Kinh tế tư nhân Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra như hiện nay, kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng thể hiện rõ vai trò tích cực của mình trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đặc biệt, trong những năm thập niên cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, khi Thuyết tự do hoá được vận dụng rộng rãi ở nhiều nước và trào lưu cải cách, mở cửa, thúc đẩy kinh tế thị trường trở thành phương thức chính thức thúc đẩy tăng trưởng của nhiều nước đang phát triển và đặc biệt là các nền kinh tế chuyển đổi

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế tư nhân Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, KTTN một lần nữa khẳng định là một trong những cấu thành quan trọng của mọi nền kinh tế quốc dân. Điều này cũng không ngoại lệ với Việt Nam. Việt Nam chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, do vậy vai trò của khu vực KTTN đang được chú trọng rất nghiêm túc và đúng đắn. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) đã chỉ rõ: “ Hơn 10 năm qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân, KTTN gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân, đã phát triển rộng khắp trong cả nước đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội của đất nước”. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, còn nhiều rào cản hạn chế sự phát triển và hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế này. Để tạo điều kiện cho KTTN phát triển đúng với tiềm năng của nó cần phải có nhận thức đúng, cũng như có đánh giá đúng về những đóng góp của khu vực KTTN với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Chính vì vậy, em chọn đề tài “ Kinh tế tư nhân Việt Nam - thực trạng và giải pháp” làm khoá luận tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích KTTN trên phương diện lý luận và thực tiễn để tìm ra những nguyên nhân cụ thể và những rào cản cản trở sự phát triển của khu vự kinh tế tư nhân, qua đó có thể đưa ra các giải pháp cũng như phương hướng giúp thành phần kinh tế này có sự phát triển đúng hướng đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế đất nước. Đề tài có kết cấu ba chương: Chương1: Những vấn đề chung về KTTN Chương2: Thực trạng phát triển KTTN ở Việt Nam. Chương3: Định hướng và giải pháp cơ bản để phát triển KTTN ở Việt Nam. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN 1. 1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM: 1.1.1 Khái niệm: Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau và chưa thống nhất về kinh tế tư nhân, điều này xuất phát từ quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau về sở hữu. Nếu chia sở hữu ra hai loại hình là sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân thì nền kinh tế có hai bộ phận cấu thành là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Sở hữu Nhà nước được hiểu là hình thức sở hữu mà nhà nước là người đại diện cho nhân dân nắm giữ các tư liệu sản xuất, còn sở hữu tư nhân là sở hữu cá nhân của người sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước. Theo cách phân chia này thì khu vực KTTN bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu ta chia kinh tế ra thành ba khu vực: khu vực quốc doanh, ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy theo cách này, thì KTTN, gồm loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2000, các hộ kinh doanh cá thể, người sản xuất nhỏ. Tuy nhiên trong Đại hội Đảng toàn quốc lần IX của Đảng Cộng Sản, trong sáu thành phần kinh tế đó có thể hiểu kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân là thuộc về KTTN. Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất và kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê. Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội thành phần kinh tế này đóng góp vai trò đáng kể. Xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất, đặc điểm của thành phần kinh tế này do một nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh. Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế sở hữu mà thu nhập dựa hoàn toàn vào lao động, vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế cá thể tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế tư hữu nhưng có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập chủ yếu dựa vào sức lao động vốn có của bản thân và gia đình. Thành phần kinh tế này cũng giữ một vị trí quan trọng trong nhiều ngành nghề. Có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình. Như vậy, khu vực kinh tế tư nhân theo quan điểm chính thức ở Việt Nam bao gồm các hình thức kinh tế sau đây: - Kinh tế cá thể được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê. - Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. - Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các doanh nghiệp đang hoạt động theo luật doanh nghiệp của Việt Nam và chúng bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: +Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. +Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. +Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia nhỏ thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. +Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó ít nhất hai thành viên hợp danh. Ngoài hai thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh là cá nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận về khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế bao gồm các đơn vị, cơ sở và cá nhân sản xuất—kinh doanh dựa trên hình thức sở hữu tư nhân trong nước. Các khái niệm về KTTN sẽ cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn và có sự phân tích chọn lọc về khu vực KTTN. 1.1.2 Đặc Điểm: Thứ nhất: Kinh tế tư nhân là các đơn vị kinh doanh, hoạt động vì mục đích hàng đầu là lợi nhuận. Trong một số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hay kinh tế tập thể, mục tiêu lợi nhuận với họ không phải là hàng đầu và có một số doanh nghiệp trong lĩnh vực công cộng hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận. Trong khi đó kinh tế tư nhân luôn coi mục tiêu sinh lời đặt lên vi trí hàng đầu, nếu không sinh lời thì đồng nghĩa với việc phá sản. Chính vì vậy, thước đo về mức độ sinh lời cũng phản ánh được sự phát triển lớn mạnh của khu vực kinh tế này. Đương nhiên để sinh lời thì kinh tế tư nhân phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phải luôn đổi mới công nghệ và quản lý…và đây chính là điều khiến cho kinh tế tư nhân luôn năng động, linh hoạt và là động lực phát triển cho nền kinh tế. Như vậy, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận là hàng đầu, chính vì vậy đây là đặc điểm khác biệt so với một số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước. Thứ hai: Kinh tế tư nhân có quy mô đa dạng và khả năng tối ưu hoá tổ chức sản xuất. Với đặc điểm hoạt động đa dạng trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên kinh tế tư nhân luôn phải lựa chọn các quy mô phù hợp để tối ưu hoá tổ chức sản xuất, cũng chính vì lẽ đó mà kinh tế tư nhân tồn tại với quy mô rất đa dạng, từ các công ty xuyên quốc gia khổng lồ cho tới doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây cũng là điểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước thường có quy mô khá lớn, rất ít các doanh nghiệp quy mô nhỏ. Lý do tồn tại các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn ở một số nước bởi lẽ, một số doanh nghiệp cung cấp hàng hoá công cộng hoặc vì một lý do nào đó mà doanh nghiệp đó được tồn tại độc quyền nên quy mô lớn mới hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp quy mô lớn thuộc sở hữu nhà nước thường mở rộng quy mô không vì sự tối ưu hoá sản xuất mà vì động cơ muốn mở rộng doanh nghiệp để có thêm các đặc quyền và uy lực của người lãnh đạo. Điều này khác với kinh tế tư nhân, quy mô sản xuất có thể mở rộng hoặc thu hẹp để đạt mục tiêu tối ưu hoá sản xuất. Cũng chính vì khả năng lựa chọn quy mô sản xuất hợp lý mà các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân sử dụng lao động một cách hiệu quả. Các chủ doanh nghiệp tư nhân thường căn cứ vào yêu cầu thực sự của công việc để tuyển chọn người và căn cứ vào năng lực đóng góp của người lao động để có cơ chế trả công hợp lý, khuyến khích được người lao động và đào tạo được một đội ngũ doanh nhân và công nhân kỹ thuật lành nghề cho nền kinh tế. Đồng thời chủ doanh nghiệp cũng có thể sa thải ngay tức thì những lao động yếu kém, không hiệu quả. Đây cũng là điểm khác biệt với cơ chế trả công một cách bình quân chủ nghĩa trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, và đó là một vật cản lớn cho tính hiệu quả của các doanh nghiệp này. Thứ ba: Kinh tế tư nhân là các đơn vị kinh tế có tính năng động và linh hoạt cao trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. Kinh tế tư nhân ra đời cùng với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hoá, nó phát triển một cách tự nhiên và đây là điểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước hay sở hữu tập thể, các doanh nghiệp này thường được ra đời với sự nỗ lực nhân tạo của Nhà nước và tập thể, tiếp theo là hàng loạt các ưu đãi để chúng tồn tại và phát triển. Sức sống của nền kinh tế tư nhân thể hiện ở tính năng động và linh hoạt. Với một ý tưởng kinh doanh khả thi sẽ có thể tức thì được hiện thực hoá bởi các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc khu vực tư nhân. Quá trình ra quyết định nhanh chóng và gọn nhẹ đó chỉ có được ở các tổ chức kinh doanh thuộc khu vực tư nhân. Cũng vì sự ra đời là khách quan và tính năng động, linh hoạt cao nên kinh tế tư nhân có khả năng tồn tại và thích ứng với mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của nền kinh tế. Thực tế cho thấy trong thời gian dài, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây kinh tế tư nhân vẫn tồn tại ở những loại hình và mức độ khác nhau trong một số lĩnh vực cho dù nó bị Nhà nước cấm đoán và phong toả ở mọi phương diện. Thực tế cũng cho thấy khi các chính sách cấm đoán ở các quốc gia này được nới lỏng đôi chút thì kinh tế tư nhân hồi sinh và phát triển mạnh mẽ như “ nấm sau mưa”. Trong thời kỳ trước đổi mới, khu vực tư nhân ở Việt Nam vẫn tồn tại xét ở góc độ khu vực tư nhân phi chính thức. Sau đổi mới kinh tế, khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ mà không nhận được sự ưu ái của Nhà nước. Các chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ yêu cầu được đối xử công bằng và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác chứ họ không yêu cầu sự ưu ái của Nhà nước đối với họ. Điều này minh chứng rõ tính năng động và linh hoạt của kinh tế tư nhân trong bất kỳ hoàn cảnh kinh tế nào. Thứ tư: Kinh tế tư nhân hoạt động dựa trên sự thống nhất giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản. Vì kinh tế tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, cho nên sự tồn tại dưới hình thức là các loại hình doanh nghiệp hay hộ gia đình, người sản xuất nhỏ thì về bản chất nó vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Người chủ sở hữu có quyền quyết định hoàn toàn mọi quá trình sản xuất kinh doanh và đương nhiên các quyết định đó đi liền với quyền lợi và trách nhiệm của chính họ. Nguyên tắc hoạt động của kinh tế tư nhân là “bốn tự”, đó là tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự chủ trong kinh doanh và tự bù lỗ. Đây là cơ chế để gắn kết kết quả hoạt động (lợi ích) với năng lực hoạt động của chính các chủ doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân hoạt động bởi chính vốn liếng của mình (cho dù là vốn vay) nên mọi quyết định phải được cân nhắc kỹ lưỡng và mang lại hiệu quả, tức phải sinh lời, phải làm cho hoạt động kinh doanh luôn phát triển, đồng vốn phải không ngừng lớn lên. Điều này khác biệt với các giám đốc doanh nghiệp Nhà nước hay nhà quản lý trong kinh tế tập thể, họ hoạt động không dựa trên vốn hay không hoàn toàn trên đồng vốn của chính mình mà đó là vốn liếng của Nhà nước, của tập thể. Quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản trong các đơn vị kinh tế này không có sự thống nhất, chính vì vậy mà trách nhiệm và quyền lợi thường không đi liền với nhau, do đó các quyết định của họ sẽ có thể không phản ánh sự thận trọng, kỹ lưỡng và tính hiệu quả. Mục đích lãnh đạo của họ có thể không chỉ là làm cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận mà là các mục đích khác như thăng tiến ở một chức vụ quản lý khác cao hơn. Trên đây là các đặc điểm rõ nét nhất về khu vực kinh tế tư nhân ở các nước khi so sánh với khu vực kinh tế công cộng và đây cũng là những ưu thế của kinh tế tư nhân so với kinh tế công cộng trong tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên kinh tế tư nhân cũng có mặt trái của nó mà chính vì lẽ đó, sự tồn tại khu vực kinh tế công cộng ở mọi quốc gia là khách quan và cần thiết bởi vai trò của chúng trong việc cung cấp hàng hoá công cộng và một số hàng hoá - dịch vụ khác mà khu vực tư nhân cung cấp không hiệu quả xét về khía cạnh hiệu quả xã hội. Đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi, khu vực kinh tế tư nhân có một số đặc điểm sau: + Kinh tế tư nhân ở các nước chuyển đổi được hình thành từ nhiều con đường khác nhau, ngoài hình thức tự phát triển, thành lập mới các doanh nghiệp tư nhân thì còn một con đường khác là chuyển đổi sở hữu, tư nhân hoá các xí nghiệp do Nhà nước sở hữu. + Quy mô của khu vực kinh tế tư nhân ở các nước đang phát triển còn nhỏ bé, chiếm tỷ trọng không nhiều trong GDP, trình độ công nghệ lạc hậu và thiếu kỹ năng quản trị và kinh nghiệm kinh doanh… + Đa phần các doanh nghiệp tư nhân ở các nước đang phát triển có quy mô vừa và nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp và năng lực cạnh tranh yếu kém. Đây cũng là đặc điểm chung của nền kinh tế các nước đang phát triển, số các doanh nghiệp tư nhân ở các nước này có quy mô lớn là rất ít. 1.2. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN. Trong một nền kinh tế thị trường, sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân và sự phát triển của cộng đồng gắn liền với nhau trong một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân sẽ đem lại thu nhập cao hơn, y tế và giáo dục tốt hơn cho người dân và cộng đồng. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp, thu nhập cao hơn có nghĩa là thị trường rộng lớn hơn. Sức khỏe và giáo dục tốt hơn thì lực lượng lao động có năng suất cao hơn và năng suất cao hơn sẽ đem lại nhiều lợi nhuận. Vai trò của KTTN trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên nhiều khía cạnh như đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, huy động nguồn lực trong xã hội vào sản xuất kinh doanh cho sản xuất kinh doanh… Thứ nhất: Huy động mọi nguồn lực trong xã hội vào sản xuất kinh doanh, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế –xã hội đất nước. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong việc huy động mọi nguồn lực tiềm ẩn trong xã hội cho phát triển kinh tế. Nguồn lực này có thể tồn tại dưới các thức khác nhau như: tài chính, đất đai, thiết bị máy móc, kinh nghiệm quản lý, kỹ năng lao động…sự phát triển kinh tế tư nhân sẽ khai thác và sử dụng hiệu quả các tiềm năng đó và xã hội hoá các yếu tố sản xuất tập trung vào phát triển kinh tế xã hội. Có thể khẳng định ở mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, khu vực kinh tế tư nhân có vai trò rất quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Do tính năng động, linh hoạt và hiệu quả nên kinh tế tư nhân luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn khu vực kinh tế công cộng và sự đóng góp này tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế các nước. Mức độ đóng góp của khu vực kinh tế này vào GDP thường dao động từ 40-70% GDP của nền kinh tế ở hầu hết các quốc gia. Nguồn vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Trong một nền kinh tế đang phát triển nguồn vốn rất khan hiếm và đặc biệt đối với các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam thì nguồn vốn càng khan hiếm hơn, khi các tổ chức tài chính chưa phát triển và không có khả năng huy động tiền tiết kiệm từ dân cư, cũng như hạn chế của ngân sách trong việc phân bổ vốn cho đầu tư. Do đó khả năng huy động vốn của khu vực KTTN trở nên rất quan trọng. Nếu các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN được đặt trong môi trường kinh doanh bình đẳng và được tạo cơ hội thuận lợi thì các chủ doanh nghiệp có thể tự tin mạo hiểm với khoản tiền tiết kiệm quý giá của bản thân họ, thậm chí của họ hàng và bạn bè họ để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Môi trường kinh doanh bình đẳng sẽ khiến các chủ doanh nghiệp có thể kiểm soát ở mức độ nào đó các hoạt động và số phận kinh doanh của họ. Tuy nhiên do hệ thống tài chính kém phát triển nên các khoản tiền tiết kiệm có thể trở thành vốn sẵn có của các doanh nghiệp nhưng lại tồn tại dưới hình thức khác nhau nằm ngoài các thể chế tài chính chính thức. Thứ hai: Phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc làm. Một kết quả của việc huy động vốn và hình thành vốn của các doanh nghiệp tư nhân là tạo ra cơ hội việc làm cho các thành viên khác trong cộng đồng. Việc làm sẽ mạng lại thu nhập cao cho những người lao động và nâng cao mức sống của gia đình họ. Nhìn chung, chủ doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN khác với các nhà quản lý ở các doanh nghiệp nhà nước ở chỗ họ có quyền quyết định lớn hơn trong việc thuê mướn lao động (số lượng, kỹ năng cần thiết của người lao động). Vì vậy không những các doanh nhân hoàn toàn có thể tăng số lượng lao động làm thuê theo ý họ mà còn có thể nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong cộng đồng. Thứ ba: Phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo nguồn thu thuế cho chính phủ đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước, làm gia tăng tổng sản phẩm quốc dân, thông qua các khoản thu thuế mà các doanh nghiệp tư nhân phải đóng góp cho nhà nước. Những năm gần đây khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới 49% vào GDP cả nước. Điều đó chứng tỏ rằng khu vực kinh tế này đang phát triển rất mạnh trong nền kinh tế và tạo cho nền kinh tế ngày càng mạnh mẽ. Cùng với những ưu thế, sức sống tự phát mãnh liệt, và có khả năng lựa chọn quy mô phù hợp, KTTN là một khu vực năng động, dễ thích nghi. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế và với vai trò riêng của mình KTTN tạo ra cho mỗi quốc gia nhiều cơ hội phát triển nền kinh tế của mình. Tuy nhiên bên cạnh những ưu thế vốn có đó thì KTTN vẫn còn những mặt hạn chế của mình. KTTN có thể phá vỡ cơ cấu kinh tế hợp lý của nền kinh tế, do KTTN thường đầu tư vào ngành thương mại, dịch vụ, sản xuất ở những vùng đông dân cư như thị xã, thành phố… tức là lượng doanh nghiệp xuất hiện ở thành phố là rất lớn. KTTN có thể tạo ra sự phân hoá giàu nghèo lớn trong xã hội. Vì đặc điểm của KTTN là “ mạnh ai nấy chạy” tạo ra sư giãn cách lớn trong thu nhập. Với quy mô còn nhỏ, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ chưa cao vì vậy trong qúa trình hội nhập kinh tế KTTN rất khó cạnh tranh với các chủ thể kinh tế bên ngoài. Vì mục tiêu của KTTN luôn là tối đa hoá lợi nhuận, chạy theo lợi nhuận do đó họ sẵn sàng bất chấp mọi điều kiện để tăng doanh thu. Nhưng hạn chế mà khu vực KTTN này mang lại là cũng rất đáng kể. KTTN phát triển mạnh dẫn đến sự tập trung tài sản vào tay một số cá nhân. Điều này vừa tạo ra sự phân hoá về thu nhập vừa có thể tạo điều kiện cho một số kẻ lũng đoạn thị trường, rồi chạy theo thu nhập sẽ làm họ bỏ qua vấn đề môi trường tạo ô nhiễm môi trường và vấn đề công bằng xã hội mà nền kinh tế nào cũng mong muốn đạt tới. Như vậy KTTN có vai trò rất tích cực trong qúa trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những mặt tiêu cực mang tính chất kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế và của khu vực này. Để hạn chế những tiêu cực này đòi hỏi Nhà Nước phải có biện pháp can thiệp thích hợp và những chính sách cụ thể để có thể làm cho khu vực KTTN phát huy hết những vai trò tích cực của nó và hạn chế tối đa những mặt tiêu cực mà nó có thể gây ra. 1. 3 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KTTN Ở MỘT SỐ QUỐC GIA: 1. 3. 1 Phát triển kinh tế tư nhân ở một số nước: * Hungary: Trên thế giới hiện nay có hơn 180 quốc gia có nền kinh tế thị trường với khu vực tư nhân làm nòng cốt. Tuy nhiên chỉ có hơn 30 quốc gia trong số đó trở nên giàu có một số nước trước đây đi theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, phủ nhận sự tồn tại của khu vực KTTN do đó mà nền kinh tế đã lâm vào tình trạng trì trệ kém phát triển. Sự tồn tại của KTTN trong nền kinh tế thị trường là tất yếu. Tuy nhiên để phát triển bền vững cần có các điều kiện sau: - Tự do hoá nền kinh tế, mở rộng tự do cạnh tranh, phát huy tối đa thế mạnh của cơ chế thị trường tạo điều kiện phát triển KTTN phát huy được vai trò định hướng điều tiết của Nhà Nước bằng chiến lược và các công cụ chính sách. - Các nước có khu vực KTTN phát triển đã đạt được những thành công lớn trong phát triển kinh tế là các nước NIC, Tây Âu, các nước thuộc Châu Á Thái Bình Dương. Đây là những nước có khu vực KTTN phát triển năng động nhất. Hungary là nước đầu tiên ở Trung Âu thực hiện cải cách kinh tế và chính trị, tiên phong trong số các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện công cuộc cải cách sang nền kinh tế thị trường. Về mặt lịch sử, Hungary đã thực hiện những bước đi đầu tiên trong việc tự do hoá chính sách kinh tế của mình bằng việc đưa ra một “cơ chế kinh tế mới” với nhiều lần thử nghiệm cải cách vào năm 1953, 1956 và 1968. Hungary cũng là nước đầu tiên trong khối Đông Âu thực hiện tư nhân hoá trên cơ sở thị trường (kể cả khu vực mang tính chiến lược như năng lượng và ngân hàng). Những cải cách khu vực công (y tế, giáo dục) cũng bắt đầu được thực hiện. Hai thành quả quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi luôn được nhắc tới ở Hungary là: Tư nhân hoá và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chiến lược tư nhân hoá ở Hungary là bán tài sản của nhà nước theo nguyên tắc thị trường. Trong giai đoạn 90 -91 chỉ có 10% tổng số tài sản nhà nước được tư nhân hoá, trong giai đoạn 1992 – 1994 là hơn 40%. Năm 1989, thị phần của khu vực tư nhân tính theo GDP chiếm 18% nhưng tốc độ tư nhân hoá tăng lên, đến cuối năm 1993 khu vực KTTN đóng góp 50% GDP và cuối năm 1997 là 80%. Đến cuối 1990 quá trình tư nhân hoá coi như đã hoàn thành: Tài sản của nhà nước chỉ còn chưa đến 20% chủ yếu là trong ngành công nghiệp mang tính chiến lược. Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng nhất trong chuyển đổi thể chế do nó tạo ra cơ sở vật chất cho kinh tế thị trường, đồng thời tạo ra sự thay đổi tư duy về sở hữu (chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân). Nhờ có sự thống nhất giữa nhà nước và dân chúng nên quá trình tư nhân hoá ở Hungary diễn ra thuận lợi, không có xung đột gay gắt và kéo theo các chuyển đổi hoà bình khác trong xã hội. Trong số các nước Đông Âu, Hungary là nước thực hiện quá trình chuyển đổi sở hữu nhanh và toàn diện hơn cả. Trước năm 1990, hầu hết các phương tiện sản xuất đều nằm trong tay chính phủ: có 1850 doanh nghiệp nhà nước với tổng giá trị ghi trên sổ sách vào khoảng 20-25 tỷ USD (khoảng 3000 tỷ HUF theo tỷ giá hiện nay). Năm 1989 – 1990 lĩnh vực này đóng góp 10 – 15% GDP, hiện nay là 70-75% GDP, tỷ lệ này tương đương với các nước trong liên minh Châu Âu. Tuy nhiên quá trình tư nhân hoá ở Hungary không diễn ra đều đặn. Đầu thập kỷ 90, Hungary đã tiến hành tư nhân hoá những cơ sở kinh doanh nhỏ sau đó mới tiến hành tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn của nhà nước. Kinh nghiệm tư nhân hoá những doanh nghiệp nhỏ đã giúp cho việc tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn suôn sẻ. Quá trình chuẩn bị tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn thực hiện tốt do đã lựa chọn được đối tượng có đủ khả năng vật chất để tiếp tục duy trì hoạt động có hiệu quả trên cơ sở đổi mới công nghệ. Việc tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước lớn được thực hiện từ 1993 – 1996 (ngân hàng, doanh nghiệp ngành năng lượng… ) Tư nhân hoá ở Hungary được thực hiện đại trà từ 1993 – 1997. Năm 1994 do có bầu cử một số thay đổi cơ cấu chính trị nên quá trình tư nhân hoá chậm lại. Đỉnh cao của quá trình tư nhân hoá là năm 1995: 1/3 số doanh nghiệp được tư nhân hoá trong năm 1995, kể cả các ngành chiến lược như điện, năng lượng… Chính phủ Hungary đã xây dựng cơ sở pháp lý cho việc tư nhân hoá bằng việc ban hành một số luật. Luật công ty đảm bảo cơ sở cho các công ty cổ phần và các loại hình công ty hoạt động. Năm 1995, Hungary ban hành luật tư nhân hoá, luật tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Toàn bộ doanh nghiệp nhà nước của Hungary đều được chuyển sang hoạt động theo luật công ty trước khi tư nhân hoá. Từ năm 1992 – 1995, các quy định của nhà nước đã thay đổi nhiều lần: Nội dung điều chỉnh chủ yếu là những doanh nghiệp nhà nước cần duy trì mức sở hữu 50%, 60% hay 100%. Đến năm 1995 đã định nghĩa chính xác doanh nghiệp không tư nhân hoá bao gồm một số công ty dịch vụ công cộng, chiến lược hoặc quốc phòng. Hiện nay đã xác định nhà nước sẽ nắm giữ cổ phần lâu dài trong các công ty điện lực (duy trì mức sở hữu 51%) công ty bán buôn, bán lẻ dược phẩm, công ty thép và sẽ duy trì lâu dài sở hữu nhà nước trong 3 doanh nghiệp thuộc ngành năng lượng, 3 doanh nghiệp hàng không, 27 nông trường, 17 lâm trường, 24 doanh nghiệp giao thông liên tỉnh và một ngân hàng… Các hình thức tư nhân hoá ở Hungary được quy định rõ ràng trong luật tư nhân hoá cụ thể: - Đấu thầu công khai là hình thức chủ yếu được áp dụng. Hơn 90% tài sản nhà nước được tư nhân hoá thông qua đấu thầu công khai. Nhờ đó đã đạt được tính chất minh bạch rõ ràng. Trên thực tế, việc tư nhân hoá những công ty lớn được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư. - Thông báo bán công khai: Các điều kiện bán được thông báo để người mua biết bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán: Một phần nhỏ doanh nghiệp áp dụng hình thức này. Một thành quả lớn là có doanh nghiệp được đưa ra bán trên thị trường chứng khoán London và Newyork. Khi mới bắt đầu tư nhân hoá thông qua thị trường chứng khoán (1995), các tổ chức môi giới hưởng tỷ lệ 5 – 10% hoa hồng, đến năm 1999 tỷ lệ này giảm còn 1 – 1,5%. - Bán cho nhà đầu tư chiến lược: Hình thức này áp dụng đối với những doanh nghiệp có tầm quan trọng về quốc phòng hoặc chính trị đặc biệt hoặc có nguy cơ sẽ có đối thủ cạnh tranh mua lại nhằm mục đích thôn tính chiếm lĩnh thị trường. Chỉ có 1-2 trường hợp thông qua mời thầu (an ninh, quốc phòng). - Bán gọn, bán trả góp, khoán, cho thuê lâu dài đối với các nhà quản lý và tập thể cán bộ công nhân viên doanh nghiệp đối với mỗi doanh nghiệp nhỏ: Hình thức này không thành công nên không phổ biến. Hungary không áp dụng hình thức cho không tài sản, trừ trường hợp di chuyển tài sản từ trung ương cho chính quyền địa phương. Hungary không dùng phiếu chứng nhận (voucher) như Tiệp khắc, Ba Lan là đúng đắn vì đây chỉ là biện pháp phân chia lại tài sản của nhà nước; không phải là hình thức tư nhân hoá mang lại hiệu quả. Ý đồ của các nhà chính trị ở Hungary là chuyển tài sản vào tay những người có vốn và tiếp tục sử dụng tài sản đó vào sản xuất kinh doanh. - Phiếu đền bù: chủ yếu được phát hành cho những người bị thiệt hại trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa, được lấy từ tài khoản thu do tư nhân hoá. Trong luật tư nhân hoá quy định các đối tượng không được phép tham gia mua cổ phần, nhưng về cơ bản không hạn chế đối tượng mua cổ phần. Do trước thời kỳ xã hội chủ nghĩa không có tư sản tư nhân nội địa để tham gia mua tài sản này, do người Hungary nghèo nên chỉ tham gia những lĩnh vực yêu cầu ít vốn như thương nghiệp bán lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không những thế những doanh nghiệp này chỉ có khả năng tồn tại chứ không để đổi mới công nghệ do thiếu vốn. Hungary không có chiến lược quá ưu đãi cho người mua nội địa thông qua phiếu đền bù và tín dụng ngân hàng. Hungary có chương trình cổ phần hoá cho người lao động nhưng thực ra quy mô không lớn vì tư nhân hoá nhằm mục tiêu hiệu quả và chọn đối tượng có vốn nhiều nhất. Hungary có chính sách khuyến khích người nước ngoài tham gia cổ phần hoá. Khoảng 60 -62% tài sản doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá cho người nước ngoài. Sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 30% GDP. Tuy nhiên trong quá trình tư nhân hoá ở Hungary nổi lên một vấn đề quan trọng là nợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước và nợ ngân hàng rất lớn. Sau đây là hình ảnh mà khu vực kinh tế tư nhân Hungary có được trong những năm cuối 1980. Bảng 1.1: Tăng trưởng công nghiệp tư nhân vừa và nhỏ và của thương nghiệp bán lẻ tư nhân ở Hungary. Năm Số lượng thợ thủ công làm riêng(%) Số công nhân của các thợ thủ công(%) Số tư thương bán lẻ (%) Số lao động của các tư thương (%) 1984 100 100 100 100 1985 104. 8 108. 1 113. 7 121. 5 1986 108. 4 116. 1 113. 7 121. 5 1987 110. 8 183. 1 142. 1 169. 5 1988 121. 1 263. 3 154. 2 188. 1 1989 125. 8 346. 3 176. 9 208. 8 Nguồn: K. Balazs và M. laki (199. trang504) Số liệu trên cho thấy khu vực KTTN ở Hungary có tốc độ tăng trưởng khá nhịp nhàng năm sau luôn cao hơn năm trước điều đó thể hiện khu vực KTTN vừa và nhỏ này đang được để ý và phát triển. Tuy nhiên đa số các xí nghiệp là những doanh nghiệp tư bản nhỏ, các xí nghiệp tư bản quy mô vừa cũng nổi lên nhưng có thưa thớt. Các xí nghiệp tư bản quy mô lớn cũng được phát triển nhưng số lượng rất ít. Để cho việc hình thành các xí nghiệp tư bản quy mô vừa và lớn có thể trở thành phổ biến hơn, đất nước, trên phương diện chính trị, phải tiến tới cách mạng dân chủ và bước vào giai đoạn hậu xã hội chủ nghĩa hoặc ít nhất cũng đạt trạng thái trong đó các yếu tố của quá trình cải cách và của sự thay đổi cách mạng và hệ thống đã được hoà quyện vào nhau. Xác định cho mình các yếu tố cơ bản đó. Hungary bắt đầu chuyển đổi kinh tế vào những năm 1990. Trong quá trình chuyển đổi, nước này rất chú trọng phát triển KTTN, xoá bỏ ý tưởng sở hữu Nhà nước phải giữ ưu thế, thiết lập một nền kinh tế thị trường tự do. Hungary đã lựa chọn con đường phát triển hữu cơ của khu vực KTTN bằng cách tạo điều kiện cho sự phát triển từ dưới lên trên của khu vực tư nhân bằng cách xoá bỏ những rào cản, cản t._.rở sự phát triển vủa khu vực kinh tế này, phải tôn trọng sở hữu tư bản, đưa ra các chính sách hỗ trợ cho khu vực KTTN phát triển, thực hiện quá trình tư nhân hoá các công ty thuộc sở hữu nhà nước không hiệu quả băng cách bán cho tư nhân trong và ngoài nước, các doanh nghiệp không có khả năng tồn tại thì cho phá sản, có hệ thống pháp luật rõ ràng, đồng bộ tạo hành lang pháp lý cho khu vực KTTN phát triển, thực hiện ràng buộc ngân sách đối với các doanh nghiệp thuộc khu vưc tư nhân . Với các chính sách đó, KTTN của Hugarry đã có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu to lớn hàng năm doanh nghiệp tư nhân mới xuất hiện, đồng thời các doanh nghiệp yếu kém lại đào thải, giải quyết nhiều công ăn việc làm, kích thích tính cạnh tranh trong nền kinh tế, hoàn thiện thị truờng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. * Trung Quốc: Bước vào đột phá Trung Quốc hướng vào kinh doanh hộ gia đình quy mô nhỏ và đặc biệt trong nông nghiệp. Tầm quan trọng của các hộ kinh doanh qui mô ngoài nông nghiệp cũng đã tăng lên rất đáng kể ( số liệu dưới đây sẽ cho ta thấy điều này). Bảng 1. 2: Sự phát triển khu vưc tư nhân phi nông nghiệp. Năm 1981(nghìn) 1988(nghìn) 1988/1981(%) Số các xí nghiệp tư nhân 1829 14527 794 Số lao động trong xí nghiệp tư nhân 2274 23049 1. 014 Nguồn: Beijing Review,27-2-1989 và Peoples Daily 11-3-1989 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu được thừa nhận thấy trong hình thức này là sửa chữa và bảo dưỡng, vận chuyển hành khách và hàng hoá, xây dựng, thương nghiệp bán lẻ, ăn uống, và các dịch vụ khác. Trung Quốc có rất nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, trước đây Trung Quốc đã xây dựng nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và sự kém phát triển, trì trệ là không tránh khỏi. Sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, vai trò KTTN trong nền kinh tế thị trường đã làm cho Trung Quốc “thay da đổi thịt” nền kinh tế. Có thể nói thay đổi quan trọng nhất trong nền kinh tế Trung Quốc những năm 90 là việc tư nhân hoá. Theo thống kê, 80% doanh nghiệp do nhà nước sở hữu từ cấp huyện trở xuống đã được tư nhân hoá. Các chương trình tư nhân hoá đều do chính quyền địa phương khởi xướng với lý do quan trọng nhất là số nợ của khu vực nhà nước đang dần lớn lên. Năm 1995, chính quyền Trung ương sau nhiều lần khảo sát điều tra đã đưa ra chính sách “nắm lớn, thả nhỏ” theo đó nhà nước chỉ chú trọng vào từ 500 – 1000 doanh nghiệp lớn và cho thuê hoặc bán các doanh nghiệp nhỏ hơn. Đến năm 1997, 500 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất đã nắm giữ 37% tổng số của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, nộp 46% tổng số thuế các doanh nghiệp nhà nước phải nộp và chiếm 63% tổng số lợi nhuận trong khu vực nhà nước. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhỏ hơn do các chính quyền địa phương nắm giữ lại rất thấp. Năm 1995, chỉ có 24,3% doanh nghiệp tư nhân là đội mũ đỏ trong khi có tới 72,5% doanh nghiệp địa phương đội mũ đỏ. Từ chính sách “thả nhỏ” đã xuất hiện thuật ngữ “thay đổi sở hữu”. Kể từ năm 1994, thuật ngữ này đã trở nên phổ biến trên toàn đất nước. Nội dung của “thay đổi sở hữu” bao hàm cả khoán và cho thuê, hai biện pháp được sử dụng trước đây và các biện pháp như bán, chuyển thành công ty do người lao động nắm giữ hay chuyển thành hợp tác xã. Chính sách này đã có tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp đội mũ đỏ. Tính đến 2001 khu vực KTTN của Trung Quốc đẵ đóng góp 50% vào GDP, thu hút trên 20 triệu lao động, góp 40.1% vào tổng giá trị sản lượng công nghiệp. - Hình ảnh cơ cấu đa sở hữu: Từ chỗ trong nền kinh tế chỉ tồn tại sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể thì cho đến nay Trung Quốc công nhận sự tồn tại của đa loại hình sở hữu và kinh tế nhiều thành phần. - Đổi mới quản lý nhà nước tạo dựng môi truờng pháp lý cho KTTN bằng cách xây dựng một hành lang pháp lý thuận lợi khuyến khích cho khu vực tư nhân phát triển như xây dựng luật doanh nghiệp cá thể, luật công ty hợp danh, luật công ty …vv - Mở cửa thị trường cho doanh nghiệp tư nhân, sau khi gia nhập WTO thị trường Trung Quốc đã mở cửa cho nhiều đối tác nước ngoài và khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hội nhập. Tuy nhiên một số lĩnh vực mà các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được phép tham gia như tài chính, thị trường đất đai, trước sự khôi phục nhanh chóng của khu vực tư nhân Trung Quốc cho rằng phải nhanh chóng có các chính sách mở cửa các lĩnh vực này để doanh nghiệp tư nhân có thể tham gia phá vỡ thế độc quyền nhà nước. - Thúc đẩy sự hình thành và ra đời các tổ chức trung gian để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, quan hệ với các cơ quan công quyền, đào tạo thu thập thông tin, duy trì trật tự thị trường. Một số vấn đề cần tiếp tục được giải quyết trong phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc: Về tài chính có 3 cách để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn tài chính: vay phi chính thức, vay từ ngân hàng và huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Tính phi chính thức của doanh nghiệp tư nhân (cái cản trở tiềm năng phát triển kinh tế tư nhân) - Các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thực hiện ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ, nhiều trường hợp doanh nghiệp tư nhân cố ý sử dụng mánh khoé trong việc ghi chép và lưu trữ nhiều loại sổ sách kế toán. - Doanh nghiệp tư nhân dường như không có ý thức tuân thủ pháp luật. - Các doanh nghiệp tư nhân không có cơ chế quản lý nội bộ hợp lý, không minh bạch rõ ràng. - Các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa đánh giá đúng nguồn vốn con người. Chẳng hạn 80 doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp tư nhân thường trả một mức lương thấp cho các sinh viên mới tốt nghiệp. Trên đây là kinh nghiệm của một số nước có nền kinh tế tương đồng như Việt Nam. Trước đây các nước này đều theo cơ chế tập trung. Sau khi đổi mới họ đã nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân và đã kịp thời nắm bắt cơ hội đó bằng những chính sách phù hợp với KTTN bước đầu đã tạo ra những thành công đáng kể. 1.3.2 Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân cho Việt Nam: Trong bối cảnh hiện nay trên thế giới, khi mà nền kinh tế đang trong tiến trình toàn cầu hoá, khu vực hoá…. Khi mà vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đang ngày một chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế các nước trên thế giới thì đối với Việt Nam hiện nay cũng đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần thấy được vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế đất nước mà cũng phải tham khảo kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới. Dưới đây là một số kinh nghiệm, bài học Việt Nam cần rút ra cho quá trình phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Thứ nhất : Thống nhất nhận thức, quan điểm về kinh tế tư nhân. Từ kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Hungary và Trung Quốc chúng ta có thể thấy rằng khu vực kinh tế tư nhân hoàn toàn có thể phát triển năng động trong môi trường kinh tế thị trường. Đảng cộng sản, Nhà nước hoàn toàn có khả năng quản lý, giám sát và định hướng sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Có một thực tế là ở Việt Nam và Trung Quốc cam kết chính trị gần như đóng vai trò quyết định cho sự phát triển kinh tế tư nhân. Tại Trung Quốc khu vực tư nhân đã phát triển mạnh mẽ sau chuyến công du của Đặng Tiểu Bình. Tuyên bố của ông đã có tác động mạnh mẽ hơn nhiều các đạo luật, chính sách, đã thực sự giải phóng tư tưởng, tâm lý và những vướng mắc cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân lúc đó. Với Việt Nam, chúng ta cần thống nhất nhận thức rằng khu vực tư nhân thực sự là động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng, là khu vực chủ yếu giải quyết việc làm, phát huy mọi tiềm lực của người dân. Để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân năng động này Việt Nam cần những cam kết từ phía Đảng và Chính phủ để giải phóng tư tưởng đối với kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân không là “mầm mống của bạo loạn”, “nguyên nhân gây mất ổn định chính trị, xã hội” mà đã “góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội đất nước”, “những Đảng viên đang làm chủ doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt điều lệ Đảng và Pháp luật, chính sách của nhà nước thì vẫn là Đảng viên của Đảng”. Vấn đề tiếp theo là quan niệm về sự “bóc lột”. Chúng ta không thể coi một doanh nhân bỏ vốn đầu tư tạo việc làm mang lại thu nhập ổn định cho người lao động đồng thời phải chịu rủi ro trong kinh doanh là bóc lột. Thứ hai: Cải cách doanh nghiệp nhà nước: Khi chuyển đổi sang kinh tế thị trường, một trong những nội dung quan trọng mà các nước chuyển đổi phải thực hiện là xây dựng khu vực kinh tế tư nhân lớn mạnh. Do đó, vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước là mục tiêu hàng đầu. Việc kết hợp cải cách doanh nghiệp nhà nước với phát triển kinh tế ngoài quốc doanh phụ thuộc trước hết vào định hướng chiến lược của quốc gia về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân. Đối với các nước chuyển đổi ở Đông Âu như Hungary thì định hướng chiến lược phát triển kinh tế của họ là dựa hẳn vào khu vực kinh tế tư nhân. Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước được coi là trọng tâm hàng đầu. Do vậy cần sắp xếp lại và thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Định hướng chiến lược hoặc sự điều chỉnh có tính chiến lược đối với hai khu vực kinh tế của Trung Quốc được thực hiện theo hướng “nắm lớn, thu nhỏ”, kinh tế nhà nước phải nắm giữ chi phối những ngành nghề lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Cải cách doanh nghiệp nhà nước điều quan trọng là phải tiến hành đồng thời các chính sách phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ngay từ khi bắt đầu các chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước tất yếu dẫn đến chuyển dịch lao động giữa khu vực nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Do đó phải có chính sách hỗ trợ người lao động tìm kiếm việc làm mới ở khu vực ngoài quốc doanh. Việt Nam tuy đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nền kinh tế nhiều thành phần coi trọng sự phát triển của KTTN song trong bước đi còn rụt rè, nên đóng góp của khu vực này còn rất hạn chế so với các nước khác. Do vậy chúng ta phải mau chóng nhìn nhận khách quan thực tiễn trong và ngoài nước để đẩy mạnh KTTN phát triển đúng với tiềm năng của nó, để đưa nền kinh tế vào đúng quỹ đạo của nền kinh tế toàn cầu. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM 2. 1. QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TỪ 1986 ĐẾN NAY. Giai đoạn trước đổi mới(1986) do các yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến quan điểm, nhận thức của Việt Nam về khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế, không thấy được vai trò của KTTN đối với nền kinh tế, cũng như chưa thấy được sự tồn tại của KTTN là một sự khách quan, là một đòi hỏi tất yếu của lịch sử phát triển của nhân loại. Giai đoạn này nhìn chung KTTN không được thực sự thừa nhận, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh, thường không có tư cách pháp nhân chắc chắn và hoạt động chủ yếu ở thị trường ngầm. Tuy nhiên đến cuối thập kỷ 80, có rất nhiều thương nhân hoạt động khắp đất nước và nhiều hoạt động tư nhân quy mô nhỏ ở cả khu vực nông thôn và thành thị, mặc dù họ không được chấp nhận chính thức. Chính tư tưởng không đúng đắn này đã làm cho nền kinh tế ngày càng khủng hoảng và suy sụp, nền kinh tế tiêu điều, đời sống nhân dân ngày càng đi xuống. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chính sách cấp bách nhằm cứu vãn tình hình. Những chính sách này đã tạo điều kiện cho KTTN hồi sinh và phát triển trở lại và ngày một khẳng định vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân. Cụ thể: số hộ kinh doanh tăng từ khoảng 0.84 triệu năm 1990 lên 2.2 triệu hộ năm 1996 và 3 triệu hộ tính đến cuối 2004, ngoài ra cả nước còn có khoảng 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Như vậy là thấy được rằng sự phục sinh của khu vực KTTN là một yếu tố khách quan của nền kinh tế. Năm 1986 là mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi về quan điểm, nhận thức của Đảng ta về KTTN. Năm 1985, mặc dù về hình thức, kinh tế xã hội chủ nghĩa gồm hai thành phần là quốc doanh và tập thể vẫn giữ tuyệt đối trong nền kinh tế. Song do đã xuất hiện những hạn chế, những yếu kém của nền kinh tế giai đoạn này mà hai thành phần kinh tế trên không thể khắc phục. Nền kinh tế lúc này rơi vào khủng hoảng và sa sút nghiêm trọng, lạm phát gia tăng, sản xuất đình trệ, đời sống dân cư khó khăn. Lúc này đã xuất hiện các quan điểm mới về đổi mới nền kinh tế. Tất cả các yếu tố khách quan và chủ quan đó đã dẫn đến một dấu ấn quan trọng trong nhận thức của Đảng ta, đó là đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế. Đây là giai đoạn đánh dấu những thay đổi căn bản trong nhận thức về KTTN, sự đổi mới đó của Đại hội là xác định mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó thị trường tự do và những người sản xuất thuộc khu vực tư nhân được chấp nhận như là những bộ phận không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế. Dưới đây là những điểm đổi mới trong tư duy từ Đại hội Đảng lần thứ VI: Thứ nhất: Đại hội xác định cơ chế thị trường có thể và cần phải cùng tồn tại trong xã hội chủ nghĩa. Thứ hai: thừa nhận vai trò chủ thể độc lập của doanh nghiệp và các hộ gia đình. Thứ ba: xác định kinh tế tư nhân là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, là chủ thể kinh tế khác trong quan hệ cạnh tranh. Các quan điểm này đã được Đảng hoàn thiện trong các kì Đại hội Đảng tiếp theo là Đại hội VII, VIII và IX. Mục tiêu kinh tế thị trường của Việt Nam được xác định là: Xây dựng nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau thời kì đổi mới này Việt Nam đã áp dụng nhiều chính sách quan trọng và đồng bộ để xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang kinh tế thị trường. Trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta, Đại hội IX đã xác định “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”, kinh tế cá thể tiểu chủ được nhà nước tạo điều kiện, giúp đỡ để phát triển, kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Quán triệt nghị quyết Đại hội IX của Đảng để phát triển mạnh mẽ tiềm năng to lớn của khu vực KTTN cần khuyến khích KTTN phát triển, không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh tạo thêm nhiều việc làm, có mức tăng trưởng bình quân hàng năm cao hơn, đầu tư nhiều hơn vào khu vực sản xuất tham gia ngày càng nhiều vào hoạt động công ích, sản xuất ngày càng nhiều các sản phẩm xuất khẩu, hợp tác dân doanh với nhau, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt từ ngày 18/2—2/3/2002 Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá IX đã thông qua 5 nghị quyết quan trọng trong đó có việc khẳng định: “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN” là một trong những lĩnh vực quan trọng, bức thiết mà thực tiễn đặt ra yêu cầu cần phải giải quyết để cụ thể hoá quan điểm của Nghị quyết Đại hội IX. Năm nhiệm vụ được đề ra và cần được giải quyết là: Thống nhất về quan điểm chỉ đạo phát triển KTTN, coi KTTN là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của công dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động. Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển của KTTN. Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển, tiếp tục tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có chú ý đến các chính sách: chính sách đất đai, tài chính-tín dụng, chính sách lao động tiền lương, chính sách hỗ trợ về đào tạo khoa học công nghệ, chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại. Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước nhằm xác định rõ chức năng quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội kinh doanh đối với việc phát triển KTTN. Ngoài ra thời kỳ này cần kể đến các chính sách, văn bản khác như: Sửa đổi hiến pháp năm 1992 khẳng định sự bảo hộ hợp pháp của nhà nước đối với KTTN, cho phép KTTN được thành lập doanh nghiệp không hạn chế về quy mô hoạt động trong phạm vi những ngành nghề pháp luật không cấm, có lợi cho đất nước. Luật khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc hội thông qua ngày 22/6/1994 và được sửa đổi năm 1998 đã tạo điều kiện thuận lợi và ưu đãi cho đầu tư thuộc tất cả các thành phần kinh tế, Nghị định 66/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng ngày 3/12/1992 về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn nhỏ hơn vốn pháp định nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư kinh doanh góp phần giải quyết việc đảm bảo lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, đồng thời tăng cường hiệu lực pháp lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế; Luật thương mại có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 là văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết luật thương mại về xuất khẩu và hoạt động gia công và mua bán hàng hoá của những thương nhân có giấy phép đã cải thiện đáng kể các điều kiện tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu của khu vực tư nhân. Chính sách thương mại mở cửa và đầu tư trực tiếp nước ngoài là những nhân tố quyết định đổi mới kinh tế, đóng góp đáng kể vào sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam; Luật đất đai được ban hành đầu tiên vào ngày 29/12/1987, đã thay thế bằng đạo luật mới ban hành ngày 14/7/1993 và được sửa đổi vào ngày 2/12/1998 đã xác định rõ ràng và cụ thể hơn người sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, kéo dài thời gian cho thuê đất đa tạo điều kiện cho khu vực tư nhân yên tâm đầu tư hơn; Nhà nước đã có những nỗ lực quan trọng trong việc đổi mới chính sách khoa học công nghệ, luật khoa học công nghệ được Quốc hội thông qua ngày 9/6/2000 xác định rõ khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh bền vững. Khoa học công nghệ thành nhân tố quyết định giúp cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN nói riêng vượt qua khó khăn, kinh doanh có hiệu quả và sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường; chính sách thuế đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường và tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt kể từ khi Luật doanh nghiệp ra đời năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 thay thế cho luật công ty và luật doanh nghiệp KTTN mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Luật doanh nghiệp đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, thúc đẩy cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi và khuyến khích thúc đẩy các nguồn nội lực, cụ thể hoá và phát triển các nguyên tắc tự do kinh doanh theo pháp luật. Ngoài ra còn có các văn bản liên quan khác ra đời như: Nghị định 02/2000/NĐ_CP ngày 3/2/2000 về hướng dẫn một số điều của luật doanh nghiệp, Nghị định 03/2000/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh ,quyết định 19/2000/TTg về việc bãi bỏ 84 loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề tạo điều kiện về mặt hành chính cho các doanh nghiệp…Tất cả những chủ trương chính sách này đã thực sự cởi trói, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt giúp KTTN có điều kiện phát triển trong thời gian tới. 2.2 THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY. 2.2.1 Sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ đổi mới đến nay: Trước đổi mới, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh, thường không có tư cách pháp nhân chắc chắn và hoạt động chủ yếu ở thị trường ngầm. Tuy nhiên đến cuối thập kỷ 80, có rất nhiều thương nhân hoạt động khắp đất nước và có nhiều hoạt động tư nhân quy mô nhỏ ở cả khu vực nông thôn và thành thị, mặc dù hầu hết họ không được chấp nhận chính thức. Số hộ kinh doanh tăng từ khoảng 0,84 triệu năm 1990 lên 2,2 triệu hộ năm 1996 và 3 triệu hộ tính đến cuối năm 2004. Ngoài ra, cả nước còn có khoảng 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá. *Về doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân: Sau khi Luật công ty được phê chuẩn năm 1990, số lượng các công ty tư nhân tăng lên nhanh chóng. Năm 1991 chỉ có 414 doanh nghiệp thì đến năm 1992 là 5189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15276 doanh nghiệp, năm 1999 là 28700 doanh nghiệp. Trong giai đoạn 1991—1999, bình quân mỗi năm tăng thêm 5000 doanh nghiệp . Luật doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 là một khâu đột phá thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của KTTN. Bảng 2. 1 Số doanh nghiệp đăng ký mới. Loại hình doanh nghiệp 1991-1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 DNTN 26. 708 2. 427 6. 412 2. 229 6. 532 7. 085 10. 246 Cty TNHH 12. 163 3. 147 7. 304 7. 179 12. 627 15. 120 20. 145 Cty cổ phần 316 208 726 1. 243 2. 305 3. 715 6. 470 DNHD 2 0 0 1 7 Cty TNHH một thành viên 0 0 59 88 125 Tổng 39187 5. 782 14. 444 21. 040 21. 523 26. 009 36. 993 Nguồn :Trung tâm thông tin doanh nghiệp – Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2005. Sự bùng nổ tức thời trong 4 năm qua là khá dữ dội. Sau 5 năm thi hành luật doanh nghiệp đến cuối năm 2004 đã có gần 110.000 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký lên khoảng 155.000 doanh nghiệp tư nhân. Số doanh nghiệp đăng ký trung bình mỗi ngày hiện nay bằng mỗi năm hiện nay bằng 3,75 lần so với trung bình hàng năm của thời kỳ 1991 – 1999. Số doanh nghiệp mới đăng ký trong 5 năm (2000 – 2004) ước cao gấp 2 lần so với 9 năm trước (1991 – 1999) tăng bình quân 25,6% trên một năm. Không chỉ số lượng các doanh nghiệp tăng nhanh mà quy mô trung bình và phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp cũng được mở rộng. Tốc độ tăng trưởng sản lượng của khu vực tư nhân trong nước đã vượt cả khu vực doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể từ năm 2000. Mặc dù vậy, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn còn tương đối nhỏ, có đến 96% doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa theo tiêu chí được xác định tại Nghị định 90 / 2001/NĐ - CP. Tỉ trọng đầu tư của khu vực KTTN tổng đầu tư toàn xã hội tăng qua các năm: Năm 2000 là 20%, năm 2001 là 23%, năm 2002 là 25,3%, năm 2003 là 27%, và năm 2004 là 32%. Tốc độ tăng các doanh nghiệp tư nhân là rất khác nhau. Tại 18 tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Tây Nguyên và miền Nam Trung Bộ có số doanh nghiệp đăng ký trong thời kỳ 2000 – 2002 thấp hơn nhiều so với thời kỳ 1991 – 1999, chẳng hạn Trà Vinh bằng 21% so với thời kỳ 1991 – 1999, Bến Tre, Đồng Tháp bằng 36%, Kiên Giang bằng 41%. Trong khi đó ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Bắc Cạn, Lai Châu … Số doanh nghiệp mới đăng ký gấp 4 đến 8 lần so với thời kỳ 1991 – 1999. Trong số các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất: Doanh nghiệp tư nhân chiếm 55,76%, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 33,68%, công ty cổ phần chiếm 2,55%, công ty hợp doanh chiếm 0,01%. Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước về số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với 12.445 doanh nghiệp mới đăng ký, tổng vốn huy động 15. 158 tỷ đồng và hơn 68.000 chi nhánh, văn phòng đại diện. Hà Nội cũng được coi là một trong số các địa phương có số lượng doanh nghiệp đăng ký nhiều nhất. Nếu như giai đoạn 1992 – 1999 thực hiện luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty, trên địa bàn thành phố Hà Nội có khoảng 4.449 doanh nghiệp ra đời, thì trong ba năm thực hiện luật doanh nghiệp Hà Nội có thêm 9.311doanh nghiệp mới đăng ký. Cũng trong thời gian này, có hơn 9.700 lượt doanh nghiệp đăng ký sửa đổi nội dung đăng ký kinh doanh, trong đó có 2.163 lượt doanh nghiệp đăng ký tăng vốn với tổng vốn đăng ký là 4.000 tỷ đồng. Bên cạnh của sự tăng lên mạnh mẽ của các doanh nghiệp đăng ký, quy mô doanh nghiệp cũng có xu hướng tăng lên. Mức vốn đăng ký trung bình của một doanh nghiệp thời kỳ 1991 – 1999 là gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ, năm 2001 là 1,3 tỷ, năm 2002 đạt 1,8 tỷ và năm 2003 là 2,6 tỷ. Doanh nghiệp có vốn đăng ký thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ đồng. Mức vốn đăng ký trung bình thấp cả nước là các doanh nghiệp ở Quảng Nam với khoảng 422 triệu đồng, Hưng Yên gần 3 tỷ đồng. * Về hộ kinh doanh cá thể: Ngay sau khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường KTTN đã bắt đầu có những bước khởi sắc, đó là từ những năm 1990. Đây là thời kỳ KTTN có sự phát triển khá nhanh, đặc biệt là hộ kinh doanh cá thể. Tính đến năm 2000 cả nước có 9.793.878 hộ, trong đó có 7.656.165 hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xã, 2.137.713 hộ kinh doanh phi nông nghiệp. Năm 2002, cả nước có 2.625.744 hộ trong đó kinh doanh phi nông nghiệp chiếm 90%; trong công nghiệp là 729.707 hộ chiếm 27,8 %, trong lĩnh vực xây dựng là 198. 025 hộ chiếm 62,6%. Qua số liệu trên ta thấy số hộ kinh doanh sản xuất phi nông nghiệp ngày càng tăng. Tính đến 31/12/2004 cả nước có 3.015.144 hộ kinh doanh cá thể trong đó kinh doanh trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn 93%, công nghiệp là 811.233 hộ chiếm 31,1%, trong xây dựng là 212.042 hộ chiếm 8,12%, trong dịch vụ là 1.941.323 hộ chiếm 70%. Qua các số liệu trên ta thấy, số hộ kinh doanh cá thể ngày càng tăng nhanh, đặc biệt là trong sản xuất kinh doanh. Nếu như năm 2002, cả nước có 2.265.744 hộ sản xuất kinh doanh thì đến 2004 cả nước đã có 3.125.832 hộ tăng 19.04%. Số hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp trong các tỉnh có tốc độ tăng không đồng đều, tập trung nhiều nhất là thành phố Hồ Chí Minh với 184. 463 hộ, Hà Tây: 87.280 hộ, Đồng Tháp: 95.049 hộ, Hà Nội: 92.302 hộ, Thanh Hoá 66.777 hộ…. Ngược lại với số hộ kinh doanh trong lĩnh vực phi nông nghiệp ngày một tăng nhanh về số lượng thì trong lĩnh vực nông nghiệp lại có xu hướng giảm xuống. Kể từ năm 1995 sự giảm xuống này được thể hiện rất rõ. Nếu như năm 1995 cả nước có 934.751 hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp thì đến năm 2002 con số này giảm xuống còn 53.487 hộ. Năm 1995 – 2000 số hộ tham gia vào nông nghiệp giảm 71,1%. Điều này cho thấy sự thay đổi trong cơ cấu kinh doanh, số hộ kinh doanh cá thể trong lĩnh vực phi nông nghiệp ngày một tăng, ngược lại là sự giảm số hộ trong lĩnh vực nông nghiệp, con số này còn giảm mạnh cụ thể đến năm 2004 chỉ còn 30.387 hộ giảm 43.2%. * Sự phân bố của khu vực KTTN theo lĩnh vực kinh doanh: Trước khi Luật doanh nghiệp ra đời, hầu hết các doanh nghiệp của khu vực KTTN đăng ký hoạt động trong thương mại chiếm 61%, 26% hoạt động trong lĩnh vực chế tạo và chế biến, và 3% trong lĩnh vực xây dựng; còn lại là các nghành dịch vụ và kinh doanh chung. Luật doanh nghiệp ra đời đã tác động tích cực đến việc lựa chọn lĩnh vực ở các doanh nghiệp của khu vực KTTN, mặc dù tỷ lệ trong lĩnh vực chế tạo và các dịch vụ khác đã tăng lên. Hiện nay khoảng 42,7% các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, 31.4% trong công nghệ và xây dựng, 3.9% trong nông nghiệp, và 21.9% trong các dịch vụ khác và kinh doanh chung, cụ thể : Trong nông nghiệp: Năm 1995 các hộ sản xuất kinh doanh cá thể có khoảng 12 triệu hộ thì số hộ trong nông nghiệp là 9.5 triệu hộ chiếm 79%, hộ thuỷ sản 22.9 vạn hộ chiếm 1.9%, hộ công nghiệp 16 vạn hộ chiếm 1.33%, 38 vạn hộ trong thương nghiệp chiếm 3.16%, khoảng 1.4 vạn hộ dịch vụ chiếm 12.5 %. Đến 1/7/2002 số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể là 2.625.744 hộ giảm 48% so với 1995. Trong đó hộ công nghiệp là 729.704 hộ chiếm 7.5%, hộ thương nghiệp, khách sạn –nhà hàng du lịch là 1.644.534 hộ. Như vậy số hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp đã giảm đáng kể so với năm 1995. Tỷ trọng hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp là 79% đến năm 2002 tỷ trọng giảm 2.1% . Tính đến 31/12/2004 số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể là 2.125.321 hộ kể từ 2002 –2004 tỷ trọng hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp giảm không đáng kể. Nhờ những chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong nông nghiệp là chỗ dựa vững chắc để các hộ kinh doanh nông nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh và vốn đầu tư hình thành các trang trại. Đây là một mô hình mới của kinh tế tư nhân trong nông nghiệp. Trang trại là hình thức tổ chức kinh tế tương đối lớn, hoạt động trong lĩnh vực nông –lâm – ngư nghiệp. Tháng 10/2001 cả nước có 60.758 trang trại so với 55.825 trang trại năm 2000 tăng 7.78%. Các trang trại sử dụng 69.259 ha đất lâm nghiệp, 233.810 ha đất nông nghiệp và 664.458 ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Hầu hết các trang trại tạo lập từ nguồn vốn của gia đình, bình quân là 136.5 triệu đồng với lao động chủ yếu là gia đình. Tháng 10/2004 cả nước có 79.852 trang trại so với 60.788 trang trại năm 2002 tăng, các trang trại sử dụng 71.859 ha đất lâm nghiệp, 313.810 đất nông nghiệp và 69.115 ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản so năm 2002 thì tỷ trọng đầu tư vào trang trại tăng nhẹ, với sự ra đời của các trang trại đã làm cho KTTN trong nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp phát triển mạnh góp phần giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp . Trong công nghiệp: Kinh tế tư nhân trong công nghiệp đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển mạnh của công nghiệp cả nước nói chung. Năm 1995, giá trị sản lượng công nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân là 20.468 tỷ đồng. Năm 2001 tăng lên là 30.544.4 tỷ đồng, tăng 49.2%, chiếm 43.6% giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước. Từ năm 2000 tốc độ tăng về giá trị sản xuất công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh đã có bước nhảy vượt bậc, từ 10.9% năm 2000 lên 18.3% năm 2001và 20.3% năm 2002 cao hơn hẳn so với khu vực kinh tế nhà._.h phí để đầu tư cho công tác thông tin như đào tạo cán bộ, trang thiết bị hiện đại…Các thông tin doanh nghiệp thu thập được thường không đầy đủ và chính xác do thu được từ nhiều nguồn khác nhau. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn và xác định thông tin đúng. * Chính sách thuế chưa hợp lý: Ở bất kỳ quốc gia nào, chính sách thuế đều có vai trò đòn bẩy khuyến khích và điều chỉnh sản xuất. Song, chính sách thuế của Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất và khuyến khích doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp tư nhân. Đôi khi có loại thuế lại kìm hãm sản xuất. Cụ thể là: Thứ nhất: sự không nhất quán trong việc xác định chi phí hợp lý và chi phí thực để tiến hành khấu trừ từ hàng hoá chịu thuế và thuế lợi nhuận bổ sung gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai: mức lương tại các doanh nghiệp Nhà nước được xem là chi phí thực phù hợp với mức giá thống nhất ban hành. Thứ ba: Trong trường hợp có thu nhập phụ phải nộp thuế bổ sung, điều này doanh nghiệp Nhà nước có lợi thế hơn. Thứ tư: Bên cạnh các pháp lệnh và luật về thuế còn nhiều quy định văn bản khác, chính sách thuế thường xuyên thay đổi ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ năm: Thực tế áp dụng thuế VAT ở nhiều nước cũng như ở Việt Nam chỉ ra rằng quá nhiều mức thuế sẽ tạo ra khó khăn bất tiện khi xác định mức thuế đối với mỗi mặt hàng và đối tượng chịu thuế cũng như khi tính thuế. Thứ sáu: Thực tế của việc thu lệ phí được quy định ở nhiều văn bản thuộc nhiều cấp khác nhau và việc thu bất hợp pháp đang gây rối cho hoạt động của các doanh nghiệp. * Thiếu cơ chế tạo sự ủng hộ của xã hội đối với KTTN. Các quan điểm, văn kiện Đại hội Đảng đều thể hiện sự nhất quán trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Song, trên thực tế vẫn tồn tại sự e ngại với sự phát triển của KTTN, do các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này chưa thực sự tạo được lòng tin cho xã hội. Những hiện tượng doanh nghiệp làm ăn phi pháp, kinh doanh không hiệu quả vẫn còn khá phổ biến. Trong khi đó nhận thức cũ về KTTN vẫn tồn tại trong dân, chưa thể sớm khắc phục. * Thủ tục hành chính chưa thực sự cởi mở, môi trường thể chế chưa tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Môi trường thể chế có tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng nhất định tới quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó thể chế chính trị giữ vai trò quan trọng nhất, nó định hướng, chi phối toàn bộ hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động kinh doanh. Hệ thống pháp luật được xây dựng trên nền tảng định hướng chính trị nhằm chi phối những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ Hiện nay, môi trường kinh doanh còn thiếu lành mạnh, cạnh tranh thiếu bình đẳng, tồn tại nhiều hoạt động gian lận thương mại cũng như tiêu cực do bộ máy quản lý kém gây ra đã đẩy khu vực KTTN vào tình thế bất lợi. Hệ thống pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Tình trạng văn bản pháp luật còn thiếu đồng bộ, không nhất quán đã làm cho các doanh nghiệp có tâm lý không tốt, luôn luôn lo sợ sự thay đổi cơ chế, chính sách nên không dám đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, những quy định còn phức tạp, chồng chéo gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Tóm lại, sau một thời gian hình thành và phát triển, KTTN đã đạt được những thành tựu nhất định đóng góp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, công bằng xã hội…Từ đó khảng định vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, thực trạng phát triển kinh tế tư nhân cũng thấy rõ những xu hướng vận động chủ yếu và những yếu kém của thành phần kinh tế này. Do đó, để phát triển thành phần kinh tế này cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường thông thoáng cho sự phát triển của khu vực KTTN. CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM 3. 1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI. 3. 1. 1. Bối cảnh kinh tế mới: * Trong nước: Sau gần 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao, giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người dân, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, đặc biệt Việt Nam đã thoát ra khỏi các nước nghèo đói trên thế giới, đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, từng bước xây dựng cơ sở vật chất ngày càng hiện đại. Đảng và Nhà nước ta đang trong chủ trương tích cực hội nhập kinh tế khu vực để tranh thủ được nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển. Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, tính đến nay nước ta đã có quan hệ với 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Vai trò, vị thế của nước ta ngày càng tăng lên trên chính trường thế giới. Đây là thành tựu to lớn mà Đảng và Nhà nước ta đạt được trong thời gian vừa qua. Mặc dù đã đạt được những thành công to lớn, song nền kinh tế Việt Nam còn nhiều những yếu tố hạn chế gây cản trở cho sự phát triển kinh tế. Tuy tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam hàng năm là khá cao nhưng sự tăng này vẫn chưa ổn định, chưa thật vững chắc. Hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, đặc biệt là khả năng thâm nhập vào thị trường ngoại của Việt Nam chưa cao, khả năng huy động vốn chưa cao, các vấn đề chính trị xã hội vẫn chưa được giải quyết triệt để, cơ chế chính sách còn rất phức tạp gây cản trở cho sự phát triển kinh tế. Đây là những rào cản cần được khắc phục, hạn chế càng sớm càng tốt để có thể đưa nền kinh tế nước ta vững chắc đi lên , bắt kịp với kinh tế thế giới. *Bối cảnh quốc tế: Hiện nay nền kinh tế thế giới đang trong xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá. Nền kinh tế thế giới có những biến động mạnh mẽ, ảnh hưởng đến từng quốc gia. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay đem đến cho Việt Nam những cơ hội cũng như những thách thức rất lớn. Hiện tại Việt Nam chuẩn bị trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Điều này có nghĩa hàng hoá Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt với hàng hoá các nước khác. Ngoài ra khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế như (WTO), AFTA… Việt Nam sẽ phải xoá bỏ rất nhiều thuế nhập khẩu, đây là một trở ngại lớn do thuế hàng nhập khẩu của Việt Nam hiện nay chiếm một vị trí quan trọng trong tỷ trọng ngân sách quốc gia. Ngoài ra, hàng nội địa sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của hàng nhập ngoại. Có thể rất nhiều mặt hàng, nhiều doanh nghiệp sẽ phải đóng cửa do giá thành sản xuất cao. Việc tham gia vào các thị trường này đem đến cho kinh tế Việt Nam những cơ hội cũng như những thách thức to lớn. Khi tham gia vào các thị trường này doanh nghiệp nước ngoài có rất nhiều điểm mạnh như: có thị trường phát triển, có kinh nghiệm trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, có sản phẩm đa dạng, chi phí sản xuất thấp, có cơ chế thanh toán thuận lợi…tất cả các mặt này doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế nhiều. Đây là những điểm mạnh của doanh nghiệp nước ngoài đồng nhất với các điểm hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn, hạn chế đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có rất nhiều lợi thế nếu biết khai thác, tận dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế trong các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ, các mặt hàng có giá nhân công rẻ…Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chú trọng thị trường trong nước, cần đáp ứng những sản phẩm thiết yếu như những sản phẩm chế biến , hàng tiêu dùng…. đặc biệt, Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại quốc tế đã và sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta. Thực tế cho thấy, các ngành nghề như dệt, giày da, gốm, hoá chất…. cơ cấu hàng xuất khẩu hay bố cục thị trường của Trung Quốc là khá giống với Việt Nam. Sau khi nước này ra nhập tổ chức thương mại quốc tế, quốc gia này được hưởng các chính sách ưu đãi mậu dịch đa phương của tổ chức này, nhất là ưu đãi mậu dịch đa phương của tổ chức này như thuế quan và cắt bỏ hạn ngạch. Điều này sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc so với hàng hoá Việt Nam trên cùng một thị trường. Gần đây,Trung Quốc đã tiến hành một số chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đãi ngộ thị trường ngày càng lớn, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, trong khi đó ở Việt Nam còn rất chậm chạp trong các chính sách ưu đãi, các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các yếu tố này sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam vào những thách thức lớn lao. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng sức mạnh trên thị trường quốc tế, chúng ta phải thấy được vai trò quan trọng của KTTN trong nền kinh tế. Để nền kinh tế phát triển cần phải thúc đẩy KTTN phát triển để có thể đáp ứng nhu cầu hội nhập nền kinh tế. 3.1.2. Quan điểm định hướng Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân: Quan điểm, đường lối phát triển kinh tế đất nước được Đảng ta xác định khá cụ thể, rõ ràng trong Đại hội Đảng IX. Cụ thể Đại hội đã vạch ra: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ năng lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực nước ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường”. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã xác định phương hướng phát triển KTTN trong thời gian tới là “ khuyến khích KTTN phát triển mạnh mẽ không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo thêm nhiều việc làm, có sức tăng trưởng cao hơn bình quân hiện nay, đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, tham gia ngày càng nhiều vào hoạt động công ích, hợp tác liên doanh với nhau, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”. Các chính sách đường lối KTTN trong thời gian tới của Đảng có thể cụ thể hoá bằng các quan điểm cụ thể sau: Thứ nhất, KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm này thì thành phần KTTN cũng giống như các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Việt Nam. Để thực hiện nhất quán quan điểm này cần làm tốt các công việc sau: Cần tự do hoá khu vực tư nhân một cách thực sự và hoàn toàn. Về mặt pháp lý, cần xác lập quan hệ giữa Nhà nước và tư nhân một cách hợp lý. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Phải thực sự tôn trọng quyền sở hữu tư nhân. Phải hình thành một môi trường kinh doanh ổn định. Có như vậy, KTTN mới thực sự là một khu vực độc lập, là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, phát triển KTTN trong khuôn khổ luật pháp. Do đây là thành phần kinh tế có những hạn chế tồn tại là làm ăn manh mún, tự phát…. , thường gây khó khăn trong việc quản lý Nhà nước như trốn thuế, buôn lậu…thành phần KTTN phát triển tốt hơn trong thời gian tới đòi hỏi chính thành phần kinh tế này phải nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Thứ ba, quá trình phát triển KTTN cần gắn hiệu qủa KTTN với hiệu quả xã hội. Mục đích cuối cùng của mọi sự phát triển là vì con người cho nên cách thức lựa chọn sản xuất kinh doanh của chủ sở hữu phải gắn với mục tiêu của nền kinh tế, của xã hội, đảm bảo tăng trưởng ổn định, giảm thất nghiệp và nâng cao dần mức sống dân cư. Đảng và Nhà nước ta luôn có những chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn chân chính, có lợi cho xã hội. Với những quan điểm nêu trên thì KTTN thực sự đã có được môi trường tốt để phát triển. Từng bước khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế. 3. 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 3.2.1. Về phía Nhà nước: Để khu vực KTTN của Việt Nam ngày một phát triển, ngày một khẳng định được vai trò to lớn của mình, bên cạnh những cố gắng từ chính các doanh nghiệp, chính khu vực KTTN thì Nhà Nước cũng cần có những chính sách, chiến lược, những phương hướng, giải pháp mới trong giai đoạn hiện nay và sắp tới để khu vực KTTN thực sự khẳng định mình. Dưới đây là một số giải pháp từ phía Nhà nước. Cải cách doanh nghiệp Nhà nước: Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một mục tiêu cần phải đạt được: tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không được biến thành tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước. Đối tượng cổ phần hoá là những doanh nghiệp nhà nước hiện có mà nhà nước không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước hiện có thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp, hoặc nhà nước không giữ cổ phần. Hình thức cổ phần hoá bao gồm: giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn; bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các cổ đông; cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách với các doanh nghiệp nhà nước là một điều rất cần thiết và quan trọng cho nền kinh tế hiện tại của chúng ta. Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xoá bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành vùng các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Thực hiện triệt để luật cạnh tranh bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh một cách lành mạnh bình đẳng . Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước. Đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, tuỳ thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức:giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích doanh nghiệp nhà nước đã giao, bán được chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Đây là một trong tác động tích cực và cần thiết để thúc đẩy KTTN phát triển đúng với tiềm năng của nó, mà khu vực kinh tế nhà nước tác động được. *Nhanh chóng sửa đổi và hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân nhằm từng bước tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng và ổn định. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy KTTN phát triển, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Cần phải thực hiện nhất quán, triệt để luật doanh nghiệp cho các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước. Phải đơn giản hoá các thủ tục giấy phép làm cản trở đối với việc gia nhập thị trường kinh doanh làm ăn của các nhà doanh nghiệp. Phải tạo lập đựơc một môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng bằng việc xây dựng, hoàn chỉnh các bộ luật. Cần giúp các doanh nghiệp thuộc thành phần KTTN như thiết lập quỹ tài trợ để phát triển các doanh nghiệp tư nhân, thiết lập cơ chế bảo hành rủi ro tín dụng và cải tổ chế độ về điều kiện vay linh hoạt và không phân biệt đối xử, đặc biệt là về thế chấp, bảo lãnh của các ngân hàng thương mại. Loại bỏ tính chất áp đặt, lãi suất trần trong vay tín dụng giúp doanh nghiệp tư nhân vay ngân hàng với lãi suất cho vay thường giành cho doanh nghiệp Nhà nước. * Cải cách hành chính: Chính Phủ nên sớm có quyết định thành lập một cơ quan đầu mối chuyên lo về mặt quản lý nhà nước để hỗ trợ chính sách cho khu vực KTTN phát triển. Điều này sẽ làm giảm thủ tục hành chính của Nhà nước trong quá trình quản lý các doanh nghiệp tư nhân. Cơ quan này sẽ là cầu nối giữa doanh nghiệp và chính phủ, sẽ tạo điều kiện cho nhà nước vừa quản lý chặt chẽ, vừa nắm thông tin kịp thời và đưa các đối sách, giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp linh hoạt và hiệu quả hơn. *Xúc tiến mở rộng thị trường trong và ngoài nước: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện nay là đang tăng cường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, Nhà nước cần có các chính sách, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận với thị trường thế giới, bởi như vậy doanh nghiệp mới có điều kiện để khẳng định mình, học hỏi trao đổi thông tin, kinh nghiệm quản lý, cơ hội, tiếp cận với các nguồn vốn nước ngoài…. Để thực hiện nhiệm vụ này Nhà nước có thể sử dụng các chính sách thuế quan ưu đãi, giới thiệu làm cầu nối… giúp các doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận, quan hệ đối tác với nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần phát triển thị trường nội địa, cần có các công cụ kinh tế để kích cầu nội địa, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế nói chung và KTTN nói riêng, cần cung cấp, đảm bảo về điều kiện sản xuất kinh doanh như cung cấp thông tin, điện nước,…. . *Cần hỗ trợ quá trình đổi mới và chuyển giao kỹ thuật công nghệ đối với các doanh nghiệp: Kỹ thuật, công nghệ là yếu tố quan trọng cho mỗi một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đặc biệt là kỹ thuật công nghệ hiện đại, tiên tiến. Việc các doanh nghiệp tự tiếp cận được với các loại công nghệ kỹ thuật này là rất khó. Nhà nước cần giúp đỡ, hỗ trợ về vốn, về kỹ năng… cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận và sử dụng được các công nghệ mới đạt năng suất và hiệu quả cao hơn. Với điều kiện, hoàn cảnh nước ta hiện nay cần chú ý đến việc nhập các loại kỹ thuật, công nghệ cần nhiều lao động, kết hợp việc cải tiến để nâng cao năng suất và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh nhằm tăng thu nhập và giải quyết nạn thất nghiệp nhưng cũng cần tránh biến Việt Nam thành một bãi thải công nghiệp tức là tránh nhập những loại công nghệ kỹ thuật đã cũ, đã lỗi thời hoặc hiệu quả kinh tế không cao. Ngoài ra, cũng cần chú trọng phát triển công nghệ trong nước để doanh nghiệp có thể dễ dàng có được với giá rẻ… *Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp bằng việc đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp, đội ngũ nguồn lực để phát triển doanh nghiệp. Do điều kiện đất nước ta còn khó khăn về mọi mặt nên trình độ của các nhà kinh tế, các chủ doanh nghiệp vẫn còn hạn chế cùng với đội ngũ những người lao động còn thấp kém. Theo kết quả khảo sát của MDPF thì 48% chủ doanh nghiệp đã tốt nghiệp đại học, 75% giám đốc không biết làm bảng kế toán tài chính, tri thức kinh nghiệm vẫn là phổ biến, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn dựa nhiều vào thế mạnh truyền thống gia đình, nhất là các ngành gốm sứ, đồ gỗ, may mặc, đan dệt…. Do đó, để các nhà doanh nghiệp có điều kiện quản lý sản xuất kinh doanh tốt hơn đòi hỏi Nhà nước cần có những chính sách hợp lý nâng cao trình độ cho đội ngũ doanh nghiệp và đội ngũ công nhân viên như mở các lớp đào tạo ngắn hạn phù hợp và có chất lượng…. . *Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ về việc mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuế cho các doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân khi bước vào làm ăn kinh doanh đều gặp phải khó khăn về mặt bằng kinh doanh. Các doanh nghiệp đều thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh thường phải đi thuê của các cơ quan, các tổ chức kinh tế và các chủ kinh tế khác là chủ yếu. Có thể nói khó khăn về mặt bằng sản xuất kinh tế của các doanh nghiệp là một trở ngại lớn ảnh hưởng đến quá trình, khả năng làm ăn của doanh nghiệp. Cho nên, Chính phủ cần có những chính sách ưu đãi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể có được mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp. Bên cạnh đó, các chính sách thuế cần đến việc giảm nguồn thu và sắc thu, tạo cho các doanh nghiệp có điều kiện tích tụ và tập trung vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Tránh tình trạng tận thu, lạm thu hoặc các tiêu cực các bộ phận thu thuế. Ngược lại phải kiên quyết xử lý các tình trạng trốn thuế, lậu thuế và nợ thuế trong khu vực KTTN. *Nhà nước nên hỗ trợ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp một cách nhanh nhất và chính xác. Đảm bảo hệ thống cung cấp thông tin nhanh và đầy đủ thông tin trong thị trường là yếu tố quyết định sự thành công của các doanh nghiệp, vì vậy Nhà nước phải thấy được điều này để có thể đảm bảo cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp một cách chính xác nhất, cập nhật nhất thông qua việc phát triển các trung tâm thông tin, các trung tâm xúc tiến thương mại, phát triển đa dạng các hình thức cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp về sản phẩm, thị trường, chiến lược ngoại thương, hợp đồng, giá cả…. Bằng các hình thức như: truyền hình, đài báo, sách… * Thay đổi quan điểm xã hội tích cực hơn với kinh tế tư nhân:: Để phát triển KTTN cần có thái độ xã hội đúng đắn về KTTN, phải thấy được vai trò to lớn của thành phần kinh tế này. Tránh các quan điểm về kinh doanh là “ bóc lột”, là “ chụp giật”…. Cần coi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là cần thiết, là không thể thiếu. Cần thấy được vai trò của các doanh nghiệp làm ăn giỏi; cần có những quan điểm mới nhìn nhận một cách tích cực về các doanh nhân; cần nêu cao và phát huy tinh thần kinh doanh, khuyến khích các hoạt động kinh doanh trong xã hội, khuyến khích các lớp trẻ đi vào kinh doanh. Thường xuyên có những trương trình trên truyền hình, đài, báo về doanh nhân, doanh nghiệp điển hình….vv. Cần coi trọng kinh doanh, kinh doanh ra nhiều của cải cho xã hội qua đó đem lại công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động, là động lực phát triển đất nứơc không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị xã hội . Cần phải có các hình thức khen thưởng, khuyến khích các doanh nhân làm ăn kinh tế giỏi, động viên, giúp đỡ những doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản…. Tóm lại, phải thấy được KTTN là một thành phần kinh tế quan trọng, có vị trí không thể thiếu trong nền kinhn tế nói chung. Vì vậy, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển hết khả năng, năng lực của nó. Tuy nhiên bên cạnh những mặt mạnh thì thành phần kinh tế này cũng bộc lộ những mặt hạn chế nên trong quá trình phát triển cần khắc phục, hạn chế những yếu kém của nó để đạt hiệu quả cao nhất. 3. 2. 2. Về phía doanh nghiệp: - Để KTTN Việt Nam phát triển mạnh hơn, hiệu quả hơn trong thời gian tới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự nỗ lực đổi mới và hoàn thiện mình phù hợp với sự phát triển, phải không ngừng nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh doanh, đảm bảo uy tín, xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, biết gắn kết lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của người tiêu dùng. Để cụ thể hoá của những giải pháp này các doanh nghiệp cần thực hiện các nhiệm vụ sau: * Không ngừng cải tiến kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã bao bì, gắn chặt chiến lược tiếp thị với tâm lý nhu cầu của người tiêu dùng, tiến tới hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường tạo vị thế trong nền kinh tế. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải quan tâm, có chiến lược trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ quan trọng này. * Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý, xây dựng chiến lược đầu tư, phát triển lâu dài, thường xuyên điều chỉnh hợp lý, đồng thời phải có chính sách, chiến lược đối phó với sự cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài. Phải ưu tiên tối đa mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trong ngắn hạn đưa mục tiêu lợi nhuận trong dài hạn lên hàng đầu. Các ưu tiên đầu tư của doanh nghiệp phải là chủ đầu tư phát triển như: Đầu tư công nghệ mới, đào tạo mới…. . * Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phải biết tổ chức kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất, thích nghi với môi trường kinh doanh, tạo cơ chế nhịp nhàng, phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo của mỗi cá nhân. Cơ cấu tổ chức phải gọn nhẹ, đảm bảo tính năng động, ổn định lâu dài. Phải nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên, cần tạo điều kiện học tập, nâng cao nghiệp vụ thông qua hỗ trợ kinh phí và sắp xếp thời gian làm việc. Cần phải phát huy tinh thần học tập sáng tạo của nhân viên…. Ngoài ra, cần áp dụng những kiến thức mới cho họ. * Xây dựng văn hoá kinh doanh trong kinh doanh của các doanh nghiệp, các doanh nhân qua việc nâng cao năng lực văn hoá kinh doanh là một nhiệm vụ cũng rất quan trọng. Bởi văn hoá nói chung và văn hoá kinh doanh nói riêng đã chứng minh là một bản sắc của sự phát triển của các quốc gia công nghiệp hoá nói riêng và thành công. Văn hoá kinh doanh mới gồm các đặc điểm: - Biết dùng tri thức để tạo ra những tri thức mới vào việc tìm ra giải pháp và đưa ra quyết định kịp thời. - Năng lực tài trí để giữ vốn và phát triển vốn. - Biết ứng dụng công nghệ mới, phương pháp và công cụ hiện đại cuả công nghệ thông tin vào kinh doanh, quản lý doanh nghiệp. - Biết khai thác, phát triển các mối quan hệ không chỉ bên ngoài doanh nghiệp mà ngay cả nội bộ doanh nghiệp như: Nâng cao trình độ đội ngũ nhân lực, chăm lo đời sống người lao động. - Biết tôn trọng bảo vệ môi trường, quan tâm đến các lợi ích xã hội công cộng. - Tôn trọng pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh đối với nhà nước như: Thuế, bảo hiểm … đồng thời biết đấu tranh xây dựng nền hành chính dân chủ, văn minh thuận lợi cho kinh doanh và thị trường. - Khả năng tìm kiếm và có quan hệ bạn hàng tốt đẹp KẾT LUẬN Trong giai đoạn hiện nay, khi mà đất nước đang gấp rút chuẩn bị cho công cuộc đổi mới nền kinh tế, đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cùng với bối cảnh chung của nền kinh tế Thế giới là đang tăng cường hội nhập khu vực và Thế giới, để hoàn thành tốt kế hoạch mà Đảng và nhà nước đưa ra thì yêu cầu mọi thành phần kinh tế phải nỗ lực, phải không ngừng cải thiện, hoàn thiện mình để đạt được vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế. Sau gần 20 năm đổi mới KTTN đã có những đóng góp lớn cho nền kinh tế như giải quyết việc làm, huy động nguồn vốn lớn trong dân, thêm thu nhập cho người dân, tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển….vv. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của KTTN vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có và qui mô của nó. Khu vực này còn ở trình độ thấp, khả năng huy động vốn còn nhiều hạn chế, trình độ công nghệ thấp, khả năng quản lý yếu kém. Ngoài ra tính liên kết, hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp còn thấp nên khó tạo được sức mạnh trên cơ sở phát huy lợi thế. Bên cạnh đó, việc phát triển KTTN còn gặp nhiều cản trở: Thứ nhất: môi trường pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa hoàn thiện nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa nhất quán, phức tạp và chồng chéo. Thứ hai: Thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn luôn là trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp. Thứ ba: Thiếu vốn là vấn đề nổi cộm thường xuyên khi các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhỏ bé, tài sản sử dụng làm tài sản thế chấp đề vay vốn quá hạn hẹp. Hơn nữa, hệ thống ngân hàng thương mại mà khách hàng của họ chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, rất ngại cho các doanh nghiệp tư nhân vay. Thứ tư: chính sách thuế còn quá nhiều bất cập và có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Từ thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua, các giải pháp đưa ra là: Cần thay đổi quan niệm, tư duy chính trị về kinh tế tư nhân, xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách định hướng phát triển của kinh tế tư nhân, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế tư nhân; bổ sung sửa đổi một số cơ chế chính sách về phát triển kinh tế tư nhân như chính sách đầu tư, tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuế, tài chính, kế toán, kiểm toá, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, tiền lương thu nhập và bảo hiểm xã hội… Vì vậy tiếp tục phát triển KTTN là một nhiệm vụ của quá trình CNH - HĐH đất nước đồng thời cũng là yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Do đó những biện pháp nhằm hoàn thiện môi trường ,thể chế chính sách ,nhằm cụ thể hoá luật doanh nghiệp sửa đổi (có hiệu lực 1/1/2000) thực sự tạo ra điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng hợp tình hình phương hướng giải pháp phát triển KTTN, ban kinh tế TW 26/11/2004. 2. Các nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng kháo IX, Nxb chính trị quốc gia 3. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 4. Kinh tế Việt Nam và thế giới số 175/2002, số177. 5 . Kolnai já nos con đường dẫn tới kinh tế thị trường, Nxb Hội tin học Việt Nam. 6. Giáo trình kinh tế tư nhân, PGS. TS >Trịnh Thị Hoa Mai. 7. Giáo trình kinh tế học David Beeg. Nxb Giáo Dục. 8. GS. TS Nguyễn văn Nam , “ về thực trạng phát triển KTTN ở Việt Nam”. 9. Nghiên cứu kinh tế số 318-- tháng 11/2004 10. Niên giám thống kê 2000—2001 11. Niên giám thống kê 2001—2002 12. Niên giám thông kê 2002—2003 13. Niên giám thống kê 2003—2004 14. Niên giám thống kê 2004—2005 ,Nxb Thống kê. 15. Nghị quyết TW 5 khoá IX năm 2002. 16. PGS. TS. Đào Duy Huân , “ bốn năm thực hiện luật doanh nghiệp mới, thực trạng và giải pháp đến năm 2001”.Nxb Chính Trị Quốc Gia 17. Tạp chí cộng sản 2004 18. Tạp chí kinh tế 2004 19. Tạp chí kinh tế và dự báo tháng 6/2004 và 6/2005. 20. Thời báo kinh tế Sài Gòn các số. 21. Thời báo kinh tế Việt Nam tháng 6/2005 22. Tạp chí kinh tế phát triển tháng 5/2005 23. Tạp chí ngân hàng 6/2004 24. Trang Wed.MPDF.ORG 25. Văn kiện Đại Hội Đảng VI, VII, VIII, IX, Nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-T04.doc
Tài liệu liên quan