Lạm phát và hậu quả của lạm phát

Lời mở đầu Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Cơ chế mới là môi trường thúc đấy phát triển nền kinh tế theo xu hướng hiện đại, chắt lọc kế thừa những thành tựu và khắc phục những tồn tại đã qua. Trong đó lạm phát là một vấn đề hết sức nghiêm trọng đối với các hoạt động kinh tế – chính trị – xã hội không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm. Lạm phát là một trong những chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển k

doc11 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lạm phát và hậu quả của lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế của một quốc gia nhưng cũng là một trở ngại lớn nhất trong công cuộc phát triển đất nước. Bước sang nền kinh tế thị trường, chúng ta phải đối đầu với những con số lạm phát không nhỏ do cơ chế cũ để lại. Việc xem xét, đánh giá nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra nguyên nhân dẫn đến lạm phát và tìm cách khắc phục nó thế nào là điều vô cùng cần thiết. Để nghiên cứu về lạm phát và ảnh hưởng của nó đến các vấn đề khác như thất nghiệp, giá cả, tiền lương… từ đó đưa ra các giải pháp đúng đắn để kìm giữ lạm phát, ta cần phải hiểu rõ bản chất của lạm phát và các tác hại của nó. Được sự hướng dẫn của thầy giáo bộ môn và tự tìm tài liệu , em đã có được 1 hiểu biết kha khá về “Lạm phát và hậu quả của lạm phát”. Nếu trong bài viết của em có chỗ nào sat sót, mong thầy cô chữa lại và bảo ban để hiểu biết của em về lạm phát thêm đúng hơn . Em xin chân thành cám ơn. Nội dung : I. Lạm phát , một căn bệnh của nền kinh tế thị trường : 1, Khái niệm : Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế trên thế giới, vấn đề lạm phát đã và đang là vấn đề hết sức phức tạp đặt ra cho các quốc gia. Lạm phát không chỉ xảy ra ở các nước kém phát triển mà ngay cả ở những nước đang phát triển, nền kinh tế cũng có bóng dáng của lạm phát. Nó tác động trức tiếp đến giá cả thị trường. Như vậy lạm phát là một hiện tượng của tiền tệ, nó sinh ra cùng với việc mở rộng hệ thống tài chính các loại tiền tệ theo sự phát triển của nền kinh tế từ công xã nguyên thuỷ sang nền kinh tế tự do và đặc biệt là sự xuất hiện của tiền giấy, đó là đặc trưng của sự thay đổi mức giá chung khi mức giá đó tăng lên. 2, Phân loại lạm phát : a.Lạm phát vừa phải : Xuất hiện khi giá cả tăng chậm, dưới 10% một năm. Trong điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tương đối không khác mức bình thường bao nhiêu: lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa chênh lệch nhau không đáng kể, tiền giữ được phần lớn giá trị từ năm này qua năm khác, những kế hoạch dự đoán tương đối ổn định không bị xáo trộn. Dân chúng yên tâm không lo tiền mất giá, không mất nhiều thời gian tìm cách tiêu tiền đi vì lãi suet thực tế không quá thấp hơn lãi suất danh nghĩa và số chênh lệchgiữa lại suất thực tế với lãi suất danh nghĩa gần bằng nhau. b. Lạm phát phi mã : Là loại lạm phát khi giá cả tăng với tỷ lệ ba con số như 20%, 100%, 300% một năm. Khi lạm phát phi mã kéo dài sẽ nảy sinh những biến dạng nghiêm trọng cho nền kinh tế. Đồng tiền mất giá nhanh chóng, nhân dân tránh giữ nhiều tiền mặt mà đi tích trữ hàng hoá, cho vay với lãi suất cao, mua vàng, đô la, nhà đất… đồng tiền mất giá nhanh chóng nên các hợp đồng ký kết đều tính bằng hiện vật hay ngoại tệ mạnh. Trong khi lãi suất danh nghĩa rất cao thì lãi suất thực tế xuống dưới âm 50% hay âm 100%. c. Siêu lạm phát : Siêu lạm phát là thời kỳ có mức lạm phát rất lớn. Nếu trong lạm phát phi mã, nền kinh tế có vẻ còn sống sót được( mặc dù không ổn định) thì trong siêu lạm phát, nền kinh tế xem như đang đi dần vào cõi chết. Điển hình là siêu lạm phát ở Đức. Năm 1913, nước Đức chỉ có 2900 triệu Mác, đến cuối năm 1923, khối lượng tiền giấy lưu hành ở Đức là 490 tỷ tỷ Mác. Tháng 1/1922, giá một cốc nước giảI khát là 1 Mác, sang tháng 10/1923 là 192 triệu Mác. Khi mua sắm lặt vặt, người ta phải mang tiền trong những chiếc xe đẩy. Bọn kẻ cắp thường lấy cấp xe đẩy và vứt tiền lại không thèm nhặt. Lúc này tốc độ chu chuyển tiền ở Đức cuối thời kỳ siêu lạm phát là 30 lần. 3, Nguyên nhân của lạm phát : Những cái gì gây ra lạm phát? Tại sao xảy ra chính sách tiền tệ lạm phát? Chính sách tiền tệ lạm phát là một bộ phận của những chính sách khác của chính phủ: nỗ lực đạt được chỉ tiêu công ăn việc làm cao hoặc quản lý thâm hụt ngân sách lớn. Vì vậy ta phải làm thế nào để ngăn chặn lạm phát với giá thấp nhất phải trả bằng thất nghiệp và tổn thất sản phẩm. Tại sao xảy ra chính sách tiền tệ lạm phát? Mặc dù bây giờ chúng ta biết rằng cái gì xảy ra làm lạm phát tăng nhanh – một mức tăng trưởng tiền tệ cao – chúng ta vẫn không thể biết tại sao lạm phát cao xảy ra khi chúng ta chưa hiểu được tại sao xảy ra chính sách tiền tệ lạm phát. Nếu mọi người đồng ý rằng lạm phát không phải là một đIều tốt đối với nền kinh tế, thì tại sao chúng ta lại lưu ý đến nó nhiều như vậy? Tại sao các chính phủ theo đuổi các chính sách tiền tệ lạm phát? Bởi vì không có cái gì mà tự thân nó lại thích lạm phát . Và bởi vì chúng ta biết rằng một tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ cao không tự nó muốn xảy ra, vậy phải kết luận rằng vì cố rắng đạt được những mục đích khác, các chính phủ cuối cùng phải áp dụng một tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ cao và lạm phát cao. a. Nguyên nhân khách quan : Là do nền kinh tế của ta vốn lạc hậu, lại phải gánh chịu hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh, đòi hỏi ta phải có một nguồn chi to lớn để phục hồi nền kinh tế… Và cho dù không có chiến tranh thì Việt Nam phải chi phí cho việc bảo vệ đất nước khá lớn trong khi ngân sách nhà nước quá nhỏ, không đáp ứng nổi nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội. b. Nguyên nhân chủ quan : Do cơ cấu kinh tế, đầu tư không hợp lý làm sản xuất chậm phát triển trong khi dân số tăng nhanh, gây mất cân đối trên nhiều mặt, sản xuất chậm phát triển, thu nhập quốc dân sản xuất trong nước chỉ bảo đảm 80 – 90% quỹ tiêu dùng xã hội. Trong tình hình ấy, tài chính, tín dụng dù có giỏi đến mấy cũng không thể phân phối lại vượt quá số của cải trong nước làm ra cộng với số vay nợ, viện trợ rất hạn chế của nước ngoài. Chính sách tài chính chỉ tính đến việc thu và phát hành tiền để chi mà không biết nuôi dưỡng các nguồn thu, vay của dân để chi. Nhà nước ta chưa xây dựng được bảng cân đối tài chính quốc gia song song với việc xây dựng được bảng cân đối vật chất khác. Nhà nước cũng chưa sử dụng tài chính tiền tệ như những công cụ sắc bén để kiểm soất mức chi tiêu trong phạm vi toàn xã hội. Chính sách đổi tiền tăng giá là một chính sách phá giá đồng tiền. Từ đầu năm 1980 đến nay, nhà nước đã 3 lần tổng điều chỉnh giá với mức quá lớn, không đồng vộ. Nhà nước trung ương không điều hành nổi cơ chế giá ở tầm vĩ mô, buộc phải chấp nhận cơ chế trượt giá. Việc buông lỏng quản lý ngoại thương, ngoại hối cũng gây ra những tác hại lớn cho ngân sách và lưu thông tiền tệ. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chỉ chiếm 30% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi đó tiền thu về qua bán hàng nhập khẩu chẳng đáng bao nhiêu. Những chính sách trên đã làm cho nguồn thu càng ngày càng cạn kiệt, ngân sách càng ngày càng thiếu hụt và lạm phát ngày một gia tăng là điều không tránh khỏi. 4. Diễn biến và ảnh hưởng của lạm phát trong nền kinh tế thị trường : Lạm phát ngày nay đã trở thành một căn bệnh kinh niên, một hiện tượng phổ biến đối với nền kinh tế thị trường, tuỳ từng mức lạm phát mà có tác động khác nhau tới sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên không phải lúc nào nó cũng là một tai hoạ đối với xã hội, ở mức độ vừa phải thích hợp, nó kích thích việc đầu tư, mở rộng sản xuất. Lạm phát tạo niềm lạc quan và khuyến khích các khoản đầu tư lớn do làm tăng lợi nhuận và như thế lúc này kéo theo sự tăng trưởng của năng lực sản xuất. Lạm phát ở đây không phải là cái giá của sự tăng trưởng mà là động lực thúc đẩy sự phát triển đó. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng nhìn chung lạm phát thường gây nhiều tác hại đối với nền kinh tế. Hệ quả trực tiếp của lạm phát là đánh vào cuộc sống của người dân bởi việc phân bố lại thu nhập bị rối loạn. Trong cơ lạm phát xảy ra tình trạng kẻ giàu thì càng giàu hơn người nghèo thì càng nghèo đi. Lạm phát lúc này dường như ngẫu nhiên trở thành lực lượng có uy thế trong việc phân bố lại của cải tài sản của quốc gia giữa các tầng lớp người trong xã hội. Những chủ nhân của những món thu nhập như vàng, tiền… nhận thấy cuộc sống của họ đang suy giảm dần vì một mặt hàng nhất định, giờ đây họ cần phải trả một lượng tiền nhiều hơn do chỉ số giá tăng trong điều kiện khả năng thu nhập danh nghĩa của họ thường chậm chạp hơn so với giá. Sự xuống dốc của cuộc sống càng trở nên nghiêm trọng đối với những người làm công ăn lương. Lạm phát làm cho sức mua của đồng tiền có khuynh hướng giảm, mặc dù chúng có được điều chỉnh. Nhu cầu tăng lương để bảo đảm cuộc sống trở nên cấp bách, người thuê lao động - nhà tư bản lúc này buộc phải tăng lương và để chi phí ổn định với những biến đổi thì họ cần phải giảm bớt nhu cầu thuê lao động khiến cho số người thất nghiệp ngày càng tăng. Trong tình hình này, do tác động của lạm phát, giá cả tăng và lãi suất không thay đổi sẽ làm tiêu tan khoản lợi tức của những người có tiền gửi. Như vậy đối tượng vay nợ thường là các doanh nhân và lợi nhuận của họ thu được ngẫu nhiên đã tăng lên trên sự thiệt hại của các nhà tư bản tài chính. Lạm phát làm cho mặt bằng giá cả luôn có sức ép tăng liên tục. Điều này khuyến khích nạn đầu cơ hàng hoá, vàng, ngoại tệ mạnh, đẩy thị trường vào trạng thái khan hiếm giả tạo và làm giá cả có nguy cơ tăng vọt tạo thành vòng xoáy giá cả và cung cầu kéo dài. Đây là hệ quả trực tiếp thứ hai của lạm phát. Việc đầu tư trở nên hấp dẫn bởi triển vọng lợi nhuận do giá cả tăng lên cao mở ra. Tuy nhiên thông thường do tình hình biến đổi thất thường của đồng tiền việc đầu tư do đó trở nên hấp dẫn bởi triển vọng lợi nhuận do giá cả tăng cao mở ra. Tuy nhiên thông thường do tình hình biến đổi thất thường của đồng tiền, việc đầu tư đó ít được hướng vào các lợi ích kinh doanh lâu dài mà thường nhắm vào các mục tiêu lợi nhuận ngay trước mắt. Như vậy làm phát làm sai lệch những lợi ích kinh tế của những dự án phát triển, nhất là đối với dài hạn, khoản đầu tư lúc này có xu hướng thiên về tài trợ hơn là hướng về đầu tư cho các dự án phát triển. Lạm phát nuôi dưỡng sự đầu cơ rồi phá hoại mặt bằng cung cầu hàng hoá dịch vụ, nhu cầu thì nhiều mà hàng hoá thì khan hiếm. Sự mất cân đối kinh tế ngày càng trở nên trầm trọng và nó kéo theo những vấn đề nghiêm trọng về tiền tệ. Tính hiệu quả và cơ cấu của lưu thông tiền tệ – tín dụng – ngân hàng thường bị suy giảm mạnh, nhiều khi trở nên hỗn loạn làm chính sách kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó khăn. Có thể nói lạm phát và tiền tệ thường đi đôi với nhau, lạm phát lúc này như một thứ thuế đánh vào thu nhập và các khoản vốn nhàn rỗi cho những kẻ lợi dụng việc tăng giá để đầu cơ làm ngành sản xuất thiếu vốn, gặp nhiều trở ngại trong hoạt động. II. Phương hướng giải quyết lạm phát ở nước ta : 1, Những biện pháp khắc phục lạm phát : Để giữ vững những thành quả đạt được trong giai đoạn vừa qua và tiếp tục đẩy lùi lạm phát xuống chúng ta cần tiếp tục thực hiện đồng bộ một hệ thống trước mắt và lâu dài. Đó là những biện pháp cơ bản như : Tập trung sức mạnh sản xuất trên cơ sở sắp xếp lại các ngành sản xuất và bố trí lại cơ cấu đầu tư, cơ cấu tiêu dùng. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo ra nhiều loại hàng hoá cho xã hội, cần áp dụng hàng loạt các chủ trương chính sách nhằm giải phóng sức lao động, khai thác mọi khả năng tiềm tàng, khuyến khích các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế phát triển sản xuất. Thực hiện 3 chương trình về lương thực, thực phẩm, hành tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Trên cơ sở phát huy ưu thế trong nước, mạnh dạn mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, sử dụng ưu thế về kỹ thuật của nền kinh tế nước ta. Việc điều chỉnh cơ cấu theo hướng này, nhà nước ta đã bắt đầu tiến hành, nhưng trên thực tế chưa có sự biến chuyển rõ rệt. Cơ cấu đầu tư vốn, vật tư kỹ thuật, lao động về cơ bản vẫn theo nếp cũ. Nhà nước cần có những biện pháp kiên quyết, kịp thời, mạnh dạn cắt bỏ những công trình xét thấy không cần thiết, hạn chế hoặc không cấp vốn cho những xí nghiệp sản xuất kém, ưu tiên vốn, vật tư cho các đơn vị sản xuất có hiệu quả. Đối với những xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ kéo dài thì cần nhanh chóng chuyển đổi cơ hướng kinh doanh, cổ phần hoá hay giải thể để giảm gánh nặng cho nền tài chính quốc gia. Trong điều kiện lạm phát như hiện nay, nhà nước cần có chính sách huy động vốn thích hợp làm cho các thành phần kinh tế yên tâm, tin tưởng bỏ vốn vào sản xuất, được bảo đảm quyền sở hữu về vốn bỏ ra, được hưởng lợi ích chính đáng do lao động và vốn của họ mang lại. Phấn đấu giảm mức thâm hụt ngân sách: Bộ tài chính cần thông báo chính xác mức chênh lệch thu chi ngân sách. Tách các khoản vay của nhà nước ra khỏi ngân sách và chuyển thành các nguồn vốn đi vay, nếu ngân sách vay thì cũng phải trả lãi. Ngân sách có 4 nguồn thu: huy động trong nước, vay nợ nước ngoài, vay dân, vay ngân hàng. Trước mắt vay nợ nước ngoài có khó khăn do đó cần hướng vào các nguồn thu trong nước để tăng thu. Chủ yếu là thu thuế, thực hiện đánh thuế VAT, thuế vốn, thuế thu nhập… khai thác, bồi dưỡng các nguồn thu khác, hình thành bộ máy chống thất thu thuế tạo mọi điều kiện để bộ máy này hoạt động có hiệu quả Giảm chi: Rà soát lại các nguồn chi, thực hiện một chính sách chi tiêu nghiêm ngặt. Có thể cắt giẩm nhất định tỷ lệ một khoản chi tiêu nào chưa thật cần thiêt của cơ quan chức năng đồng thời có viện pháp dự phòng nhằm đối phó với những khoản chi tiêu ngân sách đột biến lớn có khả năng dẫn đến tái lạm phát. Hạn chế đến mức thấp nhất việc cung cấp tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh, các công ty nhà nước. Chấm dứt hoàn toàn việc phát hành tiền để cứu vớt xí nghiệp quốc doanh dưới bất kỳ hình thức nào. Thực hiện chính sách triệt để tiết kiệm gắn liền với chống tham ô lãng phí ngay từ các cơ quan nhà nước. Vay vốn trong dân: Theo các tài liệu tính toán thì tiềm năng vay vốn trong dân còn khá lớn , khoảng 6 đến 10 triệu lạng vàng. Nhà nước cần có chính sách thực tế để tạo lòng tin trong dân nhiều hơn như có cơ chế khuyến khích thoả đáng để hút vốn trong dân vì vay dân và trả lãi cho dân là điều dễ làm hơn vay nước ngoài. Tăng cường chức năng quản lý vĩ mô của ngân hàng nhà nước. Trước hết là sử dụng có hiệu quả các công cụ như lãi suất, tỷ giá, kiểm soát chặt chẽ việc phát hành trái phiếu, công trái, nâng cao hiệu suất kinh tế của vốn tín dụng. Cho các ngân hàng thương mại tự do hoạt động và mở rộng phạm vi vay. Việc qui định lãi suất phải căn cứ vào nhu cầu vốn. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là ngân hàng nhà nước phải giúp chính phủ tăng cường khả năng dự trữ vàng và ngoại tệ để khi cần thiết có thể tung ra chặn những cơn sốt đột biến, đồng thời có biện pháp kiềm chế không cho giá vàng và đô la hạ xuống dưới mức cần thiết, gây khó khăn cho xuất nhập khẩu. 2, Một số suy nghĩ của bản thân : Lạm phát không phải là một hiện tượng hoàn toàn xấu mà nó cũng có những ưu điểm, nghĩa là khi nền kinh tế phát triển có hiệu quả, tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mới nhanh và đúng hướng thì lạm phát trở thành một công cụ để tăng trưởng kinh tế và chống suy thoái. Vì vậy chúng ta cần phải kiềm chế lạm phát ở mức có thể chấp nhận được hay là lạm phát cân bằng và có dự tính tạo điều kiện trở thành động lực thúc đẩy quá trình sản xuất. Trước hết cần nâng cao lãi suất tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng trên mức lạm phát. Vì lãi suất ngân hàng thực chất là giá cả tiền tệ. Nếu mức lãi suất bằng mức lạm phát thì trên thực tế giá cả tiền tệ bằng 0. Tiền tệ chỉ có giá khi mức lãi suất trên mức lạm phát, nghĩa là có lãi thực tế. Khi lãi suất tăng, dù mức lạm phát có tăng lên cao bao nhiêu thì người có tiền gửi tiết kiệm vẫn không bị mất giá trị. Hơn nữa, biện pháp này đã gây được niềm tin của quần chúng nhân dân vào giá trị ổn định của đồng tiền. Chính lợi ích thiết thực do lãi suất cao hơn mức lạm phát mang lại đã thúc đẩy nhân dân gửi tiền tiếy kiệm. Trên kênh lưu thông, các đồng tiền thừa đã gây ra lạm phát nay chúng đua nhau chạy vào quỹ tiết kiệm. Khi nhà nước nâng cao lãi suất lên cao hơn mức lạm phát thì những doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mua hàng tích trữ rơi vào nguy cơ phá sản, cái lợi do giá tăng không bù đắp nổi lãi suất phải trả cho ngân hàng. Vì vậy tất cả các hàng hoá tồn kho sẽ được đưa ra thị trường làm cho cung lớn hơn cầu, và như vậy giá cả sẽ từ từ hạ xuống. Tiếp theo là phải tăng thu chi, cân bằng ngân sách chấm dứt phát hành tiền để chi ngân sách. Để giảm và tiến tới chấm dứt phát hành tiền theo yêu cầu chi của ngân sách nhà nước nhất thiết phải lấy thu qua thuế là giới hạn tối ưu của chi. Chỉ phát hành tiền phù hợp với nhu cầu của lưu thông tiền tệ chứ không phát hành tiền bù cho việc bội chi ngân sách. Nhà nước cần chi thì phải vay của dân để chi. Thu hút vốn nước ngoài dưới mọi hình thức viện trợ, vay, đầu tư. Về giá cả, nhà nước không chỉ khống chế mặt bằng giá một vài mặt hàng thiết yếu. Chỉ có thị trường mới xác định được lao động xã hội cần thiết trung bình để làm ra một hàng hoá. Do đó, nói chung nên để giá cả hình thành trên thị trường thông qua thoả thuận giữa người mua và người bán bởi vì qua thị trường, người kinh doanh sẽ tìm ra giá cả hợp lý để có thể mua được, bán được và kinh doanh có lãi. Giải phóng mọi năng lực sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay, bất kể thành phần nào, cá nhân nào dù chỉ làm ra những sản phẩm có giá trị ít cũng cần được khuyến khích và chân trọng. Cần đối xử ưu ái đối với các nhân tài trong nước, với những nhà khoa học Việt Nam đang sống ở nước ngoài. Kêu gọi lòng yêu nước và tài năng của họ để đưa khoa học kỹ thuật vào việc phát triển kinh tế đất nước. Kết luận Tóm lại, qua những phân tích sơ lược về lạm phát, chúng ta bước đầu có thể hiểu khái quát về hiện tượng xảy ra trong nền kinh tế. Trước hết có thể khẳng định rằng lạm phát là hiện tượng rất nhạy cảm với trạng thái của nền kinh tế. Nó do nhiều nguyên do khác nhau tác động ở các thời điểm khác nhau gây nê. Lạm phát nổ ra ở các nước chậm phát triển và ngay cả trong những nước phát triển nữa. Nó gây ra nhiều tác hại, đẩy nền kinh tế suy sụp theo thời gian. Có thể nói khái quát ở đây là sự tác động của lạm phát tới nền kinh tế và tới các mặt của đời sống chính trị xã hội, mâu thuẫn giữa các tầng lớp… đòi hỏi nếu không có biện pháp phòng chống thì nguy cơ khủng hoảng là điều tất yếu mà việc khắc phục lạm phát gia tăng tiêu tốn rất nhiều của cải, sức người. Bơỉ vậy các quốc gia cần thực hiện kiên trì, lâu dàI các biện pháp toàn diện nhằm khống chế và đưa lạm phát về mức không nguy hại tới nền kinh tế, tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy mà cuộc tranh cãi duy trì lạm phát tháp hay lạm phát bằng 0 là hợp lý vẫn còn kéo dài dai dẳng trong nền kinh tế. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình Tài chính – ĐH Quản lý và kinh doanh Hà Nội 2.Giáo trình Kinh tế học – Chương 28 Phần VII - Đại học Kinh tế quốc dân 3.Tạp chí Ngân hàng : số 16 4.Tạp chí cộng sản tháng 9/1989 , 12/1989, 6/1991 5.Tạp chí ASEAN-WEEK 98 6.Trang web : 7.Tin từ tổng cục thống kê 98 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28350.doc
Tài liệu liên quan