Luận án Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu vực tây nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay

Tài liệu Luận án Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu vực tây nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, ebook Luận án Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu vực tây nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay

doc177 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu vực tây nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Tác giả luận án Phạm Huy Thành MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN ĐẾN ĐỀ TÀI 7 1.1. Những nghiên cứu xung quanh vấn đề giá trị truyền thống, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống, nhân cách, nhân cách sinh viên 7 1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến toàn cầu hóa, tác động của toàn cầu hóa đối với nhân cách, lối sống, đạo đức của con người Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng 15 1.3. Những công trình nghiên cứu tác động của toàn cầu hóa đến đời sống của đồng bào dân tộc Tây Nguyên nói chung và thanh niên - sinh viên Tây Nguyên nói riêng 22 Chương 2: NHÂN CÁCH, NHÂN CÁCH SINH VIÊN, TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG NHẰM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY 29 2.1. Nhân cách, nhân cách sinh viên Việt Nam 29 2.2. Toàn cầu hóa và tầm quan trọng của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay 44 2.3. Giá trị đạo đức truyền thống và một số giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cần phải giáo dục cho sinh viên Việt Nam hiện nay 56 Chương 3: GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG NHẰM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN KHU VỰC TÂY NGUYÊN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 78 3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên ở khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay 78 3.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên ở khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay 89 3.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên ở khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay 116 Chương 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG NHẰM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN KHU VỰC TÂY NGUYÊN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY 122 4.1. Quan điểm định hướng để nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay 122 4.2. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay 127 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 164 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời người khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Nếu không có thế hệ trẻ, sẽ không có sự phát triển nối tiếp lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc, cũng như không có sự phát triển của nhân loại. Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta, nhân dân ta đã và đang đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, “có ý nghĩa lịch sử”, “đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình” [35, tr.91]. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân được nâng lên. Thế và lực của nước ta ngày càng vững mạnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, đã tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh những thành tựu to lớn và quan trọng đó, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức. Kinh tế phát triển chưa bền vững; năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả. Đặc biệt là trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Chúng ta đang chứng kiến sự xuống cấp đạo đức từ mối quan hệ trong gia đình, nhà trường và xã hội. Trong gia đình hiện tượng con cái ngược đãi cha mẹ, anh chị em vì mâu thuẩn lợi ích đã không nhìn mặt nhau. Trong trường học, học sinh, sinh viên đánh nhau được tung lên mạng internet làm phản cảm xã hội, thầy cô giáo bị coi thường. Ngoài xã hội là hiện tượng xuống cấp về đạo đức như tham nhũng, lừa đảo, lợi ích nhóm đang làm cho dư luận xã hội bức xúc. “Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại” [35, tr.169]. Sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng là một bộ phận thanh niên ưu tú, giàu tâm huyết, nhiệt tình và say mê với lý tưởng cách mạng. Họ là những người rất nhạy cảm với cái mới, thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh sống. Tuy nhiên, do tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm sống chưa nhiều, làm cho sinh viên rất dễ bị tác động bởi những yếu tố tiêu cực từ mặt trái của quá trình toàn cầu hoá. Sự tác động đó đang ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của sinh viên, đến sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên, đặt sinh viên trước những thách thức mới, trong đó có sinh viên ở khu vực Tây Nguyên. Trên thực tế, vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên có lối sống thực dụng, xa hoa lãng phí, xa rời truyền thống đạo lý của dân tộc, thậm chí thoái hoá, biến chất, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực trạng nhân cách của thanh niên - sinh viên khu vực Tây Nguyên nêu trên có nhiều nguyên nhân, một trong số đó là do chúng ta chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho những trí thức tương lai của vùng đất Tây Nguyên. Tại Hội nghị lần thứ tám, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Đảng ta ra Nghị quyết số 29 - NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết đã khẳng định: Lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốcTuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp“chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc” cho học sinh, sinh viên. Để củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng; làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt của đời sống trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Một trong những nhiệm vụ cấp thiết trước mắt là tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa, giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống (nhất là những giá trị đạo đức truyền thống); kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi sự xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh đang có nguy cơ làm băng hoại các giá trị văn hóa, làm suy thoái đạo đức lối sống trong một bộ phận nhân dân nói chung, sinh viên nói riêng. Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ” [35, tr.126], trong đó công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống để hình thành nên nhân cách mới - nhân cách xã hội chủ nghĩa cho sinh viên ở khu vực Tây Nguyên có tầm quan trọng đặc biệt. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề: “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay” để nghiên cứu và làm luận án tiến sỹ chuyên ngành triết học. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục tiêu Phân tích một số khái niệm công cụ của luận án: nhân cách, nhân cách sinh viên, giá trị, giá trị truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống, toàn cầu hóa, tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên. Làm rõ thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đối với việc xây dựng nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên, từ đó luận án đề xuất quan điểm định hướng và một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm công cụ của luận án: nhân cách, nhân cách sinh viên, giá trị truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống, toàn cầu hóa. Làm rõ tầm quan trọng, nội dung giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên nói chung, sinh viên khu vực Tây Nguyên nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó. Đề xuất một số quan điểm định hướng, giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên (nhất là sinh viên dân tộc thiểu số) trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Phạm vi: Diện khảo sát sinh viên hệ chính quy ở các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Nguyên. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục giá trị đạo đức truyền nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên khu vực Tây Nguyên nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử-lôgíc, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, các phương pháp chuyên ngành và liên ngành khác. Sử dụng phương pháp điều tra xã hội học: thời gian vào tháng 10 năm 2012, số phiếu phát ra 400 phiếu: trường Đại học Tây Nguyên 100 phiếu, đại học Đà Lạt 100, Cao đẳng Sư phạm Đắk Lăk là 100 phiếu, Cao đẳng Sư phạm Gia Lai 100 phiếu, kết quả thu về 376 phiếu. 5. Những đóng góp khoa học của luận án Góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm công cụ của luận án: nhân cách, nhân cách sinh viên, giá trị truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống, toàn cầu hóa. Phân tích vai trò giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đối với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó. Đề xuất một số quan điểm định hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm xây dựng nhân cách cho sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận: Luận án tập trung nghiên cứu các khái niệm: giá trị, giá trị đạo đức truyền thống, toàn cầu hoá, tính tất yếu của quá trình toàn cầu hoá. Về mặt thực tiễn: Luận án làm rõ thực trạng nhân cách sinh viên và công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên hiện nay. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, môn đạo đức học, đồng thời góp phần vào mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU XUNG QUANH VẤN ĐỀ GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG, GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG, NHÂN CÁCH, NHÂN CÁCH SINH VIÊN 1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến giá trị truyền thống, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống Vấn đề giá trị truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những mức độ khác nhau. Tác giả Trần Văn Giàu trong cuốn sách “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” [57] đã khẳng định tính cách dân tộc, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam được nhấn mạnh ở: lòng yêu nước, thương người. Đây là truyền thống quý báu của dân tộc đã được trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Từ đó, tác giả đặt ra vấn đề kế thừa, giáo dục những giá trị tinh thần yêu nước, thương người cho con người Việt Nam hiện nay. Bằng cách tiếp cận giá trị truyền thống có vai trò trong quá trình phát triển đất nước, tác giả Trần Đình Hượu trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống” [85] đã nêu lên cho xã hội một cách đánh giá, nhìn nhận đúng tầm quan trọng của văn hoá truyền thống trong đời sống xã hội. Xác định văn hoá truyền thống như một nguồn lực nội sinh và không ngừng ảnh hưởng đến việc xây dựng văn hoá mới trong giai đoạn hiện nay. Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Văn Lý “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” [97] đã làm rõ hơn vai trò của kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta. Qua đó, tác giả góp phần xác định nội dung, phương hướng, giải pháp cơ bản bảo đảm kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống nhằm xây dựng đời sống đạo đức tốt đẹp của con người và xã hội Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong quá trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, văn hóa luôn được cọi là động lực của sự phát triển. Các giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý trong cuốn “Tìm hiểu giá trị văn hoá truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [18] đã đề cập đến vấn đề giá trị, giá trị đạo đức truyền thống, giá trị văn hoá truyền thống và sự chuyển biến của chúng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công trình khoa học đề cập tương đối toàn diện về vấn đề khai thác, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống trong chiến lược phát triển con người Việt Nam toàn diện. Luận án tiến sỹ triết học của Võ Văn Thắng “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay” [122] đã làm rõ vấn đề xây dựng lối sống ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế là vấn đề lớn bao gồm nhiều phương diện khác nhau. Luận án phân tích và luận giải một cách khoa học về việc kế thừa, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc là vấn đề tất yếu trong quá trình xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở làm rõ các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, luận án đã xác định những giá trị văn hoá truyền thống dân tộc cần được kế thừa và phát huy trong quá trình xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay với những giá trị: chủ nghĩa yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết dân tộc, lòng nhân ái, khoan dung, cần cù, hiếu học. Cùng khai thác vấn đề trên cơ sở vai trò của các giá trị đạo đức truyền thống, tác giả Phan Văn Ba trong luận án tiến sĩ triết học “Vấn đề giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” [5] và Ngô Thị Thu Ngà với luận án tiến sĩ “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” [109]. Các tác giả đã làm rõ giá trị truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống trước những biến đổi của môi trường văn hóa xã hội ở nước ta hiện nay. Tác giả Phan Văn Ba đã góp phần làm rõ nội dung giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc Việt Nam và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của thanh niên Việt Nam. Từ đó, luận án đưa ra phương châm, phương pháp giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt Nam, quan hệ giữa giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc với giáo dục thanh niên trong điều kiện hội nhập quốc tế. Tác giả phát hiện những vấn đề nảy sinh từ thực trạng giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cùng xu hướng tách rời giữa quá khứ với hiện tại trong giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc. Tác giả Ngô Thị Thu Ngà đã làm rõ một số khái niệm cơ bản: đạo đức mới, giá trị đạo đức truyền thống, vai trò của giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở khảo sát thực trạng ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống đối với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam, tác giả đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ nước ta hiện nay. Như vậy, vấn đề giá trị truyền thống, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam luôn được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các giá trị truyền thống được làm sáng tỏ từ sự hình thành, phát triển và tiếp biến trong điều kiện mới. Nội dung nghiên cứu là các giá trị truyền thống, chủ yếu là các giá trị tinh thần được biến đổi trong sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta. Các công trình khoa học đã làm rõ các khái niệm giá trị, giá trị đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống. Cách tiếp cận của các công trình khoa học thường đi từ khái niệm giá trị và cấu trúc giá trị bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần; trong giá trị tinh thần thì giá trị đạo đức đóng vai trò chủ yếu. Song, có thể thấy, đó chủ yếu là các giá trị tinh thần (bao gồm giá trị đạo đức), và do vậy, việc nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống chỉ được nghiên cứu cùng với giá trị tinh thần khác, mà ít có công trình nghiên cứu chuyên biệt. Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho đối tượng cụ thể là sinh viên được nhiều công trình khoa học đề cập đến, nhưng đối với sinh viên khu vực Tây Nguyên chưa có một công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống. Luận án của tác giả sẽ kế thừa các khái niệm cộng cụ: giá trị, giá trị đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống của các công trình khoa học nêu trên để thực hiện mục đích, nhiệm vụ đặt ra. 1.1.2. Những công trình liên quan đến nhân cách, giá trị nhân cách, thực trạng nhân cách của con người Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước Các tác giả Đỗ Huy, Chu Khắc, Vũ Khắc Liên, Trường Lưu, Lê Quang Thiêm trong cuốn sách “Nhân cách văn hoá trong bảng giá trị Việt Nam” [75] đã có những lý giải về phương diện lý luận vấn đề nhân cách từ góc độ văn hóa. Ngoài ra các tác giả còn đề cập đến nền tảng các quan hệ xã hội, sự vận động của lịch sử đã tạo nên các bước phát triển của nhân cách. Từ đó, cuốn sách khẳng định xây dựng nhân cách mới làm phong phú bảng giá trị Việt Nam là khâu trung tâm của tiến bộ văn hoá và phát triển xã hội. Đề cập đến quan niệm nhân cách của một con người cụ thể, Đỗ Long trong cuốn “Hồ Chí Minh - những vấn đề tâm lý học nhân cách” [92] đã tập hợp những bài viết của các nhà khoa học tâm lý, giáo dục học đề cập đến quan niệm của Hồ Chí Minh về tâm lý học nhân cách, quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Các tác giả đã làm nổi bật nhân cách Hồ Chí Minh, một tấm gương tiêu biểu để cho mỗi con người Việt Nam học tập, noi theo. Ở Việt Nam, lần đầu tiên có cuộc điều tra giá trị được tiến hành vào năm 1993 đến năm 1994 trong phạm vi chương trình KX - 07, đề tài KX07 - 04 “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” [137]. Trong công trình này các tác giả nghiên cứu khái niệm nhân cách và đề cập đến giá trị, nhưng không có bài nào đề cập đến giá trị nhân cách. Vấn đề đặt ra ở đây là tìm mối quan hệ giữa giá trị (theo nghĩa giá trị học) và nhân cách, hay là vận dụng cách nghiên cứu của giá trị học và nghiên cứu nhân cách rồi từ đây đi đến khái niệm giá trị nhân cách. Để làm rõ sự biến đổi các giá trị trong nền kinh tế thị trường, năm 1994 Viện Triết học cùng với Trung tâm giao lưu văn hoá Việt Đức đã tổ chức hội thảo khoa học “Sự chuyển đổi giá trị trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường” [139]. Hội thảo tập trung 4 cụm vấn đề chính: Những vấn đề phương pháp nghiên cứu giá trị và sự chuyển đổi giá trị trong xã hội nói chung trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường nói riêng; về sự hình thành hệ thống giá trị trong cơ chế thị trường hiện nay; sự chuyển đổi giá trị trong văn hoá đạo đức; về giáo dục giá trị con người Việt Nam nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng. Hội thảo này đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự chuyển đổi giá trị nói chung và giá trị nhân cách nói riêng. Phạm Minh Hạc trong“Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEOPI-R cải biên” [60] đã đưa ra bảng hỏi trắc nghiệm Neopi-r có gần 200 câu hỏi trong đó có 6 giá trị (thái độ) đối với sức khoẻ, học vấn, đạo đức, tiền bạc, quyền lực, hạnh phúc gia đình mà chúng ta gọi là các giá trị cơ bản (sống còn) của cuộc sống. Ngoài ra có hơn 60 câu hỏi về 9 vấn đề: lý tưởng phấn đấu, thái độ chính trị, yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tôn trọng pháp luật, thái độ học tập, thái độ với đồng tiền, hội nhập mở cửa, thái độ với môi trường và thái độ với công việc. Đây là công trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về giá trị nhân cách theo phương pháp điều tra xã hội học. Nhấn mạnh vai trò của đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người Việt Nam, Lê Thị Thuỷ trong luận án tiến sỹ Triết học “Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” [126] đã đi sâu phân tích đặc điểm nhân cách con người Việt Nam và vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Việc khai thác vai trò của đạo đức như một yếu tố trong cấu trúc nhân cách và sự vận dụng các tri thức khoa học triết học, đạo đức học, tâm lý học, xã hội học để xây dựng mối quan hệ đạo đức và nhân cách làm căn cứ khoa học vững chắc. Từ đó, Luận án đề ra những luận cứ khoa học, giải pháp để nâng cao vai trò của đạo đức trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam: chân, thiện, mỹ. Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc đối với sự phát triển nhân cách con người Việt Nam tác giả Cao Thu Hằng trong luận án tiến sĩ “Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay” [68] đã phân tích một cách có hệ thống và luận giải những vấn đề lý luận về giá trị đạo đức truyền thống cũng như nhân cách trong tính tất yếu của việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống. Từ đó, luận án đưa ra những giải pháp để việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay được tốt hơn. Vấn đề thực tiễn trong xây dựng đạo đức, lối sống, thái độ, niềm tin, lý tưởng của thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thực hiện trong các cuộc điều tra năm 2007 “Điều tra tình hình tư tưởng và nhận thức chính trị của thanh niên trong giai đoạn hiện nay” [45]; năm 2008 “Tổng quan tình hình sinh viên, công tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VII (2003 - 2008)” [47] và trong Hội thảo khoa học năm 2008: “Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong thời kỳ hội nhập” [48]. Các công trìn này đã làm rõ tình hình tư tưởng và nhận thức chính trị cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Kết quả cuộc khảo sát cho thấy các nhận thức về niềm tin vào sự phát triển đất nước, thái độ đối với việc tham gia các tổ chức Đảng, Đoàn và các phong trào tình nguyện; niềm tin vào mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường và sự tác động của quá trình toàn cầu hoá. Mặt khác, kết quả khảo sát cũng cho thấy sự đề cao các chuẩn mực trong đời sống của sinh viên: điều kiện sống, điều kiện thành đạt, mẫu hình của người thành đạt, tâm tư nguyện vọng đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm thái độ của sinh viên trước các hiện tượng tiêu cực của xã hội. Về vấn đề sinh viên và sự định hướng các giá trị cuộc sống cho sinh viên, tác giả Trần Sỹ Phán trong bài báo “Sinh viên với định hướng giá trị nhân cách” [114] đã đưa ra thực trạng nhân cách sinh viên và một số giá trị nhân cách định hướng cho sinh viên Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Từ định hướng các giá trị nhân cách đó, giúp sinh viên Việt Nam nhận thấy được vai trò và trách nhiệm của mình với bản thân, gia đình, dân tộc. Trần Sỹ Phán trong luận án tiến sĩ triết học “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay” [115] đã làm rõ hơn về khái niệm nhân cách, tính đặc thù của nhân cách sinh viên. Đây là công trình khoa học nghiên cứu sâu vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam. Luận án góp phần làm sáng tỏ thực chất, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục đạo đức thông qua giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Từ đó, tác giả đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức nói chung, môn đạo đức học nói riêng. Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin có tầm quan trọng trong việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam, tác giả Hoàng Anh trong luận án tiến sĩ triết học “Giáo dục lý luận Mác - Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay” [2] đã góp phần làm rõ nhân cách, nhân cách sinh viên, quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên. Luận án đi sâu phân tích vai trò của giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đối với sự phát triển nhân cách của sinh viên Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Từ đó, tác giả đã đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin nhằm xây dựng nhân cách mới cho sinh viên, nhân cách xã hội chủ nghĩa. Đề cập đến vai trò của giáo dục trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên, tác giả Hoàng Anh trong cuốn “Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên” [3] đã trình bày những vấn đề lý luận chung về nhân cách, nhân cách sinh viên. Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng đạo đức sinh viên Việt Nam và vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng để hình thành, phát triển nhân cách sinh viên. Đề cập đến các giá trị cuộc sống của sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập, tác giả Phạm Huy Thành trong bài báo“Quan niệm về giá trị cuộc sống của sinh viên Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường” [120] tập trung làm rõ sự tác động của nền kinh tế thị trường đối với cuộc sống của sinh viên ở những mặt tiêu cực và tích cực. Các giá trị cuộc sống được sinh viên quan niệm: ý nghĩa cuộc sống, điều kiện thành đạt, quan hệ bạn bè, thầy trò và những người xung quanh. Từ đó, tác giả đưa ra bốn giải pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực do tác động của cơ chế thị trường đối với đời sống sinh viên hiện nay. Ngoài một số công trình trên, liên quan đến vấn đề nhân cách còn có cuốn “Chủ nghĩa xã hội và nhân cách” [4] đề cập đến vấn đề nhân cách trong xã hội chủ nghĩa, bắt nguồn từ mối quan hệ kinh tế, chính trị, pháp luật, tinh thần, đạo đức, mỹ học. Mặt khác, cuốn sách đã chú ý tới những vấn đề có tính chất xuất phát điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhân cách như: bản chất nhân cách, cơ chế quyết định thế giới tinh thần và hoạt động của nhân cách. Tóm lại, vấn đề nhân cách, sự hình thành và phát triển nhân cách ở nước ta được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, nhằm xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các công trình đề cập đến khái niệm nhân cách, quá trình hình thành và phát triển cách, cấu trúc nhân cách; vai trò của giáo dục đối với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng. Cách tiếp cận của các công trình khoa học trên thường khai thác khái niệm nhân cách, cấu trúc nhân cách và quá trình hình thành, phát triển nhân cách; cấu trúc nhân cách bao gồm tài và đức là vấn đề xuyên suốt được phân tích rõ trong quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách. Chưa có công trình nào nghiên cứu nhân cách dưới góc độ cụ thể, chẳng hạn, nghiên cứu vai trò giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đối với việc xây dựng nhân cách con người Tây Nguyên nói chung, sinh viên nói riêng. Do vậy, đây là hướng nghiên cứu mới của luận án, làm rõ vai trò giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đối với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên. Đồng thời, luận án kế thừa các khái niệm nhân cách, cấu trúc nhân cách và cách triển khai cấu trúc nhân cách trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên khu vực Tây Nguyên. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TOÀN CẦU HÓA, TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐỐI VỚI NHÂN CÁCH, LỐI SỐNG, ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ SINH V...mặt: sinh học và xã hội của con người thì mặt sinh học là điều kiện cần, còn xã hội là điều kiện đủ. Do đó, con người luôn luôn giữ vai trò chủ thể trong mọi hoạt động. Tuy nhiên, vai trò này phụ thuộc vào trình độ trí tuệ của mỗi cá nhân. Cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất với một hệ thống những đặc điểm cụ thể, không lặp lại, khác biệt với những cá nhân khác về mặt sinh học cũng như về mặt xã hội, cá nhân cũng là sự thống nhất của hai mặt: mặt sinh vật và mặt xã hội. Về mặt sinh vật mỗi cá nhân là một cơ thể sống đơn nhất với những cấu trúc cơ thể và đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt. Về mặt xã hội, mỗi cá nhân là thành viên của xã hội và không bao giờ tách khỏi xã hội. Quan hệ giữa xã hội và cá nhân là hiện tượng lịch sử, bao giờ quan hệ này cũng biến đổi và phát triển trong lịch sử. Xã hội được tạo ra từ những mối quan hệ của các cá nhân, mối quan hệ của hoạt động nhóm, cộng đồng, tập đoàn xã hội do mục đích và yêu cầu lịch sử đặt ra. Do đó, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong xã hội cổ đại không giống như trong xã hội trung đại, hay xã hội hiện đại. Mỗi cá nhân bao giờ cũng có đời sống riêng, với những mối quan hệ xã hội riêng, kinh nghiệm riêng, có nhu cầu lợi ích riêng. Chính vì vậy, không bao giờ được cào bằng giữa các cá nhân với nhau. Tuy nhiên, các cá nhân trong xã hội dù có khác biệt nhau đến đâu đi nữa thì cũng mang những cái chung: là thành viên xã hội, mang bản chất xã hội, chịu sự tác động của các quy luật xã hội và không thể sống ngoài xã hội. Như vậy, cá nhân là một khái niệm dùng để chỉ một cá thể người có sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, chịu sự tác động to lớn trong quá trình phát triển của xã hội, là chủ thể của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Liên quan đến khái niệm con người, cá nhân còn có khái niệm nhân cách. Nhân cách là một thuật ngữ thường được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày. Người ta thường đề cao hiểu biết, sáng tạo nhân cách trong các hoạt động xã hội, trong hành vi ứng xử giữa con người với con người. Do vậy, nhân cách đã được rất nhiều ngành khoa học quan tâm trong đó có triết học. Trong thời kỳ cổ đại, đã có một số nhà tư tưởng ít nhiều đã bàn về vấn đề nhân cách, chẳng hạn như Arixtôt đã đề cập đến vai trò của xã hội và giáo dục đối với việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong lúc đó, Platon cho rằng: nhân cách là cái gì đó phi vật chất, là kết quả của sự bắt chước “ý niệm”, chỉ là cái bóng của “ý niệm” chứ không phải là bản thân “ý niệm”. Quan niệm tôn giáo cho rằng: nhân cách là yếu tố tinh thần đầu tiên của tồn tại người và chúa là nhân cách tối cao có trước và chi phối nhân cách con người. Chủ nghĩa duy vật trước Mác thường có xu hướng tuyệt đối hoá mặt tâm lý, sinh lý, xem nhẹ mặt xã hội hay tách rời mặt xã hội và mặt tự nhiên của nhân cách. Lamêtơri (1709 - 1751) cho rằng: nhân cách con người chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố sinh học, còn yếu tố xã hội được xem là thứ yếu. Trong triết học Phương Đông người ta không bàn trực tiếp đến khái niệm nhân cách, cấu trúc nhân cách, nhưng các triết gia tiêu biểu của nền triết học phương Đông ngay thời đại cổ đại đã đưa ra nhiều kiến giải sâu sắc về bản chất, bản tính và đạo làm người. Tư tưởng triết học “nhân sinh” của Khổng Tử và các học trò của ông sau này, chữ “nhân” đã được nói đến nhiều lần. Người có “nhân” đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất, nên “nhân” là nghĩa rộng nhất của đạo làm người. Khổng Tử nói: “Khắc kỷ, phục lễ vi nhân” = vượt lên trên mình, phục tùng kỷ luật trở thành Người - con người nhân cách [125, tr.251-152]. Cùng với triết học, tâm lý học cũng nghiên cứu về nhân cách. Các nhà tâm lý học quan niệm nhân cách là: “Hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của các cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai” [113, tr.233]. Định nghĩa này, đã cho chúng ta thấy được bản chất xã hội của nhân cách đồng thời nêu lên được cấu trúc và cơ chế phát triển của nhân cách với tư cách là con người làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ ngay chính bản thân mình. Trên đây chưa phải là tất cả, nhưng chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ cho thấy để có được một quan niệm đầy đủ về nhân cách là một vấn đề không đơn giản. Hơn nữa như Ph.Ăngghen viết trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” rằng: đúng về mặt khoa học mà nói, thì mọi định nghĩa đều chỉ có một giá trị nhỏ thôi. Từ vấn đề nhân cách được lý giải như trên, chúng tôi đồng ý với quan niệm cho rằng: Nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử - cụ thể, tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò của chủ thể nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực xã hội khác [115, tr.19]. Khi nói đến nhân cách của con người là nói đến những vấn đề: Thứ nhất, con người hiện thực, gắn với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Thứ hai, nhân cách của từng cá nhân riêng biệt, có những mối quan hệ mật thiết với tự nhiên, xã hội. Thứ ba, đề cập đến các chuẩn mực xã hội (đạo đức, thẩm mỹ) do chính điều kiện lịch sử - xã hội của mỗi thời đại, mỗi quốc gia quy định. Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con người, và những phẩm chất đạo đức mà mỗi con người cần phải có. Để có một khái niệm nhân cách toàn diện cần phải xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất xã hội của con người. Xét về mặt cấu trúc, nhiều ý kiến cho rằng nhân cách gồm hai mặt thống nhất với nhau là phẩm chất và năng lực, hay nói cách khác nhân cách là sự thống nhất của phẩm chất đạo đức và năng lực. Vấn đề phẩm chất đạo đức và năng lực lâu nay vẫn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng phẩm chất đạo đức là cái gốc quan trọng, quyết định toàn bộ nhân cách của con người. Nhưng cũng không ít ý kiến khẳng định trong điều kiện của nền kinh tế thị trường thì không chỉ có đạo đức là đủ, mà điều cần thiết là năng lực. Chúng tôi cho rằng cả phẩm chất đạo đức và năng lực là nội dung quan trọng trong cấu trúc nhân cách. Đức được coi là gốc, nền tảng của nhân cách hay còn gọi là hạt nhân cơ bản của nhân cách con người. Thành phần của Đức bao gồm: “1) phẩm chất xã hội (thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, thái độ chính trị - xã hội, trong đó thế giới quan là thuộc tính kết cục chủ yếu của nhân cách, là đặc quyền của con người vươn tới tầm cao của tinh thần) (A.G.Xpirkin) 2) phẩm chất cá nhân (còn gọi là đạo đức, tư cách của cá nhân). 3) Phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tính mục đích, tính quả quyết, tính kiên trì, tính dũng cảm). 4) cung cách ứng xử (tác phong lễ tiết, tính khícủa con người)” [115, tr.21]. Khi nói đến năng lực là chúng ta muốn nói đến năng lực thích ứng với xã hội, các năng lực đó bao gồm: 1) năng lực xã hội hoá là khả năng tích luỹ tri thức và vận dụng tri thức đó vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống. 2) năng lực chủ thể hoá là khả năng thể hiện tính độc đáo, sáng tạo của mỗi cá nhân để lại dấu ấn cho cộng đồng và xã hội. 3) năng lực hành động thể hiện sự chủ động trong hành động để đạt được mục tiêu được đề ra. Sự thống nhất giữa phẩm chất đạo đức và năng lực ở mỗi cá nhân có được chủ yếu là do quá trình đào tạo, rèn luyện của bản thân mỗi cá nhân đó tạo nên. Khi nói đến sự thống nhất này, Hồ Chí Minh thường đề cập đến mối quan hệ giữa “hồng” và “chuyên”, thể hiện quyết tâm xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa “vừa hồng, vừa chuyên”. 2.1.2. Một số nhân tố cơ bản tác động đến sự hình thành nhân cách Nhân cách của mỗi cá nhân không phải hình thành một lúc, một lần là xong mà diễn ra theo một quá trình, suốt cả cuộc đời và chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố, trong đó nổi lên mấy yếu tố cơ bản sau đây: Thứ nhất, quá trình hình thành và phát triển nhân cách luôn gắn liền với giáo dục. Quá trình giáo dục và tự giáo dục luôn là một nhân tố tác động quan trọng nhất đối với quá trình phát triển nhân cách của con người, định hướng các giá trị cuộc sống cho con người. Điều này, được cắt nghĩa bởi các lý do sau đây: Một là, quá trình học tập của một con người chiếm một tỷ lệ rất lớn trong cuộc đời của họ, họ học tập từ lúc mới sinh ra cho đến lúc trưởng thành và lúc về già. Con người tham gia vào các quá trình hoạt động của xã hội, để thích ứng với môi trường xã hội thì buộc con người phải tham gia quá trình học tập, học ở nhà trường, học ở mọi người. Khi đề cập đến nhiệm vụ của Thanh niên nói chung, của đoàn Thanh niên Cộng sản nói riêng, V.Lênin nói rằng, Thanh niên bây giờ chỉ có một nhiệm vụ, nhiệm vụ đó có thể tóm gọn bằng một từ, nhiệm vụ đó là: học tập. Hồ Chí Minh quan niệm học tập là sự nghiệp suốt đời của mỗi con người (học ở nhà trường, học ở nhân dân, học ở thực tiễn cuộc sống). Chính vì vậy, tất cả những gì tốt đẹp của giáo dục, tự giáo dục đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Hai là, trong môi trường giáo dục con người trưởng thành về mặt nhận thức và hoàn thiện dần về nhân cách. Quá trình giáo dục trang bị cho con người tri thức về tự nhiên và xã hội, các kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng sống, những giá trị về văn hoá nhân loại, văn hoá dân tộc, giá trị đạo đức, pháp luật, tôn giáo, chính trị, khoa học công nghệ.v.v. Nhờ những tri thức con người tiếp thu được trong quá trình giáo dục không chỉ giúp con người nhận thức được thế giới mà còn cải tạo thế giới, yếu tố thực sự góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách của con người. Mặt khác, thông qua giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau, kế thừa các thành tựu văn minh nhân loại để hình thành nên nhân cách. Ba là, giáo dục là môi trường xã hội đặc biệt, trong đó diễn ra nhiều tương tác xã hội mà chủ thể chính là những con người. Đó là mối tương tác giữa người dạy và người học, giữa bạn bè cùng trang lứa, giữa các thế hệ để truyền tải tri thức cho nhau, kế thừa kinh nghiệm của nhau. Chính mối tương tác này, tác động lên cuộc sống hàng ngày của mỗi người tạo nên quá trình hình thành nhân cách, ngăn chặn được những tác động tiêu cực, phản giá trị của cuộc sống. Giáo dục là một hiện tượng xã hội, trong đó một tập hợp xã hội (nhóm người) đã tích luỹ được vốn kinh nghiệm nhất định truyền đạt lại cho nhóm xã hội khác nhằm giúp họ tham gia vào đời sống xã hội, giúp họ hiểu biết các chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội để xây dựng thành nhân cách phù hợp với sự đòi hỏi của lợi ích xã hội [71, tr.5]. Có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách con người, cả về mặt năng lực lẫn phẩm chất đạo đức phụ thuộc rất lớn vào giáo dục. Những tố chất bẩm sinh - di truyền có thể được coi là điều kiện cần thiết ban đầu cho sự phát triển năng lực, tài năng. Nhưng sự phát triển năng lực của con người, của nhân cách phụ thuộc vào một yếu tố khác, đó là yếu tố xã hội - lịch sử, trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng. Trong “Hệ tư tưởng Đức” C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết rằng: “Một cá nhân đại loại như Ra-pha-en có thể phát triển được tài năng của mình hay không - điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào nhu cầu, mà nhu cầu thì lại tùy thuộc vào phân công lao động và tùy thuộc vào những điều kiện giáo dục con người do sự phân công ấy sản sinh ra” [98, tr.574]. Thứ hai, quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu sự tác động qua lại giữa cá nhân và xã hội. Xã hội hoá cá nhân thực chất là quá trình cá nhân tham gia vào đời sống xã hội. Đây là quá trình xã hội tác động tới cá nhân, làm cho cá nhân hoà nhập và thích nghi với đời sống của cộng đồng, trở thành thành viên của cộng đồng. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn quan tâm tới quá trình con người tham gia vào các hoạt động xã hội trong việc hình thành và phát triển nhân cách phù hợp với các giá trị chuẩn mực xã hội. Mọi chuẩn mực và giá trị xã hội được hình thành từ hoạt động lao động của con người. Quá trình đó làm nảy sinh bản tính người trong quan hệ xã hội và bản chất xã hội của con người. Cơ sở cho mọi lối sống đều được nghiên cứu từ tính chất và trình độ hoạt động lao động. Từ khi xuất hiện các quan hệ sản xuất thì nhiều quan hệ giao tiếp khác cũng ra đời. Trong quá trình tham gia của cá nhân vào hoạt động của xã hội, những giá trị, các chuẩn mực xuất hiện, cùng với sự quy định của lịch sử đã tác động to lớn tới việc hình thành và phát triển nhân cách. Sự hình thành và phát triển nhân cách luôn chịu sự chi phối bởi các quan hệ, trong đó quan hệ lợi ích giữ vai trò quan trọng. Bởi vì, khi đánh giá nhân cách của một con người thì người ta luôn đặt trong mối quan hệ lợi ích của cộng đồng, tập thể, lợi ích cá nhân và lợi ích của quốc gia dân tộc. Con người khi mới sinh ra nhân cách chưa xuất hiện, nhân cách chỉ có ở mỗi con người khi con người tham gia vào quá trình hoạt động xã hội, các hoạt động đó đặt trong mối quan hệ nhiều chiều (gia đình - nhà trường - xã hội). Đây chính là quá trình con người tham gia vào quá trình giao tiếp, hoạt động xã hội để làm biến đổi con người không chỉ về mặt sinh học mà còn biến đổi về mặt xã hội. Sự biến đổi đó chính là quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Thứ ba, sự hình thành và phát triển nhân cách con người chịu sự chi phối bởi các yếu tố văn hoá - xã hội trong các giai đoạn lịch sử cụ thể. Con người đã sáng tạo ra các giá trị văn hoá - xã hội và ngược lại các giá trị văn hoá - xã hội lại tác động đến quá trình phát triển nhân cách. Xã hội nào cũng hình thành các giá trị văn hoá chứa đựng những phong tục tập quán, lối sống, những điều cấm kỵ tạo nên các chuẩn mực của văn hoá - xã hội. Những giá trị, chuẩn mực của văn hoá - xã hội được phản ánh qua thế giới quan, tri thức hiểu biết về xã hội, ý thức thẩm mỹ, giá trị đạo đứcNhững giá trị chuẩn mực này tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách của con người thông qua giáo dục và tự giáo dục. Mối quan hệ giữa nhân cách và các giá trị văn hoá truyền thống không phải là một chiều mà là quan hệ biện chứng: mỗi cá nhân, một mặt tiếp nhận sự tác động của các giá trị văn hoá truyền thống một cách tích cực, có cải biến, chọn lọc, kế thừa và chuyển hoá để biến thành cái “tôi” bên trong; mặt khác, thông qua hoạt động tích cực của mỗi cá nhân lại tác động trở lại làm phong phú thêm các giá trị văn hoá truyền thống. Lịch sử phát triển của xã hội loài người diễn ra vô cùng phức tạp, các giá trị chuẩn mực xã hội luôn đan xen, tác động lẫn nhau, ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của nhân cách con người. Khi nhân cách được hình thành, con người trở thành chủ thể xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển nhân cách của chủ thể dựa vào tiếp thu các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc và các chuẩn mực xã hội khác, trên cơ sở của một phương thức sản xuất nhất định của xã hội đó. Thứ tư, quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu sự chi phối của đạo đức - nhân tố cốt lõi trong cấu trúc nhân cách. Đạo đức là một trong những yếu tố cấu thành nhân cách và là nòng cốt, hạt nhân của nhân cách. Có thể nói thành tố đạo đức là phẩm chất đầu tiên của nhân cách. Phẩm chất đạo đức của từng cá nhân thường được biểu hiện thông qua những đức tính cơ bản: yêu nước, thương người, khiêm tốn, dũng cảm, có ý thức trách nhiệm với bản thân gia đình và xã hộiNhững phẩm chất đạo đức cá nhân gắn chặt với toàn bộ hoạt động của con người tạo nên nền tảng của nhân cách. Đạo đức được hình thành và phát triển bắt đầu từ chính yêu cầu xã hội, do xã hội quy định ra các chuẩn mực, quy tắc để hướng dẫn hành vi của con người. Trước yêu cầu của sự phát triển, mỗi cá nhân tiếp thu các quy tắc, chuẩn mực ở những mức độ khác nhau, tùy thuộc vào trình độ học vấn, vào địa vị xã hội, do nhu cầu công việc. Từ đó hình thành nên những giá trị đạo đức giúp con người biết đánh giá đúng sai, biết đưa ra các nguyên tắc sống cho phù hợp với sự vận động phát triển của xã hội. Đây chính là lý tưởng đạo đức thể hiện ở sự định hướng các giá trị đạo đức, hình thành nên tâm lý cá nhân, nhóm người, cộng đồng, tạo nên cấu trúc bền vững cho nhân cách. Trong đời sống xã hội của con người, sự quan tâm tới lợi ích của cá nhân, cộng đồng, xã hội là sự thể hiện tình cảm đạo đức và trở thành động lực để mỗi cá nhân thể hiện phẩm chất đạo đức và năng lực của mình. Một nhân cách phát triển chỉ có ở những con người với tư cách là chủ thể đạo đức thể hiện sự đồng cảm, thông cảm, biết đau, biết buồn trước nỗi đau của người khác. Chính điều đó thể hiện xúc cảm đạo đức, quy định cách ứng xử trong giao tiếp giữa con người với con người. Hồ Chí Minh là một điển hình cho phẩm chất đạo đức và là một nhân cách lớn, Người đã từng nói: cả đời tôi, tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Vai trò của đạo đức đối với nhân cách là sự thể hiện những giá trị đạo đức là cơ sở và điều kiện tinh thần thể hiện sức mạnh bản chất của nhân cách con người. Đạo đức là nền tảng của nhân cách, chi phối sự vận động và phát triển nhân cách, đồng thời đạo đức mang tính định hướng cho nhân cách phát triển một cách hài hòa. Trong các giá trị đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống có vị trí đặc biệt, là yếu tố quan trọng cấu tạo nên nền văn hoá của mỗi dân tộc. Hình thành và phát triển nhân cách của con người cũng chịu ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đó. 2.1.3. Sinh viên và nhân cách sinh viên Sinh viên Việt Nam - tầng lớp xã hội đặc thù: Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là bộ phận ưu tú của thanh niên Việt Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò, vị trí của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng. Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia, hoạt động lao động trong một lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội hoặc sinh viên là những người đang học tập ở các trường cao đẳng, đại học trong và ngoài nước [44, tr.13]. Khác với những bộ phận thanh niên khác, sinh viên là những công dân có độ tuổi chủ yếu từ 18 đến 30 đang học tập ở trình độ đại học, cao đẳng, đang chuẩn bị những nền tảng tri thức, kỹ năng cần thiết cho các hoạt động chuyên môn nghề nghiệp sau này. Một trong những biểu hiện đặc thù của sinh viên là chỗ họ luôn nêu cao khả năng tự ý thức, tự đánh giá và luôn luôn muốn tự khẳng định mình.        Tự ý thức của sinh viên được hình thành trong quá trình xã hội hóa và liên quan đến tính tích cực xã hội của sinh viên. Giúp sinh viên có những hiểu biết và thái độ đối với bản thân mình để chủ động định hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Trong quá trình học tập ở các trường đại học, cao đẳng việc định hướng tương lai của sinh viên có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tự ý thức của họ. Mức độ tự ý thức của sinh viên phụ thuộc vào mục đích và thời gian đặt ra cho mục đích đó. Có những sinh viên luôn đặt ra mục đích phấn đấu cho bản thân mình, họ luôn có một kế hoạch lâu dài, những dự định tốt đẹp và có ý chí vươn lên trong cuộc sống. Thực tế cho chúng ta thấy, những sinh viên có kết quả học tập xuất sắc thường chủ động tích cực, sáng tạo, tìm tòi những tri thức mới, tích cực hoạt động nhận thức, khám phá tri thức và sống đúng mực với mọi người và luôn muốn khẳng định nhân cách của mình.        Năng lực tự đánh giá của sinh viên, góp phần quan trọng trong việc tham gia các hoạt động xã hội và tự rèn luyện bản thân. Tự đánh giá là thể hiện thái độ đối với bản thân và kết quả biểu hiện các thuộc tính nhân cách, năng lực hoạt động, tự giáo dục. Sinh viên hoạt động trong môi trường lao động trí tuệ căng thẳng, luôn phải tìm tòi khám phá những tri thức khoa học về thế giới xung quanh. Trong môi trường đó, sinh viên không chỉ lớn lên về mặt tri thức, mà còn phát triển các chức năng tâm lý: tư duy, trí nhớ, tình cảmBên cạnh học tập, sinh viên còn tham gia vào các hoạt động xã hội: hiến máu nhân đạo, chiến dịch mùa hè xanh, tư vấn mùa thiđã làm khả năng tự đánh giá của sinh viên có những bước phát triển mới về mặt nhận thức và kinh nghiệm.        Biểu hiện thứ hai của tính đặc thù ở sinh viên chính là việc xây dựng kế hoạch để thực hiện nghề nghiệp mà mình đã chọn:        Trong quá trình học tập, sinh viên tiếp thu những tri thức từ các môn khoa học, tham gia các hoạt động khác nhau của đời sống xã hội, nên xu hướng nghề nghiệp của sinh viên được hình thành và phát triển. Đó là ý định của cá nhân muốn sử dụng những tri thức, kinh nghiệm, năng lực của mình vào nghề nghiệp đã chọn. Sự hình thành xu hướng nghề nghiệp ở sinh viên được xác định bởi tính ổn định hay không ổn định, bởi ưu thế của các động cơ xã hội và triển vọng phát triển ở từng cá nhân. Nội dung xu hướng nghề nghiệp được biểu hiện ở: các động cơ liên quan đến nghề nghiệp trong tương lai; mong muốn thực hiện tốt trách nhiệm công việc; tăng cường khả năng giải quyết các vấn đề, những nhiệm vụ học tập phức tạp; có tình cảm nghề nghiệp và mong muốn thành đạt trong hoạt động nghề nghiệp, những biểu hiện này liên quan đến thái độ, sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên. Đó là sự chuẩn bị cả về mặt sức khỏe, tinh thần và trí tuệ để đáp ứng yêu cầu công việc. Nó đảm bảo cho niềm tin đúng đắn vào nghề nghiệp trong tương lai, là cơ sở để khẳng định nhân cách và củng cố tình yêu vào lĩnh vực chuyên môn mà mình lựa chọn. Nhân cách sinh viên Trong xã hội mỗi cá nhân, mỗi con người ở những địa vị khác nhau đều có sự thể hiện nhân cách khác nhau, phù hợp với vị thế xã hội của con người đó. Ví dụ: nhân cách người chiến sỹ công an, người bộ đội, người lãnh đạo, hay nhân cách của người công nhân, của người giáo viênSinh viên một tầng lớp xã hội đặc thù, cũng tạo nên tính đặc thù trong nhân cách của mình. Xuất phát từ tính đặc thù của sinh viên, hoạt động chủ yếu của họ là học tập và bước đầu tham gia vào nghiên cứu khoa học, nắm vững một lĩnh vực tri thức nghề nghiệp nhất định để sau này trở thành chuyên gia của nghề nghiệp đó. Nhân cách sinh viên là trường hợp cụ thể của nhân cách, là hình thức biểu hiện tính người ở một tầng lớp đặc thù. Xuất phát từ quan niệm này chúng ta có thể hiểu: Nhân cách sinh viên là toàn bộ những năng lực, phẩm chất đạo đức của mỗi sinh viên, biểu hiện qua các hoạt động học tập, giao tiếp, ứng xử, giúp sinh viên tự điều chỉnh hành vi, tự đánh giá để hoàn thiện bản thân mình. Nhân cách sinh viên là nhân cách của con người trẻ tuổi đang chuẩn bị để thực hiện chức năng người chuyên gia có trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực nào đó của xã hội. Sinh viên đang trong giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể lực tâm sinh lý sang trưởng thành về phương diện xã hội (ổn định nhân cách). Trong thời kỳ này sinh viên có sự biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp. Sinh viên xác định con đường hướng tới tương lai, có kế hoạch cho hoạt động của mình, độc lập trong phán đoán hành vi, tích cực nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu thể hiện mình trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Tuy nhiên, ở giai đoạn này thế giới nội tâm của sinh viên có nhiều phức tạp và mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa khả năng và ước mơ; điều kiện và kinh nghiệm; mong muốn học những môn học mình yêu thích với yêu cầu thực hiện toàn bộ chương trình học tập: số lượng thông tin qúa nhiều và thời gian xử lý thông tin quá ít. Sự phát triển nhân cách của sinh viên nằm trong một qúa trình biện chứng của các vấn đề nảy sinh và giải quyết các mâu thuẫn: là quá trình chuyển các yêu cầu bên ngoài vào ngay chính bên trong của bản thân họ, đây là quá trình tự vận động và hoạt động tích cực với mục tiêu cao nhất là đáp ứng các chuẩn mực của nghề nghiệp. Cấu trúc nhân cách sinh viên Trong luận án chúng tôi đã trình bày cấu trúc nhân cách bao gồm phẩm chất đạo đức và năng lực, ở cấu trúc nhân cách sinh viên tác giả luận án cũng tiếp cận theo cấu trúc này. Dựa trên kết quả khảo sát về niềm tin lý tưởng và định hướng giá trị cho sinh viên của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm 2008, cùng với kết quả khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Chúng tôi bước đầu khẳng định: Về phẩm chất đạo đức của đại bộ phận sinh viên Việt Nam hiện nay: có niềm tin lý tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có nhu cầu vật chất và tinh thần lành mạnh, phong phú, lối sống văn hóa, tình nghĩa, yêu lao động, có ý thức pháp luật, có trách nhiệm với gia đình, quê hương và cộng đồng. Về mặt năng lực của sinh viên Việt Nam hiện nay nhìn chung: nỗ lực trong học tập, lao động, năng động, có tri thức khoa học, có khả năng tư duy độc lập và năng lực sáng tạo trong việc tiếp thu cái mới, thích ứng nhanh với những biến đổi của đời sống xã hội. Nhân cách sinh viên Việt Nam thể hiện sự thống nhất những phẩm chất cá nhân tiêu biểu cho sự phát triển của sinh viên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà đặc trưng của nó đó chính là tính chủ thể (tính độc lập, tự chủ, năng lực sáng tạo, có tri thức) đồng thời biểu hiện sự phát triển về mặt trí tuệ và tinh thần ngày càng cao, cũng như sự hoàn thiện về mặt thể chất ở họ. Hiện nay, sinh viên Việt Nam đang sống, học tập và rèn luyện trong bối cảnh nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ với nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Họ đang đứng trước trọng trách nặng nề nhưng rất vẻ vang của đất nước giao phó: sinh viên là những trí thức trẻ trong tương lai và là lực lượng bổ sung cho nguồn nhân lực chất lượng cao để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Là những người có tri thức, năng động, nhạy cảm, có khả năng tiếp thu những cái mới, có thái độ phê phán những cái sai, cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ; có quan niệm tích cực, tiến bộ về tự do, hòa bình, dân chủ, bình đẳng, nhân đạo, lối sống mới, nếp sống mới. Ở độ tuổi sinh viên, nhận thức về cuộc sống, quan điểm sống đang trong quá trình hình thành và từng bước đi vào ổn định, lại chưa được trải nghiệm nhiều, do vậy, tính chưa vững chắc trong nhận thức và hành động, cộng với tính đặc thù của lứa tuổi nhiều khi dẫn đến những hành động tự phát, thiếu khách quan. Chính vì vậy, có một bộ phận sinh viên mơ hồ về lý tưởng cách mạng, ngại tham gia các hoạt động xã hội, đoàn thể, thờ ơ với chính trị, ý chí phấn đấu chưa cao. Một số sinh viên có lối sống cá nhân thực dụng, xa rời những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Suy giảm về đạo đức, lệch lạc về lối sống trong một bộ phận sinh viên ngày càng rõ, biểu hiện ở khuynh hướng vật chất hoá trong các quan hệ ứng xử, coi nhẹ các giá trị đạo đức truyền thống, tiếp thu thiếu chọn lọc lối sống được mệnh danh là “hiện đại”, theo kiểu “văn minh tiêu thụ”. Xuất hiện xu hướng sùng ngoại, sùng bái đồng tiền, đua đòi ăn diện, đòi hưởng thụ vượt quá mức thu nhập cá nhân và gia đình cho phép. Không ít sinh viên đã vi phạm pháp luật, sa vào những tệ nạn xã hội như nghiện hút, uống rượu, mại dâm, đua xe, trộm cắp, vi phạm quy chế đào tạo. Biểu hiện lười học, thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử, ý thức chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp chưa cao. Do ảnh hưởng của lối sống tự do cá nhân, nhiều sinh viên hiện nay có cái nhìn khác trước đây về tình yêu, tình dục trước hôn nhân. Đặc biệt là vấn đề “yêu thử”, “sống thử”, trong một bộ phận sinh viên đã để lại những hậu quả nghiêm trọng, những hệ lụy xã hội đáng quan ngại. 2.2. TOÀN CẦU HOÁ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG NHẰM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY 2.2.1. Toàn cầu hoá và xu thế tất yếu của toàn cầu hoá Khái niệm toàn cầu hoá Ngày nay, “Toàn cầu hóa” (Globalization) đang là xu thế khách quan diễn ra mạnh mẽ và phức tạp, nó tác động tới hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Việt Nam không là ngoại lệ. Toàn cầu hóa có cả những tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực đối với hầu hết các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà trong khi toàn cầu hóa được đón nhận, cổ vũ ở nhiều nước đang phát triển thì phong trào chống toàn cầu hóa (Anti-globalization) lại diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ Tình hình đó đặt ra vấn đề buộc các quốc gia dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các nước chậm phát triển về kinh tế phải suy ngẫm để tìm ra phương thức hành động đúng đắn khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa này.  Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới” [99, tr.598]; và chính “do bóp nặn của thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới” [99, tr.601]. Đến lượt nó, thị trường thế giới “thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế” [99, tr.602]. Và cũng chính nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến tất cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của những giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục [99, tr.602]. Giai cấp tư sản trong quá trình phát triển, do nhu cầu về thị trường tiêu thụ, chúng đã mở rộng địa bàn hoạt động trên phạm vi toàn thế giới. Điều này cũng đã được C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vì luôn bị thúc đẩy bởi những nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi” [99, tr.601]. Những phân tích trên của C.Mác - Ph.Ăngghen cho thấy, sự phát triển của lực lượng sản xuất và quốc tế hóa sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản đã làm cho các nước gắn bó lại với nhau và tạo ra xu thế toàn cầu hóa. Ở Việt Nam, thuật ngữ “toàn cầu hoá” được sử dụng một cách tương đối rộng rãi vào những năm 1980 của thế kỷ XX. Từ đó đến...iáo dục và xã hội, (7), tr.25-28. Phạm Huy Thành (2012), Đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu hội thảo Hội thảo khoa học Quản trị và Kinh doanh, Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng, tháng 11năm 2012, tr.591-597. Phạm Huy Thành, Hồ Công Huân (2012), Triết lý kinh doanh đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế lần 2 “Hội nhập: cơ hội và thách thức”, Đại học Thương Mại tháng 12 năm 2012, tr.781-787. Phạm Huy Thành, Hồ Công Huân (2013), “Đẩy mạnh liên kết vùng để tạo ra lợi thế so sánh trong phát triển du lịch ở các tỉnh duyên hải miền trung”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế lần 3 “Hội nhập quốc tế: thành tựu và những vấn đề đặt ra”, Đại học Thương Mại năm 2013, tr 56-61. Phạm Huy Thành (2013), “Văn hóa với sự phát triển du lịch ở Tây Nguyên hiện nay”, Tạp chí sinh hoạt lý luận, (5), tr.71-74. Lê Hữu Ái, Phạm Huy Thành (2014), “Tư tưởng biện chứng trong tác phẩm Sữa đổi lối làm việc của Hồ Chí Minh", Tạp chí Triết học, (3), tr.12-19. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàng Anh (2006), Giáo dục lý luận Mác - Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hoàng Anh (2012), Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. L.M.Ác-Khan-Ghen-Xki (chủ biên) (2003), Chủ nghĩa xã hội và nhân cách”, 2 tập, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội. Phan Văn Ba (2007), Vấn đề giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lương Gia Ban (1999), Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban Chấp hành Hội Sinh viên trường Đại học Tây Nguyên (2012), Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào sinh viên năm học 2011 - 2012. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2012), Báo cáo 10 năm hình thành và phát triển (17/7/2002 - 17/7/2012). Hoàng Chí Bảo (1997), “Văn hoá và sự phát triển nhân cách thanh niên”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (1). Hoàng Chí Bảo (2001), “Nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách”, Tạp chí Triết học, (1). Lê Bảo (2009), "Không gian văn hoá cồng chiêng Tây nguyên - di sản thế giới", Vnexpress.com.vn, ngày 26-11-2009. Nguyễn Duy Bắc (chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hoá trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển Bách khoa & Viện Văn hoá, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Bích (1995), Hồ Chí Minh - Những vấn đề về tâm lý học, Viện Tâm lý học, Hà Nội. Trần Văn Bính (2006), Đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa, Trần Xuân Sầm (2001), Toàn cầu hóa - phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn (1992), “Một vấn đề cần được quan tâm: Mối quan hệ giữa các yếu tố sinh học và các yếu tố xã hội trong con người”, Tạp chí Triết học, (3), tr.13. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển", Tạp chí Triết học, (2), tr.16-19. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quý (đồng chủ biên) (2001), Tìm hiểu giá trị văn hoá truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên) (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) (2003), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Hội nhập quốc tế: cơ hội và thách thức đối với giá trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hoá”, Tạp chí Triết học, (8). Criagiep (1986), Sự hình thành cá nhân là một quá trình xã hội, Tư liệu Viện Triết học. Trịnh Cường (tổng thuật) (1996), “Giá trị châu Á”, Tạp chí Cộng sản, (16), tr.58. Vũ Trọng Dung (chủ biên) (2005), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Duẩn (1976), Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. Trương Minh Dục (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trương Minh Dục (2008), Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn hoá học, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, Lưu hành nội bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng uỷ khối cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng (2005), Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu hội thảo. Bùi Minh Đạo (2011), Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển bền vững, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hoá, xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Văn Đính (2006), Một số giải pháp góp phần bảo đảm ổn định chính trị trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị khu vực III, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Lê Văn Đính (2009), Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Trần Văn Đoàn (2003), Giải phẫu khủng hoảng đạo đức trong hiện đại hoá, Trong: Trở lại với con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1997), Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong điều kiện mới, Báo cáo khoa học, Hà Nội. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay, Báo cáo khoa học chuyên đề, Hà Nội. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), Điều tra tình hình tư tưởng và nhận thức chính trị của thanh niên trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban chấp hành Trung ương (2007), Báo cáo tình hình thanh niên khu vực Tây Nguyên và một số nhiệm vụ, giải pháp tăng cường đoàn kết tập hợp thanh niên dân tộc Tây Nguyên, Tài liệu Hội nghị tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc Tây Nguyên, Hà Nội. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Tổng quan tình hình sinh viên, công tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VII (2003 - 2008), Hà Nội. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2008), Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong thời kỳ hội nhập, Kỷ yếu khoa học, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1995), Văn hoá và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Quý Đức - Hoàng Chí Bảo (2007), Văn hoá đạo đức ở nước ta hiện nay - vấn dề và giải pháp, Nxb Văn hoá - Thông tin & Viện Văn hoá, Hà Nội. Phạm Văn Đức (1991), “Vấn đề kế thừa và phát triển trong lịch sử triết học”, Tạp chí Triết học, (3), tr.36. Phạm Văn Đức (2004), “Phát huy tinh thần dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (9), tr.9. Phạm Văn Đức (Chủ biên) (2007), Toàn cầu hóa trong bối cảnh châu Á - Thái Bình Dương - một số vấn đề triết học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Ngọc Đường (1995), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (2002), Văn hoá Việt Nam - truyền thống và cốt cách dân tộc, Trong: Văn hoá Việt Nam - truyền thống và hiện đại (nghiên cứu của các giáo sư chuyên gia văn hoá), Nxb Văn hoá, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến đầu cách mạng tháng Tám, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Hà (2002), “Những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.17. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (1997), Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEOPI-R cải biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1998), Văn hoá và giáo dục, giáo dục và văn hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Nghiên cứu con người và nguồn lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ biên) (2004), Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (2007), Trách nhiệm xã hội - giá trị xã hội cao quý nhất, Trong: Viện Khoa học xã hội Việt Nam & Misereor (2007), Công bằng xã hội, đoàn kết và trách nhiệm xã hội, Hội thảo quốc tế, Hà Nội, 15 - 16/10/2007. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2009), Con người và văn hoá - từ lý luận đến thực tiễn phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Lương Đình Hải (2004), “Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Triết học, (10), tr.6. Cao Thu Hằng (2006), “Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (10). Cao Thu Hằng (2011), Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Mộng Hoàng (2007), Đoàn kết, tập hợp thanh niên là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo cáo hội nghị tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc Tây Nguyên. Bạch Hồng (2011), "Một số vấn đề về phát triển kinh tế Tây Nguyên theo hướng bền vững", Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, (2), tr.24. Nguyễn Văn Hộ - Hà Thị Đức (2002), Giáo dục học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hoá ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học, Viện Văn hoá & Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. Đỗ Huy (2002),Đạo đức học - mỹ học và đời sống văn hoá nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Huy, Trường Lưu (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hoá Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Huy, Chu Khắc, Vũ Khắc Liên, Trường Lưu, Lê Quang Thiêm (đồng chủ biên) (1993), Nhân cách văn hoá trong bảng giá trị Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trịnh Duy Huy (2007), Vấn đề xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (1995), “Một số chuẩn mực giá trị vượt trội khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, (1). Nguyễn Văn Huyên (1995), Chủ nghĩa Mác - Lênin và cách tiếp cận mới về con người, Trong sách: Đổi mới và phát triển - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (1998), Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc, Báo cáo tại Hội thảo truyền thống, giá trị và phát triển, Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Quốc Tuấn (2000), Nghệ Thuật với sự phát triển nhân cách người cán bộ lãnh đạo trong công cuộc đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (2002), Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thanh Huyền (2007), “Toàn cầu hoá và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống cho con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (2). Lưu Hùng (1996), Văn hoá cổ truyền Tây Nguyên, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Nguyễn Đắc Hưng (2010), Văn hoá Việt Nam giàu bản sắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hoá, Hà Nội. Dương Thị Hưởng, Đỗ Đính Hãng, Đậu Tuấn Nam (2010), Một số vấn đề về văn hoá - xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Ngọc Khánh (1999), Minh triết Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá, Hà Nội. Vũ Khiêu (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Lương Quỳnh Khuê (1995), Văn hoá thẩm mỹ và nhân cách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6). Nguyễn Thế Kiệt (1999), “Giáo dục lý luận Mác - Lênin với vấn đề phát triển năng lực tư duy lý luận cho sinh viên”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (5). Đỗ Long (chủ biên) (1998), Hồ Chí Minh - những vấn đề tâm lý học nhân cách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Long (1987), “Quán triệt mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (1+2). Nguyễn Ngọc Long (1993), “Triết học Mác - Lênin với việc nhận thức xã hội trong thời đại ngày nay”, Tạp chí Triết học, (3). Nguyễn Ngọc Long (1998), “Nghiên cứu và giảng dạy triết học phương Tây hiện đại trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (11). Nguyễn Huy Lộc (2006), Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nữa nhiệm kỳ Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII (2002-2005), Nxb Thanh niên, Hà Nội. Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ănghen (2004), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Y Mửi (2007), Bài phát biểu tại Hội nghị Tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc khu vực Tây Nguyên, tháng 1 năm 2007. Nguyễn Chí Mỳ (1992), “Học thuyết Mác trước thử thách của thời đại”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (5). Ngô Thị Thu Ngà (2011), Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Phạm Đình Nghiệp (2004), Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tòng (2004), Toàn cầu hóa - những vấn lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên) (2007), Xu thế toàn cầu hoá trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Bích Ngọc (1988), Tâm lý học nhân cách một số vấn đề lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trần Sỹ Phán (1996), “Sinh viên với định hướng giá trị nhân cách”, Tạp chí Lý luận chính trị. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trần Văn Phòng (2004), “Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình hình thành triết học Mác”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1). Nguyễn Văn Phúc (2007), “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới”, Tạp chí Triết học, (3). Vũ Minh Tâm (2007), “Giáo dục nhân cách sáng tạo và phát triển bền vững trong thời đại toàn cầu hoá”, Tạp chí Khoa học xã hội, (2). Lâm Tâm - Linh Nga Niêk Đam (1996), Một số nét đặc trưng của phong tục các dân tộc Tây Nguyên, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Phạm Huy Thành (2010), “Quan niệm về giá trị cuộc sống của sinh viên Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Khoa học chính trị, (4). Phạm Huy Thành (2010), “Đạo đức sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (4). Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hồ Bá Thâm (2009), “Bản năng, văn hoá và nhân cách”, Tạp chí Khoa học xã hội, (2). Hồ Bá Thâm, Nguyễn Ngọc Diễm (2011), Toàn cầu hóa và sự phát triển bền vững từ góc độ triết học đương đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đăng Thục (1997), Lịch sử triết học Phương Đông, tập 1, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Lê Thị Thuỷ (2001), Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 936/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ: phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến 2020. Nguyễn Trãi (1976), Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trường Đại học Đà Lạt (2012), Báo cáo của Ban Chấp hành Đoàn trường khoá XII trình Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trường Đại học Đà Lạt lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2012 - 2014. Trường Đại học Tây Nguyên (2012), Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012, Tây Nguyên. Võ Minh Tuấn (2003), Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Võ Minh Tuấn (2004), “Tác động toàn cầu hoá đến đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (4). Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đình Tường (2006), “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hoá”, Tạp chí Triết học, (5). Nguyễn Đình Tường (2007), “Một số biểu hiện sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Triết học, (5). Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Thạc - Mạc Văn Trang (1995), Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, Hà Nội. Đào Trí Úc (chủ biên) (2003), Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Triết học (1994), Sự chuyển đổi giá trị trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Kỷ yếu khoa học, Hà Nội. Website: trẻ.vn/tuyểnsinh/448241/điểm thi môn sử thấp bất ngờ. Website:ương-kinhtê-năm2012đat-198/13198/ Website: Website:ụ-mat-trom-chi-co-o-sinh-vien/3241 Website: Website: licled/tín dụng xóa đói giảm nghèo ở Tây Nguyên. S.Xmit và G.Bâylơ (Đồng chủ biên) (1997), Toàn cầu hóa của nền chính trị thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. PHỤ LỤC Phụ lục 1 Nguyện vọng tham gia vào Đảng, vào đoàn của sinh viên khu vực Tây Nguyên Mục đích Tham số Rất tha thiết Bình thường Không nguyện vọng Tổng số: 376 phiếu 296 80 0 Tỷ lệ% 78,7% 21,3% 0% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 2 Mục đích sống của sinh viên khu vực Tây Nguyên Mục đích Tham số Làm giàu Có địa vị trong xã hội Thành đạt trong nghề nghiệp Phục vụ xã hội Tổng số: 376 phiếu 44 40 156 136 Tỷ lệ% 11,7% 10,6% 41,6% 36,1% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 3 Ý nghĩa cuộc sống của sinh viên khu vực Tây Nguyên Yếu tố Tham số Thấy giá trị và khả năng của mình Sống ngày nào biết ngày đó Không thấy cuộc sống có ý nghĩa Sống có ích cho xã hội Không xác định được Dựa vào bố mẹ và người thân Tổng số: 376 phiếu 195 10 7 151 6 7 Tỷ lệ% 51,8% 2,6% 2% 40% 1,6% 2% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 4 Các giá trị quan hệ bạn bè của sinh viên khu vực Tây Nguyên STT Các giá trị 376 phiếu lựa chọn (%) Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng 1 Hào phóng 10,6% 43,6% 45,8% 2 Giúp đỡ 59,5% 40,5% 0% 3 Chia sẽ 56,4% 42,5% 1,1% 4 Niềm tin 72,3% 27,7% 0% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 5 Giá trị đạo đức trong mối quan hệ tình yêu sinh viên khu vực Tây Nguyên STT Các giá trị đạo đức 376 phiếu lựa chọn ( %) Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng 1 Chân thành 56,3% 42,6% 1,1% 2 Hòa hợp 46,8% 52,1% 1,1% 3 Yêu thương 51,1% 46,8% 2,1% 4 Chung thủy 51,1% 42,6% 6,3% 5 Tôn trọng 80,9% 19,1% 0% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 6 Giá trị đạo đức trong mối quan hệ gia đình sinh viên khu vực Tây Nguyên STT Các giá trị đạo đức 376 phiếu lựa chọn % Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng 1 Bao dung 33% 60,6% 6,4% 2 Bình đẳng 58,5% 41,5% 0% 3 Trách nhiệm 60,6% 39,4% 0% 4 Bảo vệ 50% 44,6% 5,4% 5 Tôn vinh 40,5% 47,8% 11,7% 6 Văn hóa hạnh phúc 54,4% 43,6% 2% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 7 Mức độ hài lòng với cuộc sống sinh viên khu vực Tây Nguyên Mục đích Tham số Hài lòng Tương đối hài lòng Không hài lòng Không xác định Tổng số: 376 phiếu 76 228 48 24 Tỷ lệ% 20,2% 60,6% 12,8% 6,4% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 8 Những yếu tố quyết định sự thành đạt sinh viên khu vực Tây Nguyên Mục đích Tham số Địa vị gia đình Quan hệ cá nhân Nỗ lực cá nhân Gia đình có định hướng đúng May mắn Tình yêu nghề nghiệp Tổng số: 376 phiếu 10 20 250 60 15 21 Tỷ lệ% 2,6% 5,3% 66,5% 16% 4% 5,6% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 9 Biểu hiện các vấn đề trong cuộc sống của sinh viên khu vực Tây Nguyên STT Các vấn đề 376 phiếu lựa chọn (%) Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng 1 Sức khỏe 85,1% 14,9% 0% 2 Học vấn và tri thức 71,2% 25,6% 2,2% 3 Việc làm và nghề nghiệp 67% 27,7% 5,3% 4 Quan hệ cá nhân và xã hội 53,2% 42,5% 4,3% 5 Quyền tự do cá nhân và Cộng đồng 57,4% 42,6% 0% 6 Giàu sang và danh vọng 34% 45,8% 20,2% 7 Sự tôn trọng, danh dự và Nhân phẩm 77,6% 22,4% 0% 8 Sống có ích cho xã hội 56,4% 41,5% 2,1% 9 Sự vị tha, lòng nhân ái và Độ lượng 43,7% 51% 5,3% 10 Tính cộng đồng, tính Đoàn kết và đấu tranh 60,6% 39,4 0% 11 Lý tưởng và hoài bảo 58,5% 41,5% 0% 12 Niềm tin, ý chí, nghị lực 81,9% 18,1% 0% 13 Biết lựa chọn mẫu hình Nhân cách sống 50% 45,7 4,3% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 10 Mục đích học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên khu vực Tây Nguyên Yếu tố Tham số Có việc làm Để làm giàu Để làm người Để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Để cống hiến Mục đích khác Tổng số: 376 phiếu 71 58 81 87 74 5 Tỷ lệ % 18,9% 15,5% 21,5% 23,1% 19,7% 1,3% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 11 Các biểu hiện trong lối sống của sinh viên khu vực Tây Nguyên STT Các biểu hiện 376 phiếu lựa chọn % Phổ biến Ít phổ biến Không có 1 Ngại gian khổ 58,5% 36,2% 5.3% 2 Sống thiếu định hướng, Không có lý tưởng 38,2% 56,4% 5,4% 3 Sống thực dụng, tính toán 47,9% 45,7% 6,4% 4 Trung thực, lành mạnh có văn hóa 52,2% 41,4% 6,4% 5 Sống gấp, bê tha trong Sinh hoạt 25,5% 59,6% 14,9% 6 Trung bình chủ nghĩa 46,8% 43,6% 9,6% 7 Adua, buông thả 33% 52,1% 14,9% 8 Lối sống khác 33% 44,6% 22,4% Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 12 Kết quả học tập của sinh viên chính quy năm 2011 - 2012 của đại học Tây Nguyên Các đơn vị Tổng số sinh viên Xuất sắc Giỏi Khá TBK và TB Yếu, kém Số sv Tỷ lệ (%) Số Sv Tỷ lệ (%) Số sv Tỷ lệ (%) Số sv Tỷ lệ (%) Số sv Tỷ lệ (%) Khoa TN và CN 1.736 22 1,3 157 9,0 644 37,1 437 25,2 476 27,4 Khoa sư phạm 1.366 29 2,1 184 13,5 780 57,1 243 17,8 130 9,5 Khoa Lý luận chính trị 475 16 3,4 128 27,0 244 51,3 49 10,3 38 8,0 Khoa Nông Lâm nghiệp 1.884 15 0,8 175 9,3 482 2,56 425 22,5 787 41,8 Khoa Y - Dược 1.859 06 0,3 306 16,5 878 47,2 397 21,4 272 14,6 Khoa Kinh tế 1.752 47 2,7 328 18,7 750 42,8 592 33,8 35 2,0 Khoa Chăn nuôi Thú y 427 03 0,7 89 20,8 157 36,8 80 18,7 98 22,9 Khoa Ngoại ngữ 509 8 1,6 85 16,7 224 47,9 136 26,7 36 7,1 Tổng cộng 10.008 146 1,5 1.542 14,5 4.179 41,8 2.359 23,6 1.872 18,6 Nguồn: Báo cáo Tổng kết năm học 2011 - 2012 trường đại học Tây Nguyên [130]. Phụ lục 13 PHIẾU ĐIỀU TRA Kính thưa các anh chị! Để có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm xây dựng nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Chúng tôi tiến hành thu thập ý kiến của cách anh chị, rất mong các anh chị đóng góp ý kiến. Những thông tin anh chị cung cấp được bảo mật và chỉ phục vụ cho nghiên cứu khoa học. Kính mong các anh chị đồng ý với phương án nào thì đánh dấu (X) vào ô trống, nếu không đồng ý thì để trống. Xin chân thành cảm ơn. I. Anh (chị) vui lòng cho biết một số thông tin về cá nhân: 1. Giới tính: Nam Nữ 2. Đang học năm thứ mấy: Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 3. Ngành học: (xin ghi rõ tên ngành học) II. Một số thông tin chung. Câu 1: Anh (Chị) hãy cho biết nguyện vọng vào Đảng, Đoàn của sinh viên khu vực Tây Nguyên hiện nay? Rất tha thiết Bình thường Không nguyện vọng Câu 2: Anh (Chị) hãy cho biết mục đích sống của sinh viên khu vực Tây nguyên hiện nay? a. Làm giàu b. Có địa vị trong xã hội c. Thành đạt trong nghề nghiệp d. Phục vụ xã hội Câu 3: Anh (Chị) hãy cho biết những yếu tố nào sau đây quyết định sự thành đạt của sinh viên khu vực Tây Nguyên hiện nay? Địa vị gia đình Quan hệ cá nhân Nỗ lực cá nhân Gia đình có định hướng đúng May mắn Tình yêu nghề nghiệp Câu 4: Anh (Chị) hãy cho biết ý nghĩa cuộc sống của sinh viên hiện nay? Thấy giá trị khả năng của mình Sống ngày nào biết ngày đó Không thấy cuộc sống có ý nghĩa Sống có ích cho xã hội Không xác định được Dựa vào bố mẹ và người thân Câu 5: Anh (Chị) cho biết mức độ hài lòng với cuộc sống của sinh viên khu vực Tây Nguyên hiện nay? Hài lòng Tương đối hài lòng Không hài lòng Không xác định Câu 6: Anh (Chị) hãy cho biết mức độ quan trọng của các vấn đề trong cuộc sống ở sinh viên khu vực Tây nguyên hiện nay? Sức khỏe Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Học vấn và tri thức Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Việc làm và nghề nghiệp Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Quan hệ cá nhân và xã hội Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Quyền tự do cá nhân và cộng đồng Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Giàu sang, danh vọng Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Sự tôn trọng, danh dự và nhân phẩm Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Sống có ích cho xã hội Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Sự vị tha, lòng nhân ái và độ lượng Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Tính cộng đồng, tính đoàn kết và đấu tranh Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Lý tưởng và hoài bão Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Niềm tin, ý chí, nghị lực Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Biết lựa chọn mẫu hình nhân cách sống Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Câu 7: Anh (Chị) hãy cho biết mục đích học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên khu vực Tây Nguyên hiện nay? Có việc làm Để làm giàu Để làm người Để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Để cống hiến Mục đích khác Câu 8: Anh (Chị) hãy cho biết trong quan hệ bạn bè, sinh viên khu vực Tây Nguyên đang đề cao những giá trị nào? Hào phóng Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Giúp đỡ Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Chia sẻ Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Niềm tin Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Câu 9: Anh (Chị) cho biết những biểu hiện giá trị đạo đức trong mối quan hệ tình yêu của sinh viên hiện nay? Chân thành Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Hòa hợp Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Yêu thương Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Chung thủy Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Tôn trọng Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Câu 10: Anh (Chị) hãy cho biết những biêu hiện giá trị đạo đức trong mối quan hệ gia đình của sinh viên khu vực Tây Nguyên hiện nay? Bao dung Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Bình đẳng Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Trách nhiệm Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Bảo vệ Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Tôn vinh Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Văn hóa hạnh phúc Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng Câu 11: Anh (Chị) hãy cho biết ý kiến của mình về những biểu hiện trong lối sống của sinh viên khu vực Tây Nguyên hiện nay? Ngại gian khổ Phổ biến Ít phổ biến Không có Sống thiếu định hướng, không có lý tưởng Phổ biến Ít phổ biến Không có Sống thực dụng, tính toán Phổ biến Ít phổ biến Không có Trung thực, lành mạnh có văn hóa Phổ biến Ít phổ biến Không có Sống gấp, bê tha trong sinh hoạt Phổ biến Ít phổ biến Không có Trung bình chủ nghĩa Phổ biến Ít phổ biến Không có A dua, buông thả Phổ biến Ít phổ biến Không có Lối sống khác Phổ biến Ít phổ biến Không có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_giao_duc_gia_tri_dao_duc_truyen_thong_voi_viec_hinh.doc
  • doc[Trang thông tin luận án tiếng anh.doc
  • docTóm tắt luận án.doc
  • docTrang thông tin luận án.doc
Tài liệu liên quan