Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại các Ngân hàng Thương mại quốc doanh Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự cô lập, tách biệt với thế giới bên ngoài. Kinh tế đối ngoại là phương tiện giúp cho mỗi quốc gia khai thác, phát huy những lợi thế của mình trên con đường phát triển, hoà nhập và mở cửa. Hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) là một trong những hình thức cơ bản nhất của kinh tế đối ngoại. Ngày nay, dưới tác động của các thành tựu khoa học - công nghệ c

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại các Ngân hàng Thương mại quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùng với chính sách mở cửa của nhiều quốc gia, hoạt động XNK ngày càng được mở rộng, ngày càng đa dạng, phong phú. Kèm theo đó tính phức tạp và sự cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng trở nên gay gắt. Ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) nằm trong hệ thống các ngân hàng thương mại có vài trò quan trọng góp phần giúp các doanh nghiệp mở rộng và phát triển XNK thông qua hai hoạt động chủ yếu là tín dụng XNK và thanh toán quốc tế (TTQT). Vì vậy, hoạt động của NHTMQD cũng phải thay đổi để bắt kịp với sự phát triển không ngừng của thương mại quốc tế. Trong thời gian qua, các NHTMQD đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy hoạt động XNK tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều mặt bất cập. Thực trạng này đặt ra sự cấp thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề các NHTMQD trong việc tài trợ hoạt dộng XNK để đưa ra những giải pháp hoàn thiện và mở rộng hoạt động của hệ thống NHTMQD, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chiến lược XNK của Việt Nam giai đoạn tới. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Trong những năm gần đây, vấn đề kinh tế đối ngoại và hoạt động ngân hàng đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu: luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ ví dụ như Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2000 “Vận dụng kinh nghiệm phát triển kinh tế đối ngoại trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước ASEAN vào Việt Nam”, Luận án tiến sĩ năm 2001 “Việt Nam gia nhập ASEAN và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế “Giải pháp xử lý tài sản thế chấp đang tồn đọng tại Ngân hàng công thương Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2001 “Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hải Dương” vv... Các công trình đã nghiên cứu chủ yếu đi sâu phân tích những vấn đề liên quan đến kinh tế đối ngoại, hoặc tài chính tiền tệ ngân hàng ở tầm vĩ mô và mang tính chất chuyên sâu ở từng lĩnh vực của kinh tế đối ngoại hoặc tài chính tiền tệ ngân hàng. Tuy nhiên việc nghiên cứu về hoạt động của hệ thống NHTMQD trong lĩnh vực tài trợ XNK hầu như còn chưa được chú ý đúng mức. Bởi vậy, cần thiết phải có công trình nghiên cứu một cách toàn diện về NHTMQD và vai trò của nó đối với sự phát triển hoạt động XNK. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích nghiên cứu của luận văn: trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của các NHTMQD Việt Nam trong lĩnh vực tài trợ XNK, đề xuất các định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Để thực hiện được mục đích trên, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản liên quan đến kinh doanh XNK trên cơ sở đó làm rõ vai trò của các NHTM đối với hoạt động XNK. - Phân tích thực trạng hoạt động của NHTMQD Việt Nam trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng và TTQT hỗ trợ XNK trong một số năm gần đây. - Đề xuất các giải pháp nhằm nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tín dụng XNK và TTQT tại các NHTMQD Việt Nam 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động tài trợ XNK chủ yếu dưới các hình thức tín dụng và TTQT tại các NHTMQD Việt Nam Về thời gian : Luận văn chu yếu tập trung nghiên cứu, xem xét vấn đề trên trong thời gian từ 1995 đến nay. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật với tính cách là phương pháp tổng quát để xem xét các vấn đề có liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Trên nền tảng phương pháp luận chung đó, luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, lựa chọn mẫu với những số liệu thực tế để luận chứng. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Hệ thống hoá những khía cạnh lý luận cơ bản về hoạt động XNK, về tín dụng ngân hàng (TDNH), TTQT và vai trò của chúng đối với hoạt động XNK. - Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng XNK và TTQT tại các NHTMQD ở Việt Nam trong thời gian gần đây - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTMQD trong lĩnh vực tín dụng và TTQT trong thời gian tới 7. NỘI DUNG VÀ KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Tên luận văn : “Hoạt động tài trợ XNK tại các NHTMQD Việt Nam”. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1 : NHTM và vai trò của nó đối với hoạt động XNK. Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng XNK và TTQT tại các NHTMQD Việt Nam. Chương 3 : Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng XNK và TTQT của các NHTMQD Việt Nam CHƯƠNG 1 NHTM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XNK 1.1. KINH DOANH XNK VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG 1.1.1. Kinh doanh XNK XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế, là sự trao đổi giữa một quốc gia với các quốc gia khác, dưới hình thức mua bán hàng hoá và dịch vụ, kể cả các dịch vụ kèm theo việc mua bán hàng hoá như bảo hành, sửa chữa, lắp ráp máy móc, bảo hiểm, TTQT, vận chuyển hàng hoá v.v... Nói đến XNK là phải kể đến một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục đích phát triển sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. XNK là hoạt động kinh tế đối ngoại được coi là cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Nó có khả năng đem lại những hiệu quả đột biến rất cao hoặc ngược lại có thể gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế quốc gia. Bởi vì, nó luôn phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia XNK không dễ dàng khống chế được. Bởi vậy, trong lĩnh vực XNK mỗi quốc gia đều phải tìm mọi biện pháp để phát huy những tác động tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao {18}. Để thực hiện mục tiêu nói trên cần phải nắm vững đặc điểm của kinh doanh XNK. Nhờ có hoạt động XNK mà các quốc gia có khả năng phát huy lợi thế so sánh của quốc gia mình. Tất cả các quốc gia khi tiến hành hoạt động XNK đều có khả năng phát triển được thế mạnh của mình để sản xuất ra các hàng hoá có chi phí thấp hơn so với việc sản xuất hàng hoá đó ở các nước khác. Hoạt động XNK thu hút nhiều thành phần và chủ thể tham gia. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với yêu cầu tồn tại và phát triển đòi hỏi các chủ thể phải năng động, sáng tạo, phát huy tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm, luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế. Nhờ vậy, XNK có tác dụng phát huy nội lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. XNK trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần chủ thể tham gia tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành các mô hình liên doanh liên kết giữa các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước, sự liên kết giữa khâu sản xuất với hoạt động nghiên cứu khoa học, tiêu thụ hàng hoá v.v... Sự kết hợp tự giác này có tác dụng phát huy sức mạnh của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Khi tiến hành hoạt động XNK, ngoài các lợi ích như đã nêu ở trên, các quốc gia cũng không thể tránh khỏi những tác động tiêu cực do hoạt động này gây ra. Tác động tiêu cực lớn nhất mà các quốc gia phải gánh chịu đó là sự phụ thuộc vào nền kinh tế bên ngoài. Những biến động của nền kinh tế thế giới của thị trường XK hay thị trường NK hoặc ít hoặc nhiều đều có ảnh hưởng đến hoạt động XNK của các quốc gia. Trong nhiều trường hợp những ảnh hưởng này là vô cùng sâu sắc và gây ra những tổn thất nặng nề cho nền kinh tế của các quốc gia. 1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK Hoạt động XNK là hoạt động phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có các nhân tố chủ yếu sau: - Chế độ, chính sách, luật pháp trong và ngoài nước : Đây là yếu tố mà các DN kinh doanh XNK buộc phải nắm chắc và tuân thủ. Bởi vì, chế độ, chính sách, luật pháp thể hiện ý chí, quan điểm, đường lối của giai cấp cầm quyền ở mỗi nước trong mối quan hệ với sự thống nhất chung của cộng đồng quốc tế. Chúng bảo vệ lợi ích chung của các tầng lớp trong xã hội cũng như lợi ích của các nước trên thương trường quốc tế. Hoạt động XNK được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, bởi vậy nó chịu tác động của chính sách, chế độ luật pháp ở các quốc gia đó, đồng thời nó cũng phải tuân theo những quy định, luật pháp quốc tế. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động XNK, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay những nước nghèo, kinh tế kém phát triển thường bị nhiều thiệt thòi trong quan hệ kinh tế quốc tế. Để hạn chế tình trạng này đòi hỏi họ phải nỗ lực rất cao về nhiều mặt. - Sự biến động của thị trường trong và ngoài nước : Hoạt động XNK thực hiện chức năng cầu nối giữa thị trường quốc gia với thị trường quốc tế, xét ở phạm vi hẹp đó là quan hệ giữa thị trường của 2 nước có quan hệ trao đổi mua bán với nhau. Một mặt, hoạt động XNK tạo nên sự phù hợp gắn bó giữa 2 thị trường, mặt khác nó phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng và sự biến động của từng thị trường. Cụ thể, sự tồn đọng, giảm nhu cầu về hàng hoá ở thị trường nội địa sẽ dẫn đến tình trạng suy giảm khối lượng các chủng loại hàng nhập khẩu có liên quan. Cũng như vậy, sự biến động nhu cầu của thị trường nước ngoài có tác động trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu hàng hoá. - Ảnh hưởng của nền kinh tế, tình trạng sản xuất của các DN trong và ngoài nước. Động thái phát triển kinh tế, trước hết là tình hình sản xuất của các DN trong và ngoài nước có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động XNK. Mối quan hệ này được biểu hiện ở nhiều mặt khác nhau. Thứ nhất, đối với các DN sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu : sự phát triển các DN sản xuất trong nước sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với hàng nhập khẩu, do vậy làm giảm nhu cầu nhập khẩu. Ngược lại, nếu trình độ sản xuất trong nước kém phát triển, không đủ khả năng sản xuất những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao thì nhu cầu nhập khẩu các loại sản phẩm đó tăng lên. Thứ hai : các DN sản xuất trong nước phát triển ở trình độ cao, chúng có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng và hạ giá thành thấp hơn giá quốc tế thì sản phẩm xuất khẩu của họ có ưu thế. Nó tác động trực tiếp đến quy mô, hiệu quả xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Sự phát triển của sản xuất nước ngoài sẽ tạo ra xu hướng làm tăng khả năng nhập khẩu. Bởi lẽ, sản xuất nước ngoài tạo ra nhiều sản phẩm mới hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước. Về cơ cấu, muốn có nhiều hàng hoá xuất khẩu đạt hiệu quả cao phải đồng thời tác động vào nhiều yếu tố nhằm phát triển sản xuất trong nước, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. - Ảnh hưởng của trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, kỹ thuật Hoạt động XNK luôn gắn liền và bị quy định bởi trình độ thông tin liên lạc và hệ thống giao thông vận tải - vận chuyển hàng hoá. Phương tiện thông tin liên lạc và giao thông vận tải hiện đại, thuận tiện, nhanh chóng có tác động trực tiếp đến việc rút ngắn thời gian thực hiện các khâu nghiệp vụ của hoạt động XNK như trao đổi, thoả thuận, ký kết hợp đồng, giao nhận hàng hoá và thanh toán. Nhờ đó, các khâu công việc được đơn giản hoá, chi phí giao dịch giảm, hoạt động XNK được tiến hành kịp thời, chính xác và tiết kiệm. - Ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng Thời đại ngày nay, hoạt động của hệ thống ngân hàng, tài chính đã phát triển rất mạnh và ngày càng được hiện đại hóa. Hoạt động này có liên quan chặt chẽ tới hoạt động của nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như nền kinh tế của mỗi quốc gia và từng DN nói riêng, không phân biệt trình độ và quy mô phát triển. Vai trò quan trọng của hoạt động ngân hàng, tài chính được thể hiện tập trung nhất trong việc cung cấp vốn, thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. Hoạt động XNK khó có thể thực hiện được thuận lợi nếu không có sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng, tài chính. Dựa trên các mối quan hệ, uy tín và nghiệp vụ của mình, các ngân hàng đảm bảo cung ứng đầy đủ các dịch vụ ngân hàng quốc tế, giảm phí tổn giao dịch, đảm bảo được lợi ích của các DN tham gia hoạt động XNK, góp phần thúc đẩy việc buôn bán giữa các nước phát triển. Đồng thời, các DN XNK cũng được các ngân hàng đứng ra bảo lãnh hoặc cho vay với khối lượng lớn nhằm tạo điều kiện cho các DN trong việc nắm bắt thời cơ phát triển hoạt động kinh doanh của mình {24}. Như vậy, qua đây ta thấy được XNK là một loạt hoạt động kinh tế phức tạp. Nó có những đặc điểm riêng và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Bởi vậy XNK đòi hỏi sự hỗ trợ từ nhiều lĩnh vực : Các chế độ chính sách luật pháp ở tầm vĩ mô, đầu tư cho việc nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ áp dụng vào sản xuất, các hoạt động nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường, hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc ... Trong đó hoạt động tài trợ từ phía các NHTM chiếm một vị trí hết sức quan trọng. 1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHTM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XNK 1.2.1. Đặc điểm của NHTM Ngân hàng thương mại (NHTM) là trung gian tài chính, có giấy phép kinh doanh của chính phủ, là trung tâm nhận tiền gửi của khách hàng, cung cấp cho khách hàng dịch vụ chi trả cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền tiết kiệm, cho vay và các loại hình dịch vụ khác. NHTM là một DN hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ có các chức năng chủ yếu sau : - Chức năng huy động vốn : NHTM có chức năng nhận tiền gửi của các cá nhân, DN và các tổ chức. - Chức năng tín dụng : Đây là chức năng làm cho NHTM trở nên đặc biệt vì các NHTM là nguồn chính để tài trợ, cung cấp tín dụng cho những người có nhu cầu về vốn. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, những nhà hoạch định chính sách luôn phải xác định các lĩnh vực cần được ưu tiên, trợ giúp về vốn cho nhu cầu phát triển. Thí dụ ở nước ta, vốn tín dụng ngân hàng được tập trung cho việc thực hiện các mục tiêu, chương trình lớn của Đảng và nhà nước như : chương trình phát triển nông nghiệp - nông thôn, chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chương trình làm nhà trên cọc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long v.v... - Chức năng “tạo tiền”: thông qua việc huy động tiền gửi và cho vay, trên cơ sở tạo ra những phương tiện thanh toán mới như séc, thẻ tín dụng, ... hệ thống NHTM có khả năng mở rộng hay thu hẹp mức cung tiền. Vì vậy, hoạt động của hệ thống NHTM là một kênh quan trọng để NHTW thực hiện chính sách tiền tệ. - Chức năng thanh toán (thanh toán trong nước và quốc tế): Dịch vụ thanh toán là đặc thù của các NHTM, tính hiệu quả của dịch vụ này đã đem lại lợi ích trực tiếp cho nền kinh tế. Trong thực tế, bất kỳ một trục trặc nào trong hệ thống thanh toán của các NHTM cũng đủ gây sự bế tắc và thiệt hại cho nền kinh tế. Ngoài ra NHTM còn một số các chức năng khác như cung ứng các dịch vụ uỷ thác, bảo lãnh, bảo quản tài sản có giá vv... Thông qua các chức năng hoạt động, NHTM có vai trò hết sức quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung trong đó có hoạt động XNK. Trong các chức năng nói trên của NHTM thì hoạt động tín dụng ngân hàng và TTQT là hai chức năng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động XNK. Hiệu quả hoạt động của 2 chức năng này sẽ quyết định hiệu quả chức năng tài trợ XNK của NHTM {5, 8}. 1.2.2. Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với hoạt động XNK 1.2.2.1. Tín dụng và các hình thức của nó trong nền kinh tế thị trường Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá, phản ánh quan hệ kinh tế giữa 2 chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời hạn nhất định, đồng thời bên nhận (khách nợ) hết thời hạn phải hoàn trả cho chủ nợ khoản vay và kèm theo khoản tiền lãi. Trong từng DN, có lúc vốn tạm thời để rỗi nhưng có lúc lại thiếu vốn chưa tích luỹ được. Song nếu xem xét trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì tại bất cứ thời điểm nào thì sự vận động của vốn cũng thông qua hai nhóm quan hệ : Nhóm DN hoặc cá nhân có vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến nhưng với tính cách là vốn đòi hỏi phải sinh lời; Cũng trong lúc đó, một nhóm DN hoặc cá nhân khác muốn mở mang hoặc đổi mới kỹ thuật sản xuất kinh doanh có nhu cầu vốn bổ sung tạm thời nhưng chưa tích lũy kịp. Trong điều kiện đó, đòi hỏi phải có tín dụng làm cầu nối giữa nơi tạm thời thừa vốn và nơi tạm thời thiếu vốn. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, sản xuất không chỉ là tái sản xuất theo quy mô cũ và dựa trên kỹ thuật thủ công mà còn thực hiện mô hình tái sản xuất mở rộng dựa trên kỹ thuật và công nghệ cơ khí hoá và hiện đại. Do vậy, nhu cầu vốn đầu tư có quy mô lớn hơn, thường xuyên hơn, diễn ra không chỉ với vốn lưu động mà cả nhu cầu vốn để mua sắm tài sản cố định. Để thoả mãn nhu cầu này, các DN phải dựa vào nguồn vốn trong xã hội thông qua việc tiết kiệm vốn. Nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội bao gồm : Vốn tiết kiệm cá nhân, vốn của các DN, của nhà nước. Mỗi khoản tiết kiệm như vậy gắn với một mục đích nhất định, nhưng trong thời gian chờ đợi chưa thực hiện mục đích đã định, những người có vốn tiết kiệm sẽ có thể sử dụng để cho vay, mua trái phiếu hoặc gửi vào các tổ chức tín dụng để sinh lời. Như vậy tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Có nhiều tiêu thức để phân loại hình thức tín dụng. Căn cứ vào thời hạn vay trả, các nhà kinh tế chia tín dụng thành tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Căn cứ vào đối tượng tín dụng, người ta chia thành tín dụng vốn lưu động và tín dụng vốn cố định ... Song với đặc điểm của tín dụng là quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng thông qua việc chuyển nhượng, lấy tiêu thức “chuyển nhượng” làm căn cứ để phân chia các hình thức tín dụng, người ta chia thành TDTM và tín dụng ngân hàng. - Tín dụng thương mại: Khi đưa ra định nghĩa về TDTM, C.Mác viết : “TDTM cũng có nghĩa là cho vay bằng hàng hoá, mà khi cho vay bằng hàng hoá giá trị hàng hoá đó được hai bên đương sự quy ra bằng tiền và việc chuyển dịch những hàng hoá đó có nghĩa là một việc bán rồi, thì trong số tiền phải hoàn trả bao gồm một khoản thù lao về việc sử dụng tư bản và về sự rủi ro có thể xảy ra trước khi đến kỳ hạn trả...”. Có thể hiểu ý tưởng về TDTM qua các khía cạnh sau: TDTM là hình thức chuyển nhượng dưới hình thái hiện vật (tức là hàng hoá), là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nhiệp được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Ở đây, sự vận động của tiền tệ không đồng thời với sự vận động của hàng hoá. Nói cách khác sự vận động của hàng hoá đi trước sự vận động của tiền tệ. Điều này dễ hiểu bởi lẽ có nhiều trường hợp hàng hoá của một số DN đã sẵn sàng bán, trong lúc đó có một số DN khác chưa sẵn sàng mua, nói chính xác là muốn mua nhưng chưa có tiền hoặc chưa đủ tiền. Kết quả là lưu thông hàng hoá bị tắc nghẽn. Giải thoát hiện tượng này, DN bán hàng muốn thực hiện được việc bán sản phẩm phải bán chịu hàng hoá cho người mua mà thực chất như Các Mác nói : “... cho vay bằng hàng hoá”, tức là TDTM. Thực chất của việc thực hiện TDTM là tín dụng hàng hoá, mà ở đó người bán ứng trước cho người mua một khoản tiền dưới hình thức cho vay và số tiền này là giá bán chịu hàng hoá. Dĩ nhiên, khi đến hạn phải trả cho người bán, người mua phải trả cao hơn (đắt hơn) khoản tiền hàng hoá đó nếu họ trả tiền ngay sau khi nhận hàng. Số tiền chênh lệch này về thực chất là lợi tức TDTM. Trong nền kinh tế hàng hoá, không phải mỗi nhà kinh doanh chỉ có mua chịu, trái lại họ vừa là người mua chịu vừa là người bán chịu dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau giữa hai bên về sự thanh toán sòng phẳng sau thời hạn thoả thuận. Mặc dù vậy, sự tín nhiệm lẫn nhau không dừng lại ở ý niệm của mỗi bên mua và bán chịu mà cần được hợp pháp hoá trên chứng từ dưới hình thức kỳ phiếu thương mại hoặc gọi tắt là thương phiếu. Thương phiếu là những chứng từ biểu thị một quan hệ tín dụng, một nghĩa vụ trả tiền, được lập ra trên cơ sở giao dịch thương mại. Công cụ thương phiếu ra đời góp phần làm cho lưu thông hàng hoá được tiến hành thuận lợi. Thương phiếu có thể tồn tại dưới dạng : Hối phiếu (Bill of exchange), lệnh phiếu (Promissory note), séc (Check). Kỹ thuật nghiệp vụ của thương phiếu ngày một phát triển và hoàn thiện đã tạo điều kiện cho TDTM phát triển từ quan hệ song phương giữa bên bán và bên mua đến quan hệ nợ nần dây dưa trong quá trình mua bán chịu lẫn nhau giữa A, B, C, D ... Lối thoát khỏi sự bế tắc này tất yếu được giải quyết bằng cách lưu thông kỳ phiếu thương mại, thông qua chuyển nhượng, mua, bán thương phiếu trên thị trường hoặc đem chiết khấu tại ngân hàng {13}. Tín dụng thương mại bao gốm tín dụng thương mại trong nước và tín dụng thương mại quốc tế. Liên quan trực tiếp đến hoạt động XNK là tín dụng thương mại quốc tế. Tín dụng thương mại quốc tế là quan hệ sử dụng vốn và cho vay lẫn nhau giữa các chủ thể của nước này với các chủ thể của nước khác theo nguyên tắc hoàn trả, có kỳ hạn và được đền bù. TDTM quốc tế là loại hình tín dụng do các hãng kinh doanh XNK cung cấp lẫn cho nhau. Thực chất đây là hình thức mua bán chịu quốc tế, cũng có thể hiểu là loại tín dụng được cấp bằng hàng hoá, dịch vụ, không phải trả bằng tiền. Trong hình thức TDTM quốc tế, việc vay mượn luôn gắn liền với việc mua bán một loại hàng hoá dịch vụ nào đó, sự vận động của tín dụng luôn gắn liền với sự vận động của thương mại. TDTM quốc tế có hai loại là tín dụng xuất khẩu và tín dụng nhập khẩu. + Tín dụng xuất khẩu : Tín dụng xuất khẩu là loại tín dụng do người xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và duy trì mối quan hệ với khách hàng. Có thể hiểu tín dụng xuất khẩu là quan hệ tín dụng mà người xuất khẩu cho phép người nhập khẩu mua chịu hàng hoá. Trong hình thức tín dụng này, người xuất khẩu ở nước ngoài sẽ xuất chuyển hàng hoá cho người nhập khẩu ở trong nước đồng thời cấp tín dụng cho người nhập khẩu này bằng cách cho trả tiền sau một thời gian nhất định kể từ khi nhận được chứng từ hoặc nhận được hàng. Tín dụng xuất khẩu được cấp bằng cách ký phát kỳ phiếu, chấp nhận hối phiếu và mở tài khoản. Cấp tín dụng bằng cách mở tài khoản tức là thương nhân xuất khẩu và thương nhân nhập khẩu ký với nhau hợp đồng mua bán hàng hoá, trong đó quy định quyền của bên bán được mở một tài khoản để ghi nợ sau mỗi chuyển giao hàng. Sau từng thời gian nhất định đã quy định trong hợp đồng, người mua sẽ phải thanh toán số nợ đó cho bên bán hàng bằng cách chuyển tiền qua ngân hàng hoặc chuyển séc hoặc bằng kỳ phiếu trả tiền ngay. Cấp tín dụng bằng cách chấp nhận hối phiếu tức là thương nhân nhập khẩu ký chấp nhận trả tiền vào hối phiếu có kỳ hạn do thương nhân xuất khẩu ký phát để nhận toàn bộ chứng từ hàng hoá thông qua ngân hàng hoặc người xuất khẩu trực tiếp gửi cho họ. Thời hạn của loại tín dụng này phụ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên mua và bán chịu. Cấp tín dụng bằng cách ký phát kỳ phiếu tức là thương gia nhập khẩu có thể ký phát một kỳ phiếu cam kết sau một thời gian nhất định sẽ trả đủ số tiền cho người xuất khẩu. + Tín dụng nhập khẩu : Tín dụng nhập khẩu là loại tín dụng do người nhập khẩu cấp cho người xuất khẩu nhằm để nhập hàng thuận lợi. Trong hình thức này, người mua (người nhập khẩu) ở nước ngoài sẽ cấp tín dụng cho người bán (người xuất khẩu) ở trong nước bằng cách ứng trước tiền hàng cho người xuất khẩu. Vì vậy, hình thức tín dụng này còn được gọi là tín dụng ứng trước. Tín dụng nhập khẩu có hai tác dụng : Đảm bảo cho người xuất khẩu có vốn để thực hiện các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng thương mại (như để sản xuất, chế biến, thu mua ...) Đảm bảo cho việc nhập hàng của người mua một cách chắc chắn và an toàn. Tiền ứng trước có tính chất tín dụng thường được người nhập khẩu lớn ở các nước phát triển cấp cho người xuất khẩu ở các nước đang phát triển. Lợi dụng sự thiếu vốn của người sản xuất và người xuất khẩu ở các nước đang phát triển, người nhập khẩu ở các nước phát triển ký hợp đồng mua hàng với khoản tín dụng ứng trước kèm theo những điều kiện hoàn toàn có lợi cho mình như tính lãi suất cao, giá hàng nhập thấp, phạt vi phạm hợp đồng với mức cao vv... Có thể nói người xuất khẩu sử dụng tín dụng xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, còn người nhập khẩu sử dụng tín dụng nhập khẩu để nhập hàng được thuận lợi hơn. TDTM quốc tế có những tác động tích cực đối với nền kinh tế như: Thứ nhất : TDTM quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá quốc tế, kích thích sản xuất phát triển. Thứ hai : TDTM quốc tế tham gia vào việc điều tiết nhu cầu thừa, thiếu vốn giữa các nhà sản xuất kinh doanh ở các nước khác nhau. Thứ ba : Tín dụng thương mại quốc tế góp phần tiết kiệm tiền mặt thông qua quá trình lưu thông các hối phiếu, kỳ phiếu trong thời gian nó có hiệu lực hay thông qua hình thức mở tài khoản. Tuy nhiên TDTM quốc tế cũng có những hạn chế nhất định như : Thứ nhất : hạn chế về quy mô tín dụng, biểu hiện ở chỗ khối lượng tín dụng phụ thuộc vào khả năng của các nhà DN, nghĩa là các nhà xuất khẩu chỉ có thể bán chịu số lượng hàng hoá trong phạm vi số vốn tạm thời nhàn rỗi, trường hợp người nhập khẩu có nhu cầu lớn hơn thì người xuất khẩu cũng không thể đáp ứng được. Thứ hai : Hạn chế về thời hạn cho vay, lượng hàng hoá đem bán chịu đã nằm ở giai đoạn cuối của chu kỳ sản xuất, chuẩn bị chuyển thành tiền tệ nên TDTM quốc tế chỉ có thể là tín dụng ngắn hạn (nếu quá lâu sẽ ảnh hưởng đến chu kỳ luân chuyển vốn của người xuất khẩu). Thứ ba : Giới hạn về mặt phương hướng, TDTM quốc tế chỉ có thể xảy ra đối với các bên đã có quan hệ về cung cấp và tiêu thụ sản phẩm của nhau. Thứ tư : TDTM quốc tế chỉ có thể được hình thành trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau giữa hai chủ thể mua và bán giữa hai nước. Tuy còn những hạn chế nhất định, song những năm gần đây với xu hướng cải tổ, chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, TDTM quốc tế đã bắt đầu được áp dụng ở nước ta. Tuy vậy, TDTM cấp cho người xuất khẩu và nhập khẩu vẫn còn áp dụng tương đối ít mà hình thức phổ biến là tín dụng do ngân hàng cấp. Tín dụng ngân hàng cấp chủ yếu dưới các hình thức: cầm cố hàng hoá, chứng từ có giá và cho vay vv... - Tín dụng ngân hàng : Tín dụng ngân hàng (TDNH) là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các nhà DN và cá nhân. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Trong lịch sử phát triển, TDTM xuất hiện sớm hơn tín dụng ngân hàng. Cho đến nay cả hai loại hình tín dụng này vẫn đang phát triển song song với nhau. Điều cần nhấn mạnh là cả hai loại hình tín dụng chỉ có thể phát triển thuận lợi khi chúng dựa vào nhau, cùng làm điều kiện, tiền đề cho nhau. TDNH tuy khác với TDTM về hình thức, phạm vi, quy mô và thời gian hoạt động, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. TDNH giúp khắc phục một số mặt hạn chế của TDTM về không gian và địa lý, về quy mô tín dụng, về trường hợp khi đến kỳ hạn trả tiền nếu vì lý do nào đó mà người mua chịu không có hoặc không đủ tiền để trả. Hoạt động TDTM thông qua công cụ thương phiếu đã tạo tiền đề cho sự gắn bó giữa TDTM và tín dụng ngân hàng. Sự gắn bó này nhờ thông qua việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng, khi các đối tác có thương phiếu và có nhu cầu về tiền. NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Các NHTM khi cần vốn cũng có thể đem thương phiếu đã chiết khấu đến ngân hàng trung ương để tái chiết khấu trong phạm vi quy định. Như vậy nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu về thực chất là nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, một nghiệp vụ mà qua đó ngân hàng dành cho khách hàng được quyền sử dụng trước kỳ hạn của thương phiếu một khoản tiền của thương phiếu sau khi đã khấu trừ khoản lãi phải thu. Trải qua quá trình biến đổi và phát triển không ngừng, đến nay trên thế giới, các hình thức tín dụng, trước hết là TDNH đã có sự biến đổi phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Dưới tác động như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của sự toàn cầu hoá và khu vực hoá, hoạt động TDNH đang nhanh chóng phát triển ở trình độ cao. 1.2.2.2. Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK Trong hoạt động ngoại thương, để thực hiện thành công nghiệp vụ XNK, bên cạnh những vấn đề về chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, một vấn đề quan trọng nữa mà chúng ta phải quan tâm là vấn đề tài chính phục vụ cho hoạt động XNK. Sự phát triển ngày càng tăng trong hoạt động ngoại thương và số thành viên tham dự hoạt động này ngày càng lớn làm cho nhu cầu về hoạt động tài chính càng trở nên cấp thiết. Nhất là trong thương mại xuyên lục địa, việc tạo điều kiện thuận lợi về tài chính đã trở thành công cụ cạnh tranh bên các yếu tố cạnh tranh về giá, chất lượng sản phẩm, thời hạn cung ứng dịch vụ thương mại. Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển thì các hình thức thanh toán ngày càng đa dạng và tất yếu dẫn đến sự đa dạng hoá của các hình thức cho vay XNK. Mỗi hình thức thanh toán đòi hỏi phải có một hình thức tín dụng tương ứng phục vụ và bảo đảm cho nó. Mặt khác trong quan hệ kinh tế đối ngoại, hoạt động tín dụng càng thuận lợi bao nhiêu thì các mối quan hệ thương mại càng được mở rộng bấy nhiêu. Chất lượng của hoạt động tín dụng ngoại thương là cơ sở để tạo lòng tin cho bạn hàng trong thương mại, tạo điều kiện cho quá trình lưu thông hàng hoá, tạo thêm sức mạnh cạnh tranh trên trường quốc tế. Cạnh tranh về thanh toán sẽ dẫn đến thắng lợi của mọi sự cạnh tranh khác trong hoạt động ngoại thương. Các NHTM nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng đóng một vai trò vô cùng quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK. Ngân hàng phải nắm được nhu cầu của các nhà XNK, tạo điều kiện thuận lợi để giúp đỡ họ, để họ cảm thấy thuận tiện hơn trong quan hệ tín dụng; ngược lại đối với các nhà XNK trong quan hệ tín dụng với ngân hàng cần phải tôn trọng pháp luật, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định và thể lệ tín dụng, để công tác tín dụng hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn. Sự hợp tác này tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng XNK, đưa hoạt động tín dụng XNK thực sự trở thành một đòn bẩy kích thích sự phát triển kinh tế quốc dân. Do tình trạng cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường thế giớ._.i và do khả năng ngoại hối của các nước XNK, tín dụng ngân hàng đã thể hiện vai trò quan trọng của mình đối với hoạt động XNK ngang hàng với các yếu tố về chấ t lượng kỹ thuật cũng như các yếu tố về giá. Trước kia các tổ chức tín dụng chỉ sử dụng vốn một cách biệt lập có giới hạn về khả năng tài chính và bảo hiểm, chỉ chú trọng vào việc thu hồi vốn. Ngày nay, tín dụng XNK được đa dạng hoá với sự tham gia của nhiều công cụ tài chính và nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng khác nhau, các điều kiện tín dụng nhờ vậy được thực hiện dễ dàng. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, hình thức tài trợ của tín dụng ngân hàng cho hoạt động XNK vẫn luôn được đổi mới và hoàn thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi nước và kinh tế thế giới. Tài trợ XNK là dịch vụ của ngân hàng nhằm hỗ trợ các DN trong hoạt động XNK. Mảng dịch vụ có nét chung là ngân hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh cho các DN, giúp DN gia tăng hiệu quả kinh doanh và thực hiện thương vụ thành công. Chính vì vậy tài trợ XNK có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các bên tham gia vào lĩnh vực kinh doanh XNK. Hoạt động tài trợ XNK của các ngân hàng không nhất thiết chỉ bó hẹp trong việc tài trợ cho các DN kinh doanh XNK trong nước, mà có thể là cả các DN XNK nước ngoài. Trong thực tế, chính phủ các nước khi muốn thực thi chính sách phát triển XNK thường cấp vốn ưu đãi cho các ngân hàng đặc biệt (ngân hàng XNK) hoặc các quỹ phát triển xuất khẩu. Nguồn vốn này là các khoản vốn khác của ngân hàng hay quỹ phát triển xuất khẩu có thể được dùng để tài trợ cho các DN nước ngoài thực hiện mua bán hàng hoá với DN tại chính quốc. Loại hình tài trợ gián tiếp này hiện nay rất phổ biến ở các nước công nghiệp, đặc biệt là các nước có truyền thống và chiến lược phát triển XNK mạnh mẽ như Mỹ, Đức, Anh, Nhật v.v... {1} Các loại hình tài trợ XNK của ngân hàng trong thực tế vô cùng phong phú và đa dạng, chính vì vậy mà việc phân loại nghiệp vụ này chỉ mang tính tương đối. Có thể nêu một số loại hình tín dụng tài trợ XNK như sau {25}: - Tài trợ XNK dạng cổ điển : Các phương thức tài trợ XNK dạng cổ điển mang nét đặc trưng truyền thống về kỹ thuật và phương pháp tài trợ giống như các dạng tín dụng nội địa tương ứng thông thường khác bao gồm hai phương pháp chính : cho vay một lần, cho vay theo hạn mức tín dụng. Đối tượng tài trợ theo các phương thức này hết sức đa dạng, có thể là tài trợ cho các nhà xuất khẩu để thu mua vật tư nguyên liệu sản xuất hàng hoá cung ứng cho người mua nước ngoài, hoặc để bổ sung nguồn vốn kinh doanh thiếu hụt khi nhà xuất khẩu bán chịu hoặc cũng có thể giúp nhà xuất khẩu trang trải các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như phí thuê tàu, thuế xuất khẩu... - Tài trợ XNK trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Thư tín dụng (L/C) là một phương thức đảm bảo cho việc cung cấp hàng hoá và thanh toán trong quan hệ ngoại thương, đồng thời nó còn bao hàm cả ý nghĩa tín dụng. Qua nghiệp vụ này tín dụng sẽ được cấp cho cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Đối với nhà xuất khẩu, thư tín dụng ngoài chức năng là công cụ bảo đảm rằng nhà nhập khẩu sẽ thanh toán cho nhà xuất khẩu tức là bảo đảm khả năng thu hồi vốn từ nhà nhập khẩu, tín dụng thư còn được dùng làm cơ sở để nhà xuất khẩu vay vốn ngân hàng. Sau khi nhận được thư tín dụng do nhà nhập khẩu mở cho mình hưởng, nhà xuất khẩu có thể dùng thư tín dụng này để thế chấp mở thư tín dụng khác cho người hưởng lợi khác (L/C giáp lưng - Back to back). Như vậy nhà xuất khẩu đã được cấp tín dụng để tiếp tục sản xuất trong khi chưa phải giao hàng cho nhà nhập khẩu. Ngoài ra nhà xuất khẩu cũng có thể chuyển quyền sở hữu đối với thư tín dụng và tất cả các chứng từ hàng hoá có giá trị thanh toán cho ngân hàng của mình để nhận được khoản tín dụng từ ngân hàng. Nếu là thư tín dụng trả chậm, nhà xuất khẩu cũng có thể nhận được tiền bất cứ lúc nào tại ngân hàng của mình. Với thư tín dụng trả chậm có xác nhận, nhà xuất khẩu có thể nhận được tiền dưới dạng chuyển nhượng và chuyển toàn quyền sở hữu thư tín dụng cho ngân hàng mở thư tín dụng. Đối với nhà nhập khẩu, mọi L/C đều do ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu nhưng không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng đủ số dư trong tài khoản của mình để làm bảo đảm cho L/C đó. Vì vậy, ngân hàng mở thư tín dụng phải chịu mọi rủi ro khi nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hay nhà nhập khẩu không muốn thanh toán thư tín dụng đến hạn trả tiền. Một số NHTM quy định các khách hàng muốn mở L/C phải ký quỹ 80% giá trị L/C đó. Thông thường trong thực tế, từ khi nhà nhập khẩu xin mở thư tín dụng đến hạn phải thanh toán thư tín dụng đó có một khoảng cách thời gian tương đối lớn. Chính vì vậy nếu ngân hàng khống chế số dư có trên tài khoản của nhà nhập khẩu thì sẽ gây ảnh hưởng tới khả năng kinh doanh của họ nhưng nếu không khống chế số dư có trên tài khoản của khách hàng (nhất là đối với các L/C trả ngay) thì việc xác định trước thư tín dụng này có được thanh toán hay không là không dễ và ngân hàng mở thư tín dụng phải gánh chịu mọi rủi ro cùng với sự mất lòng tin của khách hàng hay ngân hàng nước ngoài. Để tránh được những điều bất cập trên, ngân hàng cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức tín dụng. Trước khi mở thư tín dụng theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, ngân hàng phải kiểm tra mục đích, đối tượng nhập khẩu, khả năng hoạt động cạnh tranh của nhà nhập khẩu hiện tại và trong tương lai, đây chính là quá trình thẩm định tín dụng, là cơ sở để đảm bảo vốn cho vay của ngân hàng. Trong quá trình cấp vốn, ngân hàng chỉ cho phép đơn vị rút vốn trong chừng mực còn đủ vốn để thanh toán cho thư tín dụng mà đơn vị xin mở theo quy định của ngân hàng. - Tài trợ XNK trên cơ sở hối phiếu : Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hay đến một ngày cụ thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác, hoặc trả cho người cầm hối phiếu. Hối phiếu là một chứng từ có giá, nó đảm nhiệm ba chức năng: chức năng bảo đảm, chức năng thanh toán và chức năng tài chính. Trong kinh doanh XNK hối phiếu đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Là một phương tiện tài chính, hối phiếu đóng vai trò như là công cụ để cấp vốn cho nhà nhập khẩu và đóng vai trò như là công cụ để tái cấp vốn cho nhà xuất khẩu. Do hối phiếu có khả năng được chuyển nhượng nên nó được sử dụng rộng khắp trong thương mại quốc tế. Các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng được xây dựng trên cơ sở hối phiếu có các hình thức như sau : Thứ nhất : Tín dụng chiết khấu hối phiếu Đây là tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán tức là ngân hàng mua các khoản nợ phải đòi. Đối với nhà nhập khẩu, chiết khấu hối phiếu giúp họ có thời gian để thanh toán hối phiếu. Đối với nhà xuất khẩu lại có thể tái đầu tư đối với khoản tín dụng cung ứng cho nhà nhập khẩu. Thứ hai : Tín dụng đối với hối phiếu tự nhận nợ (kỳ phiếu). Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do người trả tiền viết ra để cam kết trả tiền cho người hưởng lợi. Kỳ phiếu là một chứng từ cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu ký phát, trong đó người lập phiếu cam kết trả một khoản tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh của người này trả cho một người thứ ba theo quy định trong kỳ phiếu. Thông qua kỳ phiếu ngân hàng cấp một khoản tín dụng đặc biệt gọi là tín dụng chiết khấu kỳ phiếu. Thứ ba : Tín dụng chấp nhận hối phiếu Đây là khoản tín dụng đảm bảo cho việc chấp nhận hối phiếu và ngân hàng có trách nhiệm với những hối phiếu đòi nợ hộ. Tuy nhiên đây chỉ là tín dụng dưới hình thức một sự bảo đảm về mặt tài chính chứ thực chất ngân hàng chưa thực sự phải xuất tiền cho người vay. Nhà nhập khẩu phải vay mượn về mặt danh nghĩa để có được một chấp nhận trên hối phiếu của ngân hàng theo yêu cầu của nhà xuất khẩu. Khi tới hạn thanh toán, nếu nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán thì ngân hàng phải đứng ra chấp nhận rủi ro của hối phiếu. Với sự chấp nhận của ngân hàng nhà nhập khẩu trên hối phiếu đòi tiền nhà xuất khẩu có sự bảo đảm vững chắc về khả năng thanh toán và họ có thể đem hối phiếu đi chiết khấu tại bất cứ tổ chức tài chính nào. Như vậy, cùng với sự chấp nhận của ngân hàng thì khả năng thương mại của hối phiếu là rất lớn, đồng thời nó tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu được hưởng tỷ lệ chiết khấu ưu đãi. Khi ngân hàng chấp nhận chiết khấu ngay hối phiếu và ghi có vào tài khoản nhà xuất khẩu thì tín dụng này chuyển thành tín dụng ứng trước. - Tài trợ XNK trên cơ sở tín dụng ứng trước : Đối với nhà xuất khẩu, khi các nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu đối với bộ chứng từ hàng xuất, bộ chứng từ này thể hiện nội dung và giá trị hàng hoá đã chuyển giao thì họ có thể nhận được khoản tín dụng bằng cách bán tại bộ chứng từ hàng hoá cho ngân hàng. Qua đó, họ được bù đắp nguồn vốn để tiếp tục kinh doanh trong suốt thời gian kể từ khi gửi hàng cho đến khi nhà nhập khẩu chấp nhận bộ chứng từ và đồng ý trả tiền. Ngân hàng có toàn quyền sở hữu đối với bộ chứng từ hàng xuất có giá trị đòi tiền hoặc hối phiếu kèm theo. Các chứng từ này nhất thiết phải là các chứng từ có giá trị để cho vay, không được phép chuyển nhượng cho người thứ ba sử dụng. Các ngân hàng thường ký với các nhà xuất khẩu một hạn mức tín dụng để sử dụng cho mức vay này. Tất nhiên khoản vay này (tuỳ theo mặt hàng và khả năng thanh toán của khách hàng) chỉ được chấp nhận bằng từ 70 - 80% giá trị hàng hoá. Theo điều kiện của loại vay này, ngân hàng vẫn có quyền truy đòi đối với nhà xuất khẩu khi bộ chứng từ gửi đi không thu được tiền, thường để chắc chắn hơn ngân hàng mua lại chứng từ trên cơ sở một thư tín dụng. Đối với nhà nhập khẩu, tín dụng ứng trước cũng đáp ứng được nhu cầu của nhà nhập khẩu khi họ phải thanh toán bộ chứng từ hàng hoá chưa cập bến, sau đó họ phải giải phóng hàng và thu hồi vốn. Đó là một quá trình dài và họ cũng cần khoản trợ cấp của ngân hàng, đó là khoản tín dụng ứng trước {15, 17}. Trên đây là một số các hình thức tín dụng tài trợ XNK chủ yếu. Các hình thức tín dụng này tạo sự hỗ trợ tích cực về tài chính cho các nhà XNK, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ được liên tục, có hiệu quả đồng thời thúc đẩy sự phát triển hoạt động ngoại thương của mỗi nước. 1.2.3. TTQT và ảnh hưởng của nó đối với hoạt động XNK 1.2.3.1. Nghiệp vụ TTQT trong hoạt động của các NHTM TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, nảy sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với tổ chức cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế. Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gắn liền với việc trao đổi giữa đồng tiền của quốc gia này lấy đồng tiền của quốc gia khác. Khi ký hợp đồng thương mại quốc tế, các bên tham gia phải đàm phán và thống nhất về đồng tiền sử dụng trong giao dịch. Đồng tiền được lựa chọn có thể là đồng tiền của nước người mua hoặc đồng tiền của nước người bán hay đồng tiền của một nước thứ ba. Tiếp đến, các bên tham gia còn phải thoả thuận lựa chọn phương tiện thanh toán phù hợp, có thể là : séc, hối phiếu, lệnh phiếu hay thẻ thanh toán v.v... Lựa chọn phương thức thanh toán cũng là vấn đề mà các bên tham gia phải bàn bạc. Mỗi phương thức thanh toán khác nhau có thể có những điều kiện và ưu nhược điểm khác nhau, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên tham gia. Các phương thức thanh toán phổ biến trong TTQT hiện nay là : chuyển tiền, nhờ thu và tín dụng chứng từ {22}. Ngày nay, quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng, khối lượng hàng hoá được giao lưu trên thế giới ngày càng lớn. Vì vậy, sự phát triển hoạt động TTQT là một đòi hỏi khách quan cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế. Yêu cầu đặt ra đối với TTQT là cần có những phương thức thanh toán mới, hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, đảm bảo nhanh chóng, chính xác tiện lợi, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi của các bên tham gia TTQT. Cũng như các hoạt động kinh tế khác, hoạt động TTQT cũng phải dựa trên cơ sở các văn bản pháp lý. Để giải quyết những bất đồng tranh chấp giữa các bên trong quan hệ TTQT, các quốc gia cùng với các tổ chức quốc tế đã ký kết các hiệp định, thoả ước có liên quan. Đây chính là những văn kiện mang tính pháp lý quốc tế quan trọng điều chỉnh hoạt động TTQT. Có thể chia thành 2 loại văn bản pháp lý : Thứ nhất, những văn bản pháp lý làm cơ sở cho TTQT. Thí dụ : Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ - UCP 500 (Uniform Customs and Practice for Documentary Credit); Quy tắc thống nhất về nhờ thu - URC; Các nguồn luật điều chỉnh quan hệ thanh toán hối phiếu; Luật thống nhất về hối phiếu, nguồn luật điều chỉnh thanh toán séc được ký kết trong công ước Geneve 1931, thoả ước giữa các ngân hàng của các nước. Thứ hai, những văn bản pháp lý có liên quan đến TTQT. Thí dụ : các điều kiện thương mại quốc tế - INCOTERMS - là văn bản tập hợp tất cả những quy tắc thống nhất quốc tế dùng để giải thích những điều kiện thương mại thông dụng nhất trong thương mại quốc tế. Hợp đồng thương mại quốc tế là văn bản thoả thuận có hiệu lực pháp lý giữa các bên XNK thuộc các quốc gia khác nhau, trong đó quy định bên xuất khẩu có trách nhiệm giao hàng, chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá cùng với các chứng từ có liên quan và nhận tiền thanh toán, bên nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng. Ngoài ra, các chủ thể tham gia XNK còn phải tuân thủ luật pháp chế độ quản lý trong nước. Thí dụ : chế độ quản lý ngoại thương, chế độ quản lý ngoại hối v.v... Nhằm thực hiện mục tiêu phát triển thương mại quốc tế dựa trên cơ sở “bình đẳng cùng có lợi”, việc tôn trọng những quy định quốc gia và quốc tế của các chủ thể tham gia XNK có ý nghĩa to lớn trong việc xoá bỏ những trở ngại do sự khác biệt về địa lý, ngôn ngữ, chính trị... thúc đẩy hoạt động XNK phát triển. Do sự cách biệt về địa lý giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, do sự biến động về tỷ giá tiền tệ trong điều kiện lạm phát đang trở thành hiện tượng phổ biến ở nhiều quốc gia hiện nay, do sự biến động về lãi suất cũng như năng lực tài chính của các chủ thể, các bên tham gia hoạt động thương mại quốc tế phải đối phó với các rủi ro ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Từ đó, các chủ thể phải quan tâm đến nhiều vấn đề như điều kiện về tiền tệ và đảm bảo hối đoái, địa điểm thanh toán, thời gian thanh toán, hình thức thanh toán. Các điều kiện này gọi chung là các điều kiện thanh toán. Chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia TTQT một khi các điều kiện đó đã được xác định trong hợp đồng kinh tế ngoại thương {21, 22}. Những điều kiện đó bao gồm : Thứ nhất : Điều kiện tiền tệ, trong TTQT, điều kiện tiền tệ là việc quy định thống nhất sử dụng một đơn vị tiền tệ nào đó để tính toán và thanh toán trong hợp đồng XNK, đồng thời quy định phương thức xử lý khi có sự biến động về giá trị của đồng tiền đó. Việc lựa chọn đồng tiền tính toán thanh toán do 2 bên XNK thoả thuận, trong đó đồng tiền có sức mua ổn định trên thị trường quốc tế thường được lựa chọn Thứ hai, điều kiện đảm bảo hối đoái : Đây là điều kiện nhằm đảm bảo giá trị thực tế của các khoản thu nhập tiền tệ từ hợp đồng ngoại thương, hạn chế tối đa những tổn thất gây ra do những rủi ro tiền tệ gây ra. Khi có rủi ro thì điều kiện này sẽ là căn cứ để xử lý. Thông thường, trong TTQT, người ta thường sử dụng một số hình thức đảm bảo điều kiện thanh toán như : đảm bảo bằng vàng, đảm bảo bằng một đơn vị tiền tệ, đảm bảo theo một “rổ tiền tệ” hoặc đảm bảo bằng hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn (FORWARD). Thứ ba, điều kiện về thời gian thanh toán : Điều kiện này chỉ rõ thời hạn người nhập khẩu phải trả tiền cho người xuất khẩu theo quy định trong hợp đồng XNK. Điều kiện về thời gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với cả người xuất khẩu và người nhập khẩu vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ luân chuyển vốn, tới khả năng hạn chế rủi ro về các yếu tố như lãi suất, tỷ giá hối đoái v.v... Thứ tư : điều kiện về địa điểm thanh toán. Địa điểm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tuỳ thuộc sự thoả thuận giữa 2 bên xuất và nhập khẩu, thông thường địa điểm được chọn phụ thuộc “thế và lực” của 2 bên mua bán. Thứ năm : điều kiện về phương thức thanh toán. Phương thức thanh toán là cách thức thông qua đó người nhập khẩu trả tiền để nhận hàng và người xuất khẩu nhận tiền, giao hàng. Phương thức thanh toán là một trong các điều kiện vô cùng quan trọng đối với các bên tham gia XNK. Trong thực tiễn TTQT, các phương thức thanh toán chủ yếu được áp dụng là : phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ. Mỗi phương thức thanh toán đều có đặc điểm, yêu cầu và ưu nhược điểm riêng của nó. Do vậy, phải căn cứ vào đặc điểm điều kiện cụ thể để lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp, nhằm tạo điều kiện cho hoạt động TTQT diễn ra thuận tiện, có hiệu quả. Tuỳ thuộc điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mối quan hệ thương mại, quan hệ thanh toán, hai bên tham gia XNK có thể lựa chọn và thống nhất sử dụng một trong những phương tiện thanh toán như : Hối phiếu, lệnh phiếu, séc và thẻ thanh toán. 1.2.3.2. Vai trò của TTQT đối với hoạt động xuất nhập khẩu TTQT là khâu cuối cùng của quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ, là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu thụ thông qua việc chi trả lẫn nhau trong trao đổi quốc tế. Vì vậy, có thể coi TTQT như một mắt xích không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động XNK. Thông qua TTQT, giá trị hàng hoá XNK được thực hiện liên tục và nhờ có hoạt động TTQT mà các khoản tín dụng đầu tư hay mọi giao dịch đối ngoại mới có thể thực hiện được. Vì vậy, có thể nói TTQT góp phần chủ yếu giải quyết mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, duy trì quy trình sản xuất được liên tục và đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá. TTQT giúp cho hoạt động XNK thực hiện tốt chức năng của mình, gián tiếp mở rộng lưu thông hàng hoá ra nước ngoài, cải thiện cán cân thanh toán v.v... TTQT phản ánh sự vận động độc lập tương đối của giá trị hàng hoá và tư bản trong quá trình lưu chuyển giữa các quốc gia. Bởi vậy, nếu TTQT được thực hiện nhanh chóng, chính xác, đúng luật sẽ giảm được thời gian chu chuyển vốn, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, giảm thiểu rủi ro do sự biến động của tiền tệ, tăng khả năng thanh toán ... Nếu việc thanh toán đạt được những yêu cầu đó sẽ để lại thiện chí, sự tin cậy giữa các bên, góp phần mở rộng, củng cố mối quan hệ buôn bán giữa các nước. Thông qua TTQT, tình hình XNK của một nước được ghi chép, phản ánh lại trên cán cân thương mại của nước đó. Dựa vào tình trạng của cán cân thương mại, nhà nước có thể biết được cơ cấu hàng hoá XNK và tình hình ngoại thương dạng nhập siêu hay xuất siêu, trên cơ sở đó có những chính sách, biện pháp điều hành hoạt động ngoại thương phù hợp từng thời kỳ. Đồng thời, qua việc theo dõi hoạt động TTQT, nhà nước có cơ sở để sửa đổi, điều chỉnh những bất hợp lý trong hệ thống luật pháp hay chính sách có liên quan đến hoạt động XNK và TTQT. Như vậy, TTQT có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển hoạt động XNK nói riêng và kinh tế đối ngoại nói chung. Nhờ vậy mà nó tác động trở lại đối với kinh tế trong nước, giúp cho kinh tế trong nước từng bước bắt nhịp với kinh tế thế giới, khẳng định vị trí của nền kinh tế quốc gia trên trường quốc tế. Đối với các DN tham gia XNK, TTQT là khâu cuối cùng của hợp đồng ngoại thương và nó khép lại một chu trình mua bán hàng hoá và dịch vụ. Thông qua thực hiện TTQT với các bạn hàng nước ngoài, các DN kinh doanh XNK có điều kiện nắm bắt các thông tin về thị trường trong và ngoài nước cũng như hiểu biết thêm về đối tác của mình. Trên cơ sở những thông tin về thị trường, xem xét, cân đối với tiềm lực của mình, các DN có thể đề ra các chiến lược kinh doanh thích hợp, đồng thời có biện pháp ngăn ngừa rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Khi xem xét vai trò của TTQT đối với hoạt động XNK cần phải tính đến vai trò của TTQT đối với chính các NHTM. Bởi vì, sự phát triển, hiệu quả hoạt động của NHTM có mối quan hệ tác động trực tiếp đến hoạt động XNK. Từ góc độ này cho thấy việc hoàn thiện và phát triển hoạt động TTQT có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các NHTM. TTQT không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà còn được coi là một mặt không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của NHTM, nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động khác của NHTM. Vai trò của TTQT đối với bản thân các NHTM được thể hiện trên các mặt sau: Một là: Hoạt động TTQT giúp NHTM có điều kiện thu hút thêm nhiều khách hàng có nhu cầu TTQT, từ đó làm tăng quy mô hoạt động của ngân hàng. Đồng thời, TTQT còn tạo điều kiện cho Ngân hàng hoàn thiện và đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh như kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh và các dịch vụ khác nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó nâng cao uy tín của ngân hàng và tạo niềm tin cho khách hàng. Hai là : TTQT giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng, đặc biệt trong lĩnh vực cung ứng các dịch vụ cho hoạt động kinh doanh XNK. Ba là : Nhờ đẩy mạnh hoạt động TTQT mà Ngân hàng có điều kiện đẩy mạnh hoạt động tín dụng quốc tế, tài trợ XNK cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời tận dụng được nguồn vốn của khách hàng ký quỹ khi tham gia TTQT. Bốn là : Hoạt động TTQT còn giúp Ngân hàng nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế. Từ đó khai thác được nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Năm là : Nhờ hoạt độngTTQT mà ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh , tăng thu các loại phí : phí chuyển tiền, phí thanh toán, phí bảo lãnh vv..., góp phần không nhỏ vào doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. TTQT cũng có vai trò bổ sung và hỗ trợ các hoạt động khác của ngân hàng nên nó gián tiếp tạo ra lợi nhuận từ những mặt hoạt động này {11}. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH VIỆT NAM 2.1. VỊ TRÍ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1.1. Khái quát về quá trình đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam Đối với ngành ngân hàng, quá trình thực hiện công cuộc đổi mới được đánh dấu bằng sự ra đời Quyết định số 218/QĐ của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) cho làm thử, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh XHCN, sau đó là Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 26/3/1988. Nội dung cơ bản của nghị quyết là “chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh” có nghĩa là kể từ thời gian này sẽ đoạn tuyệt với cơ chế hành chính quan liêu bao cấp. Đặc biệt, tiếp đó là sự ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính... có hiệu lực thi hành từ tháng 10 năm 1990, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành từ tháng 10 năm 1998 đã chuyển hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Hơn 10 năm qua hoạt động của hệ thống ngân hàng đã không ngừng đổi mới và ngày càng phát triển. Có thể nêu tóm tắt những nội dung đổi mới chủ yếu của hệ thống ngân hàng nói chung trong đó có ngân hàng thương mại quốc doanh. - Thứ nhất, đổi mới về cơ cấu tổ chức, tách chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại với chức năng quản lý của ngân hàng nhà nước (NHNN). Trước đổi mới, cũng như các nước XHCN khác toàn bộ hệ thống ngân hàng nước ta đều thuộc sở hữu nhà nước, bao gồm ngân hàng Trung ương (NHTW) và các ngân hàng chuyên ngành, đó là ngân hàng đầu tư, ngân hàng ngoại thương và ngân hàng tiết kiệm để phục vụ rộng rãi công chúng. Về danh nghĩa, các ngân hàng chuyên ngành là những đơn vị hoạt động độc lập. Nhưng trên thực tế chúng được quản lý bằng những chỉ thị, quyết định của NHTW đưa xuống. Thực sự chúng chỉ là những "cánh tay" của NHTW. NHTW với tư cách là cơ quan quản lý về hoạt động ngân hàng, thực hiện chức năng phát hành tiền đồng thời còn giải quyết cả khâu cung ứng tín dụng ngắn hạn cho khu vực nhà nước. Song, chính bản thân ngân hàng Trung ương cũng không có cả quyền tự chủ trên danh nghĩa. Bởi vì, chính ngân hàng Trung ương cũng là cơ quan cấp dưới của các nhà lãnh đạo kinh tế, chính trị (trên danh nghĩa là chính phủ), ngân hàng Trung ương phải tuân thủ các chỉ thị, mệnh lệnh từ cấp trên. Tóm lại, hệ thống các ngân hàng đã "cùng nhau" thiết lập một bộ máy cơ cấu tổ chức theo thứ bậc, tập trung hoá một cách cứng nhắc và có quyền hạn của một cơ quan hành chính. Rốt cuộc, ngân hàng không khác gì hơn một chi nhánh của bộ máy quan liêu thâm nhập khắp nơi {4}. Đặc điểm nói trên là biểu hiện chủ yếu của mô hình hệ thống ngân hàng một cấp. Thực hiện đổi mới, kể từ khi thực hiện pháp lệnh Ngân hàng nhà nước pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính, Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng ở nước ta được tổ chức theo mô hình ngân hàng 2 cấp : 1- Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng phát hành, đồng thời là ngân hàng của các ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam - là ngân hàng Trung ương. 2- Các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng bao gồm các NHTMQD (trong luận văn không đề cập đến Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long và Ngân hàng chính sách xã hội), 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 28 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 40 văn phòng đại diện chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 2 công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, 2 công ty liên doanh cho thuê tài chính và các quỹ tín dụng nhân dân {40}. Tính riêng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, ngoài chi nhánh NHNN Hà Nội thực hiện chức năng quản lý nhà nước còn có 86 tổ chức tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và cung ứng dịch vụ ngân hàng (5 sở giao dịch và 23 chi nhánh NHTMQD, 5 NHTM cổ phần và 9 chi nhánh NHTM cổ phần, 11 chi nhánh ngân hàng người nghèo, các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 9 quỹ tín dụng nhân dân v.v..) và 2 công ty vàng bạc đá quý thuộc Tổng công ty vàng bạc đá quý Việt Nam {40}. Sự đổi mới về cơ cấu tổ chức của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã đạt được mục tiêu tách biệt rõ chức năng giữa NHNN và các NHTM, xoá bỏ tình trạng độc quyền của các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và cung cấp dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện pháp lý cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng thuộc nhiều thành phần kinh tế, hình thức sở hữu khác nhau cùng tham gia hoạt động trong điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. - Thứ hai, đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động. Cùng với đổi mới về cơ cấu tổ chức, hệ thống ngân hàng đã từng bước thực hiện quá trình đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động. Quá trình đổi mới được biểu hiện trên các mặt sau: + Xoá bỏ tình trạng độc quyền. Toàn bộ hệ thống các ngân hàng, tổ chức tín dụng đều phải hoạt động trong điều kiện cạnh tranh, bao gồm cả các NHTMQD. + Hạn chế sự can thiệp quá sâu và mang tính hành chính mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động của các NHTM và TCTD. + Tạo môi trường pháp lý cần thiết để các NHTM, Quỹ tín dụng... gọi chung là các tổ chức tín dụng (TCTD) phát huy quyền tự chủ, năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trước kết quả hoạt động kinh doanh cũng như về nhân sự, quy định mức lãi suất v.v... từ đó đã tạo nên sự gắn kết giữa lợi ích của người lao động với kết quả hoạt động kinh doanh, tạo động lực cho sự phát triển. Nhờ đó, các NHTM, TCTD đã có sự phát triển không ngừng, trình độ cán bộ ngân hàng được nâng lên, các loại hình dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Các NHTMQD đều cố gắng thực hiện hầu hết các nghiệp vụ theo quy định của luật các tổ chức tín dụng với phương châm "Kinh doanh đa năng", đồng thời biết tận dụng lợi thế của mình để tập trung kinh doanh ở thị trường truyền thống có hiệu quả hơn, ít rủi ro hơn. Các ngân hàng đã từng bước đa dạng hoá hoạt động của mình như : đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cho vay, các hình thức thanh toán và các loại hình dịch vụ ngân hàng, hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả, mở rộng, phát huy vai trò của các NHTMQD đối với nền kinh tế. Cùng với hai nội dung nêu trên là quá trình xây dựng hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách, công cụ quản lý v.v..., đáp ứng nhu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng. 2.1.2. Đặc điểm của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam hiện nay Hiện nay ở Việt Nam đang có 4 NHTMQD tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng, đó là : Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ngoài ra các ngân hàng khác hoạt động gần như các ngân hàng chính sách, vì vậy trong luận văn chủ yếu minh hoạ bằng số liệu của 4 ngân hàng nêu trên. Sau đây xin nêu một số nét khái quát về 4 NHTMQD. Vài nét về Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (NHNT) {30} Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 15/SL ngày 6/5/1951 thành lập ngân hàng Quốc gia Việt Nam, theo đó chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có nghị định số 94/TTg ngày 27/5/1951 quy định hệ thống tổ chức của ngân hàng Quốc gia, trong đó có Ngân hàng xuất nhập khẩu đặt tại các vùng giáp danh giữa vùng tự do và vùng địch tạm chiếm. Đây là tổ chức tiền thân của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954) các ngân hàng xuất nhập khẩu chấm dứt hoạt động. Tháng 9/1960 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III quyết định miền Bắc bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, mở rộng quan hệ kinh tế Việt Nam với bên ngoài. Theo hướng đó, ngày 26/10/1961, Hội đồng Chính phủ ra nghị định 115/CP thành lập NHNTVN trên cơ sở bộ máy của Cục ngoại hối trực thuộc Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Ngày1/4/1963 NHNTVN chính thức ra mắt trên thị trường quốc tế. NHNT trở thành một ngân hàng._. và Bộ tài chính. Đặc biệt đối với quỹ bảo hiểm tín dụng, đây là lưới an toàn thứ 3 trong hoạt động tín dụng ngân hàng, loại hình bảo hiểm này đã xuất hiện trên thế giới từ lâu, trước hết nó cần thiết cho an toàn tín dụng XNK. Trước mắt, chúng ta nên tham gia tích cực bảo hiểm tín dụng quốc tế. 3.2.1.2. Về môi trường pháp lý và cơ sở pháp lý Nhà nước cần tạo ra môi truờng pháp lý thuận lợi và cơ sở pháp lý rõ ràng cho hoạt động của các NHTM, tức là phải bảo đảm đầy đủ các văn bản pháp quy, điều chỉnh cần thiết và có tính hiệu năng cao. Trong điều kiện môi trường kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, việc tạo ra môi trường pháp lý thật thuận lợi cho hoạt động của các NHTM quả thực không dễ. Song, những yếu tố nào, điều kiện nào, phạm vi nào có thể điều chỉnh lại hoặc tạo ra môi trường mới thì cần phải giải quyết kịp thời. Phạm vi môi trường pháp lý và cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động tín dụng và TTQT là rộng lớn. Luận văn chỉ đề cập tới một số điểm trực tiếp nhất nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng và TTQT trong điều kiện hiện nay đó là : vấn đề tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp, nghĩa vụ của người vay và trách nhiệm của người cho vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng, những biện pháp tiếp tục bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật đối với hoạt động TTQT. Thứ nhất, cần khẳng định quan hệ tín dụng trên cơ sở hợp đồng tín dụng là quan hệ kinh tế dân sự, do đó nó phải được điều chỉnh bởi Bộ luật cao nhất là Luật dân sự. Các văn bản pháp quy dưới Luật hoặc Luật khác liên quan phải thống nhất với luật dân sự đó. Thứ hai, để tài sản thế chấp trong quan hệ tín dụng đủ pháp lý thì trước hết nó phải đủ pháp lý và pháp lý duy nhất (tức là chỉ một giấy tờ pháp lý). Muốn vậy phải tăng cường hiệu năng của cơ quan cấp quyền sở hữu tài sản. Tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng phải được đăng ký với một tổ chức có nối mạng thông tin phục vụ các tổ chức tín dụng. Thứ ba, đã công nhận quan hệ tín dụng là quan hệ dân sự thì ngân hàng nhận tài sản thế chấp trong quan hệ tín dụng đó phải được quyền sở hữu tài sản thế chấp khi bên thế chấp không thực hiện cam kết tín dụng, nghĩa là, ngân hàng thu tài sản thế chấp vô điều kiện. Thứ tư, tài sản thế chấp mà ngân hàng sở hữu thực chất là bộ phận nguồn vốn của ngân hàng và là vốn “đi vay để cho vay”. Do vậy, ngân hàng phải được khai thác nó, tạo sinh lời, hoặc chuyển hoá nó thành tiền để cho vay. Bởi vậy, phải xem đây là một nghiệp vụ thường xuyên của ngân hàng và được công nhận pháp lý trong hoạt động ngân hàng. Thứ năm, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động TTQT, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần ban hành luật ngoại hối, luật hối phiếu, luật séc và các văn bản điều chỉnh hoạt động TTQT, cần có những chính sách phù hợp khuyến khích phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Cụ thể là : đa dạng hoá các loại ngoại tệ được phép mua bán trên thị trường, đa dạng hoá hình thức mua bán trên thị trường, cho phép tăng cường đội ngũ những nhà môi giới trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cho phép một số chi nhánh lớn mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài. Thứ sáu, việc xử lý những tồn đọng hiện nay của các NHTMQD cần có chính sách nhưng phải có cơ chế pháp lý cần thiết. Bởi vậy, cần tạo cho ngân hàng đủ cơ chế pháp lý. Để đảm bảo tính hiệu năng cao của văn bản pháp quy nên có một văn bản duy nhất, dưới nó là các văn bản hướng dẫn. Cần tránh ra quá nhiều văn bản thực hiện với những nội dung chồng chéo, gây khó khăn cho ngân hàng. 3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng và TTQT của NHTMQD góp phần đẩy mạnh hoạt động XNK 3.2.2.1. Hoàn thiện quy trình tín dụng Hiện nay quy trình tín dụng được xem là quá trình thực hiện các bước: tiếp nhận hồ sơ xin vay, kiểm tra và phán quyết cho vay, kiểm tra và thu nợ khoản vay. Quá trình như vậy là chưa đủ. Một quy trình tín dụng đầy đủ là quá trình bao gồm các bước xử lý của TCTD từ việc tìm ra dự án để cho vay, đến tiếp nhận hồ sơ xin vay, thẩm định và quyết định cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay, đôn đốc và xử lý thu nợ, đánh giá chất lượng khoản vay. Đây là một quy trình bắt buộc đảm bảo cho việc cấp tín dụng của ngân hàng đạt chất lượng và hiệu quả. Việc thực hiện không đầy đủ các bước trong quy trình đó, có thể dẫn đến hiệu quả xấu, trở thành khoản tín dụng tồi ngay sau đó. Bởi vậy, muốn nâng cao hiệu quả tín dụng, thì các NHTMQD phải sớm tiến hành quy trình hoá, cơ chế hoá quy trình tín dụng để bắt buộc từng cơ sở ngân hàng nghiêm túc thực hiện góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. 3.2.2.2. Cải tiến quy trình thẩm định và nâng cao năng lực thẩm định tín dụng các dự án sản xuất kinh doanh XNK Để nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng nói chung, tín dụng XNK nói riêng, vấn đề nâng cao khả năng thẩm định dự án vay vốn phải được xem là yếu tố then chốt. Chỉ có thông qua thẩm định dự án vay vốn, ngân hàng mới đánh giá được thực trạng tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp để quyết định cho vay hay không. Thực tế cho thấy, một khoản vay có thể chuyển thành một khoản nợ khó đòi ngay sau khi xét duyệt dự án, nếu cán bộ tín dụng yếu kém, cấp trên buông lỏng quản lý. Đặc biệt là các dự án XNK, vốn hay chứa đựng khả năng rủi ro. Để đảm bảo tính hiệu quả, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải xây dựng dự án trên cơ sở tính khả thi cao, chủ động tìm kiếm các quỹ hỗ trợ để trong quá trình thẩm định dự án, các ngân hàng có thể giảm thấp phần vốn đối ứng của doanh nghiệp khi vay. Mặt khác, các NHTMQD không chỉ đóng vai trò người thẩm định dự án mà còn là người tư vấn cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm dự án đầu tư có hiệu quả. Muốn vậy, đòi hỏi người cán bộ ngân hàng không những phải am hiểu về nghiệp vụ thẩm định dự án mà còn phải có hiểu biết nghiệp vụ đầu tư kinh doanh. Để đáp ứng yêu cầu đó, các NHTMQD phải đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, tiếp ứng ngay với điều kiện kinh doanh mới trong cơ chế thị trường. Ngoài ra, ngân hàng cần phải nghiên cứu xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phân tích dự án cần thiết, phù hợp với cơ chế luật lệ. Mặt khác, để nâng cao tính tự chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định, yêu cầu phải pháp chế hoá cơ chế thẩm định dự án vay vốn, quy định rõ để dễ kiểm tra trách nhiệm từ người thẩm định, người cho vay đến người phán quyết cho vay. Chỉ có thẩm định dự án đầu tư tốt thì ngân hàng cho vay mới phát huy được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và có đầy đủ cơ sở thuyết trình các cấp liên quan trong trường hợp từ chối cho vay, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng XNK, hạn chế đến mức tối thiểu yếu tố chủ quan trong việc thẩm định và xét duyệt cho vay. Để công tác thẩm định dự án vay vốn đổi mới nhanh và có kết quả các NHTMQD cần coi đây là một khâu quan trọng trong thực hiện quy trình cho vay. 3.2.2.3. Mở rộng tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Để thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng kim ngạch XNK giai đoạn tới đòi hỏi phải mở rộng thị trường xuất khẩu bằng hàng hoá chất lượng cao, khối lượng lớn. Bởi vậy, nhu cầu tất yếu phải có chiến lược đầu tư cho các dự án sản xuất kinh doanh XNK với quy mô ngày càng tăng cùng với việc xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Để làm điều đó cùng với việc nghiên cứu, lựa chọn lĩnh vực, ngành hàng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn phải có sự đầu tư đồng bộ về công nghệ sản xuất, chế biến xuất khẩu, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động v.v... Vì vậy, NHTMQD cần tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp XNK vay vốn trung và dài hạn để mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Để mở rộng tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, trước hết phải mở rộng các dự án đầu tư đáp ứng cơ cấu đầu tư có hiệu quả đảm bảo hoàn vốn vay. Yêu cầu này đòi hỏi các NHTMQD phải thực sự đổi mới quan điểm, chiến lược khách hàng, từ chỗ khách hàng có dự án đầu tư tìm đến ngân hàng thay bằng ngân hàng chủ động tìm đến dự án đầu tư. Hơn thế nữa, ngân hàng phải là người tư vấn tích cực cùng doanh nghiệp XNK tìm ra dự án để đầu tư vốn có hiệu quả. Việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn đòi hỏi ngân hàng phải cải tiến nghiệp vụ huy động vốn, mở ra các hình thức huy động vốn hấp dẫn người gửi tiền để thu hút tiền gửi trung và dài hạn. Trong tình hình hiện nay, do chưa có điều kiện tăng nhanh mức huy động vốn dài hạn thì có thể liên tục huy động vốn loại có thời hạn 1 đến 2 năm, lấy nguồn vốn huy động lần sau để thanh toán tiền gửi huy động lần trước. Cùng với huy động vốn trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn, NHTMQD là những ngân hàng có khả năng huy động tiền gửi ngắn hạn tăng lên liên tục, ổn định, do vậy vẫn sử dụng được một tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng thanh toán, đòi hỏi từng ngân hàng phải làm tốt công tác kế hoạch hoá nguồn vốn và sử dụng vốn đảm bảo khoa học, mặt khác phải giữ uy tín, tuyệt đối tránh tình trạng người gửi tiền ồ ạt đến rút tiền. Việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn là việc làm khá nguy hiểm, bởi vậy, NHNN cần phải có quy chế xử lý. 3.2.2.4. Lựa chọn các hình thức tín dụng thích hợp đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng XNK các NHTMQD cần phải phân loại các doanh nghiệp hoạt động XNK để có chính sách đầu tư thích hợp, có hiệu quả và an toàn. Thí dụ : đối với những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn, ngân hàng cần tạo điều kiện cho họ thực hiện các dự án đầu tư theo chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, tăng cường cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm mọi cách giảm gía thành để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trên thương trường trong nước và quốc tế. Những trường hợp này, NHTMQD cần có chính sách tín dụng ưu đãi về lãi suất, mức tín dụng, thời hạn tín dụng. Đối với những doanh nghiệp hoạt động XNK thuần tuý, tức là chỉ đóng vai trò trung gian trong quan hệ mua bán thì tuỳ từng dự án cụ thể mà ngân hàng quyết định mức tín dụng XNK cho phù hợp. Đối với những doanh nghiệp hoạt động XNK có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng có thể áp dụng kết hợp phương thức cho vay từng lần với phương pháp cho vay theo hạn mức. Đây là phương thức cho vay vốn lưu động đã phổ biến ở các nước trên thế giới, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn đủ vốn trong kinh doanh và ngân hàng luôn có nguồn thu nợ và đây là điều kiện để đảm bảo an toàn tín dụng. Tuy nhiên, để làm được điều đó, yêu cầu NHNN cần nghiên cứu và sửa đổi quy chế tín dụng hiện hành đối với các NHTM. Ngoài ra, có thể áp dụng hình thức tín dụng thuê mua để tăng vốn đầu tư chiều sâu cho doanh nghiệp hoạt động XNK. Tín dụng thuê mua là nghiệp vụ cho thuê tài chính dưới dạng cho thuê tài sản (máy móc, thiết bị) có rất nhiều tiện ích. Với hình thức này, các doanh nghiệp chỉ cần lượng vốn ít để trả tiền thuê mà vẫn có máy móc thiết bị sản xuất kinh doanh. Chính phủ đã có nghị định tạo điều kiện pháp lý cho tín dụng thuê mua hoạt động. Các NHTMQD đều đã lập các công ty cho thuê tài chính để thực hiện nghiệp vụ này, nhưng nhìn chung việc thực hiện còn ít hiệu quả. Đây là hình thức tín dụng quá mới mẻ ở nước ta, tiện ích của nó chưa được phổ cập đối với doanh nghiệp. Bởi vậy, để tín dụng thuê mua phát triển cần đẩy mạnh công tác tiếp thị khách hàng, đồng thời các NHTMQD cần phải xây dựng chiến lược, kế hoạch, bước đi phù hợp. 3.2.2.5. Kết hợp cho vay xuất khẩu với cho vay nhập khẩu Đối với các doanh nghiệp hoạt động XNK, ngoài việc áp dụng các hình thức tín dụng nêu trên, cùng với việc cho vay bằng Việt Nam đồng (VNĐ) đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, ngân hàng còn cho các doanh nghiệp vay nhập khẩu bằng hình thức cho vay ngoại tệ để mở thư tín dụng. Bởi vậy ngân hàng cần kết hợp cho vay xuất khẩu với cho vay nhập khẩu để tăng cường vòng quay của vốn, đảm bảo việc tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK đạt hiệu qủa cao. Hình thức cho vay nhập khẩu hàng hoá để tạo vốn sản xuất hàng xuất khẩu là một giải pháp tốt. Ngày nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hướng vào xuất khẩu, số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động XNK ngày càng tăng thì nghiệp vụ gắn nhập khẩu phục vụ xuất khẩu của ngân hàng càng phát huy hiệu quả. Hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, đồng thời cũng góp phần phát triển hoạt động XNK. 3.2.2.6. Đồng tài trợ đối với các dự án sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu lớn Hiện nay việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các dự án XNK của các NHTMQD còn nhiều hạn chế như : Hạn mức cho vay chưa cao, phương thức thanh toán chưa thuận tiện nhanh chóng, các hình thức tín dụng tài trợ XNK còn đơn điệu... Bởi vậy, nhiều dự án XNK lớn đều do các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp tín dụng. Với thế mạnh về vốn cùng bề dày kinh nghiệm trên thương trường, các ngân hàng này không bị khống chế bởi hạn mức cho vay một doanh nghiệp ở mức 10% vốn tự có và quỹ dự trữ. Họ sẵn sàng cung cấp cho khách hàng không chỉ đầu vào mà còn tìm đầu ra - tìm thị trường xuất khẩu cho khách hàng. Trong lĩnh vực tín dụng, họ cho các doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ mạnh để thu mua hàng xuất khẩu, trong lĩnh vực thanh toán họ sẵn sàng chuyển ngoại tệ phục vụ mua bán từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác. Với quy trình khép kín từ tín dụng đến thanh toán, họ khống chế đường đi của đồng vốn cho vay rất chặt chẽ. Hiện nay, việc thanh toán những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phần lớn được tiến hành qua các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thí dụ : Thanh toán xuất khẩu gạo với số lượng lớn được thực hiện qua chi nhánh ngân hàng BNP của Pháp, xuất khẩu than chủ yếu qua Citibank của Mỹ và ING bank của Hà Lan, thuỷ hải sản qua chi nhánh ngân hàng BFCE của Pháp, cà phê xuất khẩu thanh toán chủ yếu qua chi nhánh Deutsche Bank của Đức... Do vậy để các NHTMQD Việt Nam vươn lên trong cạnh tranh cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các TCTD nhằm mục đích củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng và tăng khả năng tài chính của các NHTMQD. Đối với những dự án XNK lớn, các NHTMQD nên thực hiện cơ chế đồng tài trợ tuần hoàn giữa các ngân hàng trên cùng một địa bàn, mỗi ngân hàng sẽ thực hiện tài trợ trong một giai đoạn nhất định, đến giai đoạn sau, doanh nghiệp lại vay ngân hàng khác để trả nợ cho ngân hàng trước. Quá trình vay và trả nợ sẽ được tiếp tục cho đến khi hoàn thành dự án. Sử dụng phương pháp cho vay đồng tài trợ này một mặt sẽ giảm thiểu rủi ro của ngân hàng, do có nhiều thành viên tham gia thẩm định tín dụng, có thể vận dụng những kinh nghiệm khác nhau trong hoạt động cho vay. Mặt khác, giúp cho khách hàng có đủ lượng vốn lớn thực hiện dự án, nếu chỉ một ngân hàng thì không đủ khả năng đáp ứng. Để đảm bảo cho quá trình thực hiện phương pháp đồng tài trợ đối với các dự án XNK lớn các ngân hàng cần có sự thống nhất trong quá trình đầu tư, đảm bảo tính đồng bộ, toàn diện, vững chắc và có hiệu quả. 3.2.2.7. Đa dạng hoá và phát triển toàn diện các hình thức thanh toán Xu hướng chung của các ngân hàng hiện nay là phát triển theo định hướng là một ngân hàng đa năng, do đó, đa dạng hoá sản phẩm ngân hàng nói chung và TTQT nói riêng là một tất yếu khách quan. Ngoài những phương thức TTQT truyền thống : chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ, bảo lãnh ... các NHTMQD cần phải thực hiện thêm nhiều hình thức thanh toán khác như : làm đại lý thanh toán thẻ, thanh toán séc du lịch, đặc biệt là các nghiệp vụ thanh toán hiện đại như : - Các loại séc, các loại thẻ thanh toán phạm vi quốc tế. - Nghiệp vụ FACTORING - nghiệp vụ bao tiêu thanh toán. - Nghiệp vụ FORFAITING - nghiệp vụ mua bán nợ thương mại quốc tế. Ngoài ra, đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng cần áp dụng linh hoạt nhiều loại thư tín dụng, mỗi loại phù hợp với từng điều kiện khác nhau. Bên cạnh đó, đa dạng hoá sản phẩm thanh toán không chỉ đơn thuần là mở rộng số lượng, loại hình thanh toán mà còn phải cân đối cơ cấu các loại hình thanh toán và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán. Đây cũng là vấn đề quan trọng trong cạnh tranh, do vậy, các NHTMQD cần tìm hiểu nắm bắt nhanh nhạy yêu cầu của khách hàng, tìm biện pháp thực hiện đơn giản, thuận lợi, chính xác, tiết kiệm thời gian và chi phí... trên cơ sở đó, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng nhằm thoả mãn, lôi kéo khách hàng, nâng cao uy tín cho ngân hàng trong cạnh tranh. Trong hoạt động nói chung và TTQT nói riêng cần coi trọng việc tiếp thu học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng khác mà họ có quy trình thanh toán tốt hơn. Thí dụ : quy trình thanh toán “một cửa” hoặc cho phép khách hàng mở L/C, nhận thông báo hay thanh toán L/C tại nhà v.v... 3.2.2.8. Đảm bảo an toàn trong thanh toán quốc tế TTQT là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro, rủi ro cho bên xuất khẩu, rủi ro cho bên nhập khẩu và rủi ro xảy ra ngay cả với ngân hàng. Vì vậy, đảm bảo an toàn trong hoạt động TTQT là một trong những giải pháp không thể thiếu trong việc hoàn thiện và mở rộng hoạt động TTQT. Trong TTQT thường gặp các loại rủi ro được bắt nguồn từ các điều kiện hoàn cảnh khác nhau : Rủi ro về khả năng thanh toán bằng ngoại tệ của ngân hàng; rủi ro trong khâu thanh toán đối với khách hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu, rủi ro về tỷ giá v.v... Ngân hàng cần phải căn cứ vào đặc điểm, điều kiện từng loại rủi ro để có phương án đề phòng và xử lý kịp thời nhằm hạn chế tối thiểu thiệt hại cho khách hàng và ngân hàng. Thí dụ : để giảm thiểu rủi ro về khả năng thanh toán bằng ngoại tệ của ngân hàng cần đẩy mạnh huy động tiền gửi bằng ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, xây dựng cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý và mở rộng quan hệ với các ngân hàng đại lý đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm tìm kiếm và ký kết các hiệp định tín dụng để có thể nhận được sự tài trợ khi cần thiết. 3.2.2.9. Kết hợp đẩy mạnh hoạt động cho vay tài trợ XNK và hoạt động bảo lãnh trong thanh toán quốc tế Đối với các doanh nghiệp XNK, hoạt động tài trợ của ngân hàng không chỉ đơn giản trong lĩnh vực cấp tín dụng ưu đãi về lãi suất, mức vay thời hạn ... (như đã trình bày ở phần tín dụng), mà sự tài trợ của ngân hàng còn được thể hiện trong hoạt động thanh toán quốc tế. Ngân hàng cấp vốn cho doanh nghiệp XNK để giúp họ có điều kiện thuận lợi về mặt tài chính, tăng cường khả năng cạnh tranh ngoài những yếu tố doanh nghiệp cần phải có như chất lượng, mẫu mã hàng hoá, uy tín cũng như mối quan hệ của doanh nghiệp với các bạn hàng nước ngoài. Đối với những doanh nghiệp mới tham gia hoạt động XNK, hoặc doanh nghiệp có quy mô nhỏ, uy tín với bạn hàng nước ngoài chưa cao thì ngoài nhu cầu về tài chính, doanh nghiệp còn cần tới sự bảo lãnh của ngân hàng để nâng cao uy tín trong hoạt động kinh doanh XNK. Bởi vậy, đẩy mạnh việc kết hợp hoạt động cho vay tài trợ XNK và bảo lãnh là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động TTQT đồng thời cũng là yếu tố trợ giúp doanh nghiệp hoạt động XNK. Đa dạng hoá hình thức tài trợ XNK là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cùng với hoạt động cho vay, ngân hàng nên mở rộng các nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu cả “có truy đòi” và “miễn truy đòi” nhằm giải phóng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tăng nhanh vòng quay của vốn. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, ngân hàng có thể cấp tín dụng thông qua các hình thức cho vay thanh toán tiền đặt cọc hoặc cho vay trong thời gian nhà nhập khẩu bán hàng hoá cho đến khi thu được tiền. Để nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng phát triển hơn nữa có thể thực hiện nhiều biện pháp phối hợp như : tuỳ theo đối tượng khách hàng, ngân hàng có thể đơn giản hoá điều kiện bảo lãnh. Mức ký quỹ bảo lãnh hoặc giá trị bảo lãnh so với giá trị tài sản thế chấp nên có sự thay đổi linh hoạt. Biểu phí bảo lãnh nên có những ưu đãi đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và các đối tượng cần khuyến khích khác. Tóm lại, hoạt động tài trợ XNK và bảo lãnh thanh toán có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng và phát triển hoạt động TTQT của ngân hàng. Khi hai hoạt động này cùng phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc phát triển thêm nhiều dịch vụ bổ trợ cho hoạt động TTQT, giúp cho hoạt động này được hoàn thiện hơn. 3.2.2.10. Đổi mới công nghệ kỹ thuật ngân hàng và con người ngân hàng trong các NHTMQD Vấn đề chất lượng và hiệu quả tín dụng và TTQT không chỉ quyết định bởi môi trường cơ chế, chính sách và quy chế điều hành hoạt động, mà còn quyết định bởi công nghệ kỹ thuật và con người ngân hàng. Đối với hệ thống NHTMQD, nguyên nhân quan trọng của những tồn tại hiện nay là sự yếu kém của cán bộ ngân hàng. Đồng thời, một vấn đề ai cũng nhìn thấy là bước vào giai đoạn phát triển mới, sự an toàn của ngân hàng cần những công cụ mới với kỹ thuật hiện đại. Điều này đang đòi hỏi công nghệ kỹ thuật ngân hàng và con người ngân hàng không được bảo thủ, trì trệ với hiện tại mà phải mạnh mẽ đổi mới để tồn tại. Việc cấp bách hàng đầu phải làm là tăng cường đầu tư công cụ kỹ thuật hiện đại và khẩn trương đào tạo nhân lực. Về con người, cần phải có quan điểm coi cán bộ ngân hàng thực sự là những “nghệ nhân” trong nền kinh tế thị trường. Do đó phải có một cơ chế sàng lọc, tuyển chọn, đào tạo với chính sách và cơ chế kiểm soát minh bạch. Tuy nhiên đây là quá trình phức tạp, khó khăn đòi hỏi tính cách mạng trong tư duy, quan điểm điều hành của các cấp ngân hàng. 3.2.2.11. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát ngân hàng Ngoài việc tự kiểm soát, các NHTMQD phải chịu sự thanh tra, kiểm tra của thanh tra NHNN, của thanh tra nhà nước và của các cơ quan luật pháp. Tuy thế, công cụ kiểm soát nội bộ từng NHTMQD là hết sức quan trọng. Nếu từng ngân hàng làm tốt được công tác kiểm tra khi phát hiện yếu kém có biện pháp khắc phục kịp thời thì sẽ hạn chế được thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài, nhờ đó, chất lượng, hiệu quả tín dụng và TTQT của NHTMQD sẽ tốt hơn nhiều. Hiện nay mảng công tác này được các NHTMQD đặc biệt quan tâm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, cần phải có những biện pháp tích cực mới nâng cao được hiệu quả. Từng ngân hàng phải có quy chế rõ ràng gắn trách nhiệm cá nhân làm công tác kiểm tra với chất lượng kiểm tra; gắn trách nhiệm của đối tượng bị kiểm tra với kết quả kiểm tra bằng những cơ chế xử lý nghiêm túc trong từng ngân hàng. Mặt khác, định kỳ điều chuyển, đổi vị trí giao dịch của cán bộ ngân hàng, đặc biệt cán bộ tín dụng, kế toán. Bên cạnh nâng cao công tác kiểm soát nội bộ đòi hỏi vai trò thanh tra của NHNN phải nâng lên về chất lượng, thực hiện có hiệu quả vai trò quản lý nhà nước của NHNN. Thanh tra của NHNN chủ yếu được thanh tra phòng ngừa, phát hiện để uốn nắn kịp thời. Muốn vậy phải nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng và TTQT tại NHNN. KẾT LUẬN Nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTMQD nói chung, tín dụng XNK và TTQT nói riêng là vấn đề bức thiết và phức tạp hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu, đề xuất những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng và TTQT góp phần đẩy mạnh hoạt động XNK trong giai đoạn tới của Việt Nam, nội dung luận văn đã tập trung làm rõ các nội dung sau : Một là : Khái quát hoá những vấn đề lý luận về kinh doanh XNK và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK; đặc điểm của NHTM và vai trò của nó đối với hoạt động XNK. Trên cơ sở phân tích rõ các khái niệm, căn cứ lý luận về tín dụng và các hình thức của nó trong nền KTTT, các hình thức tín dụng tài trợ XNK, luận văn đã tập trung làm rõ vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động XNK. Cùng với vấn đề này luận văn đồng thời đã phân tích làm rõ những khái niệm về TTQT và vai trò của nó đối với hoạt động XNK. Hai là : Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng XNK và TTQT của các NHTMQD trên 2 mặt: thành công và tồn tại. Trên cơ sở đó luận văn đã nêu rõ những nguyên nhân gây tồn tại, yếu kém cho hoạt động tín dụng nói chung, tín dụng XNK và TTQT. Ba là : Trình bày và phân tích rõ những định hướng hoạt động tài trợ XNK của các NHTMQD góp phần thúc đẩy hoạt động XNK. Bốn là : Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng XNK và TTQT của các NHTMQD nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển hoạt động XNK. Các giải pháp được chia thành 2 nhóm lớn : - Nhóm giải pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả thực thi các cơ chế chính sách kinh tế - tài chính - tiền tệ. - Nhóm giải pháp của hệ thống NHTMQD. Để các giải pháp được thực thi có hiệu quả luận văn cũng đã đề xuất kiến nghị với Nhà nước, chính phủ, ngân hàng nhà nước, các ngành chức năng của chính phủ về việc đổi mới cơ chế chính sách, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Nâng cao hiệu quả tín dụng và TTQT của hệ thống NHTMQD đáp ứng nhu cầu XNK không những là vấn đề đang được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, vấn đề có tính thời sự trên các diễn đàn quốc tế, mà còn rất bức xúc cho các nhà điều hành hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, với dung lượng nghiên cứu của luận văn cao học chắc chắn rằng luận văn còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Tác giả luận văn mong muốn nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học là cán bộ giảng dạy trực tiếp, các nhà khoa học, cán bộ quản lý. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------- NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ HÀ NỘI - 2003 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------- NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA MÃ SỐ : 5.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS PHÍ MẠNH HỒNG HÀ NỘI - 2003 CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN NHNN Ngân hàng nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh (Ngân hàng thương mại nhà nước) TDNH Tín dụng ngân hàng TCTD Tổ chức tín dụng TTQT Thanh toán quốc tế DNNN Doanh nghiệp nhà nước TCT Tổng công ty DN Doanh nghiệp CNH - HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá CNXH Chủ nghĩa xã hội SXKD Sản xuất kinh doanh XNK Xuất nhập khẩu TDXK Tín dụng xuất khẩu TDNK Tín dụng nhập khẩu NHNo&PTNH-VN Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam NHNT-VN Ngân hàng ngoại thương Việt Nam NHCT-VN Ngân hàng công thương Việt Nam NHĐT&PT-VN Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ADB Ngân hàng phát triển Châu Á AFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á EU Thị trường chung Châu Âu IMF Quỹ tiền tệ quốc tế WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại từ điển kinh tế thị trường - Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, HN - 1998. 2. Phạm Đăng Bính - Nguyễn Văn Lập, Từ điển kinh tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội - 1995. 3. Daved Begg, Stanley Fisher, Kinh tế học (3 tập), Nxb Giáo dục, HN - 1995. 4. KORAI JANOS - Hệ thống XHCN - Chính trị kinh tế học phê phán - Tổng quan kinh tế XHCN, Nxb VHTT, HN - 2002 - Nguyễn Quang A dịch. 5. Nguyễn Đăng Dờn (CB), Hoàng Đức, Trần Huy Hoàng, Trần Xuân Hương, Tiền tệ - Ngân hàng, Nxb TP HCM - 2000. 6. Hoàng Kim : Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb Tài Chính, HN - 2001. 7. TS Lê Khoa : Ngân hàng thương mại, chính sách tiền tệ ngân hàng, Nxb TP HCM - 1993. 8. Trịnh Thị Hoa Mai : Giáo trình Kinh tế học tiền tệ - ngân hàng, Nxb Đại học Quốc gia, HN - 1999. 9. PTS Nguyễn Đình Tài : Sử dụng công cụ tài chính - tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển, Nxb Tài Chính, HN - 1997. 10. PTS Nguyễn Đức Thảo, Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, Nxb Mũi Cà Mau - 1995. 11. Phan Quang Tuệ, cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và hoàn thiện các hoạt động đối ngoại của hệ thống ngân hàng Việt Nam, đề tài khoa học số 95 - 05 - 01 trong kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng 1995 - 1999, Nxb Thống Kê, HN - 1999. 12. Frederic Smishkin, tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb KHKT, HN - 1994. 13. Giáo trình lưu thông tiền tệ tín dụng (Học viện ngân hàng - nội bộ). 14. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống Kê, HN - 1999. 15. Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế thị trường, Nxb Thống Kê, HN - 2000. 16. Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, HN - 2001. 17. Hong Kong bank - Cẩm nang tín dụng, TS Phạm Thái Việt dịch, Nxb KHXH, HN - 1994. 18. Nguyễn Duy Bột, Đinh Xuân Trình, Thương mại quốc tế, XNK và TTQT, Nxb Thống Kê, HN - 1993. 19. Nguyễn Đình Hương - Vũ Đình Bách - Quan hệ thương mại Việt Nam - ASEAN và chính sách XNK của Việt Nam - Nxb CTQG, HN, 1999. 20. Bùi Xuân Lựu, Giáo trình kinh tế đối ngoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội - 1994. 21. PTS Nguyễn Đình Tài, cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái và vấn đề kinh tế đối ngoại, Nxb Giáo dục, 1994. 22. Đinh Xuân Trình : Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nxb Giáo dục và Trường Đại học Ngoại thương, HN - 1996. 23. Nguyễn Xuân Thắng : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam, Nxb TK, HN - 1999. 24. Võ Thanh Thu, Kinh tế đối ngoại, Nxb TK, HN - 1994. 25. Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế, Nxb TK, HN - 1994. 26. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, HN - 2001. 27. Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. 28. Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. 29. Một số văn bản pháp quy quyết định, quy định chỉ đạo hướng dẫn thực hiện của NHNN và các NHTMQD. 30. Báo cáo thường niên của NHNN và các NHTMQD. 31. 40 năm xây dựng và trưởng thành của NHNN. 32. Báo cáo tổng kết 40 năm hoạt động của NHĐT&PT Việt Nam. 33. Báo cáo kết quả tổng kiểm kê tài sản của DNNN năm 2000 của Bộ Tài chính. 34. Chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam. 35. Đề án tái cơ cấu và chương trình hành động của NHĐT&PT Việt Nam. 36. Đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM Việt Nam của Thống đốc NHNN Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ. 37. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương - Báo cáo củng cố, hoàn thiện và phát triển Tổng công ty nhà nước 4/2000. 38. Bộ Kế hoạch đầu tư, Đề án phương hướng, giải pháp điều chỉnh cơ cấu đầu tư của các ngành trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 12/1998. 39. Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển ngành ngân hàng 5 năm 2001 - 2005 - NHNN Việt Nam năm 2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37191.doc