí. Khi công trình không đáp ứng được tiêu chuẩn gì ở trên. + Các nhân tố làm tăng phí: Công tác phòng cháy, chữa cháy chưa đảm bảo: thiếu thốn về kiển thức và phương tiện trang thiết bị phòng cháy chữa cháy. Đối tượng tham gia bảo hiểm chứa đựng yếu tố làm tăng khả năng cháy: sản xuất sơn, sản xuất gỗ, kho lưu trữ vải vóc, xăng, dầu... + Các nhân tố làm giảm phí: Công trình có hệ thống phòng cháy chữa cháy tôt, đặc biệt có hệ thống báo cháy và chữa cháy tự động. Tình hình tổn thất quá khứ: nếu trong quá khứ không có hay ít bị tổn thất về cháy nổ, đình công, bạo loạn. Bão lũ... 1.2. HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM 1.2.1. Vai trò của hoạt động khai thác trong kinh doanh bảo hiểm Hoạt động khai thác bảo hiểm được hiểu là hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, vận động mời chào khách hàng tham gia bảo hiểm, bán sản phẩm bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp tiến hành hay thông qua đại lý, cộng tác viên bảo hiểm, tổ chức môi giới bảo hiểm. Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên của quy trình triển khai bảo hiểm. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của Doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và từng nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng, đặc biệt là những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai, những sản phẩm mới tung ra trên thị trường. Xuất phát từ nguyên tắc chung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là “lấy số đông bù số ít”, nhằm tạo lập nguồn quỹ bảo hiểm đủ lớn để dễ dàng san sẻ rủi ro, Doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức tốt khâu khai thác. 1.2.2. Quy trình khai thác bảo hiểm 1.2.2.1. Lập kế hoạch tiếp cận khách hàng Sản phẩm, dịch vụ tốt sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu doanh nghiệp không có đủ số khách hàng mà họ cần. Cái gì là khó nhất khi bắt tay vào kinh doanh? Đối với nhiều người câu trả lời có lẽ là "tìm kiếm khách hàng". Do đó, bước đầu tiên trong quy trình khai thác bảo hiểm là cần phải lập ra một khế hoạch để tìm kiếm khách hàng, hướng tới những từng nhóm khách hàng mực tiêu riêng của từng nghiệp vụ bảo hiểm. Vì vậy khi lập ra kế hoạch khai thác một nghiệp vụ bảo hiểm, cần chú trọng đến các vấn đề sau: Quan tâm đến những đối tượng có thể trở thành khách hàng của Công ty Mỗi sản phẩm bảo hiểm có một đặc tính riêng, phù hợp với từng nhóm khách hàng khác nhau, do đó với một nghiệp vụ bảo hiểm công ty bảo hiểm khó có thể hướng tới toàn bộ thị trường. Vì vậy cần phải nghiên cứu đặc điểm các nhóm khách hàng, so sánh với khả nǎng đáp ứng của doanh nghiệp và quyết định chọn nhóm khách hàng mục tiêu để lập kế hoạch chinh phục. Quan tâm tới những khách hàng có quan hệ rộng Báo chí là nguồn cung cấp các thông tin quan trọng về khách hàng tiềm nǎng. Doanh nghiệp cần quan tâm đến tin về những người mới được thǎng chức, những người đã giành được các giải thưởng, những người đã mới mở tiệm kinh doanh, hoặc những người theo bất kì cách nào có thể sẽ trở thành khách hàng tiềm nǎng. Hãy gửi tới những người đó những bức thư cá nhân để họ biết về lợi ích của những gì mà doanh nghiệp có thể mang lại. Doanh nghiệp cần cố gắng để có mặt tại các cuộc gặp mặt mà những người đó sẽ đến. Khi gặp họ hoặc gửi thư cho họ, hãy để họ biết rằng doanh nghiệp đã đọc những thông tin về họ và chúc mừng họ về thành công hoặc hãy đề cập đến sự thú vị của những bài báo viết về họ. Nếu doanh nghiệp khiến những người trên trở thành khách hàng của mình, doanh nghiệp có cơ hội được biết đến nhiều hơn. Chú ý đến các sự kiện Cần liên lạc với những người tổ chức và đề nghị đưa sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp vào tham gia như là một phần thưởng trong sự kiện đó. Tham gia các cuộc mít tinh hay các cuộc hội thảo mà các khách hàng tương lai của doanh nghiệp có lẽ sẽ tham dự. Khách hàng tương lai biết đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp bằng nhiều cách khác nhau và từ nhiều nguồn khác nhau. Họ càng nghe thường xuyên về doanh nghiệp bao nhiêu thì họ càng quan tâm tới những gì doanh nghiệp cung cấp khi họ sẵn sàng mua bấy nhiêu. Dùng quảng cáo nhỏ thay vì những quảng cáo lớn Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ lập kế hoạch vung tiền qua cửa sổ bằng một quảng cáo lớn là một điều không hoàn toàn cần thiết. Tốt hơn hãy xây dựng kế hoạch quảng cáo nhỏ để sử dụng trong thời gian dài trên nhiều xuất bản phẩm mà các đối thủ của doanh nghiệp đang quảng cáo ở đó. Sự nhắc lại sẽ làm cho tên tuổi của doanh nghiệp trở nên quen thuộc. Và vì theo tính toán của các chuyên gia makerting, khách hàng chỉ ghi nhớ hình ảnh, tên... của doanh nghiệp khi họ đọc, nhìn, xem ít nhất 3 lần ngoại trừ quảng cáo của của doanh nghiệp cực kì ấn tượng. Nếu doanh nghiệp chọn quảng cáo trên những Trang Vàng, hãy đặt quảng cáo trong nhiều loại đề mục khác nhau. Điều này sẽ làm tăng lòng tin của khách hàng vào Doanh nghiệp bảo hiểm, yếu tố cốt lõi để khách hàng chọn Nhà bảo hiểm cho mình. 1.2.2.2. Xác định các biện pháp khai thác Khi đã lập ra một kế hoạch khai thác bảo hiểm hợp lý, bước thực hiện khai thác sẽ được các chuyên viên khai thác bảo hiểm thực hiện. Nhiệm vụ của của khai thác viên bảo hiểm là: - Tư vấn cho khách hàng hiểu họ đang có các nguy cơ gặp ph._.ải những rủi ro nào, từ đó giới thiệu cho khách hàng sản phẩm bảo hiểm họ cần. - Đánh giá mỗi rủi ro của từng đơn vị rủi ro khác nhau. - Quyết định chấp nhận hay không chấp nhận rủi ro và chấp nhận rủi ro đó tới mức nào. - Xác định các điều khoản, điều kiện và phạm vi bảo hiểm. - Tính toán mức phí bảo hiểm thích hợp. 1.2.2.3. Đánh giá rủi ro Giám định viên sẽ chuẩn bị biên bản giám định cho khai thác viên bảo hiểm và vẽ sơ đồ trong trường hợp có nhiều rủi ro tài sản. Biên bản sẽ bao gồm các nội dung sau đây: Miêu tả đầy đủ về rủi ro: Phần này có thể bao gồm sơ đồ của các cơ sở trong trường hợp có rủi ro tài sản, tính chất của công việc được thực hiện ở các cơ sở này, những chi tết về vấn đề bảo vệ đối tượng bảo hiểm, như: hệ thống phòng cháy chữa cháy, hệ thống trống trộm... Đánh giá mức độ rủi ro: Phần này tập trung vào mọi yếu tố của nguy cơ liên quan tới cả tinh thần và vật chất, cũng như cung cấp cho khai thác viên bảo hiểm khái niệm về mức độ rủi ro mà anh ta được nhận được yêu cầu bảo hiểm. Giám định viên có thể nhận xét về tài sản xung quanh, như trong trường hợp bảo hiểm hỏa hoạn. Điều này có thể ảnh hưởng tới mức độ rủi ro. Xác định mức độ tổn thất lớn nhất có thể xảy ra: Tổn thất có thể xảy ra chinh là tổn thất tối đa của đối tượng được bảo hiểm theo đành giá của giám định viên. Ngăn ngừa tổn thất: Giám định viên sẽ thông báo cho mọi người được bảo hiểm những bước cần thiết phải thực hiện để phòng ngừa rủi ro. Trong một số trường hợp, những đề nghị này được trình bày dưới hình thức yêu cầu mà người được bảo hiểm phải thực hiện nếu muốn được bảo hiểm. Cũng có cả những khuyến nghị mà nếu người được bảo hiểm thực hiện được thì sẽ được giảm phí bảo hiểm. Bảo hiểm đủ giá trị: Giám định viên sẽ đưa ra một con số thẩm định chính xác về GTBH. Trong mọi trường hợp, người được bảo hiểm có trách nhiệm đảm bảo rằng mình đã mua bảo hiểm đủ giá trị mong muốn, tuy nhiên STBH mong muốn không thể vượt quá GTBH. Và người được bảo hiểm có thể tham khảo ý kiến của môi giới bảo hiểm hoặc của một chuyên gia khác về vấn đề này. Giả sử rủi ro được chấp nhận bảo hiểm, và việc quyết định chấp nhận rủi ro ở mức nào và STBH bao nhiêu còn phụ thuộc vào khả năng tài chính của Doanh nghiệp bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ đưa ra một giới hạn nào đó cho một rủi ro cụ thể phù hợp với khả năng của công ty bảo hiểm cũng như khả năng tái bảo hiểm. 1.2.2.4. Đề ra các biện pháp hỗ trợ Nhiệm vụ cơ bản của một khai thác viên bảo hiểm là phải đánh gia nguy cơ có liên quan tới rủi ro được yêu cầu bảo hiểm. Đối với những trường hợp đơn bảo hiểm có giá trị nhỏ, khai thác viên bảo hiểm có thể thực hiện nhiệm vụ trên thông qua nghiên cứu đơn yêu cầu bảo hiểm và trao đổi thư từ với người yêu cầu bảo hiểm. Có thể công ty bảo hiểm sẽ cử một nhân viên bán bảo hiểm tại địa phương tới địa điểm yêu cầu bảo hiểm để đánh giá đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, điều này không thể áp dụng được với các trường hợp đơn bảo hiểm có giá trị lớn và phức tạp. Bởi vì, các chi tiết về rủi ro không chỉ giới hạn trong một đơn yêu cầu bảo hiểm, cho dù đơn bảo hiểm lớn đến đâu cũng không chứa đựng đầy đủ thông tin. Đây là lúc cần tới sự giúp đỡ của môi giới bảo hiểm. Đối với những trường hợp đơn bảo hiểm có giá trị lớn, công ty môi giới sẽ đại diện cho người được bảo hiểm đảm đương nhiệm vụ chuẩn bị hồ sơ cho khai thác viên bảo hiểm. Điều này có nghĩa là môi giới bảo hiểm sẽ thực hiện kiểm tra tại chỗ cũng như chuẩn bị các hồ sơ và biên bản giám định về những vấn đề liên quan đến các khía cạnh khác của rủi ro. Tài liệu này có thể rất đầy đủ và sẽ dược chuyển cho khai thác viên bảo hiểm để tiến hành thương thuyết về các điều khoản, điều kiện, phạm vi bảo hiểm và phí bảo hiểm. 1.2.2.5. Đánh giá rút kinh nghiệm Bảo hiểm là một nghành dịch vụ, do đó quan tâm chăm sóc khách hàng là một nhiệm vụ không thể thiếu của các Doanh nghiệp bảo hiểm. Biết được mức độ thỏa mức độ thỏa mãn của khách hàng, nhu cầu cụ thể của họ sẽ giúp Doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá được đường đi của mình, xem xét xem kế hoạch khai thác bảo hiểm của mình đã hoàn thiện chưa, hay còn những thiết sót gì cần sửa chữa để dần dần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả khai thác bảo hiểm. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả của hoạt động khai thác bảo hiểm Khai thác bảo hiểm có ý nghĩa sống còn đối với mỗi Doanh nghiệp bảo hiểm, nhất là trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt như hiện nay. Kết quả khâu khai thác thể hiện chủ yếu ở các chỉ tiêu: Số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm ( Số hợp đồng bảo hiểm đã được lý kết, Số giấy chứng nhận bảo hiểm (GCNBH), số đơn bảo hiểm đã cấp), doanh thu phí bảo hiểm... 1.2.3.1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khai thác Hàng năm các Doanh nghiệp bảo hiểm đều lập kế hoạch khai thác cho từng nghiệp vụ, từng loại sản phẩm bảo hiểm. Và để đánh giá tình hình thực hiện các kế hoạch đó, có thể dùng các chỉ số sau: - Chỉ số nhiệm vụ kế hoạch (iNK): iNK = yk yo - Chỉ số hoàn thành kế hoạch (iHK): iHK = y1 yk - Chỉ số thực hiện kế hoạch (i): i = y1 yo Ba loại chỉ số trên có quan hệ mật thiết với nhau: i = iNK x iHK = y1 = yk x y1 yo yo yk Trong đó: y1 là Mức độ khai thác kỳ báo cáo; yo là Mức độ khai thác kỳ gốc; yk là Mức độ khai thác kỳ kế hoạch. Mức độ khai thác có thể là số hợp đồng, doanh thu phí bảo hiểm, số đơn bảo hiểm, số giấy chứng nhận bảo hiểm. 1.2.3.2. Phân tích cơ cấu khai thác Một Doanh nghiệp bảo hiểm thường triển khai nhiều nghiệp vụ hay nhiều sản phẩm bảo hiểm khác nhau. Để xác định và đánh giá nghiệp vụ bảo hiểm nào là chủ yếu, là thế mạnh của Doanh nghiệp bảo hiểm đó và hướng phát triển của chúng trong tương lai, cần phải tính toán và phân tích cơ cấu khai thác từng nghiệp vụ. Phân tích cơ cấu khai thác bảo hiểm chủ yếu được thực hiện với các chỉ tiêu: Tổng số hợp đồng bảo hiểm và doanh thu phí bảo hiểm. Đối với các Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Theo xu hướng chung thì nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu thường chiếm tỷ trọng cao trong doanh thu. Nhưng khi phân tích cần phải quan tâm đến lợi nhuận mà từng nghiệp vụ hay từng loại hình bảo hiểm đó mang lại. Những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai thường có tỷ trọng doanh thu thấp. Nhưng nếu tính toán theo dõi và so sánh trong nhiều năm thì có thể thấy được xu hướng biến động và triển vọng của nghiệp vụ trong thời gian tới. 1.2.3.4. Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác Trong quá trình khai thác, có một số nghiệp vụ và một số sản phẩm bảo hiểm phát sinh tính thời vụ, như: Bảo hiểm du lịch, bảo hiểm an sinh giáo dục... Việc xác định và vạch rõ tính thới vụ cho mỗi nghiệp vụ và mỗi loại sản phẩm bảo hiểm là rất cần thiết. Bởi ta có thể dựa vào đó để lập ra một kế hoạch tổ chức khai thác hợp lý, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết để ký kết hợp đồng bảo hiểm, đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của khách hàng. Để phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác có thể sử dụng chỉ số thời vụ theo tháng (ki): ki = Xi X Trong đó: ki là Chỉ số thời vụ tháng thứ i; Xi là Mức độ khai thác tháng thứ i; X là Mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm. Chỉ số thời vụ theo tháng phản ảnh mối quan hệ giữa mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm. Kết quản tính ra càng gần 1 thì tính thời vụ của nghiệp vụ trong tháng đó càng ít và ngược lại. Nếu tính toán và so sánh kết quả nhiều năm liên tục thì sẽ nhìn thấy rất rõ quy luật trong khâu khai thác đối với từng nghiệp vụ hay từng loại sản phẩm đó. Khi đã tính được chỉ số thời vụ, cần phải tính toán thêm hệ số biến thiên để thấy được sự biến động tương đối về mức độ khai thác. 1.2.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động khai thác Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm khi triển khai thường phải qua một số khâu công việc cụ thể như: Khâu khai thác, khâu giám định và bồi thường, khâu đề phòng và hạn chế tổn thất… Để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ, đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của từng khâu công việc. Điều đó có nghĩa là phải xác định hiệu quả từng khâu, sau đó so sánh và đánh giá xem khâu nào chưa mang lại hiệu quả để tìm ra nguyên nhân và hướng khắc phục. Đối với khâu khai thác, để đánh giá hiệu quả của khâu này, phải xác định chỉ tiêu: Hiệu quả khai thác = Kết quả khai thác trong kỳ Chi phí khai thác trong kỳ Trong đó: - Kết quả khai thác trong kỳ có thể là doanh thu phí bảo hiểm, hoặc cũng có thể là số lượng hợp đồng, số đơn bảo hiểm cấp trong kỳ… - Chi phí khai thác có thể là tổng chi phí trong khâu khai thác hoặc cũng có thể là số đại lý khai thác trong kỳ. CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ THĂNG LONG (2003-2007) 2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ THĂNG LONG (PVI THĂNG LONG) 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long (PVI Thăng Long), tiền thân là Công ty Bảo hiểm Dầu khí Phía Bắc, là một Công ty thành viên của Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI), được thành lập từ năm 2001, với nhiệm vụ kinh doanh được Tổng công ty giao phó. Trải qua gần 6 năm hoạt động, được sự hậu thuẫn rất lớn từ Tổng công ty, PVI Thăng Long đã khẳng định được vị thế và uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm phía Bắc. Nhiệm vụ kinh doanh được Tổng công ty PVI giao cho là khai thác, cung cấp các dịch vụ Bảo hiểm cho các đơn vị, cá nhân, tổ chức trong và ngoài ngành Dầu khí. PVI Thăng Long thực hiện khai thác bảo hiểm ngoài nghành tại 13 tỉnh thành Tây Bắc Việt Nam bao gồm: Hà Nội, Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tây. Trong đó Hà Nội là thị trường chiến lược, hầu hết các đơn bảo hiểm về vật chất xe cơ giới và các đơn liên quan đến dự án được khai thác tại đây. Các tỉnh khác như Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh được coi là các thị trường tiềm năng. Tại đây PVI Thăng Long đã xây dựng được mạng lưới pháp nhân và thành lập các văn phòng khu vực. Hiện nay, PVI Thăng Long đã có 32 đại lý pháp nhân ở khắp các tỉnh trong khu vực thị trường đảm nhận 2.1.2. Cơ cấu tổ chức PVI Thăng Long gồm có một ban giám đốc và 7 phòng ban. Các phòng ban đều có chức năng nhiệm vụ tương đương với các phòng tương ứng tại Tổng công ty. Cơ cấu tổ chức của PVI Thăng Long Có thể được minh họa bởi hình vẽ sau: Sơ đố 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của PVI Thăng Long CTY BHDK HÙNG VƯƠNG KHỐI PHÒNG KD KHỐI CÁC PHÒNG KV Phòng Hành Chính Kế Toán Phòng Giám Định Bồi Thường Phòng BH Hàng hải Tài sản PhòngBH Kỹ thuật PhòngXe cơ giới Con người & QLĐL Phòng KD KV Đống Đa Phòng KD KV Hà Đông Phòng KD KV Lào Cai Ban Giám Đốc KHỐI PHÒNG QL Ban giám đốc Bao gồm 1 Tổng giám đốc và 2 phó Tổng giám đốc. Điều hành toàn bộ hoạt động của Công ty. Khối quản lý: Bao gồm 2 Phòng: Phòng Hành chính - kế toán: Phòng kế toán thực hiện xây dựng các chỉ tiêu về chi phí và lợi nhuận hàng năm của công ty và chi nhánh. Phân tích hiệu quả kinh doanh của các đơn vị. Phòng Giám định - bồi thường: Phòng thực hiện công việc tiếp nhận, xem xét tính hợp lệ của hồ sơ khiếu nại và xét giải quyết bồi thường. Khối kinh doanh: Bao gồm 3 phòng: Phòng Bảo hiểm kỹ thuật: Phòng Bảo hiểm kỹ thuật có chức năng kinh doanh, tham mưu và giúp Giám đốc Công ty chỉ đạo kinh doanh theo đúng pháp luật trong lĩnh vực Bảo hiểm kỹ thuật, công trình, xây dựng lắp đặt, tài sản, trách nhiệm. Thực hiện các công việc kinh doanh do Giám đốc phân công. Thực hiện công việc kinh doanh theo các quy định, quy trình gồm: Tiếp thị, đánh giá rủi ro trước khi cấp đơn, cấp đơn bảo hiểm, phân tán rủi ro. Thực hiện hợp tác với các Công ty bảo hiểm, các môi giới bảo hiểm có quan hệ kinh doanh. Trực tiếp giao dịch với khách hàng, đàm phán với khách hàng, và các đối tác theo quy định của công ty... Phòng bảo hiểm hàng hải: Là một phòng kinh doanh mũi nhọn của công ty với ba loại hình dịch vụ chính: Bảo hiểm thân tàu, Bảo hiểm hàng hoá, Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu. Phòng Bảo hiểm Xe cơ giới – Con người & Quản lý đại lý: Ngoài vai trò nhận các hợp đồng như 2 phòng kinh doanh trên còn có nhiệm vụ quản lý đại lý, thực hiện kinh doanh theo phân cấp và phân vùng được Công ty giao. Khối các văn phòng khu vực: Hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của PVI Thăng Long. Công ty Bảo hiểm Dầu khí Hùng Vương (PVI Hùng Vương) Được thành lập theo quyết định số 1121/QĐ-PVI của Hội đồng quản trị Tổng Công ty cổ phần PVI Việt Nam ngày 04/12/2007. PVI Hùng Vương là đơn vị trực thuộc Tổng Công ty cổ phần PVI Việt Nam, hạch toán phụ thuộc. Tiền thân là Văn phong khu vực Việt Trì – một trong những văn phòng khu vực của PVI Thăng Long. Vì vậy, PVI Thăng Long có trách nhiệm quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của PVI Hùng Vương. 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh trong giai đoạn 2003-2007 Hoạt động sản xuất kinh doanh của PVI Thăng Long trong những năm gần đây đạt kết quả tốt. Trong giai đoạn từ năm 2003 – 2007, doanh thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm của PVI Thăng Long không ngừng tăng lên. Kết quả kinh doanh bảo hiểm của PVI Thăng Long được thể hiện trong bảng 2.1. Nhìn vào bảng số liệu 2.1 ta thấy doanh thu phí bảo hiểm của PVI Thăng Long có xu hướng gia tăng qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng không đều. Nguyên nhân của thực trạng này là do tiền thân của PVI Thăng Long là một văn phòng bảo hiểm, và mới chỉ chuyển sang mô hình công ty thành viên vào năm 2002 nên việc kinh doanh còn nhiều khó khăn, bất ổn. Trong giai đoạn này tốc độ tăng bình quân bình quân về doanh thu nghiệp vụ của PVI Thăng Long là 30,86 %. Xuất thân là văn phòng khu vực một với kinh nghiệm ít ỏi và nguồn nhân lực còn hạn chế được đổi thành chi nhánh phía Bắc cuối năm 2002. Cho nên, những năm đầu doanh thu của PVI Thăng Long chưa cao. Năm 2003, doanh thu mới chỉ hơn 13 tỷ đồng. Năm 2004, doanh thu đạt hơn 17 tỷ đồng tăng 32,35 %. Năm 2005, doanh thu đạt hơn 19 tỷ đồng, tăng 11,37% một con số ít ỏi nhưng cũng đáng được ghi nhận cho những năm đầu quy mô còn nhỏ, đội ngũ nhân viên còn mỏng về số lượng cũng như kinh nghiệm còn ít, việc khai thác còn gặp nhiều khó khăn. Đến năm 2005, chi nhánh phía Bắc đã chuyển thành công ty thành viên trực thuộc Tổng công ty, với việc mở rộng quy mô kinh doanh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đại lý cộng tác viên, cùng với sự hỗ trợ của Tổng công ty, doanh thu phí bảo hiểm của PVI Thăng Long đã tăng lên 19.187,37 triệu đồng, tăng 11,37% so với năm 2004. Bảng 2.1: Doanh thu từ các nghiệp vụ bảo hiểm của PVI Thăng Long (2003 - 2007) TT Nghiệp vụ bảo hiểm Đơn vị tính 2003 2004 2005 2006 2007 1 BH Hàng hải TRĐ 3.275,49 4.913,24 3.498,06 5.247,09 3.014,20 2 BH Con người TRĐ 962,85 1.059,13 1.270,96 1.906,44 2.105,20 3 BH Xe cơ giới TRĐ 2.351,02 3.021,23 5.227,60 10.032,05 14.012,20 4 BH Cháy và các RRĐB TRĐ 1.987,73 2.986,63 4.005,90 5.609,44 6.523,30 4 BH kỹ thuật TRĐ 3.433,81 4.650,72 5.023,62 6.035,43 11.152,30 6 BH khác TRĐ 1.006,56 598,18 161,23 994,1 85,43 Tổng TRĐ 13.017,46 17.229,13 19.187,37 29.824,55 36.892,63 Tốc độ tăng trưởng doanh thu % - 32,35 11,37 55,44 23,7 Nguồn:PVI Thăng Long Năm 2006, do hoạt động kinh doanh của công ty đã đi vào ổn định, những chiến lược mục tiêu được đặt ra phù hợp với khả năng của công ty cũng như đã thích ứng được với nhu cầu thị trường, điều này đã dẫn đến doanh thu phí tăng một cách vượt bậc so với năm 2005, cụ thể đạt 29.824,55 triệu đồng, tăng 55,4%. Năm 2006 mặc dù có những thay đổi trong chính sách của nhà nước, như không bắt buộc chủ xe máy mới khi đăng kí kinh doanh phải mua bảo hiểm, điều này làm doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới của Tổng công ty giảm, nhưng do thị trường bảo hiểm xe cơ giới của PVI Thăng Long còn nhỏ, nên quy định này không làm ảnh hưởng nhiều. Cụ thể là năm 2006 doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới chiếm khoảng 40% tổng doanh thu của công ty đạt 10.032,05 triệu đồng. Năm 2006 là một năm khá thành công đối với PVI Thăng Long, công ty đã có được sự tín nhiệm từ phía khách hàng, đã ký kết được những hợp đồng bảo hiểm với những khách hàng lớn như Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam với hợp đồng bảo hiểm tàu; cho PMU Thăng Long, PMU 2, Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Thủy điện Đồng Nai 3, Dự án Trung tâm Thương mại Dầu khí với hợp đồng bảo hiểm công trình và CAVICO Việt Nam với hợp đồng bảo hiểm máy móc thiết bị. Năm 2007, doanh thu phí bảo hiểm của PVI Thăng Long tiếp tục tăng trưởng, đạt 36.892,63 triệu đồng, tăng 23,7% so với năm 2006. Hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm đều có sự tăng trưởng về doanh thu, tăng mạnh nhất là nghiệp vụ bảo hiểm máy móc thiết bị. Trong năm 2007 đánh dấu sự tăng trưởng khá mạnh về sản phẩm bảo hiểm kỹ thuật, chiếm hơn 40% doanh thu, đây là sản phẩm tái tục hàng năm, phí bảo hiểm thường tái tục vào cuối năm, vì vậy đơn vị khó chủ động về việc thực hiện kế hoạch kinh doanh doanh hàng tháng và kế hoạch kinh doanh cho các năm tiếp theo. Trong khi đó nghiệp vụ bảo hiểm Tài sản, Hàng hải lại có tỷ trọng thấp về doanh thu, có xu hướng giảm so với các năm trước, nguyên nhân là do có sự thay đổi về nhân sự cũng như cơ cấu phòng, tuy nhiên nguyên nhân chính là do mức tái tục của khách hàng thấp, điều này chứng tỏ chất lượng dịch vụ sau bán hàng của công ty còn chưa tốt, công ty cần phải có chính sách điều chỉnh lại cho phù hợp vào năm 2008. 2.2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ THĂNG LONG (2003-2007) 2.2.1. Vài nét thị trường bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt trong thời gian qua Những năm gần đây, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam tăng trưởng không ngừng. Năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 6.445 tỷ đồng, tăng 17,5% so với năm 2005. 12 doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vẫn nắm giữ thị trường bảo hiểm phi nhân thọ với thị phần 94,9%, nhưng thực chất, thị phần doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ vẫn tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp lớn như Bảo Việt: 34,9%, Bảo Minh 21,3%, PVI 18,1% và Pjico 10,5%. 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chia nhau thị phần 5,l% còn lại. Nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và các RRĐB đạt doanh thu 637 tỉ đồng, tăng 10,6% so với 2005 trong đó bảo hiểm cháy nổ đạt 517 tỉ đồng tăng 22,5%. Nhà nước đã ban hành Nghị định 130/2006/NĐ-CP quy định về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc trong đó có 16 đối tượng phải mua bảo hiểm bắt buộc cháy nổ và 16 loại trừ bảo hiểm, đóng góp kinh phí PCCC là 5%. Bộ Tài chính ban hành quy tắc biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, phối hợp với Bộ Công An ra thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định 130 nói trên. Năm 2007, thị trường bảo hiểm Việt Nam trải qua năm đầu tiên kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO với những thành tựu đáng khích lệ. Doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 8.500 tỉ đồng, tăng trưởng 30%. Trong 9 tháng đầu năm 2007, nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy và các RRĐB đạt doanh thu 661 tỉ đồng (tăng 43%) trong đó Bảo hiểm cháy nổ đạt 78,7 tỉ đồng. Top 5 doanh thu là Bảo Minh 182 tỷ đồng, Bảo Việt Việt Nam là 163 tỷ đồng, PVI là 70 tỷ đồng, GIC 48 tỉ đồng và VIC 47 tỉ đồng. Tỷ lệ bồi thường toàn thị trường là 43%. Top 5 Công ty có tỷ lệ bồi thường cao nhất là Bảo Minh 77,3%, PVI 52,7%, UIC 48,2%, Bảo Long 42,18%, PJICO 48,1%, Bảo Việt 26.7%. Quyết định 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 ban hành Quy tắc biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, có hiệu lực từ ngày 28/07/2007 đã làm tăng trưởng thị trường vào 6 tháng cuối năm 2007 và nhất là từ năm 2008 trở đi khi các đối tượng có nguy hiểm về cháy nổ được công khai minh bạch, được cấp Giấy Chứng nhận an toàn về phòng cháy chữa cháy và đối tượng sử dụng Ngân sách Nhà nước đã được cấp kinh phí mua bảo hiểm.  Nhìn chung thị trường bảo hiểm Cháy và các RRĐB hai năm trở lại đây đang trên đà phát triển, cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt. Trong nghiệp vụ này PVI thị phần đứng thứ 3 sau hai đối thủ lớn là Bảo Việt và Bảo Minh. Đây là hai đối thủ rất mạnh đã nhiều năm liền dẫn đầu thị trường bảo hiểm Cháy và các RRĐB. Ngoài ra cũng không thể không nhắc đến PJICO một công ty triển khai nghiệp vụ này khá lâu năm trên thị trường. GIC và VIC là hai tên tuổi mới nổi trên thị trường bảo hiểm nhưng trong 9 tháng đầu năm 2007 đã vươn lên đứng thứ 4 và thứ 5 sau PVI. Các công ty kể trên, có công ty đã là tên tuổi lớn được biết đến từ lâu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, cũng có những công ty mới phát triển vào những năm gần đây, tuy họ vẫn đứng sau PVI về thị phần bảo hiểm Cháy và các RRĐB, nhưng tất cả đều là những đối thủ cạnh tranh rất mạnh của PVI. 2.2.2. Khái quát về tình hình Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt tại PVI Thăng Long giai đoạn 2003-2007 Khai thác là một khâu trong quy trình triển khai nghiệp vụ, mà kết quả của nó góp phần rất lớn vào kết quả của toàn nghiệp vụ. Làm tốt công tác khai thác, sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty mình, góp phần làm tăng doanh thu phí bảo hiểm của toàn nghiệp vụ. Mặt khác kết quả kinh doanh chung của toàn nghiệp vụ cũng phản ánh chất lượng của khâu khai thác. Trước khi đi sâu vào nghiên cứu thực trạng khai thác bảo hiểm Cháy và các RR ĐB tại công ty bảo hiểm Dầu khí Thăng Long, việc tìm hiểu kết quả cũng như hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này là rất cần thiết. Bảng 2.2: Tình hình thực hiện bảo hiểm Cháy và các RR ĐB tại PVI Thăng Long (2003-2007) Năm Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu phí TRĐ 1.987,73 2.986,63 4.005,9 5.609,44 6.523,3 Chi bồi thường TRĐ 834,84 1164,78 1602,36 2804,72 3109,78 Tổng chi nghiệp vụ TRĐ 1192,63 1663,98 2289,08 4006,74 4442,54 Hk =(1)/(3) Đ/Đ 1,67 1,79 1,75 1,40 1,47 Nguồn: PVI Thăng Long Trong giai đoạn này doanh thu phí bảo hiểm Cháy và các RRĐB liên tục tăng lên. Năm 2003 doanh thu phí của nghiệp vụ là 1.987,73 triệu đồng, năm 2004 là 2.986,63 triệu đồng thì đến năm 2007 con số này lên tới 6.523,3 triệu đồng gấp hơn 3 lần doanh thu phí nghiệp vụ năm 2003. Điều này cũng dễ hiểu, do năm 2003 là năm đầu của thời kì chuyển đổi, nguồn lực của công ty còn ít, kinh nghiệm triển khai chưa nhiều, hơn thế nữa ý thức của người dân về sự cần thiết của sản phẩm còn thấp, dẫn đến số hợp đồng mà công ty khai thác được cũng thấp. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống của người dân Việt Nam ngày một nâng cao, giá trị tài sản mà họ sở hữu cũng tăng lên, trong khi đó các nguy cơ dẫn đến rủi ro cháy nổ ngày một gia tăng, chính vì vậy mà người dân ý thức được sự cần thiết của sản phẩm bảo hiểm Cháy và các RR ĐB nên nhu cầu tham gia nhiều hơn. Hơn nữa, theo thời gian thì giá trị được bảo hiểm có xu hướng ngày càng lớn hơn, chính vì vậy phí bảo hiểm trên một hợp đồng ngày càng lớn, dẫn đến tổng doanh thu phí không ngừng tăng lên. Mặt khác, trong những năm gần đây công ty đã chú trọng hơn đến khâu khai thác và đầu tư nhiều hơn vào khâu khai thác nên đã thu hút thêm được khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty. Xã hội ngày càng phát triển, thay vì việc sử dụng các chất đốt thô sơ như trước kia, con người chuyển sang sử dụng các nguồn khác để đun nấu, sinh hoạt sản xuất. Ví dụ như thay vì dùng củi, than... thì ga và điện lại được sử dụng nhiều hơn. Chính vì vậy mà nguy cơ cháy nổ là rất cao, và khi đám cháy xảy ra thiệt hại là rất lớn. Qua bảng 2.2 ta cũng nhận thấy rằng, chi bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và các RR ĐB cũng có chiều hướng tăng qua các năm. Cụ thể là năm 2003, chi bồi thường nghiệp vụ của công ty là 834,84 triệu đồng, năm 2004 là 1.164,785 triệu đồng, đến năm 2007 là 3.109,78 triệu đồng. Thiệt hại do cháy là rất lớn, chỉ sau một vụ cháy nhiều người dân sẽ không còn nhà ở, nhiều doanh nghiệp bị phá sản ...vì vậy để giảm nguy cơ cháy nổ, công ty phải tích cực cùng khách hàng tuyên truyền các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất các vụ cháy. Hiệu quả kinh tế phản ánh một đồng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra thu về được bao nhiêu đồng doanh thu, hiệu quả kinh tế mà càng tăng thì chứng tỏ công ty đang trên đà phát triển, làm ăn có lãi. Qua bảng số liệu 2.2 ta thấy hiệu quả kinh tế của công ty tăng trong những năm đầu nhưng lại giảm ở những năm gần đây. Với một đồng chi phí bỏ ra vào năm 2003 thì công ty thu được 1,67 đồng doanh thu, năm 2004 đã tăng lên là 1,79 đồng, năm 2005 là 1,75 đồng, sang năm 2006, 2007 giảm xuống chỉ còn 1,40 và 1,47 đồng. Nguyên nhân của thực trạng trên là do, các vụ cháy nổ có xu hướng ngày càng xảy ra nhiều và thiệt hại ngày càng lớn nên chi phí chi cho bồi thường của công ty cũng ngày một lớn. Mặt khác, thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt hơn, trong khi đó PVI Thăng Long còn quá non trẻ nên để thu hút được khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty mình thì công ty cần đầu tư nhiều hơn vào tất cả các khâu đặc biệt là khâu khai thác, điều này đã đẩy tổng chi nghiệp vụ của công ty tăng lên, dẫn đến hiệu quả kinh tế trong những năm gần đây đã giảm xuống. 2.2.3. Thực trạng khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt tại PVI Thăng Long trong giai đoạn 2003-2007 Qua vài nét phân tích về việc thực hiện Bảo hiểm Cháy và các RRĐB tại PVI Thăng Long ở trên, ta thấy rằng kinh doanh loại hình bảo hiểm này có nhiều tiềm năng và đạt hiệu quả tương đối ổn định qua các năm. Sau đây, tôi sẽ đi sâu vào việc phân tích thực trạng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này. 2.2.3.1. Quy trình khai thác Theo quy định của Tổng Công ty Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI), các Công ty thành viên đều phải thực hiện các bước khai thác nghiệp vụ bảo hiểm theo quy trình mà Tổng công ty đã nghiên cứu và lập ra. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và các RRĐB, quy trình khai thác được phân chia thành các cấp. Theo Quyết định số 464/07/QĐ-PVI về việc Ban hành Quy định về phân cấp khai thác năm 2007 cụ thể: Đối với các rủi ro loại 1, MTN tối đa 11.000.000 USD/Đơn bảo hiểm (16.500.000 USD nếu có gián đoạn kinh doanh). Đối với các rủi ro loại 2, MTN tối đa là 9.000.000 USD/Đơn bảo hiểm (13.500.000 USD nếu có gián đoạn kinh doanh). Đối với các rủi ro loại 3, MTN tối đa 7.200.000 USD/Đơn bảo hiểm (10.800.000 USD nếu có gián đoạn kinh doanh) Theo phụ lục 04 đính kèm Quyết định trên, rủi ro loại 1 là những rủi ro có mức độ dưới trung bình và ít có khả năng bị tổn thất lớn. Ví dụ: các tòa nhà chung cư và công sở, các nhà máy xi măng, nhà máy sản xuất và đóng chai nước ngọt, bưu điện. Rủi ro loại 2 là những rủi ro có khả năng bị tổn thất lớn. Ví dụ: Nhà máy cán thép, luyện kim, nhà máy hóa chất, nhà máy điện, sản xuất hóa chất. Rủi ro loại 3 là những rủi ro có nhiều khả năng phải chịu tổn thất lớn. Ví dụ: Nhà máy sản xuất chất nổ, xưởng chế biến đồ gỗ, nhà máy giấy, nhà máy dệt, buôn bán và lưu trữ các sản phẩm dầu mỏ. Các đơn vị kinh doanh cần thông báo cho Tổng Công ty trước ngày dự kiến ký Hợp đồng hoặc chào phí ít nhất 07 ngày (không kể ngày lễ, thứ bảy và chủ nhật). Khi nhận được yêu cầu của đơn vị kinh doanh, trong khoảng thời gian đó, Tổng Công ty sẽ xác nhận bằng văn bản hoặc gửi email về việc cấp Đơn bảo hiểm gốc. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày Tổng Công ty xác nhận cấp đơn hoặc cung cấp tỷ lệ phí bảo hiểm thì đơn vị kinh doanh phải gửi Đơn bảo hiểm gốc cho Tổng Công ty hoặc thông báo bằng văn bản cho Tổng Công ty về tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm đó. a. Quy trình khai thác trong phân cấp Quy trình khai thác Bảo hiểm Cháy và các RR ĐB trong phân cấp nêu rõ công việc khai thác qua các bước theo trình tự như sau: Đối với các nghiệp vụ khai thác nằm trong phân cấp, các Đơn vị kinh doanh được chủ động chào phí, cấp Đơn bảo hiểm/SĐBS theo trình tự như sau: Tiếp thị, nhận yêu cầu bảo hiểm từ khách hàng Trong khâu này, những người thực hiện chủ yếu sẽ là các cán bộ khai thác, đại lý và môi giới. Tiếp thị là một công việc không phải đơn giản, khách hàng có thể tin tưởng chọn chúng ta là người bảo hiểm cho họ hay không phụ thuộc chủ yếu vào tài “thuyết phục khách hàng” của những người tiếp xúc trực tiếp với họ. Không thụ động chờ khách hàng đến mua bảo hiểm mà cần chủ động đến gặp khách hàng. Các cán bộ khai thác, đại lý, môi giới cùng họ đi thăm cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ ngơi của họ, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ... chỉ ra cho họ thấy những rủi ro có thể gặp và hậu quả của nó. Trên cơ sở Đơn bảo hiểm, văn bản hướng dẫn, giải đáp các thắc mắc, giải thích cho họ biết nếu họ tham gia bảo hiểm thì được những lợi ích gì. Sơ đồ 2.2: Sơ đồ quy trình khai thác bảo hiểm Cháy và các RRĐB trong phân cấp Tiếp thị, nhận thông tin, Yêu cầu bảo hiểm từ khách hàng Phân tích thông tin, đánh giá rủi ro Chấp nhận Chào phí Từ chối Quản lý Hợp đồng/Đơn bảo hiểm Chào phí/Đàm phán Chuẩn bị Hợp Đồng/Đơn bảo hiểm Ký Hợp đồng/Đơn Bảo hiểm Cần yêu cầu khách hàng nêu rõ các thông tin chi tiết liên quan tới họ và đối tượng được bảo hiểm : Ngành nghề sản xuất, kinh doanh; Thành phần kinh tế; Giá trị tài sản được bảo hiểm; Thời hạn bảo hiểm yêu cầu; Tình hình tổn thất trong các năm trước; Các rủi ro có thể gây tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm (tần suất xảy ra, ước tính mức độ tổn thất khi xảy ra...); Các biện pháp phòng ngừa, hạn chế tổn thất. Khi đã có được đầy đủ các thông tin cần thiêt liên quan, ta cung cấp giấy yêu cầu bảo hiểm và các tài liệu khác theo yêu cầu của khách hàng. Khuyến cáo khách hàng về việc hợp đồng /Đơn /GCNBH sẽ không có giá trị trong trường hợp khách hàng cung cấp hoặc kê khai sai hoặc không khai báo các chi tiết quan trọng có liên quan đến rủi ro yêu cầu bảo hiểm và người được bảo hiểm. Đánh giá rủi ro Cán bộ khai thác phải nghiên cứu và khảo sát kỹ thực tế, thu thập đầy đủ tình hình và số liệu cần thiết để đánh giá rủi ro. Việc đánh giá rủi ro có ý nghĩa hết sức quan trọng, có đánh giá đúng rủi ro mới tìm được tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với rủi ro mà mình sẽ nhận bảo hiểm, cụ thể: đối tượng được bảo hiểm, bậc chịu lửa của công trình, loại PCCC, hạng sản xuất (nếu đối tượng bảo hiểm là đơn vị sản xuất), loại cơ sở kinh doanh dịch vụ (nếu đối tượng bảo hiểm là cơ sở kinh doanh dịch vụ), mức độ nguy hiểm của tài sản để trong kho, trong cửa hàng (nếu đối tượng bảo hiểm là kho tàng, cửa hàng). Hướng dẫn khách hàng điền vào bản câu hỏi đánh giá rủi ro theo mẫu của PVI, nêu rõ kết luận của cán bộ đánh giá rủi ro. Phải điền đầy đủ thông tin theo yêu cầu, mục nào không biết phải ghi rõ là: "không biết" hoặc "sẽ thông báo sau". Cán bộ khai thác phải chú ý rằng không._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10444.doc
Tài liệu liên quan