Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam

Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t STT Tên viết tắt Nội dung từ viết tắt tiếng Anh Nội dung viết tắt tiếng Việt 1 VACPA Vietnam Association Certified Public Accountants Hội kiểm toán vien hành nghề Việt Nam 2 ACCA The Association of Chartered Certified Accountants Hiệp hội Kế toán công chứng Anh 3 AICPA American Institution of Certified Public Accountants 4 BTC Bộ Tài Chính 5 CPA Certified Public Accountans Chứng chỉ kiểm toán viên 6 BCH Ban chấp hành 7 FDI Foreign Direct I

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nvesment Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 8 WTO World Trade Organization Tổ chức thưong mại thế giới 9 IFAC International Federation of Acountants Hiệp hội Kế toán quốc tế 10 KTV Kiểm toán viên 11 SEC Securities Exchange Commission Uỷ ban chứng khoán. 12 AASB Auditing and Assurance Standards Board 13 AASOC Auditing and Assurance Standards Oversight Council MỞ ĐẦU Hoà cùng xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang chuyển mình đổi thay và đã thu được những thành tựu phát triển kinh tế- xã hội quan trọng và hết sức đáng mừng, được cả cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong bối cảnh đó, vai trò của Kiểm toán độc lập là không thể phủ nhận và là nhu cầu tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động của các công ty kiểm toán rất phát triển ở các nước có nền kinh tế phát triển. Ở Việt Nam, kiểm toán độc lập ra đời từ năm 1991 và cho đến nay đã có những bước phát triển nhanh tróng bằng việc hình thành một hệ thống các công ty kiểm toán độc lập với đầy đủ hình thức sở hữu (Nhà nước , TNHH, 100% vốn nước ngoài, liên doanh…). Dịch vụ kiểm toán độc lập, đặc biệt là kiểm toán báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng không những đối với Nhà nước mà còn đối với cả bản thân chủ doanh nghiệp, ngân hàng, các chủ đầu tư, các tác nhân kinh tế, công chúng, và xã hội nói chung. Một nền kinh tế phát triển lành mạnh và an toàn đòi hỏi phải được cung cấp các dịch vụ kiểm toán hoàn hảo có chất lượng cao. Chất lượng các báo cáo kiểm toán có ý nghĩa quan trọng cho sự hoạt động của các doanh nghiệp. Vấn đề này càng trở nên cần thiết trong tương lai khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Hiện nay, các công ty kiểm toán độc lập đã tăng mạnh với số lượng lên đến hơn 130 công ty. Đặc biệt là sự có mặt của các công ty kiểm toán nước ngoài làm cho yếu tố cạnh tranh trở nên gay gắt buộc công ty kiểm toán trong nước phải không ngừng nâng cao uy tín cũng như chất lượng hoạt động. Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu đề tài: “Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam” là hết sức cần thiết, giúp các công ty kiểm toán độc lập ngày càng hoàn thiện hơn. Đối tượng nghiên cứu của đề tài chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn ở các công ty kiểm toán độc lập. Các vấn đề xoay quanh chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam và đưa ra hướng phát triển trong tương lai. Tìm hiểu, đánh giá thực trạng chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Đưa ra hướng phát triển nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam trong trong tương lai. Nội dung bài viết của em được chia ra thành hai phần: Chương 1: Khái quát về kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập. Chương 2: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam. Trong suốt quá trình thực hiện đề án, em cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, chính vì vậy em rất muốn nói lời cảm ơn chân thành tới TS. Phan Trung Kiên đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em để em hoàn thành được bài viết này. Chương 1: Khái quát về kiểm soát chất lượng trong kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập 1.1. Vai trò của kiểm soát chất lượng kiểm toán. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét duyệt mà nay các thông tin này cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử dụng cho các quyết định kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các đối tượng này đều có cùng nguyện vọng là có được các thông tin có độ chính xác cao, tin cậy và trung thực. Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động kiểm toán độc lập ra đời và trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập cung cấp cho những người sử dụng kết quả kiểm toán sự hiểu biết về những thông tin tài chính họ được cung cấp có được lập trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định hay không và các thông tin đó có trung thực và hợp lý hay không. Luật pháp yêu cầu và để yên lòng cho người sử dụng thì các báo cáo tài chính phải được kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm toán mới là căn cứ tin cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lý. Việc các qui định mang tính pháp lý bắt buộc các thông tin tài chính trước khi công bố phải được kiểm toán, điều này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Kiểm toán độc lập không thể thiếu được của hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quan lý của Nhà nước. Kiểm toán làm tăng mức độ tin cậy đối với các thông tin tài chính, góp phần lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế. Dựa vào kết quả kiểm toán, những người sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán có được các thông tin khách quan, chính xác theo đó có thể đánh giá một cách đúng đắn tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở cho các quyết định kinh tế của mình. Bên cạnh mục tiêu chính là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính, các kiểm toán viên, thông qua quá trình kiểm toán, còn có thể đưa ra những kiến nghị giúp doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống kiểm soát, nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tài chính nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh nói chung. Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã tìm được tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực trình bầy về tình hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá, lựa chọn đối tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước ngoài, nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc kiểm toán sẽ hiệu quả và rẻ hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm phán, tự chứng minh về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan của kiểm toán luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập thì nhu cầu kiểm toán của các công ty này là tất yếu bởi yêu cầu quản lý của các đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp. Do vậy kiểm toán độc lập ra đời đã đáp ứng tốt nhu cầu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Ngoài những đóng góp tích cực nêu trên cho nền kinh tế, kiểm toán độc lập còn là hoạt động dịch vụ và như vậy nó tạo ra giá trị cho nền kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập quốc dân, nâng cao nguồn thu cho ngân sách. Hoạt động kiểm toán còn thu hút được lực lượng lớn các lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và đặc biệt là lực lượng chuyên gia tư vấn nước ngoài làm việc tại các công ty kiểm toán quốc tế. Lực lượng này đã chuyền đạt nhiều kinh nhiệm quản lý kinh tế cho các doanh nghiệp, tổ chức cũng như những đồng nghiệp. Với những yếu tố nêu trên chúng ta đã có thể nhận thấy rất rõ ràng vai trò to lớn của kiểm toán nội bộ trong nền kinh tế. Và chính từ vai trò to lớn đó, việc cần phải kiểm soát chất lượng kiểm tóan là một yêu cầu vô cùng cấp thiết Thứ nhất: Kiểm soát chất lượng kiểm toán sẽ đảm bảo cuộc kiểm toán đã được thực hiện theo đúng chuẩn mực kiểm toán của Việt Nam hoặc chuẩn mực quốc tế được chấp nhận. Kiểm toán là một ngành nghề chịu sự chi phối trực tiếp từ các chuẩn mực, lấy chuẩn mực là cơ sở chung cho mọi thủ tục và quy trình thực hiện, chính vì vậy chỉ có sự tuân thủ chuẩn mực thì kết quả của cuộc kiểm toán mới có giá trị. Thứ hai: Kiểm soát chất lượng kiểm toán sẽ đảm bảo cho người sử dụng thông tin kiểm toán sẽ nhận được các thông tin trung thực và khách quan về tình hình tài chính của công ty được kiểm toán.Người sử dụng báo cáo kiểm toán ở đây có thể liệt kê ra như: cán bộ công nhân viên trong công ty, các nhà đầu tư, các đối tác liên doanh, các ngân hàng, chủ nợ khác.....tất cả các người sử dụng này ít nhiều đều có quyền lợi gắn liền với tình hình tài chính của công ty được kiểm toán. Với nhà đầu tư họ cần có một thông tin chính xác trước khi đi đến quyết định có nên bỏ vốn của mình đầu tư vào công ty:; với ngân hàng thì báo cáo kiểm toán sẽ giúp ngân hàng đánh giá được tình hình tài chính của công ty trước khi đi đến quyết định có chấp nhận cho công ty vay tiền, đây chính là một biện pháp hữu ích để ngân hàng hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng của mình; với cán bộ công nhân viên và các đối tác liên doanh, dựa vào báo cáo kiểm toán họ sẽ có cách nhìn chuẩn xác nhất về quyền lợi của họ có được đối với công ty là như thế nào....như vậy tất cả các quyết đinh của những người thừa hưởng kết quả kiểm toán phần nhiều dựa vào chất lượng của cuộc kiểm toán.Nếu châts lượng của cuộc kiểm toán là không đảm bảo, tức là khi đó báo cáo kiểm toán đã không phản ánh được chính xác tình hình tài chính của công ty được kiểm toán, khi đó những người sử dụng báo cáo kiểm toán để ra các quyết định sẽ đối mặt với các quyết định sai lầm, điều này sẽ dấn đến tổn thất lớn cho những nhóm người này và đồng thời là kéo theo sụ bất ổn cho nền kinh tế. Thứ ba: Kiểm soát chất lượng kiểm toán sẽ góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chính phủ và các cơ quan chức năng cũng là những đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán để ra các quyết định, điển hình ở đây chính là các quyết định về thu thuế và các chính sách kinh tế điều tiét vĩ mô nền kinh tế. Một cuộc kiểm toán có chất lượng cao sẽ hạn chế tình trạng chốn thuế của các doanh nghiệp, cũng như sẽ chỉ ra sự yếu kém còn tồn tại trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập ngày sâu rộng của nền kinh tế và Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, thì sự cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Trong sự cạnh tranh đó thì rõ ràng các doanh nghiệp của Việt nam là chịu nhiều bất lợi ( trên tất cả các phương diện về vốn, quy mô, tính chuyên nghiệp cũng như trong quản lý chúng ta điều bị thua thiệt). Chính vì vậy, chính phủ cần phải có một cách nhìn tổng quát nhất về thực lực của các doanh nghiệp để từ dó có được các chính sách hiệu quả và phù hợp với điều kiện của nền kinh tế. Thứ tư: Kiểm soát chất lượng của cuộc kiểm toán sẽ góp phần củng cố, nâng cao uy tín của công ty kiểm toán nói chung và của kiểm toán viên nói riêng. Thực tế là hiện nay các công ty lớn, các công ty niêm yết luôn luôn có xu hướng lựa chọn các công ty kiểm toán lớn và có danh tiếng trong nghề để thực hiện kiểm toán cho họ, điều này là dễ hiểu bởi một khi yêu càu về sự minh bạch trong các bảng khai tài chính ngày càng cao thì cũng đồng nghĩa là thời kỳ mà các công ty kiểm toán cạnh tranh với nhau bằng giảm giá phí kiểm toán đã qua rồi, thay vào đó chất lượng của cuộc kiểm toán mới là yếu tố cần được cân nhắc tới trước tiên. Các công ty kiểm toán lớn và danh tiếng luôn có một đội ngũ kiểm tóan viên chuyên nghiệp và tuân thủ chuẩn mực một cách triệt để nhất. Báo cáo kiểm tóan do các công ty này phát hành ra luôn được sự tin cậy cao của các người sử dụng, chính vì vậy, các công ty được kiểm toán sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong việc huy động vốn, thu hút đầu tư hay mở rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy thì rõ ràng kiểm soát chất lượng của cuộc kiểm toán, với uy tín và danh tiếng của công ty kiểm toán cũng như sự phát triển của các công ty được kiểm toán luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. 1.2. Các tiêu chí kiểm soát chất lượng kiểm toán. Đối với hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán có thể được hiểu là một hệ thống chính sách và biện pháp để nắm bắt và điều hành hoạt động kiểm toán đạt chuẩn mực chung. Hệ thống chính sách và biện pháp đó bao gồm: quan điểm về kiểm soát, hệ thống các quy định nghiệp vụ kiểm toán và kiểm soát, cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm soát, chính sách về nhân sự, các hoạt động kiểm tra, soát xét, thu thập thông tin, xác nhận... Kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện trong toàn bộ quá trình kiểm toán của một cuộc kiểm toán, do nhiều cấp độ kiểm soát tiến hành, với nhiều phương pháp kiểm soát khác nhau. Mục tiêu chung của kiểm soát chất lượng kiểm toán là nhằm hỗ trợ Công ty kiểm toán bảo đảm cho kiểm toán viên của mình tuân thủ đúng các chuẩn mực nghề nghiệp hiện hành và các chuẩn mực chất lượng theo quy định đặt ra, nhằm tạo ra những sản phẩm kiểm toán đạt tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Các mục tiêu cụ thể là: Việc kiểm toán được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán, quy trình kiểm toán, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy chế, quy định khác trong hoạt động kiểm toán; Các thành viên của đoàn kiểm toán hiểu rõ và nhất quán về kế hoạch kiểm toán, tổ chức thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kết quả kiểm toán. Các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán có đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, phù hợp với các chuẩn mực đã được quy định. Tất cả các lỗi, thiếu sót và các vấn đề không bình thường phải được nhận biết, ghi lại bằng văn bản và giải quyết đúng đắn hoặc báo cáo cho người có thẩm quyền cao hơn xem xét, xử lý. Đạt được các mục tiêu kiểm toán đã đặt ra; báo cáo kiểm toán phải bao gồm đầy đủ các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán liên quan đến cuộc kiểm toán; Rút ra những kinh nghiệm nhằm cải thiện hoạt động kiểm toán trong tương lai. Những kinh nghiệm đó cần phải được nhận biết, ghi chép và phải được đưa vào kế hoạch kiểm toán kỳ sau và trong các hoạt động phát triển nhân sự. Như vậy, kiểm soát chất lượng kiểm toán đã được thừa nhận như một chức năng của quản lý hoạt động kiểm toán, là trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chuyên môn nghề nghiệp của mọi công ty kiểm toán, là một trong những chuẩn mực kiểm toán quan trọng trong hoạt động kiểm toán. Do vậy, việc thiết lập và duy trì một hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu được của các công ty kiểm toán.          Cơ chế thị trường phát triển kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của kiểm toán độc lập. Vì vậy, việc hành nghề kiểm toán độc lập phải tuân theo những nguyên tắc chuẩn mực nghề nghiệp quy định cho lĩnh vực kiểm toán độc lập của cả quốc tế và quốc gia. Chuẩn mực nghề nghiệp của kiểm toán độc lập được xem như những khuôn mẫu, tiêu chuẩn, thước đo để đánh giá các chỉ tiêu tài chính một cách khoa học và khách quan. Thông thường có những chuẩn mực xây dựng, áp dụng cho tất cả các loại kiểm toán, nhưng cũng có những chuẩn mực xây dựng và áp dụng riên cho từng lĩnh vực và từng loại kiểm toán khác nhau. Hệ thống chuẩn mực kiểm toán độc lập thường đước chia thành ba nhóm đó là: Nhóm chuẩn mực chung (như độc lập, khách quan, thận trọng,…); Nhóm chuẩn mực thực hành (như chuẩn mực lập kế hoạch kiểm toán, bằng chứng kiểm toán, trọng yếu, rủi ro, phương pháp kiểm toán,…) và nhóm chuẩn mực báo cáo (như chuẩn mực báo cáo kiểm toán, hồ sơ kiểm toán,…). Ở Việt Nam trong 17 năm phát triển, để từng bước nâng cao, hoàn thiện ngành kiểm toán, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường phát triển, hội nhập kinh tế, Nhà nước và Bộ Tài Chính kết hợp với các Hội nghề nghiệp cũng ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh ngành nghề kiểm toán, cũng như kiểm soát chất lượng hoạt động của kiểm toán độc lập. Tuy nhiên mới chỉ có các văn bản chung quy định về hoạt động kiểm toán độc lập như: Quyết định số 59/2002/QĐ-BTC ban hành quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên và chứng chỉ hành nghề kế toán. Nghị định 105/2004/NĐ-CP quy định về kiểm toán viên, doanh nghiệp kiểm toán, giá trị của kết quả kiểm toán, các trường hợp kiểm toán bắt buộc và các quy định khác liên quan đến hoạt động kiểm toán độc lập nhằm thống nhất quản lý hoạt động kiểm toán độc lập, xác định quyền và trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán và doanh nghiệp kiểm toán, bảo vệ lợi ích của cộng đồng và quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư, đảm bảo cung cập thông tin kinh tế, tài chính trung thực, hợp lý, công khai, đáp ứng yêu cầu quản lý của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân. Ngoài ra còn có các chuẩn mực điều chỉnh hoạt động của kiểm toán độc lập ban hành trong 7 đợt từ năm 2000 cho đến năm 2005 QĐ số 120/1999/QĐ-BTC ban hành và công bố 4 chuẩn mực kiểm toán đợt 1. QĐ số 219/2000/QĐ-BTC ban hành và công bố 6 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đợt 2. QĐ số 143/2001/QĐ-BTC ban hành và công bố 6 chuẩn mực kiểm toán đợt 3. QĐ số 28/2003/QĐ-BTC ban hành và công bố 5 chuẩn mực kiểm toán đợt 4. QĐ số195/2003/QĐ-BTC ban hành và công bố 6 chuẩn mực kiểm toán đợt 5. QĐ số 03/2005/QĐ-BTC ban hành và công bố 6 chuẩn mực kiểm toán đợt 6. QĐ số 101/2005/QĐ-BTC ban hành và công bố 4 chuẩn mực kiểm toán đợt 7. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam ban hành và công bố theo quyết định số 87/2005/QĐ-BTC quy định các nguyên tắc, nội dung, và hướng dẫn áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề kế toán, kiểm toán viên hành nghề và người làm kế toán, kiểm toán trong các doanh nghiệp và tổ chức nhằm đảm bảo đạt được những tiêu chuẩn cao nhất về trình độ chuyên môn, về mức độ hoạt động và đáp ứng được sự quan tâm ngày càng cao của công chúng. Cụ thể trong hệ thống chuẩn mực kiểm toán do BTC ban hành chính là chuẩn mực số 220:” Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán”.Và theo chuẩn mực số 220 thì: chất lượng hoạt động kiểm toánlà mức độ thỏa mãn của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên, đồng thời thỏa mãn mong muốn của các đơn vị được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong thời gian định trước với giá phái hợp lý.” Như vậy chất lượng hoạt động kiểm toán có thể được xem xét dưới ba góc độ: ● Mức độ người sử dụng thông tin thỏa mãn với tính khách quan và độ tin cậy của kết quả kiểm toán. Mức độ của đơn vị được kiểm toán thỏa mãn về ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt dộng kinh doanh. Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong hợp đồng kiểm toán với mức giá phí hợp lý. Nội dung, quy mô, trình tự, thủ tục tiến hành kiểm soát chất lượng hoạt dộng kiểm toán được vận dụng theo từng trường hợp cụ thể của cuộc kiểm toán. Tuy nhiên có những chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán mà tất cả các công ty kiểm toán phải xây dựng và thực hiện trong mọi cuộc kiểm để phù hợp với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận tại Việt Nam. Thứ nhất: Các công ty kiểm toán phải luôn xem xét tính tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên của mình. vIệc theo dõi, kiểm tra việc tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp bao gồm việc kiểm tra tính độc lập khách quan, chính trực, năng lực chuyên môn, tính cẩn trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp. Các công ty kiểm toán có thể yêu cầu các cán bộ công nhân viên chuyên nghiệp nộp bản giải trình về tính độc lập đối với khách hàng, phân công người có đủ thẩm quyền kiểm tra tính dộc lập của nhân viên. Trong quá trình đào tạo và hướng dẫn thực hiện, các công ty kiểm toán cần nhấn mạnh đến tính độc lập và tư cách nghè nghiệp. Thứ hai: Công ty kiểm toán phải xem xét đến các kỹ năng và năng lực chuyên môn của các kiểm toán viên. Năng lực chuyên môn của các nhân viên này cần được xem xét không những trong quá trình thực hiện mà còn phải xem xét qua cả quá trình đào tạo và tuyển dụng nhân viên. Thiết lập các tiêu chuẩn cho từng cấp bậc, chức danh, và xác định cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho từng nhân viên là cách thức hiệu quả để tăng động lực cho các kiểm toán viên không ngừng nâng cao khả năng chuyên môn. Hơn nữa, để góp phần nâng cao năng lực và kỹ năng cho các nhân viên, các công ty kiểm toán cần tiến hành đánh giá kết quả công tác và định kỳ thông báo cho họ triển vọng và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho từng cá nhân. Thứ ba, công việc kiểm toán phải được hướng dẫn và giám sát thực hiện đầy đủ ở tất cả các cấp cán bộ, nhân viên. Đối với mỗi cuộc kiểm toán, thành phần trong nhóm kiểm toán bao giờ cũng được xác định cụ thể, phù hợp với đối tượng kiểm toán và yêu cầu pháp lý của cuộc kiểm toán, cơ cấu bao gồm: giám đốc (partner), chủ nhiệm kiểm toán (manager), giám sát kiểm toán (supervisor), kiểm toán viên chính (senior auditor) và các trợ lý kiểm toán. Cấp độ giám sát kiểm toán sẽ tăng dần lên theo phạm vi của đối tượng và tính chất pháp lý của cuộc kiểm toán. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định trong việc soát xét công việc kiểm toán của công ty trong từng nhóm kiểm toán, việc giám sát có thể do các kiểm toán viên trong các nhóm kiểm toán khác thực hiện. Thứ tư, các công ty kiểm toán khi cần thiết có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn. Việc tham khảo ý kiến tư vấn của chuyên gia sẽ tăng mức độ tin cậy của ý kiến kiểm toán về các lĩnh vực chuyên môn phức tạp, những ngành nghề kinh doanh phức tạp. Tuy nhiên, khi tham khảo ý kiến của chuyên gia, công ty kiểm toán luôn luôn phải xem xét đến năng lực chuyên môn và tính độc lập, khách quan của chuyên gia tư vấn Thứ năm, việc cân nhắc đến khả năng phục vụ khách hàng của công ty kiểm toán và tính chính trực của nhà quản lý công ty khách hàng, là nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng kiểm toán. Nếu công ty kiểm toán không có những nhân viên chuyên nghiệp, am hiểu về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng thì họ nên nghĩ đến quyết định không thực hiện kiểm toán toán đối với khách hàng đó. Nếu những nghi ngại về tính chính trực của nhà quản trị quá nghiêm trọng, công ty kiểm toán cũng có thể từ chối kiểm toán đối với khách hàng đó. Thứ sáu, công ty kiểm toán phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của công ty. 1.3. Kinh nghiệm kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập trên thế giới Hiện nay trên thế giới có rất nhiều hiệp hội quản lý, giám sát, cấp chứng chỉ cho hoạt động kiểm toán. Ví dụ như Liên đoàn Kế toán Quốc tế- IFAC- một tổ chức nghề nghiệp có uy tín hàng đầu về kế toán và kiểm toán hiện nay trên thế giới. Được thành lập năm 1977, đến nay IFAC có 160 tổ chức thành viên tại 120 quốc gia đại diện cho hơn 2,5 triệu kế toán viên và kiểm toán viên chuyên nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực công cộng, giáo dục, dịch vụ quản lý, công nghiệp và thương mại. Mọi hoạt động của IFAC nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghề nghiệp kế toán và kiểm toán trên toàn thế giới và góp phần vào sự phát triển lớn mạnh của kinh tế thế giới thông qua việc thiết lập và thúc đẩy việc tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp chất lượng cao, hướng tới sự thống nhất trên toàn thế giới về chuẩn mực này. Để đạt mục tiêu này, IFAC đã có sự phối hợp chặt chẽ cùng với tổ chức thành viên, các tổ chức kế toán khu vực và tiếp thu ý kiến tham gia của các hội thành viên và cơ quan chính phủ của các nước. IFAC đã ban hành các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp,…và để có sự hỗ trợ tốt hơn cho các tổ chức thành viên và các kiểm toán viên, kế toán viên chuyên nghiệp, Liên đoàn đã và đang soạn thảo nhiều tài liệu hướng dẫn nhằm hỗ trợ các kế toán viên và kiểm toán viên chuyên nghiệp trong việc nghiên cứu và cập nhật kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ phục vụ tốt hơn trong công việc của mình, thành lập tổ công tác chuyên trách về các doanh nghiệp và doanh nghiệp kiểm toán vừa và nhỏ, về các quốc gia đang phát triển để nghiên cứu, giải quyết các vấn đề có liên quan bởi vì đây là những nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế toàn cầu.Ngoài ra còn có các hiệp hội tương đối có uy tín cao như Hiệp hội Kế toán công chứng Anh ACCA ( The Association of Chartered Certified Accountants) với hơn 100 năm phát triển cùng sự phát triển ngày càng cao của chất lượng kế toán tài chính, ACCA có truyền thống lịch sử lâu dài và ngày càng được phát huy với những đổi mới tư duy hiện đại và hơn 115.000 thành viên trên 170 quốc gia trên thế giới, với mục tiêu chất lượng luôn đặt lên hàng đầu trong việc đào tạo những người có năng lực muốn đi sâu trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính và quản lý trên khắp thế giới. AASB( Auditing and Assurance Standards Board) bao gồm 15 thành viên, là những thành viên tự nguyện từ AASOC( Auditing and Assurance Standards Oversight Council),… Chương 2: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam. 2.1. Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam: thực trạng và những vấn đề đặt ra. Kiểm toán độc lập là dịch vụ chuyên nghiệp, trình độ cao của kinh tế thị trường, càng quan trọng hơn khi Nhà nước khuyến khích phát triển đa thành phần kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, phát triển thị trường chứng khoán, mở cửa hội nhập quốc tế. Doanh nghiệp muốn phát triển, phát hành cổ phiếu, thu hút vốn đầu tư thì không thể không công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Kiểm tra, giám sát và nâng cao chất lượng dịch vụ hoạt động kiểm toán luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên toàn thế giới. Công tác này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và bền vững của nền kinh tế thị trường.  Kể từ khi thành lập công ty kiểm toán đầu tiên ở Việt Nam năm 1991 cho đến nay, công tác kiểm tra và giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán đều do Bộ Tài chính thực hiện. Tính từ cuộc kiểm tra đầu tiên thực hiện vào năm 1998, đến năm 2005 các đoàn kiểm tra do Bộ Tài chính chủ trì đã thực hiện được 8 đợt kiểm tra, và đã kiểm tra được 55 công ty trong tổng số 105 công ty có đăng ký kinh doanh hoạt động kiểm toán. Các cuộc kiểm tra đã phát hiện kịp thời nhiều vấn đề nổi cộm có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công tác kiểm toán và uy tín nghề nghiệp, như: Nhiều công ty chưa có chương trình đào tạo toàn diện và liên tục cho các cấp nhân viên. Còn tình trạng cho thuê hay cho mượn chứng chỉ kiểm toán viên. Quy trình soát xét hồ sơ kiểm toán và giấy tờ làm việc chưa được thực hiện và tuân thủ đầy đủ, có trường hợp chỉ 1 - 2 cấp soát xét. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một vụ kiện về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Không vì thế mà chúng ta có thể xem nhẹ việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Quá trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán hiện nay vẫn không tránh khỏi những bất cập. Kinh nghiệm hành nghề, năng lực quản lí của nhiều doanh nghiệp kiểm toán còn hạn chế. Nhiều công ty kiểm toán đã cố gắng tăng sức cạnh tranh bằng cách hạ giá phí kiểm toán và đương nhiên, điều này sẽ làm giảm thời gian, giảm số lượng các thủ tục kiểm toán và làm giảm chất lượng của bằng chứng kiểm toán thu thập, nếu sự cắt giảm giá phí là quá mức. Hơn nữa, sức ép với các công ty kiểm toán ngày càng tăng trong điều kiện hiện nay, khi mà bản thân các khách hàng thường quá chú trọng vào tiêu thức giá phí thấp để lựa chọn công  ty kiểm toán. Một số ít các công ty kiểm toán để có thể tiếp tục tồn tại và hoạt động có lãi, họ đã cố gắng chiều theo ý khách hàng. Điều này sẽ trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi kiểm toán viên không có bản lĩnh, yếu kém về trình độ chuyên môn dẫn đến việc bỏ qua sai sót cần điều chỉnh, thậm chí có thể thay đổi ý kiến kiểm toán. Bên cạnh những nhân tố chủ quan trên, còn không ít những nhân tố khách quan làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán. Hiện nay, chúng ta chưa có quy định bắt buộc mua bảo hiểm nghề nghiệp đối với hoạt động kiểm toán. Năm 2003 đã ban hành chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, nhưng hệ thống chế tài đánh giá chất lượng kiểm toán và giải quyết tranh chấp, kiện tụng khi xảy ra rủi ro chưa được hoàn thiện. ở Việt Nam vẫn chưa có cơ quan chuyên trách việc đánh giá chất lượng đối với hoạt động kiểm toán độc lập. (Trong bộ máy Kiểm toán Nhà nước hiện nay đã có một bộ phận chuyên trách thực hiện kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán). Các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp đã hình thành, nhưng chưa hoạt động hiệu quả. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng đuợc hai hiệp hội là Hiệp hội kế toán và Hiệp hội kiểm toán nhưng hoạt động của các Hiệp hội mới chỉ dừng lại ở việc nâng cao năng lực chuyên môn, chứ chưa đưa ra các giải pháp kiểm soát về đạo đức nghề nghiệp đối với những người hành nghề kế toán, kiểm toán. Dựa trên những vấn đề đã phát hiện, các đoàn kiểm tra đều tổng kết, đưa ra kết luận, và kiến nghị các biện pháp xử lý, khắc phục để giúp các công ty kiểm toán nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán. Từ những phát hiện, đề xuất và kiến nghị của các đoàn kiểm tra, Bộ Tài chính cũng đã nghiên cứu, đánh giá, tổng kết và thể chế hóa những bài học này trong các văn bản pháp lý về quản lý hoạt động kế toán, kiểm toán. Các kiến nghị của các đoàn kiểm tra và các điều chỉnh trong hệ thống văn bản pháp lý của Chính phủ và Bộ Tài chính đã dần dần đem lại các kết quả tích cực, giúp các công ty khắc phục dần các sai sót, cải tiến các quy trình kiểm toán, nâng cao chất lượng và uy tín của hoạt động kế toán và kiểm toán. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và thành tựu trong công tác kiểm tra, có thể nhận thấy công tác kiểm tra, giám sát và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán vẫn còn khá nhiều tồn tại như: Nội dung kiểm tra chưa đi vào thực chất, còn mang tính hình thức hành chính, như nặng về kiểm tra các loại giấy phép, chứng chỉ…; Việc kiểm tra chưa có tính chuyên nghiệp cao do những người thực hiện không chuyên sâu về nghề nghiệp; Quy trình và nội dung kiểm tra chưa nhất quán do chưa có văn bản về quy chế và quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán; Việc kiểm tra có thể gây xung đột về lợi ích do trong thành phần đoàn kiểm tra có sự tham gia của các công ty cạnh tranh, hay có thể làm tiết lộ bí mật thông tin của khách hàng… Gần đây, các tổ chức quốc tế đều yêu cầu Nhà nước chuyển giao công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán cho Hội nghề nghiệp.Để tạo dựng Hội nghề nghiệp đảm trách chức năng quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán, theo đề nghị của Bộ Tài chính, được phép của Bộ nội vụ, ngày 15/4/2005, Hội Kiểm toán viê._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6215.doc
Tài liệu liên quan