Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam

Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam Chương 1: Tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và thế giới của Việt Nam. 1. Xu hướng hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới. 2. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam. 3. Lý luận chung về quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thương mại trong khu vực Asean. 3.1. Hội nhập Asean : Mục đích và kết cấu . 3.2. Nguyên tắc và nội dung các phương pháp tiến trình tham gia hội nhập kinh tế thương mại Asean. 3.2.1. Nguyên tắ

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c và nội dung quá trình tham gia hội nhập. 3.2.2. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập Asean. 4. Sự cần thiết để tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean. Chương II: Thực trạng tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean – lộ trình thự hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean của Việt Nam. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế Đánh giá quá trình tham gia hội nhập của Việt Nam 1.2.1. Những ưu điểm. 1.2.2. Những nhược điểm 2. Một số tác động của việc tham gia quá trình hội nhập kinh tế 2.1. Tác động của doanh nghiệp 2.2. Tác động của nhà nước 3. Lộ trình thực hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean. 3.1.Qúa trình phát triển khu vực kinh tế thương mại Asean. 3.2. Xây dựng lộ trình tham gia hội nhập thương mại Asean. Chương III: Giải pháp xúc tiến khi tham gia hội nhập khu vực kinh tế thương mại Asean. Một số khó khăn vướng mắc trong lộ trình tham gia hội nhập. Các giải pháp tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean Đối với nhà nước. Đối với doanh nghiệp. Kết luận. Chương 1: Tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và thế giới của Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện mở cửa kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế quốc gia gắn liền với kinh tế khu vực và thế giới, là tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế quốc tế vào hệ thống thương mại đa phương. Thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế là phát triển kinh tế quốc gia trong sự cạnh tranh với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, tiêu chuẩn để đánh giá quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia phải thể hiện ở việc thực hiện được các mục tiêu phát triển ở mức độ cao trong điều kiện nền kinh tế, của các doanh nghiệp trong nước. Trong bối cảnh hiện nay, hôi nhập là qui luật tất yếu khách quan đối với sự phát triển kinh tế của các nước do: Do sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đời sống kinh tế thế giới nên không có một nước nào có thể phát triển kinh tế một cách độc lập rõ rang được. Do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia mang tính quốc tế thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phân công lao động quốc tế. Từ đó nó đòi hỏi nền kinh tế mỗi quốc gia phải hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Do sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo điều kiện và đòi hỏi nền kinh tế của mỗi quốc gia cần phải khai thác có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ của thế giưới để phát triển nền kinh tế quốc gia. Do xu hướng hòa bình, hợp tác cùng phát triển đòi hỏi các quốc gia trên thế giới cần phải thực hiện sự đối thoại thay cho đối đầu về quốc gia. Trong quá trình phát triển nền kinh tế, trên thế giới không một quốc gia nào có đủ lợi thế tất cả các nguồn lực, do hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết để giải quyết những vấn đề khó khăn của các nguồn lực cho việc phát triển kinh tê mà mỗi nước sẽ không thể tự giải quyết được từ những nguồn lực bên trong của mình. Trong quá trình phát triển, nền kinh tế các nước đều không muốn tự mình bị tụt hậu quá xa nên phải tìm mọi cách hội nhập vào xu hướng chung. Hội nhập là một cuộc cạnh tranh gay go, khốc liệt để phát triển nền kinh tế quốc gia, tạo điều kiện củng cố an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc thong qua việc thết lập các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đan xen nhiều chiều, ở nhiều mức độ khác nhau với các quốc gia khác. Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế , trên cơ sở nhận thúc được vai trò quan trọng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại đối với việc phát triển nền kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định thực hiện nhát quán đường lối đối ngoại độc lập và phát triển. Trong quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, chúng ta muốn hợp tác lâu dài, có hiệu quả, tin cậy lẫn nhau với các nước trên cơ sở các nguyên tắc: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dung vũ lực hoặc đe dọa dung vũ lực, Bình đẳng cùng có lợi. Giải quyết các bất đồng, các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình. Không có âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền với các nước khác. Việc chủ động hôi nhập phải trên tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiẹu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng phát triển và mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam cần phải tiến hành các bước cải cách kinh tế mạnh mẽmẽ hơn.Với mục tiêu hội nhập là tự do hóa thương mại và đầu tư có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội. Muốn vậy, để hội nhập kinh tế, các nước cần thực hiện các hiệp định thương mại, thực hiện các liên kết kinh tế quốc tế và các tổ chức kinh tế quốc tế. Trong các Hiệp điịnh chính phủ, các quốc gia đưa ra và thực hiện các cam kết Cam kết dành ưu đãi cho các nước khác. Cam kết về mức độ và tiến trình mở cửa hội nhập thị trường nội địa Cam kết về mức độ và tiến trình cắt giảm thúê quan, từng bước dỡ bỏ hang rào phi thuế quan nhằm thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư. Cam kết thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, nguyên tắc sự minh bạch chính sách và pháp luật lien quan đến thương mại. 1. Xu hướng hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới. Ngày nay xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Đây là xu hưứong tích cực nhằm khai thác tối đa hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Phù hợp với xu thế này, Việt Nam đã và đang tham gia tích cực và hiệu quả vào Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN), khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á – AFTA ( Asean Free Trade Area), diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương APEC, hiệp hội thương mại Việt – Mỹ và tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là bước ngoặt quan trọng trong chính sách đổi mới toàn diện của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực hợp tác thương mại, kể từ sau Đại hội Đảng VI (1986) – Việt Nam đã xác định con đường phát triển kinh tế - xã hội cho riêng mình. Việc gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực cũng như các tổ chức kinh tế thế giới được đánh giá : Đó vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với Việt Nam. Bên cạnh những lợi ích kinh tế - xã hội khi tham gia vảtở thành thành viên các tổ chức thì Việt Nam phải tự điều chỉnh cải cách chính sách quốc gia như chính sách thuế, thương mại, ngân hàng cho phù hợp với luật chơi của các tổ chức này. Hay nói cách khác là để có được những lợi íchvà tránh khỏi những thiệt hại không đáng có thì Việt Nam phải có đường lối chính sách và điều chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với cam két của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nhận thức rõ vấn đề này, chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã không ngừng đổi mới chính sách để phù hợp với yêu cầu phát triển cũng như để thực hiện những cam kinh tếết quốc tế. Chính phủ đã giao cho các bộ các ngành từng nhiệm vụ chiến lược cụ thể nhằm thực hiện cải cách, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 2. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam: Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, thế giới đã có những sự biến đổi to lớn, tiêu biểu là sự xuất hiện của các khu vực kinh tế khổng lồ như : Liên minh châu âu ( EU), khối thị trường chung khu vực Đông và Nam Phi, tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự xuất hiện của các khu vực và tổ chức kinh tế này là kinh tếết quả của xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đây là sự liên kết giữa các quốc gia với nhau nhằm mục đích mang lại một khối lượng sản phẩm thế giới lớn hơn, thỏa mãn nhu cầu cao hơn cho mỗi quốc gia. Trong quá trình hình thành và phát triển tự nhiên, mỗi quốc gia có một lợi thế so sánh riêng vè nguồn lực con người, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khí hậu, địa lý đã tạo ra ức tranh đa dạng trong nền kinh tế thế giới và chỉ khi nào có sự phối hợp giữa các nguòn lực của các quốc gia thì mới có thể phát triển toàn diện được. Lợi thế so sánh của quốc gia này sẽ hỗ trợ bổ sung cho thiếu hụt, hạn chế của quốc gia kia, làm cho thé giới phụ thuộc lẫn nhau, đưa các quốc gia gắn kinh tếết lại gần nhau trở thành một thực thể kinh tế thông nhất. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, sức sản xuất ngày càng phát triển kéo theo sự đòi hỏi cấp bách về thị trường tiêu thụ khiến cho quá trình cạnh tranh giành giật thị trường giữa các quốc gia và các thực thể kinh tế ngày càng trở nên gay gắt hơn. Nếu như mỗi quốc gia tồn tại độc lập, đơn phương trong cả thị trường thế giới rộng lớn sẽ không thể tách khỏi sức ép quá lớn thậm chí còn lâm vào suy thoái, thui chột sức phát triển đất nước. Do vậy, tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều phải tham gia liên kinh tếết kinh tế, nỗ lực hội nhập vàp xu thế khu vực hóa toàn cầu hóa hiện nay, ra sức cạnh tranh kinh tế và sự tồn tại và phát triển của chính mình. Đứng trước đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế, Việt Nam đã và đang cố gắng thay đổi một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp trước đây bằng một nền kinh tế mở cửa hòa nhập với vận hội phát triển kinh tế thế giới. Việt Namới đường lối đổi mới và hòa nhập kinh tế quốc tế đúng đắn. Việt Nam đã đi những bước đi thành công và vững chắc trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của mình. Ngày 17/10/1994 Việt Nam chính thức gửi đơn gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Asean), từ ngày 25/7/1995 đã chính thức tham gia tổ chức này và từ 1/1/1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên chính thức của khu vực mậu dịch tự do Asean. 3.Lý luận chung về quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thương mại trong khu vực Asean. Tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã có một vị thế mới trên diễn đàn quốc tế, Thế giới biết đến Việt Nam voiứ tư cách một quốc ga đang trong giai đoạn nỗ lực cải cách nhằm tìm kiếm cho mình những cơ hội để phát triển kinh tế. Khi tham gia Asean, Việt Nam sẽ có cơ hội được hợp tác, giúp đỡ kinh tế trên các phương diện như: thương mại, hải quan, công nghiệp, nông – lâm – ngư nghiệp, lương thực, hợp tác về đầu tư, trong các lĩnh vực khoáng sản, năng lượng, tài nguyên để dần dần phát triển ngang bằng voiứ các thành viên trong khu vực. Việt Nam tham gia hội nhập ASEAN Việt Nam với các hoạt động kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trong hiệp hội phát triển mạnh mẽ và vững chắc.Với các chính sách về kinh tế được hội nhập,các chương trình phối hợp lập trường đối với các vấn đề thương mại của ASEAN. Trong những năm qua, ASEAN đã có nhiều biến chuyển to lớn trong xây dựng khu vực tự do thương mại. Bên cạnh thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ đang có vai trò ngày càng lớn hơn trong đời sống kinh tế khu vực. Lãnh đạo các nước ASEAN đặt ra lộ trình tự do hoá hoàn toàn thị trường dịch vụ khu vực vào năm 2020. Trước mắt, phấn đấu năm 2010, tự do hóa hoàn toàn các lĩnh vực ưu tiên. Hiện, các nước ASEAN đã kết thúc 3 vòng đàm phán, ký kết được 4 gói cam kết thuộc khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về thương mại dịch vụ (AFAS) và đang tiến hành vòng đàm phán thứ tư, thể hiện sự cố gắng của các thành viên. Tuy nhiên, do dịch vụ đang là lĩnh vực mới mẻ với nhiều nước thành viên nên còn không ít khó khăn, trở ngại, đòi hỏi các nước phải nỗ lực hơn nữa để có thể phát triển thành công thị trường tự do của khu vực. Phó thủ tướng Vũ Khoan khẳng định: “Việt Nam luôn xem dịch vụ là lĩnh vực đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với việc hình thành một thị trường tự do của ASEAN. Việt Nam đã, đang và sẽ tích cực, chủ động trong việc cùng các nước tiến hành đàm phán, tìm ra giải pháp để tự do hoá nhanh, sâu, rộng thị trường dịch vụ khu vực”. Đây là cơ hội cho khu vực nhà nước và khu vực doanh nghiệp trao đổi thông tin, ý tưởng, nhằm góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường dịch vụ tự do của khu vực. Việc hình thành và tăng cường các cơ chế, hình thức hợp tác và lien kinh tế mới này đã và đang tạo nhiều cơ hôi thách thức cho ASEAN, trong đó có Việt Nam : Thứ nhất, việc thiết lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đưa ASEAN trở thành một khối có sự liên kết vững chắc, một thị trường duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu thông tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn và nhân công có tay nghề sẽ thúc đẩy cải cách hệ thống pháp luật và nền hành chính quốc gia trong nước, tiếp cận được nhiều hơn các yếu tố bên ngoài, nhất là vốn, thị trường và công nghệ hiện đại, làm tăng cơ hội việc làm và nâng nhanh mức sống của dân chúng. Thứ hai, sự thiết lập Cộng đồng an ninh ASEAN sẽ lam tăng nhanh mức độ tin cậy và ý thức cộng đồng trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác chính trị , khinh tế an ninh nội khối lên tầm quan trọng mới.Điều này sẽ tạo ra sự thăng bằng trong hợp tác khu vực và quốc tế, giúp ASEAN vừa tăng cường tính mở, vừa duy trì được bản sắc, phong cách ứng xử truyền thống của mình, làm tăng khả năng phòng ngừa và tiến tới giải quyết các xung đột có thể xảy ra trong tương lai. Thứ ba, sự gia tăng giành ưu thế kiểm soát – chính trị giưa các nước lớn tại Đông Nam Á, đặc biệt hơn là giữa Mỹ và Trung Quôc cùng với cơ hội phát triển của thể chê thương mại tự do đa phương, song phương về một mặt nào đó, cũng mở ra cơ hội rộng lớn về hợp tác và tăng sức mặc cả của ASEAN trong các vấn đề quốc tế khu vực. Điều này sẽ có lợ thế cho Việt Nam – nước có vị trí chiến lược, đang thu hút sự chú ý của các nước lớn. Tham gia ASEAN Việt Nam đã thực hiện các chính sách kinh tế đường lối chính trị tạo điều kiẹn cho sự phát triển bền vững nền kinh tế khu vực.Việt Nam tham gia vào xây dựng khu vực tụ do thương mại tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế. 3.1. Hội nhập Asean : Mục đích và kết cấu : Việt Nam tham gia ASEAN với các mục đích: Một là, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các quốc gia thành viên, thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực, duy trì môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai là, thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư, tham khảo kinh nghiệm phát triển, trình độ khoa học-kỹ thuật, kỹ năng điều hành quản lý, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập, phát triển  thuận lợi, nâng cao khả năng cạnh tranh, góp phần hỗ trợ thúc đẩy quá trình cải cách và công cuộc Đổi mới. Ba là, đẩy mạnh hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên ASEAN khác đóng góp vào việc củng cố hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Bốn là, thông qua hợp tác ASEAN thúc đẩy quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam với các đối tác trong và ngoài khu vực, nhất là các Bên Đối thoại của ASEAN, nhằm cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ với các nước lớn. Năm là, tham gia ASEAN cũng là bước chuẩn bị, tích luỹ kinh nghiệm và tranh thủ sự ủng hộ tích cực nhằm tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng hơn và tham gia hiệu quả các thể chế hợp tác khác như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Á - ÂU (ASEM), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). 3.2. Nguyên tắc và nội dung các phương pháp tiến trình tham gia hội nhập kinh tế thương mại Asean. 3.2.1. Nguyên tắc và nội dung quá trình tham gia hội nhập. Nguyên tắc chủ đạo trong Asean là đồng thuận. ASEAN sẽ không giống EU khi Hiến chương chung của Hiệp hội ra đời. Khác với Liên minh Châu Âu (EU), một tổ chức mang tính chất siêu quốc gia, Hiến chương ASEAN xác định tính chất hợp tác của ASEAN là một tổ chức hợp tác khu vực liên chính phủ, dựa trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các nước thành viên. Tính chất liên chính phủ của ASEAN là nền tảng, quyết định nhiều vấn đề cơ bản của ASEAN. Tạo cơ sở pháp lý chung cho Hiệp hội nhưng Hiến chương ASEAN không đề cập đến việc thành lập Quốc hội ASEAN, Toà án ASEAN, trừng phạt hoặc treo tư cách thành viên khi có vi phạm, ra quyết định bằng bỏ phiếu…. Mục đích và nguyên tắc của ASEAN là hoà bình, an ninh, ổn định và hợp tác khu vực, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Không cho phép sử dụng lãnh thổ để chống lại nước thành viên Cũng theo Hiến chương, ASEAN có mục tiêu liên kết, thu hẹp khoảng cách phát triển, hướng về nhân dân và vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực. Nguyên tắc việc các nước không tham gia và không cho phép bất kỳ quốc gia/đối tượng nào được sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống lại một nước thành viên khác. Mọi tranh chấp, bất đồng được quy định giải quyết thông qua biện pháp hoà bình, thương lượng dựa trên các thoả thuận đã có của ASEAN. Trường hợp bất đồng không giải quyết được hoặc có vi phạm nghiêm trọng Hiến chương, vấn đề sẽ được trình lên cấp cao quyết định. Các nước thành viên tuy không phải thay đổi luật, nhưng sẽ cần có sự điều chỉnh nhất định về một số quy định và thủ tục hành chính trong nước để phù hợp hơn với các quy định của Hiến chương và thực tiễn của hợp tác ASEAN. Mỗi nước thành viên phải cải tiến tổ chức bộ máy trong nước, đồng thời đầu tư nguồn lực và nhân lực để tham gia hợp tác ASEAN một cách chủ động và hiệu quả.  ASEAN sẽ có “quốc ca” chung.Hiến pháp ASEAN quy định Hiệp hội sẽ có một "quốc ca chung" gọi là “ASEAN ca”. Sẽ có cuộc thi tuyển sáng tác “ASEAN ca” ở mỗi nước thành viên để sau đó lãnh đạo cấp cao các nước chọn ra “ASEAN ca” chính thức. Hiến chương ASEAN cũng phê chuẩn lá cờ của ASEAN gồm bốn màu: xanh da trời, đỏ, trắng, vàng, thể hiện bốn màu chủ đạo trên quốc kỳ của các nước thành viên ASEAN. Trong đó, màu xanh da trời biểu hiện cho hoà bình và ổn định. Màu đỏ thể hiện dũng khí và sự năng động. Màu trắng là sự thuần khiết và màu vàng là biểu trưng cho sự thịnh vượng. Bó lúa in trên lá cờ tượng trưng cho ước mơ của các thành viên sáng lập ASEAN về một ASEAN gắn bó bằng tình hữu nghị và đoàn kết.. Các nguyên tắc và nội dung gia nhập được thể hiện trong hiến chương Asean: Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 (năm 2004), lãnh đạo các nước ASEAN nhất trí xây dựng Hiến chương ASEAN; đến Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 11 (năm 2005) đề ra các nguyên tắc chỉ đạo và quyết định lập Nhóm các nhân vật nổi tiếng (EPG) để tư vấn cho việc xây dựng Hiến chương. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13 (tháng 11-2007), lãnh đạo các nước thành viên ký thông qua Hiến chương ASEAN và ra Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm hoàn tất việc phê chuẩn Hiến chương trong một năm, đến cuối năm 2008. Hiến chương ASEAN gồm Lời nói đầu và 13 chương, 55 điều. Về mục đích, nguyên tắc, Hiến chương khẳng định lại các mục đích và nguyên tắc cơ bản của ASEAN, nhất là mục đích hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác khu vực, nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp công việc nội bộ của nhau; bổ sung một số mục đích và nguyên tắc mới phù hợp tình hình, trong đó có liên kết ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển, hướng về nhân dân và vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực, nguyên tắc về việc các nước không tham gia và không cho phép bất kỳ quốc gia, đối tượng nào sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống nước thành viên khác. Về cơ cấu tổ chức, Hiến chương nêu rõ: Bộ máy sẽ bao gồm Hội nghị cấp cao (là cơ quan quyết định chính sách cao nhất, mỗi năm họp hai lần, thay vì mỗi năm một lần trước đây); bốn Hội đồng cấp Bộ trưởng, trong đó ba Hội đồng về ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN (gồm chính trị - an ninh; kinh tế; văn hóa - xã hội) và một Hội đồng điều phối chung (gồm các Bộ trưởng Ngoại giao); các hội nghị bộ trưởng chuyên ngành; Ủy ban đại diện thường trực các nước tại ASEAN; Ban Thư ký ASEAN và Tổng Thư ký ASEAN; Ban Thư ký ASEAN quốc gia. Ngoài ra, ASEAN cũng sẽ lập Cơ quan nhân quyền ASEAN. Về cách thức ra quyết định, nguyên tắc chủ đạo là đồng thuận; khi không đạt đồng thuận, Hội nghị cấp cao sẽ quyết định về cách thức phù hợp. Về giải quyết tranh chấp, bất đồng, Hiến chương khẳng định nguyên tắc giải quyết hòa bình, thông qua thương lượng, dựa trên các thỏa thuận đã có của ASEAN. Nếu không giải quyết được, hoặc có vi phạm nghiêm trọng Hiến chương, vấn đề được trình Hội nghị cấp cao quyết định. Hiến chương ASEAN do những người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ các nước thành viên ký phê chuẩn; có hiệu lực 30 ngày sau khi tất cả các quốc gia thành viên phê chuẩn. Hiến chương được xem xét, bổ sung, sửa đổi 5 năm một lần để phù hợp tình hình thực tế. Năm 1967, ASEAN được thành lập trên cơ sở một tuyên bố chính trị. Hiến chương ASEAN ra đời là một văn kiện pháp lý, làm cho ASEAN trở thành một tổ chức hợp tác khu vực có tư cách pháp nhân. Hiến chương tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho Hiệp hội gia tăng liên kết khu vực, trước hết là thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, giúp xây dựng ASEAN trở thành một tổ chức gắn kết hơn và hoạt động hiệu quả hơn, một thực thể chính trị - kinh tế liên kết hơn và có vai trò quan trọng trong khu vực. Sự ràng buộc về pháp lý, cùng với sự đổi mới về bộ máy tổ chức, phương thức hoạt động của ASEAN sẽ giúp việc thực hiện các thỏa thuận nghiêm túc và kịp thời, nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác. ASEAN ngày càng liên kết chặt chẽ và vững mạnh trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định ở khu vực, đồng thời hỗ trợ các nước thành viên phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập khu vực và thế giới. Hiến chương tạo thế tốt hơn cho ASEAN trong hợp tác với các đối tác bên ngoài khu vực, cũng như trong khuôn khổ khu vực rộng lớn hơn. Bởi lẽ, tổ chức ASEAN có tư cách pháp nhân trở thành một chủ thể trong quan hệ đối ngoại, nâng cao hình ảnh và vị thế quốc tế của Hiệp hội. Việt Nam đã chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào việc xây dựng Hiến chương ASEAN ngay từ những ngày đầu khi mới xuất hiện ý tưởng về văn kiện này. Ðiều đó thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, góp phần thúc đẩy hợp tác, phát triển trong ASEAN và khu vực. Hiến chương ASEAN là một nhu cầu tất yếu khách quan, phản ánh sự trưởng thành của ASEAN, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của các nước thành viên, nhất là của các nhà lãnh đạo ASEAN, về mục tiêu xây dựng một ASEAN liên kết chặt chẽ và vững mạnh hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương, hỗ trợ mục tiêu hòa bình và phát triển của cả khu vực, cũng như của từng nước thành viên. 3.2.2. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập Asean. Cùng với các nước ASEAN, Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc xây dựng Hiến chương ASEAN ngay từ những ngày đầu. Trong quá trình soạn thảo Hiến chương, Việt Nam đã góp phần bảo vệ những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội như các mục tiêu hòa bình, ổn định và liên kết khu vực, thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN; các nguyên tắc cơ bản như đồng thuận và không can thiệp, khẳng định tính chất liên chính phủ của Hiệp hội; và một số nguyên tắc mới như các thành viên không được sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống lại một nước thành viên khác. Những đóng góp của Việt Nam đã góp phần định hướng quan trọng trong quá trình soạn thảo nội dung Hiến chương, tạo điều kiện để Hiến chương đáp ứng tốt hơn những yêu cầu đặt ra cho ASEAN trong giai đoạn phát triển mới, được bạn bè hoan nghênh và đánh giá cao. Những đóng góp trên là sự tiếp nối của quá trình tham gia tích cực và đóng góp to lớn của Việt Nam kể từ khi gia nhập ASEAN tháng 7/1995. Trong hơn 12 năm qua, với dân số hơn 84 triệu người và vị trí địa-chiến lược và địa - kinh tế quan trọng, chính trị - xã hội ổn định, thế và lực ngày càng gia tăng và chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam được các nước ASEAN và các đối tác bên ngoài nhìn nhận là thành viên đóng vai trò tích cực đối với hòa bình, hợp tác và phát triển trong ASEAN. Hướng về tương lai, chúng ta cần nhận thức rõ những tác động nhiều chiều, cả mặt thuận lợi và những thách thức của việc thực hiện Hiến chương ASEAN và tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN đối với tương lai phát triển của Hiệp hội cũng như sự tham gia của từng nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Sự ràng buộc về pháp lý cùng với sự đổi mới về bộ máy tổ chức và phương thức hoạt động của ASEAN sẽ giúp việc thực hiện các thỏa thuận nghiêm túc và kịp thời hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác. Một ASEAN ngày càng liên kết chặt chẽ và vững mạnh trên cơ sở pháp lý là Hiến chương sẽ giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định ở khu vực, hỗ trợ đắc lực cho Việt Nam và các nước ASEAN khác phát triển kinh tế-xã hội cũng như hội nhập khu vực và quốc tế, gia tăng vị thế quốc tế trong quan hệ với các đối tác bên ngoài. Song, việc thực hiện Hiến chương ASEAN cũng đòi hỏi mỗi nước thành viên phải nghiêm túc hơn và chuyên nghiệp hơn trong việc tham gia đàm phán và thực hiện các quyết định, thỏa thuận hợp tác của ASEAN, quan tâm hơn đến các mục tiêu chung của ASEAN nhằm đảm bảo sự gắn kết và lồng ghép hài hòa giữa các ưu tiên phát triển của quốc gia và khu vực, điều chỉnh tổ chức bộ máy trong nước cũng như đầu tư nguồn lực và nhân lực thích đáng hơn, để tham gia hợp tác ASEAN một cách có chủ động và hiệu quả. Tận dụng những mặt thuận lợi và khắc phục những thách thức kể trên, chúng ta cần cần quán triệt những phương châm và định hướng sau đây. Một là, cần xác định tham gia hợp tác trong ASEAN có tầm quan trọng chiến lược. Một ASEAN ổn định, đoàn kết, liên kết chặt chẽ và vững mạnh là nhân tố quan trọng đảm bảo lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam. Hai là, cần có những suy nghĩ mới, cách làm mới, phương thức mới về sự tham gia của ta trong ASEAN trên cơ sở kiên trì giữ vững các vấn đề có tính nguyên tắc, nhưng linh hoạt về biện pháp và cách thức tiến hành. Với thế và lực của đất nước tăng lên, Việt Nam đang có những cơ hội rất thuận lợi đóng vai trò tích cực, có trách nhiệm và chủ động hơn trong việc thực hiện Hiến chương ASEAN, xây dựng cộng đồng ASEAN cũng như các thể chế, quy tắc, quy định và các cơ chế ra quyết định của ASEAN nhằm nâng cao vị thế, ảnh hưởng của Việt Nam trong ASEAN. Ba là, cần có sự chỉ đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ, sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các Bộ/ngành, đầu tư thích đáng về nhân lực và nguồn lực, vì hợp tác ASEAN rất đa dạng và phức tạp, không chỉ trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và 10 nước thành viên, mà gồm cả hợp tác Đông Á và với các đối tác quan trọng trong khuôn khổ hợp tác ASEAN+1, ASEAN+3, Tiến trình Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), trong đó ASEAN giữ vai trò chủ đạo. Bốn là, cần củng cố và tăng cường các bộ phận và cán bộ chuyên trách về ASEAN của từng cơ quan; có kế hoạch cử cán bộ tham gia và đảm nhận một số chức vụ trọng yếu trong ASEAN, khẩn trương xúc tiến công tác chuẩn bị để Việt Nam đảm nhận tốt vai trò Chủ tịch ASEAN trong cả năm 2010, trong đó có việc tổ chức Hội nghị Cấp cao ASEAN và nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng. Đây sẽ là cơ hội lớn để chúng ta tiếp tục khẳng định sự đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy liên kết ASEAN, đồng thời nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của Việt Nam. Cuối cùng, chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân về tình hình hợp tác ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN, qua đó nắm bắt nguyện vọng và nhu cầu của người dân Việt Nam nhằm đưa các hoạt động hợp tác ASEAN theo hướng thiết thực và hiệu quả. 4. Sự cần thiết để tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean: Các nước ASEAN có vị trí đặc biệt đối với Việt Nam vì có nhiều nét tương đồng về văn hóa, có quan hệ láng giềng, truyền thống và gắn bó chặt chẽ về an ninh, chính trị kinh tế với Việt Nam. Quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước ASEAN và sự lớn mạnh của Hiệp hội trong đó có đóng góp tích cực của Việt Nam đã góp phần củng cố môi trường hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực, hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới. Trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục nỗ lực thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN đi vào chiều sâu, hiệu quả, đồng thời tích cực góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, nâng cao vai trò của ASEAN ở trong khu vực và trên thế giới. Thế giới đánh giá cao vai trò của ASEAN. ASEAN đã trở thành một tổ chức khu vực rất thành công, phát triển năng động, hợp tác chặt chẽ, có quan hệ đối tác mật thiết với nhiều quốc gia, và tổ chức quan trọng hàng đầu thế giới. Sức mạnh và uy tín của ASEAN ngày càng gia tăng khi Hiệp hội bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á. Điều đó góp phần củng cố hòa bình, ổn định và sự phồn vinh ở khu vực, tăng cường hợp tác và liên kết giữa các nước thành viên, nâng cao vị thế của Hiệp hội trên trường quốc tế, tạo tiền đề cho những bước phát triển mạnh mẽ tiếp theo. ASEAN đóng vai trò nòng cốt trong đẩy mạnh sự hợp tác ở Đông Á và Châu Á - Thái Bình Dương vì hòa bình và phát triển thông qua các hoạt động của APEC, Diễn đàn Đông Á, Diễn đàn khu vực ASEAN".ASEAN đã đạt được nhiều thành tích nổi bật trong phát triển kinh tế và đẩy mạnh hòa hợp khu vực. ASEAN đã có nhiều đóng góp quan trọng cho hòa bình, phát triển và thịnh vượng trong khu vực. Chương II: Thực trạng tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean – lộ trình thự hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean của Việt Nam: ASEAN hiện có 11 nước (Brunei, Campuchia, Đông Timo, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Singapore). Diện tích toàn khối là 4.492.443 km2, chiếm 14,1% lãnh thổ châu Á và chiếm 3,3% diện tích toàn thế giới.   Quốc gia rộng nhất là Indonesia, tiếp đến là Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Philippines, Lào, Campuchia, Đông Timo, Brunei, Singapore. Dân số giữa năm 2004 là 548,2 triệu người, chiếm dân số 14,1% châu Á và gần 8,6% toàn thế giới; đông nhất là Indonesia, tiếp đến là Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, Singapore, Đông Timo, Brunei.   Mật độ dân số đạt 122 người/ km2, tương đương với châu Á và gấp 2,6 lần thế giới. Tỷ lệ dân số thành thị đạt 38,4%, xấp xỉ tỷ lệ của châu Á và thấp hơn tỷ lệ 48% của toàn thế giới; cao nhất._. là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Đông Timo.   Tỷ lệ sinh đạt 2,2%, tỷ lệ chết 0,7%, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,5%, cao hơn tỷ lệ 1,3% của châu Á và tỷ lệ 1,2% của toàn thế giới; thấp nhất là Singapore, tiếp đến là Thái Lan, Đông Timo, Myanmar, Việt Nam, Indonesia, Brunei, Philippines, Malaysia, Campuchia, Lào.   Tuổi thọ bình quân đạt 68, cao hơn mức 67 của châu Á và thấp hơn mức 69 của toàn thế giới; cao nhất là Singapore, tiếp đến là Brunei, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào, Đông Timo.   GDP tính bằng USD theo tỷ giá thực tế của ASEAN năm 2003 đạt khoảng 687 tỷ USD, chiếm 1,9% toàn thế giới; bình quân đầu người đạt khoảng 1.253,2USD, thấp xa so với mức 5.684,2 USD của toàn thế giới.  Nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương, thì GDP bình quân đầu người năm 2001 cuả các nước trong khu vực như sau: Singapore 22.680 USD, (năm 2002 là 24.040), tiếp đến là Brunei 19.210, Malaysia 8.750 (năm 2002 đạt 9.120), Thái Lan 6.400, Philippines 3.840, Indonesia 2.940, Việt Nam khoảng 2.100, Campuchia 1.860, Lào 1.620 (năm 2002 đạt 1.720), Myanmar 1.027.  1.Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam. Sự hội nhập kinh tế của ASEAN diễn ra trên diện rộng, nhưng đến thời điểm này, trong con mắt của các nhà đầu tư và cộng đồng quốc tế, hình ảnh hội nhập của ASEAN gắn liền với CEFT/AFTA (AFTA- Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN). Đó là vì, CEFT/AFTA là chương trình có những cam kết cụ thể và những cam kết này, bước đầu, cũng đã có những tác động tới nền kinh tế các nước thành viên. Các chương trình khác, như: đầu tư, dịch vụ, công nghiệp, cũng đặt ra những mục tiêu cụ thể, nhưng các cam kết ràng buộc chưa cao (đối với hầu hết các quốc gia, cam kết mới dừng lại ở mức độ các thể chế, quy định hiện hành của quốc gia mình), và chưa thực sự khuyến khích được cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư tham gia. Trong các lĩnh vực khác, như: giao thông vận tải, sở hữu trí tuệ hay hợp tác chuyên ngành, mục tiêu của các chương trình khá tham vọng, nhưng thực chất, các cam kết hầu như không sâu sắc và mới chỉ dừng lại ở các chương trình hợp tác, trao đổi thông tin, và đề ra những biện pháp tăng cường hợp tác hơn nữa. Sau 4 năm hội nhập kinh tế, ASEAN đã vấp phải cuộc khủng hoảng tài chính (1997-1998). Qua cuộc khủng hoảng này, đã bộc lộ rõ những yếu kém và tính dễ bị tổn thương của các nước ASEAN nói chung; cũng như những khiếm khuyết cơ bản trong hệ thống tài chính quốc tế. Điều này càng thể hiện sự phụ thuộc của các nền kinh tế ASEAN vào các nền kinh tế lớn trên thế giới và sự hội nhập kinh tế của ASEAN chưa đủ mạnh để có thể làm “trợ lực” cho các nền kinh tế thành viên phát triển ổn định và bền vững, tránh được những va đập của những “cú sốc” đến từ bên ngoài. Trong bối cảnh như vậy, ASEAN nhận thấy cần nỗ lực đẩy nhanh tiến trình hội nhập sâu rộng để hướng tới một nền kinh tế khu vực thể hoá cao. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN (ngày 15/12/1997), các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Tầm nhìn 2020, đưa ra viễn cảnh cho đến năm 2020, ASEAN sẽ là “Một nhóm hài hoà các dân tộc Đông-Nam Á, rộng mở với bên ngoài, sống trong hoà bình, ổn định và thịnh vượng, gắn bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”. Để thực hiện Tầm nhìn 2020, ASEAN đã đưa ra Chương trình hành động Hà Nội (HPA), được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN 6 tại Việt Nam (tháng 12/1998). Chương trình này đã được thực hiện trong 6 năm, từ 1999 đến 2004. Đến nay, HPA đã đi gần đến đích, mặc dù kết quả dường như vẫn còn khiêm tốn do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Về thương mại hàng hoá: Về cơ bản, quá trình cắt giảm thuế xuống từ 0-5%, theo AFTA, được thực hiện đúng tiến độ, thậm chí còn được đẩy nhanh theo tiến độ thoả thuận tại Hội nghị cấp cao 1998. Tất cả 6 nước thành viên đầu tiên tham gia Hiệp định CEPT/AFTA đã giảm thuế xuống từ 0-5% đối với hầu hết các mặt hàng trong Danh mục Giảm thuế (trừ Malaixia còn 213 mặt hàng linh kiện ôtô, Philipin và Inđônêxia còn một số các sản phẩm hoá dầu). Các nước thành viên mới cũng đã đạt được những tiến bộ tương tự. Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin và viễn thông (ICT), ASEAN đã nhất trí một lộ trình riêng nhanh hơn (để thực hiện Hiệp định Khung e-ASEAN). Các nhà lãnh đạo ASEAN đã thống nhất mục tiêu cuối cùng của AFTA là loại bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên như đã nói ở trên gồm Brunây, Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Philipin và Thái Lan và năm 2015 đối với các nước thành viên khác, với một số linh hoạt cho tới năm 2018. Để thực hiện quyết định này, 6 nước thành viên trên đã đồng ý xoá bỏ thuế quan đối với 60% mặt hàng trong danh mục giảm thuế vào năm 2003 và hiện nay, 4 trong 6 nước thành viên đó đã đạt được mục tiêu trên. Nhằm tạo thuận lợi cho thương mại nội khối ASEAN, Biểu thuế hài hoà chung ASEAN (AHTN) đã hoàn thành và đã bắt đầu thực hiện từ ngày 1/7/2003. Việc triển khai xây dựng và ký kết các thoả thuận công nhận lẫn nhau chuyên ngành (MRAs) cũng đã được ASEAN triển khai một cách tích cực. Về hợp tác công nghiệp (Chương trình AICO): Với mục đích hợp tác, chia sẻ nguồn lực trong việc trao đổi các sản phẩm công nghiệp, đến nay, AICO mới có những kết quả bước đầu. Phần lớn các cơ cấu AICO đều tập trung vào lĩnh vực sản xuất ôtô, còn lại là trong các lĩnh vực điện tử, hoá chất và hoá mỹ phẩm. Tuy nhiên, cơ cấu này mới chỉ tập trung ở các nước ASEAN 6 và các công ty tham gia cơ cấu AICO thường là các tập đoàn xuyên quốc gia của các quốc gia ngoài ASEAN có cơ sở sản xuất tại các nước ASEAN. Như vậy, về thực chất, các ngành sản xuất của các nước ASEAN chỉ được hưởng lợi gián tiếp từ chương trình này. Về dịch vụ: Tiến bộ đạt được trong đàm phán về thương mại dịch vụ rất chậm. Không phải tất cả các nước thành viên đều đưa ra bản chào rõ ràng đối với những phân ngành dịch vụ chung đã xác định. Các cam kết được đem ra, cho tới nay, còn mang tính hình thức và nhiều cam kết không đạt được mục tiêu tự do hoá nhanh. Các thông tin về pháp luật và quy định quản lý việc hành nghề còn chưa có. Một số nước thiếu quy định điều chỉnh dịch vụ để có thể đưa ra cam kết. Giá trị của thương mại dịch vụ tự do dường như không được công nhận một cách phổ biến. Về đầu tư: Với mục đích là tăng dòng đầu tư nội khối, Hiệp định Khu vực đầu tư (AIA) đã ra đời. Tuy nhiên cho đến nay, tình hình đầu tư của ASEAN không mấy sáng sủa. Các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN liên tục giảm. Đầu tư nội khối không tăng là bao. ASEAN đã đưa ra nhiều sáng kiến để thu hút đầu tư, kể cả các biện pháp mạnh bạo (năm 1998) và tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư của ASEAN, nhưng kết quả chưa đạt được như mong muốn. Các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng: như giao thông vận tải, đường xá, năng lượng, nước, cũng đã được triển khai với mục đích tạo các yếu tố cơ sở, nền móng cho quá trình hội nhập kinh tế của ASEAN. Tuy nhiên, đây là những lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực lớn, trong khi đó, ASEAN vẫn phải phụ thuộc vào nguồn vốn và trợ giúp kỹ thuật bên ngoài. Mặt khác, mức độ sẵn sàng tham gia của các nước thành viên vào các chương trình kết cấu hạ tầng quy mô lớn ở tầm khu vực là khác nhau, và chính sách liên quan của từng quốc gia cũng còn nhiều điểm khác biệt. Vì vậy, trong các lĩnh vực này, sự hợp tác hầu như chưa được triển khai trên thực tế. Trong bối cảnh như vậy, các nước ASEAN đã nhận thấy sự cần thiết phải có định hướng cho hội nhập kinh tế thời kỳ “Hậu AFTA”. Một mặt, ASEAN đã gần như kết thúc Chương trình CEFT/AFTA (ASEAN 6 vào năm 2002, Việt Nam: 2006). Mặt khác, ASEAN đang đứng trước quá nhiều thử thách như đã nêu ở trên, kể cả ở góc độ chủ quan lẫn khách quan. Chính vì vậy, ý tưởng “Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC” đã ra đời và được thể hiện trong Tuyên bố hoà hợp Ba-li II do các nhà lãnh đạo ASEAN ký tại Hội nghị cấp cao lần thứ 9 tại Ba-li (Inđônêxia tháng 11/2003). Như vậy, nhìn tổng thể, bức tranh hội nhập kinh tế của ASEAN là toàn diện, bao trùm hầu hết các lĩnh vực quan trọng có tác động trực tiếp tới sự tăng trưởng kinh tế. Mức độ hội nhập trong các lĩnh vực là rất đa dạng, từ các cam kết mang tính ràng buộc đến các hoạt động hợp tác một cách đơn thuần hay hợp tác trong các chương trình cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, ASEAN vẫn chỉ là một liên kết kinh tế lỏng lẻo và rời rạc, tính liên kết thấp. Các nước ASEAN dường như chưa coi hội nhập kinh tế ASEAN là một mục tiêu quan trọng và gắn với chiến lược phát triển quốc gia của mình. Mỗi nền kinh tế thành viên vẫn lấy lợi ích quốc gia làm trọng và chưa nhìn nhận hết nguy cơ tiềm ẩn gây bất lợi cho ngay các quốc gia thành viên khi ASEAN chưa thực sự là một khối gắn kết. Các chương trình đẩy mạnh hội nhập của ASEAN không phải là ít (Tầm nhìn 2020, Chương trình Hành động Hà Nội, Lộ trình hội nhập của ASEAN), nhưng mới chỉ là quyết tâm mang tính “khẩu hiệu”, chưa mang tính thực tiễn. Với thực trạng hiện nay, nếu ASEAN không quyết tâm hội nhập sâu sắc hơn để hướng tới một khu vực kinh tế thống nhất, thì ASEAN khó có thể tiếp cận được những mục tiêu đã đặt ra trong Tầm nhìn 2020, hướng tới một Cộng đồng kinh tế ASEAN vào 2020. 1.1. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế Khu vực ASEAN cũng là khu vực có tốc độ tăng GDP cao của thế giới. Tổng dự trữ quốc tế của một số nước đạt khá và đang tăng lên. Khu vực ASEAN cũng là khu vực có kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu so với GDP, xuất khẩu bình quân đầu người khá.  Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam dành ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và các nền kinh tế trong khu vực.  Trong thời gian qua, quá trình hội nhập khu vực đã giúp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, củng cố vị thế của mình trong nền kinh tế thế giới và tạo đà thúc đẩy quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam đã tích cực tham gia các liên kết kinh tế đa phương trong khu vực, bao gồm cả những liên kết thể chế (ASEAN và các FTA) và phi thể chế (APEC). Đồng thời, Việt Nam cũng đã ký kết nhiều thoả thuận song phương với các nền kinh tế khác.  Tham gia ASEAN: Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào ngày 28/7/1995 và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này. Ngay sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia các hoạt động hợp tác trên mọi lĩnh vực.     Một trong những đóng góp đầu tiên của Việt Nam là thúc đẩy việc kết nạp Lào, Mianma, Campuchia, hình thành một ASEAN-10. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (12/1998). Chương trình Hành động Hà Nội đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện Tầm nhìn 2020. Đặc biệt, Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM-34) tại Hà Nội năm 2001 mang đậm dấu ấn Việt Nam. Việt Nam còn có sáng kiến trong việc xây dựng cộng đồng ASEAN trên ba trụ cột, trong đó Cộng đồng Văn hóa-xã hội do Việt Nam đề xuất.     Việt Nam còn là một trong những thành viên sáng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), góp phần xây dựng ARF trở thành diễn đàn quan trọng, đối thoại về an ninh khu vực. Theo sự phân công của ASEAN, Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trò là nước điều phối viên trong quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các cường quốc như Nhật Bản, Nga, Mỹ và hiện nay là Ôxtrâylia.     Sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN đã góp phần quan trọng cho việc mở rộng hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, nhất là các đối tác và láng giềng của Việt Nam. Điều này được thể hiện bằng việc Việt Nam đã góp phần làm tăng mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, ASEAN và Liên bang Nga, ASEAN và Ấn Độ, ASEAN và EU. Cùng với quan hệ Việt Nam- Trung Quốc được cải thiện nhanh chóng trong thập niên qua, vị thế địa lý chiến lược và sự phát triển năng động của Việt Nam thực sự đã và đang đóng góp một phần quan trọng làm cho ASEAN-Trung Quốc xích lại gần nhau hơn, hiểu biết và hợp tác nhiều hơn.     Việc Việt Nam tham gia ASEAN đã và đang tạo môi trường thuận lợi hơn cho đất nước giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu quả vào hệ thống toàn cầu; không chỉ góp phần thực hiện chính sách đổi mới toàn diện, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế mà quan trọng hơn là tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ khu vực và quốc tế. Cụ thể, sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành nước sáng lập viên ASEM (1996), thành viên chính thức của APEC (1998), mở rộng không gian hợp tác với các nước Đông Nam Á (qua cơ chế ASEAN+1 và AESAN+3).     Với những thành tựu phát triển kinh tế (nhất là trong lĩnh vực tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo) và việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Việt Nam đã để lại ấn tượng tốt đẹp với các nước thành viên ASEAN khác. Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện lộ trình AFTA, tích cực tham gia mọi chương tình hợp tác kinh tế của ASEAN, phù hợp với quyền lợi của đất nứơc. Việt Nam cũng tham gia ký kết Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) ngày 7/10/1998, với mục tiêu tạo ra một khu vực đầu tư tự do trong nội bộ các nước ASEAN vào năm 2010 và cho các nước khác ngoài ASEAN vào năm 2020.     Việt Nam tham gia ký và thực hiện khá tốt Hiệp định khung về tự do thương mại và dịch vụ ASEAN (AFAS), về “Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN” (AICO), về “Sáng kiến hội nhập” (IAI), đã chủ động đưa ra và tích cực thực hiện Chương trình hợp tác phát triển Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), trong đó có dự án xây dựng các hành lang kinh tế, nhất là hành lang kinh tế Đông-Tây, hành lang lưu thông Côn Minh-Hà Nội-Hải Phòng… 1.2.Đánh giá quá trình tham gia hội nhập của Việt Nam Gia nhập ASEAN và tham gia các chương trình hợp tác kinh tế của tổ chức này là bước đầu tiên trên con đường thực hiện chính sách tự do hoá thương mại, hội nhập với nền kinh tế thế giới mà Nhà nước ta đã vạch ra và đang thực hiện. Tự do hoá thương mại, hội nhập với nền kinh tế thế giới - ở quy mô toàn cầu nói chung và khu vực nói riêng - chỉ có ý nghĩa khi đem lại những lợi ích thiết thực cho đất nước, thể hiện rõ nhất ở lợi ích cho các doanh nghiệp. Cùng với việc mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế, các hàng rào bảo hộ sẽ bị loại bỏ dần. Điều đó nhắc tất cả các nhà sản xuất - cho dù là chỉ sản xuất hàng tiêu thụ trong nước - phải ý thức được về mức độ cạnh tranh ngày càng tăng với hàng hoá từ nước ngoài đưa vào, để từ đó xác định chiến lược đúng đắn, quyết tâm nâng cao trình độ quản lý và sản xuất, đổi mới kỹ thuật để nâng cao chất lượng và hạ giá thành, chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với mọi hàng hoá không phân biệt xuất xứ. Bên cạnh đó, tự do hoá thương mại còn đem lại những thuận lợi đáng kể mà khai thác triệt để chúng mới là mục tiêu lâu dài cần xác định cho mỗi doanh nghiệp. Theo các chương trình AFTA và AICO, thuế suất hàng nhập khẩu vào các nước ASEAN cũng giảm đi đáng kể, tuy nhiên các doanh nghiệp của chúng ta - hoặc vì chưa đủ sức vươn ra nước ngoài, hoặc vì thiếu thông tin hay những lý do khác nữa - đã chưa tận dụng được. Sắp tới, công tác hỗ trợ, xúc tiến thương mại sẽ được nâng lên một vị trí mới nhằm giúp các doanh nghiệp nhanh chóng tìm kiếm bạn hàng, thiết lập quan hệ kinh tế ổn định, đặt những bước tiến vững chắc ra các thị trường bên ngoài. Đây cũng là một cơ hội nữa cho các doanh nghiệp tìm hiểu và tiếp cận với các cơ quan lập chính sách để từ đó xác định hướng đi chủ động cho mình trong bối cảnh mở cửa thị trường, chấp nhận cạnh tranh, quyết tâm vươn mạnh ra nước ngoài. Những năm gần đây , sự thay đổi nhanh chong của môi trường kinh tế - chính trị khu vực( với sự trỗi dậy của trung quốc, sự gia tăng hiện diện can thiệp của mỹ sự chuyển mình của ấn độ) đã thôi thúc ASEAN đổi mới, điều chỉnh chính sách nhằm tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy lien kinh tếết khu vực. Một trong những thích ứng moiứ la xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC) VÀO NĂM 2020 và tích cực mở rộng đàm phán thiết lập khu mậu dịch tự do song phương đa phương (RTA và BFTA) với các đối tác ngoài khối.Ben cạnh đó ,ASEAN đã và đang có những linh họat hơnviệc áp dụng “phương thức ASEAN bằng cách cho phép thực hiện các nguyên tắc. Việc quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc từ 2002 và dặc biệt là tuyên bố ở bali II năm 2003 về thiết lập AC dựa trên 3 trụ cột chính là cộng đồng kinh tế (AEC) cộng đồng an ninh (ASC) và cong đồng văn hóa xã hội (ASCC) vào năm 2020 là những quyết định đúng hướng kinh tế kịp thời của ASEAN trước nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. 1.2.1Những ưu điểm: Ưu điểm chính của Việt Nam là địa dư. Người ta thường phân biệt các nước ASEAN thành hai loại: những nước ASEAN hải dương (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Singapore) và những nước ASEAN lục địa (Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam). Nhưng Việt Nam có thể được coi vừa là một nước lục địa vừa là một nước hải dương. Nhờ địa hình địa thế đó mà hàng hóa Việt Nam, dù để tiêu thụ trong nước hay để xuất khẩu, không cần phải quá cảnh những nước láng giềng. Ngược lại, hàng hóa của vùng Đông Bắc Thái Lan, Lào, Campuchia và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) xuất khẩu sang những nước khác có tiềm năng quá cảnh và tạm thời lưu kho trên lãnh thổ Việt Nam, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Myanmar không phải là một đối thủ cạnh tranh vì địa thế hiểm trở làm cho hệ thống giao thông với những lãnh thổ phía Đông và phía Bắc không thuận tiện. Thái Lan và tỉnh Quảng Tây là đối thủ đang áp đảo Việt Nam. Nhưng bờ biển Thái Lan nằm gọn trong vịnh Thái Lan và bờ biển tỉnh Quảng Tây nằm gọn trong vịnh Bắc bộ. Trên phương diện hậu cần quốc tế, hai vịnh này là những ngõ kẹt. Vậy hàng ngoại thương của Lào, Campuchia và tỉnh Vân Nam quá cảnh Việt Nam sẽ được chở mau và rẻ hơn là qua những đường khác. Việt Nam và chín nước (và lãnh thổ) khác bao quanh biển Đông, nơi có nhiều hàng qua lại nhất thế giới. Đài Loan, với cảng Cao Hùng, và Trung Quốc, với những cảng Hồng Kông và Thượng Hải, là những điểm đến và đi của những tuyến tàu biển nối liền với cảng Singapore. Bây giờ những tàu lớn chạy trên những tuyến đó không cần phải đậu ở giữa đường để mua than chạy máy như ngày xưa. Một số tàu cỡ nhỏ (feeder) đến cỡ trung (sub panamax) chỉ có thể dừng chân ở những cảng Việt Nam để chất, dỡ hàng của Việt Nam và của những nước láng giềng, mua thêm thực phẩm tươi, cho thủy thủ đoàn nghỉ ngơi, bảo quản định kỳ hay sửa chữa bất thường... Đây là một lợi thế của Việt Nam vì Malaysia quá gần Singapore còn Philippines và Indonesia là những quần đảo không có hậu phương. Nhìn bản đồ Đông Nam Á thì thấy rằng, trừ Jakarta, thủ đô Indonesia, tất cả thủ đô các nước ASEAN đều cách Tp.HCM non hai giờ máy bay. Đài Bắc và Dakka, thủ đô Bangladesh, cũng chỉ cách Hà Nội có hơn hai giờ bay. Miền Nam Trung Quốc, vùng có kinh tế phát triển mạnh nhất của nước này, ở trọn trong tầm hai giờ bay từ Hà Nội. Ba cảng trong số những cảng lớn nhất thế giới, Singapore, Hồng Kông và Cao Hùng, cách Hà Nội hay Tp.HCM non hai giờ bay. Nói một cách khác, Việt Nam nằm ngay giữa vùng kinh tế sôi động nhất thế giới. Vị trí trung tâm này đã là một trong số những nguyên nhân của bốn chục năm chiến tranh mà Việt Nam đã phải chịu đựng. Bây giờ, với hòa bình được lập lại, vị trí đó có thể được dùng vào mục đích phát triển kinh tế. Việt Nam có nhiều sông và núi. Nhiều sông có lưu lượng lớn, kể cả những dòng sông Trung bộ, có thể tiếp nhận được các xuồng có khổ lớn, thậm chí tàu biển. Nhờ thế, tàu biển có thể vào sâu trong đất liền, tránh phải chuyển tải. Vận tải bằng đường thủy có thể chiếm một thị phần quan trọng. Việt Nam có thể là một trong số nhỏ những quốc gia có tất cả năm phương tiện giao thông: đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển và đường hàng không, quan trọng ngang nhau. Việt Nam chưa đô thị hóa quá đáng so với những nước châu Á khác. Trung bình mật độ dân cư cao nhưng chỉ có hai khu đô thị lớn cách nhau hơn 1.500 ki lô mét: Tp.HCM, với 5,9 triệu dân, và Hà Nội, với 3,1 triệu dân. Nếu tính thêm những tỉnh tiếp giáp thì vùng đô thị Tp.HCM cũng chỉ có 14,1 triệu dân. Theo điều tra mới nhất của Bộ Giao thông Vận tải, các địa phương trên tuyến quốc lộ 1 (đi qua 30 tỉnh và thành phố) đều lấy tuyến này làm trục đô thị và quy hoạch cho 130 thành phố, thị xã và thị trấn. Tổng chiều dài đô thị hóa là 550 ki lô mét (không kể khu dân cư nhỏ chưa xếp loại đô thị), chiếm 24% chiều dài toàn tuyến. Dân số phân bố đồng đều trên toàn lãnh thổ như vậy là một điều thuận lợi về quốc phòng cũng như về tiềm năng đi tới một nền công nghiệp tiên tiến mà không đặt ra nhiều vấn đề khó khăn về dân cư, giao thông, vệ sinh và môi trường. Nếu quan sát động thái, xâu chuỗi diễn biến tình hình chính trị và an ninh, phân tích địa chính trị - kinh tế thế giới qua các thời kỳ từ nửa sau thế kỷ XX đến thập niên đầu thế kỷ XXI, nhất là quãng thời trước và sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN trong năm 1995, có thể thấy rằng: Thời kỳ trước năm 1995, thế giới còn hoài nghi về sự thành công của ASEAN, thậm chí coi ASEAN là một tổ chức quân sự thân Mỹ chống cộng, chống Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Chỉ sau khi các định chế của ta với tư cách là Nhà nước Việt Nam chủ động hội nhập khu vực và thế giới về kinh tế, chia sẻ những tương đồng về văn hoá, hợp tác phát triển khoa học và công nghệ, chủ động giao lưu và trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động lập pháp và cải cách tư pháp,... thì hình ảnh ASEAN trên thế giới và khu vực thay đổi hoàn toàn - ASEAN không phải là một tổ chức quân sự tập thể. Và, cũng chỉ khi Việt Nam gia nhập ASEAN, các quốc gia khác trong khu vực mới nhanh chóng gia nhập Hiệp hội, thúc đẩy khu vực phát triển nhanh và mạnh hơn, nhất là thực hiện được ước mơ tất cả 10 quốc gia ở khu vực cùng trong một Hiệp hội (chưa kể CHDC Đông Timo non trẻ với số dân chưa tới một triệu người). Thực tế cho thấy, Việt Nam gia nhập ASEAN, và ngay sau đó Quốc hội ta gia nhập AIPO đã thể hiện sự coi trọng cơ chế hợp tác liên nghị viện, ý thức đầy đủ AIPO là động lực quan trọng thúc đẩy các chương trình hợp tác nội khối và tranh thủ tác động tích cực từ phía liên nghị viện và nghị viện các nước ngoài khu vực. Rất nhiều nước, tổ chức thừa nhận rằng, Việt Nam đã đóng góp nhiều sáng kiến mở ra khả năng hiện thực cho việc khai phá và phát triển vùng sông Mê Kông mở rộng mà ngày nay trở thành khu vực phát triển rất năng động, thu hút hàng tỷ USD đầu tư từ bên ngoài vào khu vực. Đến nay tổng sản phẩm quốc nội của ASEAN đạt 737 tỷ USD, tổng giá trị buôn bán đạt khoảng 720 tỷ USD. Về chính trị, sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, toàn bộ các nước Đông Nam Á hợp thành một khối thống nhất, làm thay đổi bản chất quan hệ giữa ASEAN với Trung Quốc. ASEAN không chỉ trở thành đối tác về quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh với Trung Quốc mà còn với cả các cường quốc khác trong khu vực. Vấn đề Biển Đông đã và đang được giải quyết bằng các giải pháp thích hợp thông qua đối thoại, giảm thiểu các cuộc tranh chấp trên biển nhằm làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hợp tác và hoà bình, trong đó Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho Hiệp hội trong vấn đề này. Việc Việt Nam gia nhập các cơ chế hợp tác liên chính phủ và liên nghị viện cũng là yếu tố tích cực thúc đẩy mở rộng hợp tác với nhiều bên đối thoại trên nhiều lĩnh vực với Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước lớn, các nền kinh tế lớn khác.    Các quốc gia trong khu vực và nhiều nước khác từng ghi nhận rằng, trong sự phát triển của ASEAN mỗi tiến bộ đều có sự hỗ trợ rất tích cực, Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung đó, vì Việt Nam có một nền tảng vững chắc, đó là sự ổn định. Nhân tố quan trọng khác là, với dân số hơn 80 triệu người, Việt Nam là thị trường khá lớn, có nhiều cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Những nhân tố này tạo nên sức mạnh để Việt Nam phát triển mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc hơn. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam có thể sử dụng nội lực này để thúc đẩy và góp phần duy trì sự ổn định hướng tới mục tiêu hoà bình, hợp tác phát triển, cùng nhau phấn đấu vì sự thịnh vượng của khu vực. Mười năm tham gia các chương trình hợp tác, các hoạt động của ASEAN, tuy chưa nhiều so với các thành viên sáng lập nhưng  nước ta được các đối tác nhấn mạnh ưu điểm của Việt Nam là rất có trách nhiệm với những cam kết trước ASEAN, và Quốc hội Việt Nam giám sát việc thực hiện các cam kết quốc tế rất nghiêm túc. Chắc hẳn các nhà lãnh đạo, các quan chức chính phủ, nhân dân và các nghị sỹ đại diện cho họ ở các quốc gia trong khu vực và nhiều nơi trên thế giới còn ghi đậm thành công to lớn của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 (1998) với Tuyên bố Hà Nội và Chương trình hành động Hà Nội với dấu ấn Việt Nam. Chính phủ và Quốc hội ta đã đảm đương và làm trọn trách nhiệm thành viên của tổ chức trọng yếu của khu vực là ASEAN    Các quốc gia trong khu vực đang hướng tới thành lập một cộng đồng ASEAN theo “Tầm nhìn năm 2020” trên cơ sở hội nhập về kinh tế, sự hợp tác về văn hoá cũng như hợp tác về chính trị. Xin được đưa ra đánh giá của các quan chức ASEAN và nhiều nghị sỹ của AIPO về vai trò và vị trí của Việt Nam để thay cho lời kết, Cùng với tính kỷ luật, sự dồi dào về năng lực, Việt Nam đang góp phần đẩy con thuyền ASEAN vững bước tiến về đích. Việt Nam cũng đang có tiếng nói rất quan trọng trong ASEAN, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong các quan hệ quốc tế. 1.2.2.Những nhược điểm: Nhược điểm quan trọng của Việt Nam là người Việt không chú trọng mấy đến vấn đề bảo quản. Cầu đường, nhà cửa hay những cơ sở hạ tầng và thiết bị công nghiệp xây xong một hai năm đã xuống cấp, phần vì đã không được thực hiện hoàn chỉnh, phần vì chủ đầu tư, kể cả những tư nhân, không dự trù ngân sách và nhân lực bảo quản. Đây là một đặc tính văn hóa khó có thể sửa được. Trong số những nhược điểm cần được khắc phục có thể kể: - Công chức tham nhũng và thiếu khả năng nghiệp vụ, hậu quả của chính sách giáo dục đào tạo chậm được đổi mới; - Phân chia trách nhiệm quyền hành giữa các bộ ngành của Chính phủ không rõ rệt làm cho những quyết định không được phối hợp hài hòa; - Hạ tầng và thiết bị hậu cần không thích ứng với nhu cầu phát triển và hiện đại hóa kinh tế xã hội; - Ngoài vài tuyến giao thông với Trung Quốc, mạng giao thông ít kết nối với những nước lân cận; - Phần lớn kinh tế vẫn còn tính chất thủ công hay công nghiệp sơ khai; - Thiếu những phương tiện quản lý điện tử mà các nước trong vùng đã có: thủ tục ra vào cảng, hải quan và thủ tục giao dịch thương mại kết nối giữa tất cả các đối tác và tiềm năng vận tải sẵn có trên thế giới. - Mặc dù kinh tế tăng mạnh, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, lại giáp giới với hai nước nghèo nhất của khối ASEAN. Tỉnh Vân Nam cũng trong số những tỉnh nghèo của Trung Quốc. - Ngoài phần biên giới với phía Nam Campuchia ra, lãnh thổ Việt Nam có núi hiểm trở bao quanh làm giao thương với những nước láng giềng không tiện mấy. Việt Nam ở cuối bán đảo Đông Dương nên giao thương bằng đường bộ và đường sắt giữa những nước ở phía Tây và phía Bắc Myanmar có xu hướng đi tắt không quá cảnh những nước Đông Dương. Giao thương bằng đường biển của những nước đó có xu hướng vòng qua eo Malacca rồi đi thẳng sang Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản qua biển Đông mà không dừng ở Việt Nam. - Mạng đường sắt Việt Nam kết nối với mạng của Trung Quốc nhưng mạng của Việt Nam có khổ 1.000 mi li mét còn mạng của Trung Quốc có khổ tiêu chuẩn 1.435 mi li mét. Mạng đường sắt của những nước láng giềng khác có khổ 1.000 mm nhưng lại không kết nối với mạng của Việt Nam. - Dọc bờ biển Việt Nam có nhiều sông đổ ra những khối lượng phù sa rất lớn. Vì thế mà Việt Nam có ít địa điểm thuận tiện để xây cảng lớn nước sâu và, nếu có, thì phải luôn luôn nạo vét luồng lạch để tránh cho cảng bị bồi đắp. 2. Một số tác động của việc tham gia quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam chọn cách tham gia “ít nhất có thể” và “kéo dài lâu nhất có thể” trong các cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường vô hình chung đã tạo cho doanh nghiệp sự bảo hộ, khiến phần lớn doanh nghiệp Việt Nam thiếu động lực cạnh tranh. Họ dường như không quan tâm nhiều đến việc xây dựng một chiến lược kinh doanh khu vực và xa hơn là toàn cầu. Trước thực trạng đó, việc hình thành AEC sẽ có tác động không nhỏ đến Việt Nam. Thừa nhận vẫn cần phải có những nghiên cứu sâu hơn về tác động của AEC với điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhưng các chuyên gia cũng đưa ra dự báo bước đầu rằng việc tham gia tiến trình AEC sẽ tạo thêm thương mại với Việt Nam. Điều này phản ánh rõ rệt qua hàng rào thuế quan của Việt Nam. Số liệu của Viện Kinh tế và chính trị thế giới cho thấy mức thuế quan bình quân của Việt Nam theo CEPT vẫn cao gần gấp đôi mức bình quân của ASEAN-10 (6,22% so với 3,33%) và gần 20% dòng thuế quan vẫn có thuế suất trên 5% nên hiệu ứng “tạo thêm thương mại” với Việt Nam sẽ lớn khi hàng rào thuế quan của Việt Nam thấp hơn. Dòng đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam được dự báo cũng sẽ mạnh hơn cả về số lượng cũng như chất lượng khi Việt Nam tham gia tiến trình AEC. Các nhà đầu tư sẽ tìm đến Việt Nam không chỉ bởi một quy mô thị trường của AEC hơn 500 triệu dân với trên 1.000 tỷ USD GDP, mà còn bởi chi phí kinh doanh và giao dịch sẽ giảm mạnh qua việc cải thiện môi trường đầu tư. Khi đầu tư trực tiếp gia tăng, tất yếu nước đón nhận sẽ được hưởng lợi từ những công nghệ chuyển giao, tạo thêm việc làm, phát triển nguồn nhân lực và mở ra kênh tiếp cận thị trường khu vực và thế giới. Theo các chuyên gia kinh tế, đó là những “hiệu ứng động” mà Việt Nam phải biết chớp lấy. Lưu ý này xuất phát từ thực tế hiện nay Việt Nam còn áp dụng khá nhiều biện pháp phi thuế quan cũng như rào cản kinh doanh nếu không được điều chỉnh đồng bộ sẽ dẫn đến “chệch hướng đầu tư” khỏi Việt Nam. Một nhận định quan trọng khác được các chuyên gia đưa ra tại hội nghị này là, việc Việt Nam tham gia AEC sẽ không có những tác động lớn đến việc chuyển dịch nguồn thu ngân sách nhưng sẽ tác động tích cực tới quá trình cải cách thuế và cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam. Thực tế, nguồn thu thuế từ hoạt động ngoại thương của Việ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2719.doc
Tài liệu liên quan