Lạm phát ở Việt Nam. Áp lực đối với tăng trưởng và các giải pháp kiềm chế

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tăng trưởng bền vững và ổn định lạm phát ở mức thấp luôn là những mục tiêu của điều tiết vĩ mô ở tất cả các nướcLạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, lao động, việc làm, tiết kiệm cũng như đầu tư và phân phối lại thu nhập quốc dân trong nền kinh tế. Vì vậy mà ảnh hưởng của lạm phát có sức bao trùm rất lớn, không chỉ đơn thuần là sự mất giá đồng tiền hay vấn đề tăng lên của mức giá ch

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lạm phát ở Việt Nam. Áp lực đối với tăng trưởng và các giải pháp kiềm chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung mà sâu xa hơn nó còn là tiền đề cho bài toán tăng trưởng và phát triển bền vững của nền kinh tế. Các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc các giải pháp kinh tế vĩ mô để kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay vấn đề này càng trở nên cần thiết. Không có gì đáng ngạc nhiên khi câu hỏi về sự tồn tại và bản chất của mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng đã được các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đặc biệt quan tâm và trở thành trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về chính sách. Mặc dù câu trả lời về mối quan hệ chính xác giữa hai biến số này vẫn còn tiếp tục được tranh luận, song nhiều kết luận chung đã được đưa ra. Phần lớn các nhà kinh tế đều tin rằng ổn định lạm phát ở mức thấp là môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi để khuyến khích tiết kiệm, mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cả lạm phát quá cao và lạm phát quá thấp đều có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Điều quan trọng là cần phải ổn định lạm phát ở mức được coi là có lợi cho tăng trưởng kinh tế dài hạn. Trên cơ sở khung khổ lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế và diễn biến lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt nam sau đổi mới, nhiều học giả cho rằng mức lạm phát tối ưu đối với Việt nam có thể nằm trong khoảng 5-7% năm. Tuy nhiên, đó mới chỉ là ước tính sơ bộ. Để đưa ra một kết quả đáng tin cậy, cần có một công trình nghiên cứu được đầu tư thoả đáng. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Lạm phát ở Việt Nam:Áp lực đối với tăng trưởng và các giải pháp kiềm chế” để làm chuyên đề tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đính nghiên cứu của đề tài này là làm rõ các vấn đề liên quan đến lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu diễn biến lạm phát ở Việt Nam và bàn về các chính sách kiểm soát lạm phát sao cho có lợi cho tăng trưởng kinh tế dài hạn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của bài chuyên đề là mối quan hệ giưã lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là thực tiễn diễn biến lạm phát và tăng trưởng của nước ta trong giai đoạn từ 1986 đến nay, và phương hướng sử dụng chính sách kiểm soát lạm phát ở Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Bài chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu và tổng hợp tài liệu, phân tích, xử lý và tìm ra những quy luật từ các số liệu thống kê như: tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa, thống kê kết hợp và hồi quy ước lượng theo phương pháp bình phương nhỏ nhất. 5. Bố cục của chuyên đề Với mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài như trên thì bài chuyên đề được chia làm ba chương như sau: Chương I: Những vấn đề lý luận về tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế và chính sách kiềm chế lạm phát Chương II: Thực trạng lạm phát và và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam Chương III: Một số kiến nghị nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới 6. Những đóng góp của chuyên đề Kết quả của chuyên đề thu được là hiểu biết sâu hơn những vẫn đề lý luận về lạm phát và tăng trưởng kinh tế, các biệm pháp kiềm chế lạm phát và diễn biến thực tế ở Việt Nam, đề xuất một số kiến nghị trong việc kiểm soát lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều của các thầy cô giáo trong khoa Kinh Tế Học và Cơ quan thực tập:” Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách – Đại học Kinh Tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các cá nhân và tổ chức trên, đồng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Công đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và hỗ trợ tôi trong quá trình hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận về tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế và chính sách kiềm chế lạm phát Lạm phát 1. Khái niệm và đo lường 1.1 Khái niệm: Theo định nghĩa của Milton Friedman: “Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh chóng và liên tục trong một thời gian dài”. Định nghĩa này cũng được các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ ( Phan Thị Hồng Hải, 2005). Theo quan điểm này, lạm phát không chỉ được nhìn nhận ở mặt biểu hiện của nó là sự tăng lên của mức giá chung, mà còn biểu hiện rõ yếu tố quyết định bản chất và tính đặc thù của lạm phát cũng như ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế là tính chất nhanh, liên tục trong thời gian dài. Một định nghĩa nữa chung nhất về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: “Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”. Phương pháp tính lạm phát Vì lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung nên để đo lường mức độ lạm phát, người ta căn cứ vào mức độ tăng của mức giá chung. Phương pháp xác định dựa trên chỉ số giá Để đánh giá mức giá chung của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ trong xã hội, người ta xây dựng hai chỉ số giá sau: Chỉ số giá tiêu dung ( CPI- Consumer Price Index) Chỉ số giá tiêu dùng đo lường mức giá cả bình quân của giỏ hàng hóa và dịch vụ cụ thể được các hộ gia đình tiêu dùng. Để xác định CPI, người ta chọn một giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình trong một gian đoạn nhất định, đồng thời xác định mức độ quan trọng của từng hàng hóa và dịch vụ trong giỏ hàng hóa đó. Công thức tính CPI: Trong đó: Ip: chỉ số giá tiêu dùng hay CPI Ipj: chỉ số giá cả của hàng hóa hoặc dịch vụ thứ j ( được tính bằng cách lấy mức giá kỳ nghiên cứu chia cho mức giá kỳ gốc rồi nhân với 100) dj: tỷ trọng mức tiêu dung của hàng hóa hoặc dịch vụ thứ j () b. Chỉ số giá sản xuất (PPI- Producer Price Index) Chỉ số giá sản xuất đo lường mức giá cả đầu vào. Chỉ số giá sản xuất được xác định theo phương pháp gần tương tự như chỉ số giá tiêu dùng: Trong đó: Ip: chỉ số giá sản xuất PPI ipj: Chỉ số giá cả của hàng hóa hoặc dịch vụ đầu vào thứ j () ( được tính bằng cách lấy mức giá kỳ nghiên cứu chia cho mức giá kỳ gốc rồi nhân với 100) dj: tỷ trọng đầu vào của hàng hóa hoặc dịch vụ thứ j Tỷ lệ lạm phát được tính theo công thức: Gp= Ip/Ip-1 X 100% Trong đó: Gp: tỷ lệ lạm phát (%) Ip: chỉ số giá ( tiêu dùng hoặc sản xuất) của thời kỳ hiện nay Ip-1: chỉ số giá ( tiêu dùng hoặc sản xuất) của thời trước đó Nhưng trong thực tế, việc thu thập số liệu và xác định tỷ trọng phức tạp nên rất ít quốc gia tính lạm phát theo chỉ số này. Phương pháp xác định dựa trên chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội Chỉ số này đo lường mức giá bình quân của toàn bộ các loại hàng hóa và dịch vụ tạo nên tổng sản phẩm quốc nội. Nó được xác định theo công thức sau: Chỉ số giảm phát: GDP=GDPdn/GDPtt x 100 Trong đó: GDP danh nghĩa ( GDPdn) đo lường sản lượng theo giá hiện hành GDP thực tế (GDPtt) đo lường sản lượng năm hiện tại theo giá năm được chọn làm năm gốc. Tỷ lệ lạm phát sau đó được tính trên cơ sở các chỉ số giảm phát GDP tương tự như khi tính theo các chỉ số CPI, PPI trên. 2. Phân loại lạm phát Căn cứ vào mức lạm phát người ta phân lạm phát ra làm ba loại chính: Lạm phát vừa phải Tỷ lệ lạm phát dưới 10%. Đây là loại lạm phát phổ biến và tồn tại gần như thường xuyên trong hầu hết các nền kinh tế. Lạm phát vừa phải xảy ra khi tốc độ tăng giá ở mức một con số. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn… Do vậy giá trị tiền tệ tương đối ổn định, tạo thuận lợi cho môi trường kinh tế xã hội. Tác hại của loại lạm phát này là không đáng kể. Lạm phát phi mã Mức giá tăng rất nhanh ở tỷ lệ hai hoặc ba con số, từ 20% đến 100% một năm hoặc cao hơn nữa. Mức lạm phát này gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hóa. Lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động sản và chỉ gửi tiền khi lãi suất cao. Việc kiểm soát lạm phát lúc này đòi hỏi các biện pháp tài chính- tiền tệ mạnh nếu không sẽ dẫn đến siêu lạm phát. Siêu lạm phát Theo định nghĩa của Cagan (1956), siêu lạm phát được xác định khi tỷ lệ lạm phát hàng tháng vượt quá 50%. Đặc trưng đầu tiên của siêu lạm phát là sự phá vỡ hoàn toàn hệ thống tài chính tiền tệ. Với tỷ lệ lạm phát hàng tháng lên tới ba, bốn, năm con số. Lúc này người ta sẽ rời bỏ đồng nội tệ để chuyển sang giữ vàng, bạc, ngoại tệ hoặc hàng hóa. Đặc trưng thứ hai là mức tài trợ cho thâm hụt ngân sách nhà nước quá cao. Trong thực tế, siêu lạm phát thường đi đôi với suy thoái, thất nghiệp và tình trạng bất ổn xã hội nghiêm trọng. 3. Các nhân tố ảnh hưởng 3.1. Lạm phát chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy xảy ra khi giá cả các đầu vào quan trọng trong nền kinh tế tăng lên. Giả sử lúc đầu nền kinh tế tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1, với mức sản lượng tự nhiên và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do mong muốn có một mức sống cao hơn hoặc do cho rằng tỉ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao, những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương. Ảnh hưởng của việc tăng lương ( cũng như ảnh hưởng của những cú sốc cung tiêu cực) làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển sang AS2. Đồ thị 1: Lạm phát chi phí đẩy P3 P2 P1’ P1 Tổng mức giá AS3 AS2 AS1 AD3 AD2 AD1 Tổng sản lượng 3 2 1 Yn 2’ 1’ Y’ Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 đến điểm 1’- giao điểm của đường tổng cung mới AS2 với đường tổng cầu AD1. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiên Y’ (Y’ < Yn) và tỉ lệ thất nghiệp cao hơn tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên đồng thời mức giá cả tăng lên đến P1’. Vì mục đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện tại, chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh linh hoạt nhằm tác động lên tổng cầu, làm tăng tổng cầu, lúc này đường tổng cầu AD1 dịch chuyển ra AD2, nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tự nhiên tại điểm cân bằng mới- điểm 2, mức giá cả tăng lên P2. Tại mức giá cao hơn, các nguyên nhân làm tăng chi phí lại xuất hiện, quá trình điều chỉnh của tổng cung và sự đáp lại của tổng cầu được lặp lại, làm cho giá cả tiếp tục tăng trong khi mức sản xuất dao động dưới mức sản lượng tiềm năng- điểm 2’, kết quả là đường tổng cung lại chuyển vào đến AS3, thất nghiệp lại tăng lên mức cao hơn mức tự nhiên và chính phủ lại tiếp tục phải thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu ra AD3 để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tự nhiên và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng tăng lên đến P3. Nếu quá trình này cứ tiếp diễn thì sẽ dẫn đến giá cả liên tục tăng và đây chính là tình trạng lạm phát chi phí đẩy. 3.2 Lạm phát cầu kéo Lạm phát cầu kéo là lạm phát do tổng cầu (AD)- tổng chi tiêu của xã hội tăng lên, vượt quá mức cung ứng hàng hóa của xã hội, dẫn đến áp lực làm tăng giá cả. Nói cách khác, bất kỳ lý do nào làm cho tổng cầu tăng lên đều dẫn đến sự tăng giá về mặt ngắn hạn. Đồ thị 2: Lạm phát cầu kéo Tổng mức giá P3 P2 P1 P P3 P2 P1 AS3 AS2 AS1 AD3 AD2 AD1 P3 P2 P1 2’ 1’ 2 3 1 Yo Y1 Tổng sản lượng Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt mức sản lượng tiềm năng, và mức công ăn việc làm đầy đủ. Khi tổng cầu tăng từ AD1 tới AD2 do chính sách tiền tệ mở rộng hoặc do mức chi tiêu ngân sách tăng lên, điểm cân bằng mới của nền kinh tế chuyển tới điểm 1’. Tại đó mức giá bắt đầu tăng lên và sản lượng thực tế vượt quá mức sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên điểm cân bằng này tồn tại không lâu. Do tỷ lệ thất nghiệp lúc này hơn mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên( nền kinh tế đạt mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại mức sản lượng tiềm năng) nên áo lực tăng lương xuất hiện, làm cho chi phí sản xuất tăng lên, đường tổng cung AS1 bắt đầu dịch chuyển sang trái cho tới AS2 thì dừng lại, khi đó mức sản lượng quay về mức sản lượng tiềm năng, giá cả tăng lên tới P2. Nếu tổng cầu tiếp tục tăng, điểm cân bằng mới của nền kinh tế lại được chuyển đến B khi tổng cầu dịch chuyển từ AD2 tới AD3, mức giá cả và sản lượng thực tế tăng lên, vượt quá mức sản lượng tiềm năng. Quá trình điều chỉnh lương được lặp lại đẩy AS2 tới AS3, mức giá tiếp tục bị đẩy lên cao (P3) khi tổng cầu tiếp tục tăng nhưng sản lượng thực tế vẫn cố định ở mức sản lượng tiềm năng về mặt dài hạn. Sự tác động qua lại của việc tăng tiền lương và tăng tổng cầu làm cho mức giá cả bị đẩy lên trong khi mức sản lượng thực tế được duy trì ở mức sản lượng tiềm năng chính là bản chất của lạm phát cầu kéo. 3.3 Lạm phát tiền tệ Theo trường phái tiền tệ, lạm phát là một hiện tượng thuần túy tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này thì lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Theo nhà kinh tế học Milton Friedman: Lạm phát do cung tiền cao là hiện tượng xảy ra khi tăng cung tiền tệ cao hơn cung hàng hóa. Trường hợp này xảy ra khi Ngân hàng trung ương cung ứng một lượng tiền vượt quá cầu tiền tệ của nền kinh tế để bù đắp thâm hụt của Ngân sách nhà nước hoặc mở rộng tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Khi lượng tiền quá lớn nằm trong tay người dân sẽ dẫn đến việc tăng tổng cầu hàng hóa dịch vụ, mà tổng cung hàng hóa và dịch vụ ở một thời điểm nhất định chưa kịp tăng, làm cho giá cả tăng lên. Các nhà theo quan điểm trường phái tiền tệ cũng không phản đối những mất cân đối của nền kinh tế tác động làm cho giá tăng lên, nhưng họ lý giải rằng, chung quy vẫn là do lượng cung ứng tiền tệ vượt quá cầu. Vì họ cho rằng nếu cung tiền tệ không tăng thì cầu hàng hóa sẽ bị khống chế lại và giá cũng không thể tăng lên do đã tạo ra được một sự cân bằng thị trường mới ở mức cung cầu tiền tệ và hàng hóa giới hạn. 4. Chính sách kiềm chế lạm phát Về mặt dài hạn, việc kiềm chế lạm phát, giữ giá trị tiền tệ ổn định sẽ tạo điều kiện tăng sản lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì thế duy trì sự ổn định tiền tệ là mục tiêu dài hạn của bất kỳ nền kinh tế nào. Nhưng trong từng thời kỳ việc lựa chọn các giải pháp kiềm chế lạm phát cũng như liều lượng tác động của nó phải phù hợp với yêu cầu tăng trưởng và các áp lực xã hội mà nền kinh tế phải gánh chịu. Việc đưa ra các giải pháp chống lạm phát thường xuất phát từ sự phân tích đúng đắn nguyên nhân gây nên lạm phát. Lạm phát xuất hiện khi mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu hàng hóa cũng như mất cân đối giữa cung và cầu tiền tệ. Nguyên nhân của lạm phát bao gồm nhiều yếu tố thể hiện qua các hình thức như lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế, lạm phát do tình trạng thiếu ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội… Để giải quyết những nguyên nhân này, chính phủ các nước sử dụng hệ thống các giải pháp nhằm làm giảm sự gia tăng của tổng cầu hoặc khắc phục các nguyên nhân làm gia tăng chi phí. 4.1 Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu Trước hết là thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt do nguyên nhân cơ bản của lạm phát cầu kéo là sự gia tăng của khối lượng tiền cung ứng. Sự hạn chế cung ứng tiền sẽ có hiệu quả ngay đến sự giảm sút của nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. Một chính sách tiền tệ thắt chặt được bắt đầu bằng việc kiểm soát và hạn chế cung ứng tiền cơ sở (MB), từ đó hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại. Lãi suất tăng lên sẽ làm hạn chế nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, làm giảm áp lực đối với hàng hóa và dịch vụ cung ứng. Cùng với việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt là sự kiểm soát gắt gao chất lượng tín dụng nhằm hạn chế khối lượng tín dụng, đồng thời đảm bảo nguồn tiền cung ứng được sử dụng một cách hiệu quả. Thứ hai, việc kiểm soát chi tiêu của ngân sách nhà nước từ trung ương đến địa phương nhằm đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong chi tiêu ngân sách: rà soát lại cơ cấu chi tiêu, cắt giảm các khoản đầu tư không có tính khả thi và các khoản chi phúc lợi vượt quá khả năng của nền kinh tế, cải tiến lại bộ máy quản lý nhà nước vốn cồng kềnh, không hiệu quả, gây lãng phí ngân sách. Khai thác các nguồn thu, đặc biệt là thu thuế nhằm giảm mức bội chi, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước… Và cuối cùng là hạn chế phát hành tiền đủ bù đắp thiếu hụt ngân sách. Thứ ba, thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm, giảm tiêu dùng. Lãi suất danh nghĩa được nâng cao hơn tỷ lệ lạm phát để hấp dẫn tiền gửi. Biện pháp này thường được sử dụng trong các trường hợp lạm phát cao và có tác động tức thời. Tuy nhiên, trong thời gian áp dụng chính sách lãi suất cao, cần có sự điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với mức độ biến động lạm phát và hạn chế hậu quả tiềm tàng cho các tổ chức nhận tiền gửi. Và trong điều kiện nền kinh tế mở, sự can thiệp vào tỷ giá nhằm điều chỉnh tỷ giá tăng dần dần ( chứ không để tăng lên ngay) theo mức độ lạm phát cũng được sử dụng như một giải pháp nhằm giảm cầu do tỷ giá tăng khiến giá hàng xuất khẩu rẻ đi làm tăng nhu cầu xuất khẩu dẫn đến tăng tổng cầu và do đó là tăng sức ép lên giá. Mặt khác, việc điều chỉnh tỷ giá từ từ cũng sẽ làm cho giá nội địa của hàng nhập khẩu không tăng nhanh quá, giảm bớt áp lực tăng mặt bằng giá trong nước. Tuy nhiên hành động can thiệp này có thể làm cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại tệ vì phải bán ra để kìm hãm tỷ giá tăng. Chính vì thế việc sử dụng giải pháp này cũng cần cân nhắc đến khả năng dự trữ ngoại hối cũng như khả năng phục hồi nguồn dự trữ của quốc gia. Nhóm giải pháp tác động vào tổng cung Giải pháp quan trọng nhất là tác động vào mối quan hệ giữa mức tăng tiền lương và mức tăng của năng suất lao động xã hội. Thực chất là thiết lập một cơ chế để đảm bảo mức chi trả tiền lương phù hợp với hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Sự thành công của cơ chế này sẽ hạn chế những đòi hỏi tăng tiền lương (chi phí chủ yếu trong giá thành sản phẩm) bất hợp lý dẫn đến vòng luẩn quẩn: tăng lươngà tăng thu nhậpà tăng tiêu dùngà tăng giáà tăng lương…Việc thiết lập cơ chế tiền lương trong khuôn khổ hiệu quả kinh doanh được thực hiện bằng các phương pháp khác nhau: có thể nhà nước tham gia ấn định các mức thu nhập một cách đơn phương (Mỹ), có thể trên cơ sở thỏa thuận giữa nhà nước, giới chủ và tổ chức công đoàn để xây dựng một hệ thống các mức thu nhập (Thủy Điển, Úc) hoặc thỏa thuận tiền lương được thực hiện ngay tại cơ sở kinh doanh giữa giới chủ và đại diện công đoàn ( PGS.TS Nguyễn Văn Tiến).Chính sách kiểm soát giá cả phải được tiến hành đồng thời với cơ chế tiền lương nhằm hạn chế sự biến động của tiền lương thực tế, tránh rơi vào vòng xoáy: lạm phát lương- giá- tiền. Và tiếp theo là các giải pháp tác động vào chi phí ngoài lương nhằm sử dụng tiết kiệm và hiệu quả như: xây dựng định mức tiêu hao nguyên liệu và kỷ luật lao động nhằm tôn trọng định mức đó, hợp lý hóa nguồn khai thác, vận chuyển và sử dụng nguyên liệu; hạn chế tối đa các chi phí trung gian làm tăng giá nguyên liệu. Trong trường hợp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại, cần quan tâm tới những ảnh hưởng bên ngoài đến giá xuất khẩu và có xu hướng tìm nguyên liệu thay thế nếu giá tăng quá cao, sự giúp sức của chính sách tỷ giá cũng như thuế nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm giá nội địa nguyên liệu nhập. Ngoài ra, các chi phí dây chuyền công nghệ bất hợp lý cũng phải được xem xét và giảm thiểu tối đa. Bên cạnh đó là các giải pháp tình thế và tác động tức thời đến cân đối tiền hàng như nhập khẩu hàng hóa, nhất là các hàng hóa đang khan hiếm, góp phần làm giảm áp lực đối với giá cả. Tuy nhiên giải pháp này chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng: làm cạn kiệt nguồn dự trữ quốc tế, tạo thói quen dùng hàng ngoại và đặc biệt làm giảm sức sản xuất trong nước. Tăng khả năng sản xuất trong nước được coi là giải pháp chiến lược cơ bản nhất, tạo cơ sở ổn định tiền tệ một cách vững chắc. Thực chất đây là giải pháp nhằm tăng mức sản lượng tiềm năng của xã hội. Đây là chiến lược dài hạn tập trung vào việc khai thác triệt để năng lực sản xuất của xã hội, nâng cao trình độ của lực lượng lao động, đổi mới thiết bị hiện đại hóa dây chuyền sản xuất và quan trọng nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khuyến khích cạnh tranh và hiệu quả. II. Tăng trưởng 1. Khái niệm và đo lường Khái niệm Theo nghĩa chung nhất, tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng lên hay gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Hay nói một cách cụ thể hơn, tăng trưởng kinh tế là sự tăng thu nhập quốc dân và quốc dân đầu người. Đo lường Tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách so sánh quy mô sản lượng giữa các thời kỳ. Tốc độ tăng trưởng (gt): gt = (Yt –Yt-1)/Yt-1 x 100% Trong đó: gt là tốc độ tăng trưởng thời kỳ t Y là GDP thực tế của thời kỳ t. Thực chất, Y chính là tổng sản phẩm quốc nội ( GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Như chúng ta đã biết GDP là thước đo được chấp nhận rộng rãi về mức sản lượng của một nền kinh tế. Tất nhiên ở đây chúng ta nói đến GDP thực tế chứ không phải GDP danh nghĩa, tức là đã có sự loại bỏ sự biến động của giá cả theo thời gian ( tỷ lệ lạm phát). Thước đo trên có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong khi GDP thực tế lại tăng trưởng chậm. Một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về tăng trưởng kinh tế tính theo mức sản lượng bình quân đầu người được tính bằng tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong năm chia cho dân số. Chính vì vậy chỉ tiêu ý nghĩa hơn về tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ nghiên cứu so với thời kỳ trước- thông thường tính cho một năm. gtpc = (yt- yt-1)/yt-1 x 100% Trong đó: gtpc là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người thời kỳ t y là GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ t. Có thể nói, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về sức sản xuất của nền kinh tế. Càng ngày thì tăng trưởng kinh tế càng được gắn với yêu cầu tính bền vững hay yêu cầu việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là tăng trưởng không những phải nhanh mà phải đảm bảo liên tục, quy mô hiệu quả và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người cao. Hơn thế nữa quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý. 2. Các nhân tố ảnh hưởng - Lao động (L): Là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây chúng ta chỉ quan niệm lao động là sự tăng trưởng về số lượng của nguồn lao động xuất hiện do tăng dân số hay tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến chất lượng của lao động gọi là vốn nhân lực (trình độ và kỹ năng của lực lượng lao động), đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành máy móc thiết bị phức tạp và có sáng kiến, phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. - Tư bản (K): Là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mô có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ không phải dưới dạng tiền (giá trị), nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế. Nên đầu tư vào tư bản hiện vật như xây dựng nhà máy mới, mua sắm máy móc thiết bị mới cũng như các phương tiện vận tải và viễn thông mới sẽ thúc đẩy tăng trưởng đạt hiệu quả cao. - Công nghệ kỹ thuật (T): Là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng trong điều kiện hiện đại. Yếu tố này cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng: thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ chung của sản xuất. Yếu tố công nghệ được hiểu theo nghĩa toàn vẹn như thế đã được K.Marx xem như là “chiếc đũa thần tăng thêm sự giàu có của cải xã hội”. Còn Solow thì cho rằng “tất cả các tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn đều thu được nhờ tiến bộ kỹ thuật”, Kuznets và Samuelson đều khẳng định: công nghệ kỹ thuật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững”. Vì vậy luôn luôn phải đổi mới công nghệ tạo ra những sản phẩm mới, các phương pháp sản xuất mới, và hình thức tổ chức kinh doanh mới; và đầu tư vào tư bản con người thông qua đào tạo hay tích lũy kinh nghiệm từ thực tiễn công tác. Tác động lạm phát đến tăng trưởng kinh tế Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên mức độ gắn kết như thế nào vẫn là vấn đề tranh cãi. Các nhà kinh tế theo trường phái cơ cấu lập luận cho rằng lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tỉ lệ thuận, nếu có tăng trưởng kinh tế tất có lạm phát. Với lý luận này, ở một số nước đang phát triển, lạm phát được coi là yếu tố tích cực để đảy mạnh tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát sẽ làm tăng tiết kiệm và đầu tư do chuyển thu nhập từ những người làm công ăn lương sang các chủ doanh nghiệp. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng khoản tiết kiệm từ lợi nhuận cao hơn tăng khoản tiết kiệm từ lương. Mức đầu tư và tiết kiệm thực tế sẽ tăng lên, kết quả là đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Lạm phát cũng có thể làm phân phối lại thu nhập từ khu vực tư nhân sang khu vực nhà nước, thậm chí nếu dự báo và điều chỉnh một cách hoàn toàn được lạm phát thì lạm phát giống tăng thuế đối với khu vực tư nhân để tăng thu nhập cho khu vực nhà nước, và tăng nguồn cho đầu tư thực tế. Kết quả là làm tăng tổng đầu tư và cuối cùng là tăng trưởng kinh tế được tăng lên. Tuy nhiên, lập luận trên không tránh bị phản đối. Một số nhà kinh tế cho rằng lạm phát làm mức lãi suất thực tế giảm, tạo ra mất cân bằng ở thị trường vốn. Điều này làm cho cung nguồn vốn đầu tư giảm, và kết quả là đầu tư tư nhân bị hạn chế do cung nguồn vay bị giới hạn, nguồn lực từ khu vực tư nhân chuyển sang khu vực nhà nước, từ đó đầu tư nhà nước có thể đẩy đầu tư tư nhân ra ngoài. Do đó, lạm phát đưa đến giảm lãi suất thực dương và mất cân bằng thị trường vốn, kết quả là đầu tư và tăng trưởng kinh tế giảm. Nếu lạm phát cao và luôn luôn biến đổi thì đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh sẽ dồn sang đầu tư thu lợi nhuận nhanh và giảm đầu tư dài hạn, do đó chất lượng đầu tư bị giảm sút. Hơn nữa lạm phát cao thì vốn trong nước dư thừa và vốn ngoài nước sẽ khan hiếm do nhiều nhà đầu tư không dám mạo hiểm đầu tư vào, bên cạnh đó tỉ giá hối đoái không phải là thả nổi mà hoàn toàn theo cơ chế thị trường, nên nhập khẩu tăng lên và xuất khẩu giảm, cán cân thương mại bị thâm hụt trầm trọng, kết quả làm cho nền kinh tế khó khăn và tăng trưởng kinh tế giảm sút. Theo quan điểm triết chung, một số nghiên cứu theo lối kinh nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là phi tuyến tính( hình chữ U). Nhiều mô hình kinh tế lượng đã được xây dựng để khảo sát phải chăng có tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng dài hạn và phải chăng mối quan hệ đó có dạng phi tuyến, tức là khi lạm phát ở mức thấp thì mối quan hệ này có thể là thuận chiều - lạm phát thấp đi kèm với tăng trưởng thấp, nhưng khi lạm phát vượt qua một ngưỡng nào đó mối quan hệ này trở thành ngược chiều - lạm phát cao sẽ có ảnh hưởng bất lợi đối với tăng trưởng kinh tế. Năm 1959, Tun Wai khi nghiên cứu số liệu của 31 nước đang phát triển trong giai đoạn 1938-54 dã phát hiện một mối quan hệ dương giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế đến một tỷ lệ lạm phát nhất định, sau đó tăng trưởng giảm rõ rệt. Tỷ lệ lạm phát cho phép tối đa hoá tốc độ tăng trưởng trong mô hình của ông là 12,8%. Năm 1966, với số liệu của 48 nớc trong giai đoạn 1953-61, Dorrance đã tìm thấy một số sự kiện chứng tỏ lạm phát thấp và giảm phát đi kèm với tăng trưởng thấp và lạm phát vừa phải có thể có ảnh hưởng khuyến khích đến tăng trưởng. Khi lạm phát vượt quá một giới hạn nào đó lạm phát có xu hướng không có lợi cho phát triển và đặc biệt là lạm phát quá cao sẽ cản trở nghiêm trọng tăng trưởng kinh tế. Thirlwall (1974) bằng mẫu số liệu của 15 nước Mỹ La tinh cho giai đoạn 1958-68 đã khẳng định tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ dương ở những mức lạm phát thấp. Khi lạm phát vượt quá 10% tăng trưởng kinh tế giảm. Ông kết luận rằng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có thể được biểu diễn bằng hình chữ U ngược và đưa ra một tỉ lệ lạm phát "tối ưu" là dưới 10%. Fischer (1993) đã nghiên cứu vấn đề này với kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại , hoặc thậm trí mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến Năm 1996, Sarel kiểm định về sự tồn tại của một ngưỡng mang tính cơ cấu về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Ông đã phát hiện những bằng chứng thực nghiệm về mức ngưỡng của tỷ lệ lạm phát là 8% năm. Dưới tỷ lệ đó, lạm phát ảnh hưởng không đáng kể đến tăng trưởng, hoặc có thể ảnh hưởng dương nhẹ đến tăng trưởng. Với tỷ lệ lạm phát cao hơn 8%, ảnh hưởng này là ngược chiều và quan trọng. Theo ông, nếu bỏ qua thực tế quan trọng này chắc chắn chúng ta sẽ đưa ra những kết luận lệch lạc về ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế. Một số các nhà Nghiên cứu sau này như Shan và Senhadji(2001), ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là 7- 11%, các nước công nghiệp khoảng 1-3%. Các tác giả đã sử dụng các kỹ thuật phân tích hiện đại nhất để kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Công trình của các ông bao quát số liệu của 140 nước (trong đó có cả các nước đang phát triển và các nước đã công nghiệp hoá) trong giai đoạn 1960-98. Một lần nữa kết quả cho thấy có tồn tại một mức ngưỡng (threshold) mà dưới đó lạm phát và tăng trưởng có mối tương quan dương và trên đó lạm phát gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Một phát hiện rất thú vị của các tác giả là mức ngưỡng đó khác nhau giữa các khối nước. Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan( 2005) đã tập trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu . Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với các nước vùng trung đông và trung Á là khoảng 3.2%.Và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gằng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kin._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31745.doc
Tài liệu liên quan