Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở Giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Một trong những chuyển biến đó là sự lớn mạnh không ngừng của doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Các doanh nghiệp này đóng góp lớn vào GDP của cả nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều việc làm và tạo cơ chế cạnh tranh thúc đẩy sự

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1191 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở Giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển… Sự phát triển kinh tế của đất nước không thể thiếu sự đóng góp của các doanh nghiệp tư nhân. Tuy vậy, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động. Khó khăn lớn nhất chính là sự eo hẹp về vốn. Giải pháp quan trọng giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn đó là vốn vay từ ngân hàng. Thực tế, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp tư nhân ở nước ta còn rất lớn. Bởi vậy, cho vay doanh nghiệp tư nhân là một thị trường đầy hứa hẹn đối với các ngân hàng thương mại trong thời gian tới. Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của việc cho vay đối với các DNTN. Đây là đơn vị tiên phong trong khối NHTM Nhà nước thành lập phòng tín dụng dành riêng cho các DNTN. Đến nay, hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, lượng vốn cho vay của SGD chưa đáp ứng được nhu cầu rất lớn của các DNTN. Điều này không chỉ gây khó khăn cho các DNTN cần vay vốn tại SGD, mà còn gây khó khăn cho chính SGD. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, SGD khó có thể phát triển nếu không khai thác tốt thị trường tiềm năng này. Do đó, mở rộng cho vay đối với DNTN là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho SGD. Việc tìm hiểu thực trạng hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD, và đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động này là rất cần thiết. Vì lý do trên, đề tài “Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở Giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu. Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, đề tài bao gồm 3 chương: Chương 1:Cho vay đối với DNTN của NHTM - những vấn đề lý luận cơ bản. Chương 2:Thực trạng cho vay đối với DNTN của SGD Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chương 3:Giải pháp mở rộng cho vay đối với DNTN của SGD Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. CHƯƠNG 1. CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 1.1.1 Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Ngân hàng là tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc chuyển vốn từ người cho vay đến người đi vay. Các loại NH bao gồm: NH thương mại, NH phát triển, NH đầu tư, NH chính sách, NH hợp tác… Trong đó, NHTM là loại hình chiếm tỷ trọng lớn nhất về số lượng, thị phần và quy mô tài sản. NHTM là “tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Các dịch vụ tài chính mà NHTM cung cấp là không thể thiếu đối với hầu hết các hoạt động kinh tế. Do đó, đối với nền kinh tế, NHTM có vai trò rất quan trọng. Trước hết, NH làm tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính. Nhờ NH mà những người có món tiết kiệm nhỏ nhận được thu nhập từ tiền lãi cho vay, đồng thời những người cần vay các món tiền nhỏ có thể vay được tiền. Điều này không thể có được ở thị trường tài chính. NH làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm chi phí đi vay cho người đầu tư, từ đó khuyến khích đầu tư. Chính vì thế, hệ thống tài chính trở nên hoàn hảo hơn. Luồng vốn được luân chuyển dễ dàng và thường xuyên hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. NH là đầu mối thu hút tiền gửi lớn nhất trong nền kinh tế. Vì sự an toàn, tiện lợi và vì được trả lãi tiền gửi, tất cả các chủ thể kinh tế, từ cá nhân, hộ gia đình đến các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội đều gửi tiền tại NH. Do đó, các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội được tập trung lại, được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội. Vốn vay NH là nguồn tài chính quan trọng đối với các công ty, các cá nhân, hộ gia đình và cả Chính phủ. Các khoản cho vay mà NH cung cấp được sử dụng để mua hàng hóa dịch vụ, đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng… Ngày nay, NH là thủ quỹ và trung gian thanh toán lớn nhất ở mỗi quốc gia. Nhiều hình thức thanh toán hiện đại đã góp phần làm giảm lượng tiền mặt lưu hành, giảm chi phí in ấn, bảo quản tiền, tiết kiệm chi phí về giao dịch thanh toán. Chính vì thế, NHTM có đóng góp lớn trong việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển tiền – hàng, thúc đẩy sự phát triển của quan hệ thương mại, tài chính quốc tế. Bên cạnh đó, NH là kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ bởi NH góp phần thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ. Như vậy, sự có mặt của NHTM trong hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội đã khẳng định rằng: NHTM là định chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế. Nó có vai trò lớn đối với sự hoàn thiện của hệ thống tài chính, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Để thực hiện vai trò đó, NHTM phải tiến hành một số hoạt động cơ bản. Đó là huy động vốn, sử dụng vốn và hoạt động dịch vụ. Hoạt động huy động vốn Hoạt động đầu tiên của NHTM là huy động vốn. Thực tế, để bắt đầu hoạt động, chủ NH phải có một lượng vốn nhất định gọi là VCSH. Tuy nhiên, VCSH thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 5% tổng nguồn vốn. Là tổ chức cung ứng vốn chủ yếu của nền kinh tế, NH buộc phải huy động vốn. Hoạt động này sẽ hình thành nên vốn nợ của NH. Vốn nợ bao gồm tiền gửi, tiền vay và các loại vốn nợ khác. Nghiệp vụ đầu tiên của NH khi đi vào hoạt động là mở tài khoản TG để giữ hộ và thanh toán hộ cho KH. Qua nghiệp vụ này, NH huy động được lượng tiền nằm rải rác trong xã hội. NHTM nhận TG từ các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức TG không kỳ hạn, TG có kỳ hạn và các loại TG khác. Tiền gửi của KH là bộ phận quan trọng nhất, thường chiếm tỷ trọng hơn 50% tổng vốn của NH. Tuy nhiên, tiền gửi phải được thanh toán khi có yêu cầu của KH, ngay cả khi đó là TG có kỳ hạn chưa đến hạn. Quy mô và cơ cấu TG cũng phụ thuộc nhiều vào những biến động về lãi suất, tỷ lệ lạm phát và thu nhập của KH. Vì thế, đây là nguồn kém ổn định, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ của NH. Hơn nữa, vốn từ huy động tiền gửi không đủ để đáp ứng nhu cầu cho vay và một số nhu cầu chi trả khác của NH. Bởi vậy, NHTM phải đi vay để bổ sung vốn cho mình. Do đặc điểm không ổn định của TG, và vốn từ huy động TG không đủ đáp ứng nhu cầu vay của KH, NH phải vay thêm vốn từ các nguồn khác. NHTM không thường xuyên đi vay mà chỉ vay khi cần thiết. Việc đi vay chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. NHTM có thể vay từ nhiều nguồn khác nhau: NHNN, NHTM khác hoặc vay trên thị trường vốn. Đối với NHNN, hình thức vay chủ yếu của NHTM là được tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn theo hạn mức nhất định. Mặc dầu vậy, việc NHNN có cho NHTM vay hay không còn tuỳ thuộc vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. NHTM cũng có thể vay vốn của các NHTM khác hoạt động tại VN và của NHTM nước ngoài. Đây là nguồn bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. Bên cạnh đó, NHTM còn phát hành các giấy nợ như tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Với nghiệp vụ này, NH có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn. Đây là nguồn tài trợ quan trọng cho nhu cầu vay trung dài hạn của KH. So với tiền gửi, tỷ trọng của tiền vay trong tổng vốn của NH thường thấp hơn. Song, tiền vay chỉ phải hoàn trả khi đến hạn. Hơn nữa, quy mô của khoản vay do NH xác định trước. NH hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu của mình. Bởi vậy, tiền vay có tính ổn định cao hơn so với tiền gửi. Bên cạnh tiền gửi và tiền vay, NH còn có một lượng vốn nợ khác, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng cũng góp phần làm tăng vốn cho các NHTM. Đó là vốn uỷ thác, vốn trong thanh toán… Các loại vốn nợ này có thời gian sử dụng đôi khi rất ngắn nhưng NH không tốn chi phí huy động, lại có điều kiện tốt để phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ khác, phục vụ tốt nhất nhu cầu của KH. Hoạt động sử dụng vốn Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NH tiến hành sử dụng vốn để tạo ra lợi nhuận. Việc sử dụng vốn bao gồm hoạt động cho vay, đầu tư chứng khoán, hoạt động ngân quỹ và một số hoạt động sử dụng vốn khác. Cho vay là hoạt động tài trợ của NH cho KH. Đây là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của NHTM. NHTM chuyển giao tiền cho KH sử dụng. Khách hàng muốn vay được vốn phải tuân thủ những điều kiện nhất định, những ràng buộc pháp lý để đảm bảo NH có thể thu hồi vốn khi đến hạn. Các khoản cho vay là loại tài sản kém lỏng hơn so với các tài sản khác, lại có rủi ro vỡ nợ cao hơn. Tuy vậy, NH lại có được lợi tức cao nhất từ chính các món cho vay. Hoạt động cho vay có nhiều rủi ro nên nó phải được quản lý chặt chẽ, đảm bảo cho hoạt động của NH an toàn và đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, các NHTM còn đầu tư vào chứng khoán nhằm mục tiêu thanh khoản và đa dạng hoá tài sản. Các loại chứng khoán mà NHTM thường nắm giữ là: chứng khoán của Chính phủ trung ương hoặc địa phương, chứng khoán của các NH khác, các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty khác. Việc nắm giữ chứng khoán đem lại nhiều lợi ích cho NHTM. Khi cần thiết, NH có thể bán chúng đi để gia tăng ngân quỹ. Hơn nữa, chứng khoán còn là tài sản mang lại thu nhập quan trọng cho NH. Các NHTM cũng thường nắm giữ chứng khoán công ty để có quyền tham dự, kiểm soát hoạt động của các công ty đó. Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư chứng khoán, NHTM còn sử dụng vốn để kinh doanh kiếm lời. Các hoạt động kinh doanh khác mà NHTM thực hiện là: góp vốn, mua cổ phần các DN hoặc các tổ chức tín dụng khác, liên doanh với tổ chức tín dụng nước ngoài, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh vàng, ngoại hối, thành lập công ty trực thuộc…. Ngoài ra, NHTM còn luôn phải duy trì một lượng ngân quỹ nhất định. Ngân quỹ của NHTM bao gồm tiền mặt trong két và tiền gửi tại NH khác (NHNN, NH và tổ chức tín dụng khác). Việc NHTM duy trì một lượng ngân quỹ nhất định nhằm ba mục đích: thứ nhất là chi trả kịp thời mọi nhu cầu của KH, thứ hai là duy trì dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN và thứ ba là sự tiện lợi trong thanh toán giữa các NH. Ngân quỹ là tài sản có tính lỏng cao song khả năng sinh lời rất thấp. Khả năng cho vay của NH sẽ bị hạn chế nhiều nếu như ngân quỹ được duy trì ở mức cao. Do vậy, mỗi NH đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức tối thiểu có thể được. Hoạt động dịch vụ Ngoài hoạt động huy động và sử dụng vốn, NHTM còn tiến hành hoạt động dịch vụ để gia tăng lợi nhuận. Việc cung ứng dịch vụ giúp cho NHTM nhận được các khoản doanh thu khác. Lợi nhuận từ mảng hoạt động này đóng góp ngày càng lớn vào lợi nhuận chung của NH. Hơn nữa, thông qua hoạt động dịch vụ, NHTM có thể mở rộng thị phần, quảng bá thương hiệu của mình. Chính vì thế, các NHTM đưa ra rất nhiều các loại hình dịch vụ mới, chất lượng cao bên cạnh các dịch vụ truyền thống như: thanh toán trong và ngoài nước, thu hộ và chi hộ, bảo hiểm, uỷ thác, quản lý tài sản, vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tư vấn tài chính, bảo quản giấy tờ và hiện vật quý… Ba mặt hoạt động của NHTM có tác động qua lại lẫn nhau. Huy động vốn là tiền đề cho hoạt động dịch vụ và sử dụng vốn. Sử dụng vốn an toàn, hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao là cơ sở để NH huy động được nhiều vốn hơn. Hoạt động dịch vụ có tác dụng thu hút thêm khách hàng và quảng bá hình ảnh. Vì vậy, nó hỗ trợ rất nhiều công tác huy động và sử dụng vốn. Thực hiện ba mảng hoạt động này một cách đồng bộ, hiệu quả chính là chìa khoá cho sự thành công của NHTM trên thị trường. 1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Cho vay là quan hệ giao dịch về tài sản giữa hai bên: bên cho vay – NHTM và bên đi vay – KH. NHTM chuyển giao tạm thời quyền sử dụng vốn cho các cá nhân, DN, tổ chức trong một khoảng thời gian đã thoả thuận trước. Đồng thời KH cam kết hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho NH theo thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất của NHTM. Để NH tồn tại và phát triển vững chắc, hoạt động cho vay phải an toàn và hiệu quả. Muốn vậy, nó phải được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định. Thứ nhất, KH vay vốn phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận. Thứ hai, KH phải đảm bảo hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng. Thứ ba, NH cho vay đối với những dự án khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ. Cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau: theo thời gian, theo loại hình DN, theo phương thức, theo hình thức cho vay… Theo thời gian thì cho vay bao gồm: Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn từ trên 12 đến 60 tháng Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn trên 60 tháng trở lên. Theo loại hình DN thì cho vay bao gồm: Cho vay các doanh nghiệp nhà nước Cho vay các doanh nghiệp tư nhân Đối với các DN, đặc biệt là DNTN, vốn vay từ các NH rất quan trọng. Vậy các DN tư nhân là gì? Họ có vai trò như thế nào trong nền kinh tế? Vì sao hoạt động cho vay của NHTM đối với các DN tư nhân lại có tầm quan trọng đặc biệt? Điều này sẽ được trình bày ở phần tiếp theo. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái quát về doanh nghiệp tư nhân 1.2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân Theo Luật Doanh nghiệp ban hành năm 1999 thì “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Nếu căn cứ vào hình thức sở hữu thì các loại hình DN bao gồm: DN nhà nước và DN tư nhân. DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối. Ngược lại, DNTN là tổ chức kinh tế, trong đó một hoặc nhiều cá nhân có quyền sở hữu tư liệu sản xuất. Nhà nước không nắm quyền chi phối DN, tức là số cổ phần hoặc vốn góp mà Nhà nước nắm giữ không quá 50% vốn điều lệ của DN đó. So với khu vực kinh tế nhà nước thì khu vực kinh tế tư nhân có những lợi thế cơ bản. Đó là: Tham gia kinh doanh với mọi qui mô, hình thức, ngành nghề mà pháp luật không cấm. Do đó các DNTN có thể đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường. Đặc biệt nhanh nhạy, linh hoạt, dễ dàng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm. Vì thế, DNTN thích nghi tốt với những thay đổi của môi trường kinh doanh. Bộ máy gọn nhẹ, cơ chế quản lý linh hoạt. Đây là yếu tố góp phần giảm thiểu chi phí quản lý, giảm thủ tục hành chính, tạo nên lợi thế cạnh tranh với DNNN. Tận dụng được nhiều nguồn lực của XH tham gia vào quá trình kinh doanh. Chính nhờ những lợi thế kể trên mà khu vực kinh tế tư nhân đang có những bước tiến lớn. Số lượng DNTN tăng dần, với tốc độ ngày càng cao. Năm 1991, cả nước mới chỉ có 414 DNTN. Đến năm 1992, con số này tăng hơn 10 lần, lên tới 5189. 14 năm sau, tức là đến năm 2006, số DNTN hoạt động trên cả nước là 200,000 và năm 2007 là 260,000.(1) Quy mô vốn của các DNTN cũng có sự tăng trưởng lớn. Trong giai đoạn 2001-2005, có hơn 150,000 DNTN thành lập mới với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 305,122 tỷ đồng. So với giai đoạn 1991-1992, con số này tăng hơn tám lần. Mức vốn đăng ký bình quân của một DNTN, nếu thời kỳ 1996-2000 là 0.65 tỷ đồng thì thời kỳ 2001-2005 là 2.02 tỷ đồng.(2) Sự lớn mạnh của các DNTN là kết quả của công cuộc đổi mới. Đặc biệt, Luật Doanh nghiệp năm 1999 (sửa đổi năm 2005) là bước đột phá, đã tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DNTN. Tuy nhiên, DNTN ở nước ta cũng còn những điểm yếu gây cản trở đáng kể tới hoạt động của DN. Cụ thể là: Thứ nhất, quy mô của các DNTN tương đối nhỏ. Số lượng các DN vừa và nhỏ (DN có số vốn dưới 10 tỷ đồng và số lao động thường xuyên không quá 300 người) chiếm tới 96% tổng số DNTN trên cả nước.(3) VCSH của các DNTN rất nhỏ. 75% số DN hiện có mức vốn dưới 2 tỷ đồng. Quy mô vốn của các DNTN chỉ bằng 2.05% so với DNNN và 3.83% so với DN có vốn đầu tư nước (1) (2) (3): www.mofa.gov.vn ngoài(1). Tình trạng thiếu vốn rất phổ biến ở các DNTN. Số lượng lao động ở các DNTN cũng rất thấp. Theo thống kê, năm 2005, bình quân một DNTN chỉ có 29 lao động. Trong khi đó, con số này ở một DNNN là 490, ở DN có vốn đầu tư nước ngoài là 331.(2) Thứ hai, công nghệ sản xuất của DNTN còn lạc hậu. Nguyên nhân chính là khả năng tài chính của các DN này còn hạn hẹp. Trong khi VCSH không lớn, các DNTN lại khó tiếp cận với vốn vay từ NH, đặc biệt là các khoản cho vay trung dài hạn. Do đó, DNTN vấp phải khó khăn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ. Ngoài ra, DNTN còn có những điểm yếu khác như: kinh nghiệm quản lý non yếu, hệ thống kế toán chưa được quan tâm đúng mức, chế độ lương và phúc lợi chưa thoả đáng, chưa thu hút được nhiều lao động trình độ cao, lĩnh vực hoạt động chủ yếu chỉ là những lĩnh vực có giá trị thấp như chế biến và gia công. Mặc dù các DNTN còn bộc lộ vài điểm yếu, song không thể phủ nhận rằng, các DN này đang phát triển mạnh và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. 1.2.1.2 Vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế Thứ nhất, sự phát triển của DNTN trên các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực chế biến, bán lẻ và dịch vụ đã đóng góp đáng kể vào GDP của cả nước. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2001-2005, các DNTN đóng góp 42% GDP, 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và 31% giá trị sản xuất công nghiệp của toàn bộ nền kinh tế.(3) Sự gia tăng về số lượng các DNTN đã làm cho đóng góp của khối DN này vào GDP, vào ngân sách… tăng lên nhanh chóng. (1) (2): www.gso.gov.vn (3): www.mofa.gov.vn Thứ hai, các DNTN đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng tăng lên. Tỷ trọng lao động làm việc trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 68.2% năm 2000 xuống còn 57% năm 2005. Tỷ trọng lao động trong ngành thương mại, dịch vụ tăng từ 19.7% lên 25%.(1) Thứ ba, DNTN tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Trong 3 năm từ 2000 đến 2002, số việc làm mới mà các DNTN tạo thêm là 1.75 triệu(2).Nhiều đối tượng như: người đến tuổi lao động cần việc làm; lao động dôi dư từ các DNNN do tinh giảm biên chế, giải thể, phá sản; lao động nông nhàn do chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển sang làm việc trong các DNTN. Như vậy, các DNTN đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống người dân. Thứ tư, DNTN tạo ra sự cạnh tranh – chìa khoá phát triển của nền kinh tế. Với đặc điểm năng động, linh hoạt, phong cách phục vụ tốt, các DNTN dần chiếm được cảm tình của người tiêu dùng. Điều này tạo ra áp lực cạnh tranh lớn đối với các DNNN. Sự độc quyền của DNNN trong một số lĩnh vực bị xoá bỏ, giúp người tiêu dùng tiếp cận được nhiều sản phẩm dịch vụ tốt hơn. Thứ năm, số lượng các công ty cổ phần trong khối DNTN tăng lên đồng nghĩa với sự tăng trưởng về số lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Nhờ đó, thị trường chứng khoán trở nên sôi động hơn và có tác động thực sự tới việc tập trung vốn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Ngoài ra, các DNTN là nhân tố quan trọng giúp phát huy cao độ nội lực của nền kinh tế, bởi nó tận dụng tối đa mọi nguồn lực trong xã hội. Đây cũng là kênh thu hút vốn, thu hút công nghệ hiện đại từ nước ngoài. (1) (2): www.mofa.gov.vn Tóm lại, DNTN đang lớn mạnh và có đóng góp lớn vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, quy mô vốn của các DNTN lại rất nhỏ bé. Đây là khó khăn lớn nhất của DNTN. Vốn vay từ NH chính là giải pháp giúp các DNTN tháo gỡ khó khăn này. Hoạt động cho vay của NHTM có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ đối với DNTN mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. 1.2.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại 1.2.2.1 Khái niệm về hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại Cho vay đối với DNTN của NHTM là hoạt động, trong đó, NHTM chuyển giao vốn cho khách hàng là DNTN sử dụng vào một mục đích, trong một thời gian nhất định. Mục đích và thời gian sử dụng vốn được hai bên thoả thuận và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng. Khi đến hạn, DNTN phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho NHTM. NHTM có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, tuỳ theo nhu cầu của DNTN. Nhìn chung, các món cho vay ngắn hạn là phổ biến đối với nhóm khách hàng này. Nguyên nhân chính là DNTN thường đầu tư vào các phương án kinh doanh có thời gian thu hồi vốn ngắn. Bên cạnh đó, các món vay của DNTN chủ yếu là nhỏ, bởi các DNTN thường không đầu tư vào những lĩnh vực cần quá nhiều vốn. Cho vay đối với DNTN là hoạt động mang nhiều rủi ro nên NHTM luôn yêu cầu DN phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay của mình (trừ phương thức cho vay theo hạn mức thấu chi). Tuy nhiên, mức cho vay đối với DNTN cũng rất thấp, chỉ khoảng 20% giá trị tài sản đảm bảo. DN nào thực sự có uy tín mới được vay đến 50%. Rất nhiều phương thức cho vay được NHTM đưa ra nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào nhu cầu vay của KH và mức độ tín nhiệm của NH đối với KH, hai bên thoả thuận để lựa chọn một phương thức cho vay trong số các phương thức sau: Cho vay từng lần: là hình thức phổ biến đối với các KH không có nhu cầu vay thường xuyên. Mỗi lần vay KH phải làm đơn và trình NH phương án sử dụng vốn. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, NH sẽ thu gốc và lãi. Cho vay theo hạn mức: thường áp dụng với những KH có nhu cầu vay thường xuyên. NH thoả thuận cho KH vay theo hạn mức - mức dư nợ tối đa được duy trì trong một kỳ. NH không ấn định trước ngày trả nợ mà sẽ thu nợ khi KH có thu nhập. Mỗi lần vay, KH không phải làm đơn mà chỉ cần trình bày phương án sử dụng vốn vay, xuất trình các chứng từ mua hàng hoá, dịch vụ. Cho vay luân chuyển: thường áp dụng với các DN có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với NH. NH cho DN vay khi mua hàng và thu nợ khi DN bán hàng. Mỗi lần vay, KH chỉ cần gửi đến NH các chứng từ hoá đơn nhập hàng. NH sẽ trả tiền cho người bán. Thấu chi: sử dụng đối với các KH có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. NH cho phép người vay được chi vượt số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định, trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn ấy gọi là hạn mức thấu chi. Khi KH có tiền nhập vào tài khoản, NH sẽ thu nợ. Đây là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, đơn giản, không cần tài sản đảm bảo, cấp cho DN để trả lương, mua hàng hay chi các khoản phải nộp… Hoạt động cho vay đối với DNTN của NHTM có tầm quan trọng đặc biệt. Trước hết, với các DNTN - khả năng tài chính rất hạn hẹp, thì vốn vay từ NH nhiều khi là vấn đề sống còn. Nguồn tài chính từ NH giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN diễn ra liên tục, giúp họ có cơ hội tái đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm… Hơn nữa, khi vay vốn của NH, DNTN chịu áp lực làm sao để kinh doanh hiệu quả, làm sao để tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất NH thì DN mới trả được nợ và có lãi. Đây chính là động lực hàng đầu để DNTN nỗ lực phát triển. Mặt khác, hoạt động cho vay của NHTM đối với DNTN sẽ tạo ra một cơ chế sàng lọc. Bởi vì, NH chỉ cấp tín dụng cho những DN có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Nhờ nguồn vốn từ NH, các DNTN có năng lực tốt, làm ăn hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển. Trái lại, những DN không đủ sức cạnh tranh, làm ăn thua lỗ sẽ bị phá sản hay giải thể. Chính nhờ quy trình thẩm định trước khi cho vay, NHTM đã giúp nền kinh tế đào thải những “tế bào xấu”, làm cho nền kinh tế trở nên “khoẻ mạnh” hơn. Cuối cùng, bản thân NHTM cũng được hưởng rất nhiều lợi ích khi cho các DNTN vay vốn. Rõ ràng, cho DNTN vay càng nhiều thì NHTM sẽ thu được lợi nhuận càng lớn. Hơn nữa, các DNTN vay vốn NH còn sử dụng nhiều dịch vụ khác của chính NH đó như thanh toán, bảo lãnh, môi giới… Lợi nhuận của NH, vì thế sẽ tăng lên nhờ tăng thu từ hoạt động dịch vụ. Lợi nhuận tăng là nhân tố chính giúp cho NH lớn mạnh. Tóm lại, hoạt động cho vay đối với DNTN của NHTM có ý nghĩa lớn, không chỉ với bản thân NHTM, với DNTN mà còn với toàn bộ nền kinh tế. Nhìn chung, các khoản cho vay đối với DNTN thường có quy mô nhỏ, thời hạn cho vay ngắn. Các phương thức cho vay rất đa dạng, phù hợp với điều kiện của từng KH. Tuy nhiên, tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo còn quá thấp so với nhu cầu của DN. Cùng với sự lớn mạnh không ngừng của khối DNTN thì cho vay DNTN là hoạt động đem lại rất nhiều lợi nhuận cho NH. Song những rủi ro mà nó mang lại cũng không ít. Chính vì thế, hoạt động cho vay đối với DNTN phải tuân theo một quy trình chặt chẽ, đảm bảo cho mục tiêu an toàn và sinh lời của NHTM. 1.2.2.2 Quy trình cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp tư nhân Quy trình cho vay là tổng hợp các công việc mà cán bộ tín dụng và các phòng ban có liên quan phải thực hiện khi cấp vốn cho KH. Mỗi NHTM thường xây dựng cho mình một quy trình cho vay. Giữa các NH, quy trình ấy có thể có sự khác biệt, tuỳ thuộc vào đặc điểm và khả năng tổ chức của NH. Tuy nhiên chúng đều bao gồm bốn bước, được tóm tắt theo sơ đồ sau: Giải ngân và kiểm soát trong khi cho vay Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng Từ chối cho vay Phân tích trước khi cho vay Thu nợ hoặc đưa ra phán quyết mới Bước 1: Phân tích trước khi cho vay Đây là bước quan trọng nhất, quyết định tới chất lượng khoản vay. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến KH, bao gồm: năng lực sử dụng vốn vay, uy tín, khả năng tạo lợi nhuận, quyền sở hữu tài sản và các điều kiện kinh tế khác của người vay. Có nhiều phương pháp để thu thập thông tin. NH có thể gặp gỡ trực tiếp khách hàng, có thể mua hoặc tìm kiếm thông tin từ các nguồn như: nhà cung cấp, khách hàng của DN, phương tiện thông tin… Kết thúc bước 1, NH đánh giá được nhu cầu vay của KH, tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, các thiệt hại có thể xảy ra… Nếu thấy các yếu tố trên không phù hợp với điều kiện của mình, NH sẽ từ chối cho vay. Ngược lại, NH sẽ tiến hành bước 2. Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng là văn bản có tính pháp lý, xác định quyền và nghĩa vụ của NH và KH trong quan hệ tín dụng. Các điều khoản trong hợp đồng do hai bên thoả thuận thống nhất, đồng thời phải tuân theo đúng Luật. Các yếu tố chủ yếu của một hợp đồng tín dụng là: thông tin chung về khách hàng; Mục đích sử dụng vốn vay; Số tiền mà NH cam kết cấp cho KH; Lãi suất cho vay; Mức phí tín dụng; Thời hạn cho vay; Các loại đảm bảo; Điều kiện và kỳ hạn giải ngân... Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cho vay Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, NH có trách nhiệm cấp tiền cho KH như thoả thuận. Kèm với đó, NH kiểm soát KH: sử dụng tiền vay đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, có dấu hiệu lừa đảo, làm ăn thua lỗ hay không… Việc giải ngân gắn liền với kiểm soát KH là cần thiết. Nó giúp NH ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu, đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay. Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới Trường hợp KH không trả hoặc trả không đầy đủ, đúng hạn, NH cần xem xét để có quyết định mới về khoản vay. NH có thể gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm nếu như KH gặp khó khăn tạm thời về tài chính nhưng vẫn có khả năng trả nợ. Còn nếu KH cố tình lừa đảo, không trả nợ hoặc làm ăn yếu kém không còn cách cứu vãn, NH sẽ thanh lý, phát mại tài sản đảm bảo, tước đoạt các khoản tiền gửi… để thu hồi khoản nợ. Tóm lại, quy trình cho vay cần được xây dựng sao cho phù hợp với các quy định của pháp luật, với từng nhóm khách hàng, và với từng loại cho vay của NH. Quy trình cho vay phải đảm bảo để NH có đủ các thông tin cần thiết nhưng không gây phiền hà cho KH. 1.2.3. Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Ngân hàng thương mại Hiện nay, việc vay vốn từ NH vẫn là khó khăn lớn nhất của DNTN. Các DNTN thường phải vay vốn từ những nguồn không chính thức. Nguồn vốn này thường chắp vá, không ổn định, ảnh hưởng tới kế hoạch kinh doanh của DN. Mặt khác, sức cạnh tranh của NHTM cũng sẽ yếu đi nếu như NH không khai thác tốt thị trường cho vay các DNTN. Chính vì vậy, vấn đề quan trọng hiện nay là làm thế nào để mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNTN của NHTM. Mở rộng cho vay đối với các DNTN là việc NHTM cho các DNTN vay nhiều hơn, biểu hiện ở sự gia tăng tổng dư nợ, tổng doanh số cho vay, gia tăng tỷ trọng của dư nợ và doanh số cho vay DNTN trong tổng dư nợ và doanh số cho vay của NHTM, gia tăng thị phần và tăng trưởng số lượng các DN được vay vốn tại NHTM. Mức độ mở rộng cho vay đối với DNTN được đánh giá dựa trên một số chỉ tiêu cơ bản sau đây: Số lượng DNTN vay vốn tại NH: chỉ tiêu này được tính trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Sự tăng trưởng của nó qua các năm cho thấy NH đang mở rộng cho vay đối với DNTN. Doanh số cho vay DNTN: Doanh số cho vay là tổng số tiền NH đã cho vay ra trong kỳ. Doanh số cho vay DNTN tăng dần qua các kỳ chứng tỏ hoạt động cho vay đối với DNTN của NH đang được mở rộng. Dư nợ cho vay DNTN: dư nợ cho vay là số tiền mà NH đang cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Đây là chỉ tiêu tích luỹ qua các thời kỳ, tính theo công thức: DNCV kỳ này = DNCV kỳ trước + DSCV trong kỳ - DS thu nợ trong kỳ Đây là chỉ tiêu phản ảnh rõ nhất về sự mở rộng cho vay của NH. Nếu dư nợ cho vay đối với DNTN kỳ này lớn hơn kỳ trước, có thể khẳng định rằng, hoạt động cho vay đối với DNTN đang được NH mở rộng. Tốc độ tăng trưởng dư nợ của các DNTN: Đây là chỉ tiêu phản ánh tốc độ mở rộng cho vay của NH nhanh hay chậm, được tính theo công thức: Tốc độ tăng trưởng dư nợ = DNCV kỳ này – DNCV kỳ trước DNCV kỳ trước Xem xét trong nhiều năm, tỷ lệ này còn cho biết tốc độ mở rộng cho vay của NH tăng hay giảm. Nếu như chỉ tiêu này tăng dần qua các năm thì có thể thấy rằng tốc độ mở rộng ngày càng tăng. Tuy nhiên, nếu như tốc độ tăng dư nợ đối với DNTN nhỏ hơn so với các nhóm KH khác thì không thể nói rằng NH đang mở rộng cho vay DNTN. Tỷ trọng dư nợ đối với DNTN trong tổng dư nợ cho vay của NHTM: Tỷ trọng dư nợ đối với DNTN = Dư nợ cho vay đối với DNTN Tổng dư nợ cho vay của NH Sự tăng lên của con số này cũng đồng nghĩa với sự mở rộng hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNTN. Tóm lại, sự tăng hoặc giảm của những chỉ tiêu trên cho biết NH đang mở rộng hay thắt chặt hoạt động cho vay đối với các DNTN. Khi xem xét thực trạn._.g cho vay đối với DNTN của NHTM, cần phải phân tích và đánh giá đầy đủ tất cả những chỉ tiêu này. Nói cách khác, những kết luận về thực trạng cho vay đối với DNTN của NHTM chỉ chính xác khi có sự kết hợp cả năm chỉ tiêu. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại Những nhân tố chủ quan Những nhân tố sau đây thuộc về bản thân NHTM, có ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với DNTN của NHTM. Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh cho vay của một NH. Vì thế nó là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với DNTN. Về cơ bản, nội dung của chính sách tín dụng bao gồm chính sách marketing, chính sách về quy mô và giới hạn cho vay, chính sách lãi suất và thời hạn cho vay, chính sách về các khoản đảm bảo… Chính sách marketing quyết định phương thức mà NH tiếp cận và phục vụ khách hàng. NH thường tiến hành phân loại khách hàng thành KH truyền thống, KH mục tiêu, KH có nhiều rủi ro... Trên cơ sở đó, NH sẽ xây dựng chính sách marketing áp dụng riêng cho từng loại KH. Một chính sách marketing hợp lý, hướng tới nhóm KH là DNTN sẽ thúc đẩy các DNTN đến vay vốn tại NH. Từ đó, hoạt động cho vay đối với DNTN được mở rộng. Chính sách về quy mô và giới hạn cho vay ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô các khoản vay mà DNTN nhận được từ NH. Bên cạnh các quy định của pháp luật, mỗi NH thường có quy định riêng về quy mô và giới hạn cho vay đối với từng KH cụ thể. Ví dụ như quy mô cho vay tối đa đối với từng KH, từng ngành nghề, quy mô cho vay trên giá trị vật đảm bảo… Khi muốn mở rộng cho vay đối với các DNTN, NH sẽ nới lỏng chính sách này theo hướng tăng quy mô và mở rộng giới hạn cho vay đối với DNTN. Lãi suất cho vay của NHTM có tác động lớn tới nhu cầu vay vốn của DNTN. Một mức lãi suất cao sẽ hạn chế ý muốn vay mượn của các DNTN, bởi chi phí vốn cao. Ngược lại, NH sẽ áp dụng mức lãi suất cho vay thấp khi muốn mở rộng cho vay đối với các DNTN. Chi phí vốn thấp góp phần giảm gánh nặng chi phí cho DN, tạo điều kiện để DN kinh doanh có lãi. Khi đó, nhiều DNTN tìm đến NH để vay vốn. Số lượng DNTN vay vốn tại NH tăng lên, nghĩa là hoạt động cho vay đối với DNTN được mở rộng. Chính sách về các khoản đảm bảo ảnh hưởng rất nhiều tới quy mô các khoản tín dụng mà NH dành cho khách hàng. Chính sách này bao gồm các quy định về: trường hợp vay vốn phải có tài sản đảm bảo, các hình thức đảm bảo, tỷ lệ phần trăm cho vay trên đảm bảo… Thông thường, các NH chỉ cho vay với giới hạn thấp hơn giá trị thị trường của đảm bảo. Tỷ lệ phần trăm cho vay tuỳ thuộc vào khả năng bán và khả năng thay đổi giá trị của tài sản đảm bảo. Tỷ lệ này càng cao thì quy mô vốn mà DN được nhận từ NH càng lớn. Ngược lại, chính sách về các khoản đảm bảo quá chặt chẽ sẽ cản trở khả năng mở rộng cho vay đối với các DNTN của NHTM. Quy trình cho vay: Một quy trình cho vay rườm rà, phức tạp, tốn thời gian nhiều khi làm mất đi cơ hội kinh doanh của KH. Do đó, quy trình thủ tục cho vay của NH cần phải đơn giản, hợp lý, vừa đảm bảo để NH có được các thông tin cần thiết, vừa không gây phiền hà cho KH. Điều này sẽ thu hút nhiều DNTN tới NH để vay vốn. Quy mô và cơ cấu vốn của NHTM Quy mô VCSH cũng như vốn nợ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của NHTM. Do những quy định về giới hạn cho vay đối với một/một nhóm khách hàng, VCSH của NHTM sẽ quyết định mức dư nợ tối đa mà NH đó có thể dành cho KH của mình. VCSH càng nhiều thì quy mô cho vay đối với một khách hành càng lớn. Bên cạnh đó, với lượng vốn nợ dồi dào, NHTM dễ dàng mở rộng cho vay. Ngược lại, nếu hoạt động huy động vốn của NH gặp khó khăn thì NH sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu vay của các DNTN và mục tiêu mở rộng cho vay đối với các DNTN khó lòng đạt được. Bên cạnh đó, cơ cấu vốn của NH cũng ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với các DNTN. Nếu tỷ trọng vốn ngắn hạn quá lớn, NH không đủ vốn trung dài hạn để tài trợ cho các nhu cầu vốn dài hạn của DN. Việc mở rộng cho vay đối với các DNTN cũng khó khăn hơn. Đội ngũ cán bộ nhân viên của NHTM Ngành dịch vụ có đặc điểm nổi bật là chất lượng dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người. Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ NH sẽ quyết định chất lượng của hoạt động cho vay cũng như các dịch vụ tài chính mà NH cung cấp. Từ đó, yếu tố con người có tác động lớn đến việc NH có thể mở rộng cho vay đối với các DNTN hay không. Ngoài ra, nhân viên NH thường xuyên tiếp xúc với KH, do đó, là hình ảnh đại diện cho NH trong con mắt KH. Đội ngũ nhân viên có tác phong chuyên nghiệp, thái độ phục vụ chu đáo, nhiệt tình sẽ để lại cho NH ấn tượng tốt. Sự hài lòng của KH sẽ giúp cho việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của NHTM thuận lợi hơn. Công tác quản lý rủi ro của NHTM Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động cho vay của NHTM. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất cho NH khi người vay không trả, không trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ cả gốc và lãi. Nhìn chung NH chỉ quyết định cho vay sau khi thẩm định và thấy dự án cần vay vốn an toàn. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng vẫn có thể xảy ra mà NH không lường trước được. Rủi ro này gây tổn thất cho NH, khiến NH không thể mở rộng cho vay nói chung và mở rộng cho vay DNTN nói riêng. Bởi vậy, công tác quản lý rủi ro tín dụng có ảnh hưởng to lớn đến việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của NHTM. Nếu công tác này được thực hiện tốt, rủi ro tín dụng được giảm thiểu, chất lượng hoạt động cho vay tăng lên. Đây chính là điều kiện tốt để NH có thể mở rộng cho vay đối với các DNTN. Mạng lưới chi nhánh của NHTM Số lượng và sự phân bố chi nhánh của NH cũng tác động tới khả năng mở rộng cho vay đối với các DNTN. KH thường giao dịch với NH có vị trí địa lý gần địa bàn hoạt động của mình để giảm chi phí về thời gian và phương tiện đi lại. Vì thế, việc mở rộng cho vay đối với các DNTN sẽ đạt hiệu quả hơn nếu như NHTM có mạng lưới chi nhánh dày và rộng, trụ sở, phòng giao dịch khang trang, lịch sự… Những nhân tố khách quan Những nhân tố từ phía DNTN Nhu cầu vay vốn của DNTN chính là nhân tố đầu tiên cần được kể đến. Trong nền kinh tế thị trường, khi nhu cầu về một loại hàng hóa nào đó tăng lên thì việc tăng cung để đáp ứng nhu cầu đó là hết sức cần thiết. Trong lĩnh vực tín dụng, điều này cũng hoàn toàn đúng. DNTN có nhu cầu lớn về vốn sẽ thúc đẩy quá trình mở rộng cho vay đối với khối DN này. Vì thế, nhu cầu vay vốn của DNTN là nhân tố khách quan tác động tới việc mở rộng cho vay DNTN của NHTM. Thứ hai, khả năng đáp ứng điều kiện vay của DNTN sẽ quyết định việc DN có nhận được vốn vay từ NH hay không. Khả năng đáp ứng điều kiện vay của DN được xem xét trên ba khía cạnh là: năng lực sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính và tài sản đảm bảo của DN. Năng lực sản xuất kinh doanh và năng lực tài chính của KH được NH xem xét ngay từ khâu phân tích trước khi cấp tín dụng. Công việc này bao gồm việc đánh giá tài sản, các khoản nợ, tỷ lệ thanh khoản, tỷ lệ sinh lời, tỷ lệ rủi ro…của KH. Đây là khâu không thể thiếu trong hoạt động cho vay của NHTM. Thông qua đó, NH nắm được năng lực sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính của DN cần vay vốn. Năng lực của DN càng mạnh thì khả năng đáp ứng các điều kiện cho vay càng lớn. DN thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ NH. Tài sản đảm bảo của DN cũng là điều kiện quyết định xem DN có vay được vốn của NH hay không. Bởi cho vay DNTN là hoạt động rủi ro nên NH luôn yêu cầu tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Tài sản đảm bảo là căn cứ để NH xác định mức cho vay đối với DNTN. Nếu DN không có tài sản đảm bảo, không có người bảo lãnh hoặc giá trị tài sản đảm bảo thấp, không đủ tiêu chuẩn thì khó vay được vốn NH. Như vậy, năng lực sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính và tài sản đảm bảo là những yếu tố quyết định tới khả năng đáp ứng điều kiện vay của DNTN. Khả năng ấy càng lớn, việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của NHTM càng được thực hiện dễ dàng hơn. Nhân tố thứ ba về phía DNTN là tính khả thi của dự án/phương án kinh doanh mà DN cần tài trợ. NH cho vay dựa trên những dự án, phương án kinh doanh khả thi và khả năng sinh lời cao. Vì vậy, sức thuyết phục của phương án sản xuất kinh doanh là cơ sở để NH chấp nhận hay từ chối đề nghị vay vốn của DN. Do đó, tính khả thi của dự án mà DN trình bày với NH cũng là một trong những nhân tố khách quan ảnh hưởng tới hoạt động mở rộng cho vay đối với DNTN của NHTM. Những nhân tố từ phía môi trường vĩ mô Thứ nhất, sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay của NHTM. Hoạt động NH có liên quan đến tất cả các lĩnh vực kinh tế. Vì thế, những biến động của nền kinh tế sẽ có tác động tới hoạt động của NH, đặc biệt là hoạt động cho vay. Cụ thể, khi nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh của DN tăng lên. Các NHTM có xu hướng mở rộng hoạt động tín dụng, mở rộng cho vay đối với DNTN. Thứ hai, quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới một mặt sẽ đem lại nhiều cơ hội để NHTM mở rộng cho vay đối với DNTN. Mặt khác, những thách thức mà nó đặt ra cũng rất lớn. Cam kết mở cửa thị trường tài chính NH được thực hiện, khiến cho các NH nước ngoài tràn vào thị trường trong nước. Cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực cho vay các DNTN ngày càng khốc liệt. Trong khi đó, các NHTM Việt Nam lại có nhiều bất lợi bởi số vốn hạn hẹp và năng lực quản trị yếu kém. Bởi vậy, đối với hoạt động cho vay DNTN của NHTM, những khó khăn mà quá trình hội nhập đặt ra sẽ lớn hơn nhiều so với những cơ hội mà nó mang lại. Thứ ba, hoạt động cho vay đối với DNTN của NHTM cũng chịu tác động của các thị trường khác như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản. Sự phát triển của các thị trường này sẽ thu hút một lượng vốn lớn của NHTM. Hiệu quả từ việc cho vay mua bất động sản, cho vay đầu tư chứng khoán khiến các NH chú trọng hơn vào các thị trường này và thu hẹp hoạt động cho vay đối với DNTN. Khi đó, hoạt động cho vay đối với DNTN của NHTM khó có thể được mở rộng. Thứ tư, việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN cũng có tác động lớn tới hoạt động cho vay của NHTM. Khi tỷ lệ lạm phát cao, NHNN sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ bằng các biện pháp như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu… để hút bớt lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Các biện pháp này sẽ làm giảm nguồn tiền dành cho hoạt động cho vay của NHTM. Lẽ tất nhiên, NH không thể mở rộng cho vay DNTN Bên cạnh đó, môi trường pháp lý có tác động rất lớn tới hoạt động của cả NHTM lẫn DNTN. Do đó nó cũng có tác động tới việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của NHTM. Những điều kiện cấp tín dụng của NHTM chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các quy định pháp lý. Mặt khác, môi trường pháp lý minh bạch với hệ thống các văn bản pháp luật hợp lý là điều kiện để DNTN tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn của NHTM. Cuối cùng, môi trường chính trị xã hội là nhân tố không thể không kể đến. Môi trường chính trị xã hội ổn định giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài và kích thích đầu tư trong nước. Các DNTN có môi trường thuận lợi để phát triển. Trái lại, môi trường chính trị xã hội kém ổn định sẽ làm cho môi trường kinh doanh u ám hơn, kéo theo sự bi quan của các nhà đầu tư. Nhu cầu đầu tư giảm xuống sẽ dẫn đến sự thu hẹp hoạt động cho vay đối với DNTN của NHTM. Tóm lại, việc mở rộng cho vay đối với các DNTN không chỉ chịu ảnh hưởng từ những nhân tố bên trong NHTM, mà còn từ nhiều nhân tố khách quan khác. Hoạt động đó tốt hay xấu, mạnh hay yếu đều do các nhân tố này quyết định. Vậy, thực trạng hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD NH Đầu tư và Phát triển VN đang diễn ra như thế nào? Các nhân tố kể trên có tác động ra sao tới thực trạng ấy? Những vấn đề này sẽ được trình bày rõ ràng ở chương 2. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1 Tổng quan về Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Bank for Investment and Development of Vietnam và thường được gọi tắt là BIDV. BIDV là NHTM Nhà nước, được thành lập năm 1957, với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát vốn ngân sách cho các dự án đầu tư của Nhà nước. Đến nay, BIDV đã trở thành một trong số những NH hàng đầu về quy mô và chất lượng đang hoạt động tại VN. Tài trợ cho các DN Nhà nước, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản vẫn đang là thế mạnh cạnh tranh của BIDV. Với mục tiêu trở thành NH chất lượng – uy tín hàng đầu tại Việt Nam, BIDV đã đặt ra phương châm hoạt động: “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV”. Hai mươi năm trở lại đây, BIDV đã và đang chuyển hướng mạnh mẽ sang hoạt động kinh doanh, mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch, mở rộng khách hàng và thực hiện tất cả các nghiệp vụ NHTM. Do mới bước vào hoạt động kinh doanh, cần phải có một “chi nhánh đặc biệt” bên cạnh BIDV trung ương để thử nghiệm các nghiệp vụ mới. Trong bối cảnh đó, ngày 28/3/1991, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ra đời, với tư cách là đơn vị thay mặt Hội sở chính trực tiếp kinh doanh và tiếp xúc với khách hàng. Cho tới nay, SGD đã trải qua 16 năm hoạt động. Bên cạnh truyền thống phục vụ lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, SGD đã triển khai thành công các sản phẩm dịch vụ mới theo tiêu chuẩn ISO. Nhờ những đóng góp quan trọng vào thành quả chung, SGD đã từng bước trở thành đơn vị đầu tàu của toàn hệ thống BIDV. Quá trình phát triển của SGD được chia thành các giai đoạn như sau: 5 năm đầu tiên (1991 – 1995), SGD có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát vốn ngân sách cho các dự án đầu tư của các Bộ, Ngành…với số vốn hàng trăm tỷ đồng. Theo đó, SGD đã phát huy vai trò kiểm tra, giám sát sử dụng vốn, cấp phát vốn đúng địa chỉ, đúng đối tượng, đúng thiết kế, góp phần chống lãng phí trong xây dựng cơ bản. 5 năm tiếp theo (1996 – 2000), SGD chuyển hướng mạnh mẽ sang hoạt động kinh doanh bằng việc mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch, mở rộng khách hàng và thực hiện tất cả các nghiệp vụ NHTM. Giai đoạn này, SGD có 12 phòng nghiệp vụ, 1 chi nhánh khu vực, 2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết kiệm... SGD được biết đến như đơn vị chuyên tài trợ vốn cho các Tổng công ty, các dự án trọng điểm của Nhà nước và cung ứng các dịch vụ NH chất lượng cao như thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, bảo lãnh… Tháng 3/2001, SGD đã đạt quy mô tổng tài sản 9,900 tỷ đồng, huy động vốn 5,755 tỷ đồng, dư nợ tín dụng 4,846 tỷ đồng, thu phí dịch vụ hàng chục tỷ đồng (1). 4 năm tiếp theo (2002 – 2005), SGD đã mở thêm 4 CN cấp I trên địa bàn Hà Nội. Đó là: Bắc Hà Nội (2002), Hà Thành (2003), Đông Đô (2004) và Quang Trung (2005) với tổng tài sản mỗi đơn vị trên 1000 tỷ đồng và hàng trăm cán bộ. SGD tiến hành cơ cấu lại theo mô hình phục vụ giao dịch một cửa thuận lợi cho KH và quản lý thông tin, thanh toán trực tuyến. Đến nay, sau hơn 16 năm hoạt động, SGD đã có 20 phòng nghiệp vụ, 300 cán bộ với mạng lưới 14 phòng giao dịch. Hàng vạn khách hàng mở tài khoản tại SGD, trong đó có tới hơn 1400 KH là DN thuộc các thành phần kinh tế: Tập đoàn, Tổng công ty, DN có vốn đầu tư nước ngoài, Công ty cổ phần… Quy mô tổng tài sản đạt 17,461 tỷ đồng, gấp 102 lần so với khi mới được thành lập. Nguồn vốn huy động đạt 13,620 tỷ đồng. Dư nợ 5,185 tỷ đồng. Thu dịch vụ đạt 58 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng bình quân 20%/năm(2). Mô hình tổ chức của SGD đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng NH hiện đại trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin và quản lý chất lượng ISO 9001:2000. SGD có sự tăng trưởng bền vững cả về quy mô tổng tài sản, huy động vốn, tín dụng và cung ứng dịch vụ. Với tổng tài sản, lợi nhuận chiếm hơn 10% toàn hệ thống, SGD là đơn vị điển hình về hiệu quả kinh doanh cao, đóng góp tích cực vào kết quả chung của toàn hệ thống. Trong 16 năm hoạt động, SGD đã góp phần vào sự phát triển kinh tế của Hà Nội, nâng cao sức cạnh tranh của BIDV, đồng thời là minh chứng cho sự thành công mô hình mới của BIDV. 2.1.2 Mô hình tổ chức của Sở Giao dịch SGD hiện có 20 phòng nghiệp vụ. Tất cả các phòng là đơn vị thuộc bộ máy tổ chức của SGD, được thành lập theo quyết định của giám đốc SGD BIDV. Điều hành mọi hoạt động của mỗi phòng là trưởng phòng. Giúp việc cho trưởng phòng là các phó phòng. 20 phòng nghiệp vụ được tổ chức theo sơ đồ sau: (1), (2): Kỷ yếu 15 năm xây dựng và phát triển - Sở giao dịch BIDV Ban giám đốc Khối tín dụng Khối dịch vụ Khối QL nội bộ Khối ĐVTT P. tín dụng1 P tín dụng 2 P tín dụng 3 P. thẩm định P. quản lý tín dụng P. thanh toán quốc tế P. Tài chính kế toán P. Kế hoạch nguồn vốn P. Tiền tệ kho quỹ P. DV KH cá nhân P. DV KH DN 2 P. DV KH DN 1 P. Tổ chức cán bộ P. hành chính quản trị P. Điện toán P. kiểm tra nội bộ P. giao dịch 4 P. giao dịch 1 P. giao dịch 2 P. giao dịch 3 . 2.1.3 Tình hình hoạt động của Sở giao dịch trong 3 năm trở lại đây 2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn Những năm gần đây, sự cạnh tranh giữa các NHTM trong việc huy động vốn có xu hướng ngày càng mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, lượng vốn mà SGD huy động được vẫn liên tục tăng trưởng, là kết quả tổng hợp của việc ứng dụng công nghệ hiện đại và đa dạng hoá sản phẩm. Dưới đây là bảng số liệu phản ánh tình hình biến động vốn của SGD trong 3 năm gần đây: Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Giá trị TT Giá trị TT Tăng Giá trị TT Tăng TG của TCKT 4,407.585 58.2% 7,284.959 72.1% 65.0% 11,821.213 86.8% 62.0% TG không KH 844.839 11.2% 1,645.390 16.3% 94.8% 3,427.093 25.2% 108.3% TG có KH 3,562.746 47.1% 5,639.569 55.8% 58.3% 8,394.120 61.6% 48.9% TG của dân cư 3,048.831 40.3% 2,791.400 27.6% -8.4% 1,764.826 13.0% -36.8% TG tiết kiệm 2,168.426 28.6% 2,290.055 22.6% 5.6% 1,601.104 11.8% -30.0% Kỳ phiếu 230.878 3.1% 122.200 1.2% -47% 27.605 0.2% -77.4% CCTG, TF 649.527 8.6% 379.145 3.7% -41% 136.117 1.0% -64.1% Nguồn khác 113.084 1.5% 34.567 0.3% -69% 34.567 0.3% 0.0% TỔNG CỘNG 7,569.500 100.0% 10,110.926 100.0% 34.0% 13,620.606 100.0% 35.0% (Nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005 – 2007) Số vốn tăng dần qua các năm cho thấy khả năng huy động vốn của SGD khá tốt. Tốc độ tăng trưởng vốn khá đều, khoảng 34%/năm. So với mục tiêu tăng trưởng bình quân huy động vốn 22-25%/năm thì SGD đã đạt được mức cao hơn. Đối với TG từ tổ chức kinh tế, con số này tăng liên tục trong 3 năm gần đây. Hơn nữa, tốc độ gia tăng khá cao, thường đạt 63-65%/năm. Điều đó chứng tỏ, SGD không chỉ củng cố quan hệ với các KH truyền thống mà đã thu hút được nhiều KH mới. Nhờ việc đưa ra chế độ lãi suất hấp dẫn, các công cụ huy động linh hoạt và cung cấp các dịch vụ thanh toán hiện đại, SGD đã huy động được lượng tiền gửi lớn từ phía các tổ chức kinh tế. Trong cơ cấu TG từ tổ chức kinh tế, cả hai nhóm TG có kỳ hạn và TG không kỳ hạn đều có sự tăng trưởng. Song, TG không kỳ hạn có tốc độ tăng trưởng cao hơn, thường đạt 95-100%/năm, so với tốc độ 50%/năm của TG có kỳ hạn. Điều này có thể được lý giải bởi hai lý do: thứ nhất là nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản vốn đầu tư tại NH, mà luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đổ vào Việt Nam đang tăng rất nhanh. Thứ hai là thị trường chứng khoán phát triển kéo theo sự gia tăng số lượng tài khoản mà nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán. Chính hai lý do này đã làm cho lượng tiền gửi thanh toán tại SGD tăng cao. Bộ phận TG của dân cư: thứ nhất, lượng TG giảm dần qua các năm. Nguyên nhân là các NHTM Nhà nước nói chung và SGD nói riêng thường áp dụng mức lãi suất huy động thấp hơn các NHTM cổ phần khác. Chính điều này đã hạn chế sức cạnh tranh của SGD trong cuộc chạy đua về lãi suất huy động với các NH khác. Thứ hai, xét về cơ cấu thì TG tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất, từ 80-90% tổng tiền gửi của dân cư, và có xu hướng tăng dần qua các năm. Đó là nhờ hệ thống công nghệ hiện đại, SGD đã áp dụng nhiều hình thức huy động mới như tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm “Ổ trứng vàng”… để thu hút lượng tiền gửi ngắn hạn từ phía dân cư. Trong khi đó, công cụ huy động vốn trung - dài hạn của SGD lại tỏ ra kém hiệu quả. Bằng chứng là lượng tiền huy động từ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi giảm dần qua các năm, cả về giá trị lẫn tỷ trọng. Như vậy, nguồn huy động của SGD chủ yếu là nguồn ngắn hạn. Thực tế này đã đặt ra cho SGD khó khăn lớn trong việc kiểm soát rủi ro kỳ hạn cũng như đáp ứng nhu cầu vay của KH, bởi lĩnh vực hoạt động chính của SGD vẫn là tài trợ các dự án đầu tư xây dựng, cần vốn lớn với kỳ hạn dài. Về cơ cấu vốn huy động, có thể nhận thấy sự thay đổi theo hướng: tỷ trọng TG của tổ chức kinh tế tăng dần qua các năm, tương ứng với sự suy giảm tỷ trọng TG của dân cư. Hình 2.1 Biến động cơ cấu vốn huy động TG dân cư đang có xu hướng chuyển dịch từ NHTM nhà nước sang khối NHTM cổ phần, do mức lãi suất cao mà các NHTM cổ phần đưa ra. Chính vì thế, SGD cần quan tâm hơn nữa đến việc huy động vốn từ bộ phận này, bởi nguồn vốn từ dân cư có tiềm lực rất lớn và ngày càng quan trọng đối với các NH. Hơn nữa, phần lớn người dân vẫn còn tâm lý tin tưởng vào các NHTM nhà nước. Đó là yếu tố mà SGD có thể tận dụng để tăng cường huy động vốn từ dân cư. 2.1.3.2 Hoạt động cho vay Có thể nói cho vay là hoạt động tiếp nối của huy động vốn. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh mà HSC giao cho, SGD đã không ngừng mở rộng khách hàng, nâng cao chất lượng và tăng cường quy mô các khoản cho vay. Bên cạnh đó, SGD cũng chú ý tới việc đảm bảo an toàn tín dụng trên cơ sở chấp hành các nguyên tắc, chỉ số an toàn và giới hạn tín dụng mà HSC quy định. Cơ cấu cho vay theo thành phần của SGD được thể hiện trong bảng số liệu dưới đây: Bảng 2.2 Cơ cấu cho vay theo thành phần Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Giá trị TT Giá trị TT Tăng Giá trị TT Tăng DN tư nhân 625.796 13.0% 1000.15 20.0% 59.8% 1358.471 26.2% 35.8% DN nhà nước 4188.02 87.0% 4000.602 80.0% -4.5% 3826.533 73.8% -4.4% TỔNG CỘNG 4813.816 100.0% 5000.752 100.0% 3.9% 5185.004 100.0% 3.7% ( Nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005 – 2007) Dư nợ cho vay của SGD tăng trưởng liên tục qua các năm với tốc độ trung bình 3.8%/năm. Với phương châm “Hiệu quả kinh doanh của KH là mục tiêu hoạt động của NH”, các sản phẩm tín dụng của SGD ngày càng được đa dạng hoá, không ngừng đáp ứng nhu cầu của KH. Mặt khác, cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, SGD đã mở rộng cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và cho vay cầm cố bằng chứng khoán. Vì thế, qua 3 năm, hoạt động tín dụng của SGD có sự tăng trưởng với tốc độ khá ổn định. Mặt khác, tỷ trọng cho vay đối với các DN tư nhân tăng dần. Trong quá trình hội nhập của Việt Nam, các DN tư nhân đã thích nghi nhanh chóng, tỏ rõ sự nhạy bén linh hoạt và đóng vai trò ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế. Do đó, xu hướng chung của các NHTM là tăng cường cho vay các DN này. Hiệu quả từ việc cho vay các DN tư nhân đã thúc đẩy SGD tăng tỷ trọng của nhóm này trong cơ cấu tín dụng. Nếu xét về kỳ hạn, cơ cấu cho vay của SGD lại thay đổi theo chiều hướng tăng dần các khoản cho vay ngắn hạn, giảm cho vay trung – dài hạn để phù hợp với cơ cấu nguồn của SGD. Điều này được thể hiện qua hình 2.2: Hình 2.2 Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn ( Nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005-2007) Đây chính là cơ cấu mà SGD áp dụng, nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Thông qua việc đa dạng hoá các hình thức cho vay ngắn hạn như: Cho vay hỗ trợ vốn trong khi chờ thanh toán của chủ đầu tư, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, chiết khấu bộ chứng từ, cho vay tiêu dùng, cho vay cầm cố…,SGD đã mở rộng cho vay ngắn hạn để đảm bảo sự phù hợp về kỳ hạn với nguồn huy động. Bên cạnh đó, cho vay trung dài hạn vẫn được duy trì với tỷ trọng nhất định để đảm bảo thu nhập cho SGD. Chính nhờ sự thay đổi hợp lý về cơ cấu, chất lượng tín dụng của SGD đã tăng lên, biểu hiện rõ ràng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần qua các năm Hình 2.3 Tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm ( Nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005 – 2007) Căn cứ vào những phân tích trên, có thể nhận định rằng, SGD đã làm tốt công tác mở rộng khách hàng, đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng. Nhờ đó, hoạt động cho vay của SGD đã phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. 2.1.3.3 Hoạt động dịch vụ Trước đây, hoạt động của NH chủ yếu tập trung cho vay. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay chiếm tới trên 90% tổng lợi nhuận của NH. Tuy nhiên, hoạt động dịch vụ ngày càng có ảnh hưởng tới lợi nhuận, hình ảnh và thương hiệu nên các NHTM đều đang nỗ lực phát triển mảng hoạt động này. SGD cũng đã thành công trong việc tăng doanh thu từ dịch vụ, điều đó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.3 Doanh thu từ dịch vụ qua các năm Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Giá trị Giá trị Tăng Giá trị Tăng Thu dịch vụ ròng 25.6 49.512 93.40% 58.397 18% ( Nguồn: Báo cáo thường niên của SGD năm 2005 – 2007) Hướng tới mô hình NHTM hiện đại, SGD luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ. Việc áp dụng hiệu quả hệ thống công nghệ hiện đại cho phép SGD đưa ra thị trường hàng loạt sản phẩm dịch vụ tiện ích như Home banking, Phone Banking, Thanh toán trong nước và quốc tế, Chuyển tiền kiều hối toàn cầu, Dịch vụ thẻ, séc, Bảo hiểm, Bảo lãnh NH…Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán phát triển đã tạo ra cho các NHTM nói chung và SGD nói riêng cơ hội để khai thác các dịch vụ phục vụ thị trường chứng khoán. Các dịch vụ như môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư, chi trả tiền đặt cọc, nhận tiền trúng thầu mua cổ phiếu…ngày càng phát triển. Nhờ những hoạt động phục vụ thị trường chứng khoán, nâng cao chất lượng dịch vụ, SGD đã thu hút được rất nhiều khách hàng đến với mình. Số lượng cá nhân và các tổ chức kinh tế mở tài khoản, sử dụng dịch vụ thanh toán, bảo lãnh…của SGD tăng lên đáng kể. Năm 2006 chứng kiến bước đột phá trong lĩnh vực này, khi mà doanh thu từ hoạt động dịch vụ tăng tới 93% so với năm 2005. Những năm tới đây, đội ngũ cán bộ của SGD sẽ làm hết sức mình để hướng tới mục tiêu tăng trưởng doanh thu dịch vụ bình quân 25-27%/năm, đồng thời tăng tỷ lệ doanh thu từ hoạt động dịch vụ trong tổng doanh thu của SGD. 2.2 Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 2.2.1 Khái quát về các doanh nghiệp tư nhân là khách hàng của Sở giao dịch Trước hết, các DNTN có quan hệ tín dụng với SGD có số lượng rất ít và đa số là các DN vừa và nhỏ. Hiện nay, SGD có 69 khách hàng là DNTN. 90% trong số đó là DN vừa và nhỏ với quy mô vốn không quá 10 tỷ đồng và quy mô lao động không quá 300 người. Nhìn chung, bộ phận khách hàng là DNTN của SGD vẫn còn rất nhỏ, cả về số lượng lẫn quy mô. Tuy vậy, hầu hết khách hàng DNTN của SGD đều là những DN có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Có thể kể đến một số khách hàng tiêu biểu như KOVA, Sơn Hà, DIANA, Mai Linh, Ladoda, Hoà Phát, Alphanam… Đây đều là những doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường và đang dần khẳng định được thương hiệu. Nhu cầu đầu tư để mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của những doanh nghiệp này là rất lớn. Không những thế, các khách hàng này đều có uy tín, có lịch sử tín dụng tốt. Có thể nói rằng, bộ phận khách hàng DNTN của SGD, tuy có số lượng ít, quy mô nhỏ nhưng nhu cầu về vốn lại rất lớn và tiềm năng phát triển tốt. Với nền tảng khách hàng đó,thực trạng cho vay các DNTN của SGD diễn ra như thế nào? 2.2.2 Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 2.2.2.1 Quy trình cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch Quy trình cho vay bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ của KH và kết thúc khi tất toán, thanh lý hợp đồng tín dụng. Quy trình này được áp dụng chung cho toàn hệ thống BIDV và có thể được tóm tắt theo sơ đồ sau: Tiếp nhận và hướng dẫn KH về hồ sơ vay vốn Thẩm định các điều kiện tín dụng Thu nợ, lãi, phí và xử lý phát sinh Từ chối cho vay Từ chối cho vay Xét duyệt cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng Giải ngân và giám sát việc sử dụng vốn vay Thanh lý hợp đồng tín dụng Bước 1: Tiếp nhận và hướng dẫn KH về hồ sơ vay vốn Khi DNTN có đề nghị vay vốn của SGD, cán bộ tín dụng trao đổi với DN đó để tìm hiểu về mục đích vay vốn, hoạt động kinh doanh, vị thế của DN trong ngành nghề kinh doanh của họ. Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần xác định xem liệu dự án sắp được tài trợ có nằm trong khả năng của KH hay không; có phù hợp với chính sách tín dụng của SGD hay không. Nếu phù hợp, cán bộ tín dụng hướng dẫn KH về hồ sơ vay vốn. Nếu không, yêu cầu vay vốn của KH sẽ bị từ chối. Kết thúc bước 1, cán bộ tín dụng phải đảm bảo đã nhận được tất cả các thông tin, tài liệu cần thiết, để phục vụ cho bước tiếp theo. Bước 2: Thẩm định các điều kiện tín dụng Đây là khâu quan trọng nhất, quyết định tới chất lượng của khoản cho vay. Cán bộ tín dụng phải thẩm định theo rất nhiều nội dung. Trước hết, cán bộ tín dụng phải có những đánh giá chung về khách hàng, bao gồm tư cách pháp lý, năng lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, các rủi ro chủ yếu của khách hàng…Tiếp theo, cán bộ tín dụng phải kiểm tra tính chính xác, trung thực của báo cáo tài chính mà KH cung cấp. Cán bộ tín dụng cũng cần đánh giá tình hình quan hệ của KH với SGD hay các chi nhánh khác trong hệ thống BIDV, với các tổ chức tín dụng khác. Bước tiếp theo là phân tích phương án sản xuất kinh doanh để kết luận về tính khả thi, hiệu quả của nó. Thẩm định tài sản đảm bảo cũng là nội dung không thể thiếu của bước này. Sau khi thẩm định khách hàng vay vốn, cán bộ tín dụng phải thẩm định các điều kiện tín dụng. Cụ thể, cán bộ tín dụng xác định phương thức cho vay; xác định số tiền cho vay; lãi suất; thời gian cho vay…Cán bộ tín dụng còn phải xem xét khả năng nguồn vốn của SGD, để biết được SGD có thể đáp ứng yêu cầu vay của khách hàng hay không. Bước 3: Xét duyệt cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng Sau khi thẩm định các điều kiện vay vốn ở bước 2, cán bộ tín dụng lập Tờ trình cho vay kèm theo báo cáo thẩm định, hồ sơ vay vốn trình trưởng phòng tín dụng. Trưởng phòng tín dụng kiểm tra và cho ý kiến vào tờ trình rồi trình lãnh đạo. Lãnh đạo sẽ xem xét lại hồ sơ mà trưởng phòng tín dụng trình để quyết định duyệt ._.hế và lịch sự cũng sẽ tạo ấn tượng tốt nơi KH, làm tăng ý muốn của họ trong việc gửi tiền tại SGD. 3.2.2 Tăng cường hoạt động marketing Hiện nay, sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng đang diễn ra rất gay gắt. Thông qua hoạt động marketing, các NHTM phải chủ động tìm hiểu nhu cầu của thị trường, tìm đến KH và kéo họ về phía mình. Hoạt động marketing có ý nghĩa quyết định tới số lượng khách hàng cũng như sự trung thành của họ đối với NH. Chính vì lẽ đó, để mở rộng cho vay các DNTN, SGD cần phải tăng cường hoạt động marketing, tập trung vào đối tượng KH tiềm năng là các DNTN. Nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động này là xác định được nhu cầu, mong muốn của các DNTN và cách thức đáp ứng nhu cầu đó một cách hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh của SGD. Để tăng cường hoạt động marketing, việc đầu tiên mà SGD cần thực hiện là thành lập phòng marketing riêng biệt. Trong nhiều năm qua, KH truyền thống của SGD vốn là các DNNN. Tuy nhiên, từ năm 2003, SGD đã có định hướng mở rộng cho vay đối với các DNTN. Đây là đối tượng KH mới, hiểu biết của họ về SGD còn hạn chế. Về phía mình, SGD cũng chưa có nhiều thông tin về các DNTN. Vì thế, để mở rộng cho vay đối với DNTN, SGD phải tìm hiểu về các DNTN, tìm hiểu nhu cầu thực tế của họ. Đồng thời, SGD phải quảng bá hình ảnh của mình đến với KH để họ biết đến những sản phẩm và dịch vụ mà SGD đang cung cấp. Việc tìm hiểu và khai thác một đối tượng khách hàng hoàn toàn mới yêu cầu SGD phải có một phòng marketing riêng biệt. Vậy mà, cho đến nay, SGD vẫn chưa thành lập phòng marketing chuyên trách. Các cán bộ tín dụng đảm nhận luôn nhiệm vụ của cán bộ marketing. Đây thực sự là một khiếm khuyết lớn trong hoạt động marketing của SGD. Việc thành lập phòng marketing chuyên trách phải được thực hiện nhanh chóng. Phòng marketing với đội ngũ nhân viên marketing chuyên nghiệp có nhiệm vụ thực hiện các nội dung của marketing NH Hơn thế nữa, SGD nhất thiết phải tạo lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động của phòng marketing và hoạt động của phòng tín dụng. Chỉ khi đó, hoạt động marketing của SGD mới thực sự đạt hiệu quả. Phòng marketing chuyên trách được thành lập có nhiệm vụ thực hiện các nội dung của marketing NH, mà nội dung đầu tiên chính là nghiên cứu môi trường kinh doanh. Phòng marketing phải thu thập, nghiên cứu thông tin về các yếu tố vĩ mô bao gồm: môi trường địa lý, môi trường dân số, môi trường kinh tế, văn hoá xã hội, chính trị và pháp luật, môi trường kỹ thuật công nghệ. Những thay đổi của các yếu tố môi trường này có tác động lớn đến hoạt động của cả SGD lẫn các DNTN trên địa bàn. Vì vậy, bộ phận marketing phải dự báo được sự biến động của chúng, giúp lãnh đạo SGD kịp thời điều chỉnh hoạt động của SGD nói chung và hoạt động cho vay DNTN nói riêng cho phù hợp với những thay đổi của môi trường. Không chỉ dừng lại ở đó, bộ phận marketing còn phải tìm hiểu về KH của SGD, cụ thể là các DNTN. Bộ phận marketing phải nghiên cứu thị trường, xác định được các DNTN mong muốn điều gì ở dịch vụ NH trong hiện tại và cả trong tương lai. Trên cơ sở những thông tin đầu vào mà bộ phận marketing cung cấp, SGD mới có thể nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển các dịch vụ mới, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, bộ phận marketing còn có nhiệm vụ tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn của SGD, để xây dựng chiến lược cạnh tranh phù hợp, tạo ra lợi thế cho SGD trong việc cung ứng sản phẩm dịch vụ cho các DNTN. Trên cơ sở phân tích các yếu tố nêu trên, bộ phận marketing cần xây dựng chiến lược marketing phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế và điều kiện thực tế của SGD. Trước sự phát triển nhanh chóng của DNTN, chiến lược marketing của SGD cần phải hướng tới đối tượng khách hàng này. Chính sách marketing phải tạo dựng được hình ảnh đẹp về SGD trong nhận thức của các DNTN. Trong chiến lược marketing hiện nay của SGD thì chiến lược quảng bá hình ảnh thương hiệu là khâu yếu nhất. Để khắc phục điều này, SGD cần thực hiện một số biện pháp như sau: SGD cần thường xuyên tổ chức họp báo và hội nghị KH để giới thiệu về định hướng mở rộng cho vay đối với các DNTN của mình. Các buổi họp báo và hội nghị nên được tổ chức tại những địa điểm như trung tâm hội nghị, khách sạn 5 sao… để tạo thuận lợi cho KH khi tới tham dự. Thông tin về buổi họp báo cần được thông báo rộng rãi đến giới báo chí các đối tượng có liên quan để gây được sự chú ý. Tại hội nghị và buổi họp báo, những thông tin về các sản phẩm hiện có, kế hoạch triển khai sản phẩm mới sẽ được SGD cung cấp cho báo chí và KH. Đồng thời, SGD thu thập ý kiến phản hồi của DNTN khi vay vốn tại Sở. Đây là biện pháp rất hiệu quả để SGD và các DNTN hiểu biết sâu sắc hơn về nhau, giúp cho quan hệ tín dụng giữa hai bên được mở rộng và bền chặt hơn. Các phương tiện truyền thông như truyền hình, báo chí, Internet…cũng cần được khai thác tối đa. SGD cần mở rộng quan hệ với giới truyền thông. Ngoài các tạp chí chuyên ngành Ngân hàng, SGD nên tăng cường quan hệ với các báo, tạp chí được các DNTN quan tâm. Thông qua các phương tiện báo chí, truyền hình, internet, SGD tự giới thiệu về mình và các chính sách ưu đãi dành cho KH là DNTN, quảng cáo về các sản phẩm mới, đặc biệt là các sản phẩm sắp tung ra thị trường. Biện pháp này không những giúp cho hình ảnh của SGD trở nên phổ biến hơn mà còn giúp truyền thông điệp đầy thiện chí từ SGD đến với các DNTN. SGD cần tăng cường tài trợ cho các sự kiện tiêu biểu nhằm thu hút sự chú ý của các DNTN. Ví dụ: giải thưởng Sao vàng đất Việt, các giải thể thao uy tín, các diễn đàn của DNTN, các hội nghị kinh tế, các quỹ học bổng… Tất cả những sự kiện thu hút được sự chú ý của xã hội và của các DNTN đều nên được tận dụng để làm cho thương hiệu SGD trở nên quen thuộc hơn. Tuy nhiên, SGD cũng cần có sự lựa chọn khi tài trợ, tránh tài trợ cho các sự kiện không phù hợp với hoạt động NH, không xứng đáng với vị thế của SGD BIDV. Việc chủ động tìm kiếm khách hàng mới là DNTN cũng rất quan trọng. SGD có thể mời các DNTN đến dự họp báo giới thiệu sản phẩm của mình, hoặc gửi thư giới thiệu tới các DN đó. Đồng thời, SGD chủ động hướng dẫn, tư vấn KH trong việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ phù hợp với họ. Đây là biện pháp trực tiếp làm tăng số lượng KH vay vốn tại SGD, qua đó mở rộng thị phần cho vay DNTN của SGD. Bên cạnh việc chú trọng tạo dựng quan hệ với KH mới, SGD không nên sao lãng việc duy trì và phát triển quan hệ với KH cũ. Bộ phận chăm sóc KH phải liên tục thu thập thông tin phản hồi từ KH để có sự điều chỉnh hợp lý về sản phẩm. Bộ phận marketing phải nghiên cứu đưa ra những chương trình khuyến mại, những chính sách ưu đãi dành cho các DNTN để khuyến khích họ tiếp tục vay vốn tại SGD. Ngoài ra, SGD cần cung cấp dịch vụ tư vấn KH trong việc xây dựng dự án/ phương án sản xuất kinh doanh, có biện pháp hỗ trợ khi hoạt động của các KH cũ gặp khó khăn… Điều này sẽ củng cố lòng yêu mến của KH dành cho SGD. Những KH trung thành sẽ trở thành bộ phận KH đem lại lợi nhuận lớn và ổn định cho SGD, đồng thời là kênh quảng cáo hữu hiệu, kéo thêm nhiều DNTN mới đến với SGD. Bên cạnh chiến lược quảng bá thương hiệu thì chiến lược sản phẩm cũng cần phải được SGD quan tâm nhiều hơn. Hiện nay, các sản phẩm tín dụng của SGD khá đa dạng song không có nhiều khác biệt so với các sản phẩm mà những NHTM khác đang cung cấp. Điều đó tạo ra tâm lý quen thuộc của KH là dù đến các NH khác nhau, họ cũng nhận được những loại hình dịch vụ như nhau, với chất lượng khá đồng đều. Bởi vậy, để mở rộng khách hàng DNTN, SGD phải nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường, đa dạng hoá danh mục tín dụng để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của KH. Hơn thế nữa, SGD cần phải tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình, bằng các dịch vụ tiện ích kèm theo, bằng phong cách phục vụ tận tình, chuyên nghiệp. Điều này sẽ tạo ra dấu ấn riêng cho các sản phẩm dịch vụ của SGD. Một mặt hoàn thiện các sản phẩm của mình, mặt khác, SGD cần phải tìm hiểu xem các NH đối thủ đang triển khai dịch vụ gì, chất lượng ra sao và dịch vụ mới nào sắp được họ tung ra thị trường. Từ đó, SGD có những động thái đáp lại để có thể cạnh tranh với các NH khác trong việc thu hút KH về phía mình. Tất cả những biện pháp trên đây, từ việc nghiên cứu môi trường kinh doanh đến quảng bá thương hiệu đều phải được SGD thực hiện đều đặn, thường xuyên hoặc định kỳ. Hoạt động marketing của SGD không những được tăng cường về quy mô và còn được nâng cao về chất lượng. Nhờ đó, việc mở rộng cho vay đối với các DNTN mới được thực hiện dễ dàng và hiệu quả. 3.2.3 Điều chỉnh chính sách tín dụng theo hướng cởi mở hơn với doanh nghiệp tư nhân Hiện nay, chính sách tín dụng đối với DNTN của SGD còn quá khắt khe, khiến cho các DNTN khó vay vốn và việc mở rộng cho vay DNTN gặp nhiều trở ngại. Vì vậy, việc điều chỉnh chính sách tín dụng theo hướng mềm dẻo, cởi mở hơn với các DNTN là rất cần thiết. Thứ nhất, SGD cần nới lỏng chính sách về quy mô và giới hạn tín dụng nhằm tăng quy mô các khoản cho vay đối với DNTN. Thực tế, những quy định của SGD về quy mô và giới hạn tín dụng đối với DNTN là rất khắt khe. Kết quả là, nhiều DNTN không được xét duyệt cho vay hoặc quy mô cho vay quá nhỏ so với nhu cầu của họ. Để giải quyết tình trạng này, SGD cần linh hoạt hơn trong việc cho vay đối với các DNTN. Để ra quyết định tài trợ, SGD không nên chỉ dựa vào tài sản đảm bảo mà có thể xem xét tính khả thi của phương án kinh doanh mà DN đưa ra. Nếu phương án/ dự án đó có tính khả thi, có khả năng sinh lời cao thì SGD có thể chấp nhận cho vay. Ngoài ra, tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo cần được tăng lên, giới hạn cho vay đối với DNTN cần được mở rộng để DNTN vay được nhiều vốn hơn từ SGD. Thứ hai, chính sách về các khoản đảm bảo cần phải được thay đổi. Hiện nay, 100% dư nợ cho vay đối với DNTN tại SGD phải được đảm bảo bằng tài sản. Việc định giá tài sản đảm bảo của SGD cũng quá cứng nhắc và chặt chẽ. Điều này khiến cho DN, dù có tài sản đảm bảo thì khoản tín dụng mà họ nhận được cũng quá ít ỏi so với nhu cầu. Vì vậy, SGD cần phải thay đổi một số quy định trong chính sách về các khoản đảm bảo. Việc định giá tài sản đảm bảo cần được đơn giản hoá để DNTN dễ dàng tiếp cận hơn với nguồn vốn từ NH. Thứ ba, SGD nên áp dụng lãi suất cho vay một cách linh hoạt hơn. Hiện nay, SGD xác định lãi suất cho vay dựa trên kết quả xếp hạng khách hàng và tỷ lệ tài sản đảm bảo trên dư nợ của KH. Các DNTN thường bị xếp hạng thấp, giá trị tài sản đảm bảo lại không cao nên phải chịu lãi suất cao hơn so với các DNNN. Điều này sẽ gây tâm lý không thoải mái cho các KH là DNTN. Vì vậy, SGD nên có sự ưu đãi về lãi suất đối với những DN sử dụng vốn có hiệu quả và trả nợ sòng phẳng. Một chính sách lãi suất công bằng, phù hợp với điều kiện của các DNTN không những kích thích các DN đó đến vay vốn tại SGD nhiều hơn mà còn khuyến khích họ trả nợ đúng hạn, đầy đủ. 3.2.4 Đổi mới quy trình cho vay phù hợp với doanh nghiệp tư nhân Quy trình cho vay đang được SGD áp dụng chung cho tất cả các loại hình DN. Quy trình này được xây dựng dựa trên đặc điểm của các DNNN - vốn là KH truyền thống của SGD. Tuy nhiên, các DNTN lại có nhiều điểm khác biệt so với DNNN như: quy mô nhỏ, khả năng tài chính còn hạn chế, chưa có được uy tín và sự tin tưởng của các NHTM... Bởi vậy, quy trình cho vay mà SGD đang áp dụng rõ ràng là không phù hợp với DNTN. Một số điều chỉnh sau đây sẽ giúp cải thiện điều này: Một là, hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng KH cần phải được thay đổi cho phù hợp với các DNTN. Hiện nay, việc chấm điểm và xếp hạng KH tại SGD được thực hiện theo quy trình chung của cả hệ thống BIDV. Quy trình đối với KH là tổ chức kinh tế bao gồm 6 bước. Trong đó, bước xác định quy mô, chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính là quan trọng nhất, có ảnh hưởng quyết định tới kết quả xếp hạng KH. Trong khi đó, các DNTN lại có những bất lợi về quy mô, vốn, năng lực tài chính, kinh nghiệm…Đặc biệt, nếu đem so sánh với các DNNN thì sự chênh lệch trên những phương diện này là rất đáng kể. Lẽ tất nhiên, các DNTN sẽ bị xếp hạng thấp, thường chỉ đạt mức BB trở xuống – theo hệ thống xếp hạng tín dụng của BIDV. Việc sử dụng thước đo dành cho các DNNN để đo lường chất lượng của các DNTN là điều vô lý. Và điều vô lý đó dẫn tới sự thiệt thòi của DNTN về lãi suất, quy mô và thời hạn các khoản vay khi vay vốn tại SGD. Chính vì thế, SGD cần phải điều chỉnh các tiêu chí, chỉ tiêu chấm điểm cho phù hợp với đặc điểm thực tế của các DNTN. Nếu các DNTN không phải chịu sự thua thiệt, họ sẽ sẵn sàng đến vay vốn tại SGD nhiều hơn. Hai là, thủ tục cho vay các DNTN cần phải được đơn giản hoá đến mức tối đa nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí và nguồn nhân lực cho cả hai bên ( NH và KH ). SGD cần giảm bớt các thủ tục không quan trọng để tránh phiền hà cho KH. Ví dụ, theo quy trình cho vay hiện nay, sau khi cán bộ tín dụng xem xét chi tiết hồ sơ vay vốn, đảm bảo đã nhận được đầy đủ các thông tin phải chuyển toàn bộ tài liệu cho cán bộ tín dụng quản lý giải ngân rà soát. Cán bộ tín dụng quản lý giải ngân sau khi kiểm tra hồ sơ lại chuyển trả lại cho cán bộ tín dụng để tiếp tục khâu thẩm định KH vay vốn. Thực ra, việc rà soát hồ sơ vay vốn của KH đến 2 lần thật sự là không cần thiết. SGD nên cắt giảm những thủ tục rườm rà để tiết kiệm thời gian. Bởi thời gian là điều rất quan trọng đối với các DNTN. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, DN nào không nhanh chóng chớp lấy thời cơ kinh doanh thì sẽ nhận lấy phần thua thiệt. Do đó, một quy trình cho vay đơn giản sẽ tạo ra tâm lý thoải mái, hài lòng nơi KH khi họ đến vay vốn tại SGD. Ba là, cán bộ tín dụng của SGD cần chủ động hướng dẫn khách hàng trong việc hoàn thiện hồ sơ vay vốn. Do DNTN là những khách hàng mới, họ khó tránh khỏi sự lúng túng khi lập hồ sơ vay vốn trình SGD. Sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ tín dụng ngay từ khâu này, một mặt giúp giảm bớt thời gian và chi phí cho cả hai bên, mặt khác tránh cho KH khỏi e ngại khi tới SGD vay vốn. Điều này khiến cho KH là DNTN hài lòng hơn về SGD và đó là điều kiện để SGD mở rộng cho vay đối với đối tượng KH này. Tóm lại, quy trình cho vay hiện tại của SGD có những điểm không hợp lý nếu đem áp dụng với các DNTN. Bởi vậy, một số điều chỉnh trong quy trình cho vay sao cho phù hợp hơn với các DNTN là rất cần thiết, nếu như SGD thực sự muốn mở rộng cho vay đối với khu vực kinh tế tư nhân. 3.2.5 Nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro tín dụng Để nâng cao chất lượng của công tác quản lý rủi ro tín dụng, SGD phải nghiêm túc chấp hành các quy định về an toàn tín dụng của NHNN. Ngoài ra, SGD phải tăng cường kiểm soát chất lượng hoạt động cho vay đối với DNTN bằng các biện pháp cụ thể sau đây: Thứ nhất, chất lượng của công tác phân tích khách hàng, thẩm định dự án đầu tư cần được nâng cao. Để làm được điều này, bên cạnh những thông tin mà KH cung cấp, SGD phải tự thu thập thêm thông tin từ các nguồn khác. Các nguồn đó là: đối tác, nhà cung cấp, các NHTM đã có quan hệ tín dụng với KH, các phương tiện thông tin, các tổ chức nghiên cứu thị trường, dư luận và các cơ quan quản lý có liên quan…Việc thu thập thông tin phải được tiến hành thường xuyên, được tổ chức một cách khoa học. SGD nên xây dựng một cơ sở dữ liệu về các DNTN trên địa bàn. Nhờ đó, việc phân tích thẩm định KH mới được tiến hành nhanh chóng hơn và đem lại kết quả chính xác hơn. Mặt khác, thông tin do KH cung cấp cũng như thông tin mà NH tự thu thập phải được kiểm tra về tính chính xác để trở thành đầu vào đáng tin cậy cho quá trình phân tích khách hàng và thẩm định dự án cần vay vốn. Thứ hai, quá trình kiểm tra giám sát trong khi cho vay cần được tiến hành nghiêm túc và chặt chẽ hơn. Hoạt động của các DNTN thường không ổn định và dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài. Khả năng trả nợ của KH DNTN dễ bị tổn thương. Do đó, SGD cần tiến hành định kỳ hoặc thường xuyên việc kiểm tra giám sát hoạt động sử dụng vốn của KH. Điều này giúp SGD ngăn chặn ý đồ sử dụng vốn vay không đúng không đúng mục đích của KH, kịp thời phát hiện những dấu hiệu làm ăn thua lỗ của họ. Từ đó, SGD đã hạn chế phần nào rủi ro trong hoạt động cho vay đối với DNTN. Thứ ba, SGD tạo ra môi trường làm việc tốt cho đội ngũ cán bộ. SGD cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện tối đa để các cán bộ tín dụng được học tập và nâng cao trình độ. Cơ chế phân định trách nhiệm cũng phải được xây dựng thật rõ ràng. Trình độ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng sẽ quyết định chất lượng công tác quản lý rủi ro tín dụng của SGD. Chất lượng của công tác này được nâng cao là điều kiện để SGD có thể mở rộng cho vay đối với các DNTN. Như vậy, để mở rộng cho vay đối với DNTN, SGD cần có những thay đổi đáng kể trong quy trình cho vay và chính sách tín dụng, phải tăng cường huy động vốn và hoạt động marketing, nâng cao chất lưọng công tác quản lý rủi ro. Tất cả những giải pháp này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn và quyết tâm cao từ phía SGD. Tuy nhiên, nỗ lực từ phía SGD là chưa đủ. Để những giải pháp này được thực hiện hiệu quan, sự thay đổi từ chính các DNTN, sự hỗ trợ từ BIDV trung ương, NH Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền là rất quan trọng. 3.3 Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp tư nhân Khả năng đáp ứng các điều kiện vay của DNTN là nhân tố khách quan có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD. Bởi vậy, để hoạt động mở rộng cho vay của SGD được thực hiện, sự cố gắng của các DNTN trong việc đáp ứng các điều kiện vay là không thể thiếu được. Trước hết, các DNTN cần bổ sung vốn chủ sở hữu bằng nhiều cách như tăng tỷ lệ tích luỹ từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phần... Vốn chủ sở hữu tăng lên sẽ giúp nâng cao năng lực tài chính cho DN. Từ đó, DN dễ dàng hơn trong việc đáp ứng các điều kiện về tài sản đảm bảo mà SGD đặt ra. Năng lực tài chính được cải thiện cũng góp phần để DN được xếp hạng cao hơn. Quy mô tín dụng mà SGD dành cho DN, tất nhiên, sẽ lớn hơn. Các DNTN cũng cần tạo dựng thương hiệu của mình trên thị trường và uy tín đối với NHTM. Để làm được điều này, DN phải thực hiện một loạt công việc như: xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn phù hợp với điều kiện của mình và với xu thế phát triển của nền kinh tế; nâng cao năng lực sử dụng vốn; áp dụng công nghệ hiện đại; chú trọng hệ thống hạch toán kế toán để làm tăng độ tin cậy và tính chính xác của các báo cáo tài chính... Những biện pháp này không chỉ giúp cho DN tiếp cận vốn của NH dễ dàng hơn mà còn tạo ra cơ sở để DN phát triển bền vững. Đối với DNTN, sự thiếu thuyết phục của các dự án/ phương án sản xuất kinh doanh mà họ xây dựng luôn là rào cản cản trở họ trong việc vay được vốn từ NH. Do đó, vấn đề quan trọng đối với các DNTN hiện nay là phải nâng cao năng lực xây dựng các dự án/ phương án sản xuất kinh doanh. DN cần chủ động lựa chọn dự án đầu tư phù hợp với điều kiện thực tế của mình và với nhu cầu của thị trường. Chỉ có như vậy, dự án đầu tư mới có tính khả thi cao. Mặt khác, sự thiếu thuyết phục của các dự án đầu tư mà DN xây dựng cũng có nguyên nhân là sự thiếu thông tin, thiếu hiểu biết của DN về pháp luật và các quy định thương mại quốc tế. Vì vậy, các DNTN cần liên tục cập nhật thông tin về những biến động của môi trường kinh doanh, cần tăng cường hợp tác, tham gia vào các hiệp hội doanh nghiệp trong và ngoài nước để bổ sung kiến thức và nắm bắt thông tin nhanh chóng, kịp thời. Ngoài ra, yếu tố con người chính là chìa khoá cho sự thành công trong việc xây dựng dự án đầu tư và nâng cao năng lực sản xuất của DN. Bởi vậy, một việc làm rất quan trọng mà DNTN phải thực hiện là đào tạo nguồn nhân lực. Lãnh đạo DN bảo thủ, thiếu năng lực, trình độ, kém nhạy bén…là điều tối kỵ đối với DN. Những quyết định sai lầm từ phía lãnh đạo khiến cho hoạt động kinh doanh của DN đi chệch hướng, gây hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác, trình độ người lao động thấp sẽ làm giảm năng suất lao động, tăng chi phí sản xuất, hoạt động của DN vì thế sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, DNTN phải chú trọng hơn đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Những biện pháp cụ thể là: tài trợ cho những cán bộ có năng lực đi học thêm để nâng cao trình độ; đưa ra chế độ lương và phúc lợi hấp dẫn để thu hút người giỏi về làm việc cho mình; tổ chức các buổi tập huấn để bồi dưỡng kiến thức và nâng cao tay nghề cho người lao động trong DN. Nguồn nhân lực chất lượng cao chính là đòn bảy nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DNTN. Đó cũng là cơ sở để việc vay vốn NH của DN được thuận lợi hơn. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam SGD là bộ phận nằm trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Mọi hoạt động của SGD đều chịu sự tác động trực tiếp từ đường lối hoạt động của BIDV. Bởi thế, các giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD khó có thể được thực hiện nếu như thiếu sự hỗ trợ từ phía BIDV trung ương. Những kiến nghị dưới đây đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là nhằm thực thi các giải pháp dành cho SGD. BIDV cần phải định hướng hoạt động tín dụng của SGD là mở rộng cho vay đối với các DNTN. SGD là đơn vị thay mặt Hội sở chính trực tiếp kinh doanh. Nếu như không có sự chỉ đạo từ phía Hội sở chính thì SGD khó có thể tuỳ tiện mở rộng hoạt động cho vay của mình. Bởi vậy, BIDV trung ương cần có sự chỉ đạo rõ ràng rằng phương hướng hoạt động tín dụng của SGD là mở rộng cho vay đối với các DNTN. Hơn nữa, BIDV cần tạo ra cơ chế để SGD chủ động hơn trong việc lựa chọn ngành nghề, khu vực kinh tế cần tài trợ. Sự chủ động sẽ giúp cho việc mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD được thực hiện dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, sự tham gia của BIDV trung ương trong việc xây dựng quy trình cho vay đối với DNTN là rất cần thiết. Quy trình cho vay hiện nay mà SGD đang áp dụng với các DNTN là quy trình chung, có hiệu lực trong toàn hệ thống BIDV. Bởi vậy, SGD không thể tự mình thay đổi quy trình đó. BIDV cần phối hợp với SGD điều chỉnh quy trình cho vay và chính sách tín dụng theo hướng mềm dẻo, linh hoạt hơn đối với các DNTN. Chỉ có như vậy, quy trình cho vay trong toàn hệ thống BIDV mới thống nhất và hợp lý hơn. Đó là điều kiện để SGD mở rộng cho vay đối với các DNTN trên địa bàn hoạt động của mình. Riêng về hoạt động marketing, BIDV cũng cần phải có những hành động thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Sự hỗ trợ về tài chính từ BIDV để SGD tăng cường các hoạt động quảng bá thương hiệu cần được thực hiện thường xuyên hơn. BIDV nên đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình quảng cáo, tài trợ cho các sự kiện để thương hiệu BIDV trở nên phổ biến hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho SGD mở rộng khách hàng. Cuối cùng, để hoạt động cho vay đối với các DNTN của SGD được mở rộng một cách hiệu quả thì sự kiểm tra giám sát của BIDV là không thể thiếu được. Công tác kiểm tra của BIDV cần được tăng cường để đảm bảo việc mở rộng cho vay các DNTN phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng các khoản vay, đảm bảo an toàn cho hoạt động của SGD và của toàn hệ thống. 3.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thị trường tài chính tiền tệ phát triển lành mạnh là điều kiện để các NHTM hoạt động tốt hơn. Bởi vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tạo ra môi trường ổn định cho sự phát triển của thị trường này. Nhờ đó, các NHTM nói chung và SGD nói riêng mới có thể tăng cường huy động vốn và mở rộng hoạt động cho vay. Các văn bản Luật do Ngân hàng Nhà nước ban hành có tác động trực tiếp đến hoạt động của NHTM. Hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNTN được mở rộng hay không còn tuỳ thuộc vào các quy chế, quy định của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về việc cho vay đối với các DNTN, xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho các NHTM nới lỏng điều kiện vay vốn đối với DNTN. Ngân hàng Nhà nước nên cho phép các NHTM chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó, các NHTM có thể tự đưa ra những quy định về chính sách cho vay để hoạt động cho vay của mình linh hoạt hơn. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần thận trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Những tháng đầu năm 2008, những biện pháp thắt chặt tiền tệ của NHNN đã buộc các NHTM nói chung và SGD nói riêng phải hạn chế hoạt động cho vay của mình. Khó khăn trong việc huy động vốn khiến các NHTM đều phải tăng lãi suất huy động. Lãi suất huy động tăng lên đồng nghĩa với việc SGD phải tăng lãi suất cho vay. Điều này dẫn đền hậu quả là nhu cầu vay vốn của các DNTN giảm đi. Bởi vậy, mỗi động thái trong việc điều hành chính sách tiền tệ cần được NHNN nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi hành động, để hoạt động cho vay DNTN của NHTM không bị thu hẹp. 3.3.4 Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền liên quan Trước hết, Chính phủ cần duy trì sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Trong năm 2007, tỷ lệ lạm phát ở nước ta đã lên đến 12.6%. Sự gia tăng tỷ lệ lạm phát vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại, khi mà chỉ trong quý I năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 6%. Đây là những biến động xấu, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của nền kinh tế và hoạt động của hệ thống NHTM. Trong điều kiện lạm phát cao, nhu cầu gửi tiền của người dân sẽ giảm đi. Hoạt động huy động tiền gửi của NH sẽ rất khó khăn và tất nhiên, hoạt động cho vay cũng chịu tác động tiêu cực. Vì thế, Chính phủ phải có sự điều hành thận trọng nhằm bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế. Đó là điều kiện về môi trường vĩ mô để SGD tiếp tục gia tăng nguồn vốn và mở rộng cho vay đối với các DNTN. Chính phủ cũng cần phải giảm dần việc chỉ đạo cho vay đối với các NHTM Nhà nước. Việc cho vay các dự án, các doanh nghiệp theo sự chỉ đạo của Nhà nước khiến cho NHTM trở nên bị động và không thể tập trung nguồn lực để mở rộng cho vay các DNTN. Chính phủ cần duy trì sự ổn định của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Sự u ám của hai thị trường này có thể làm cho nền kinh tế lâm vào suy thoái. DNTN không còn điều kiện phát triển thì nhu cầu vay vốn NH của họ cũng giảm sút. Trái lại, sự tăng trưởng quá nóng của thị trường chứng khoán và bất động sản lại hút bớt một lượng vốn đáng kể của NH. Điều này làm cho DNTN khó vay vốn NH hơn. Hoạt động cho vay DNTN của NHTM cũng không thể mở rộng. Chính phủ và các cơ quan quản lý cần nhanh chóng tạo ra một sân chơi bình đẳng, một môi trường kinh doanh minh bạch cho tất cả các thành phần kinh tế. Đây là điều rất cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của các DNTN. Từ đó, nhu cầu vay vốn của họ tăng lên và khả năng đáp ứng các điều kiện vay cũng được cải thiện. Việc cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường pháp lý cũng cần được thực hiện ngay. Một hệ thống các văn bản pháp lý được xây dựng thống nhất sẽ giúp các DNTN tránh được những khó khăn trong quá trình hoạt động. Các thủ tục hành chính đơn giản gọn nhẹ sẽ giúp cho hoạt động của DN diễn ra thông suốt, dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, các dự thảo Luật liên quan đến hoạt động kinh tế cần phải có sự tham gia đóng góp ý kiến của mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt là các DN. Khi đó, Luật được ban hành ra mới phù hợp với nguyện vọng chung, phù hợp với tình hình thực tế và hạn chế được sự chủ quan của các nhà làm luật. Một môi trường pháp lý lành mạnh sẽ thúc đẩy sự phát triển của các DNTN và tất nhiên là họ sẽ tiếp cận vốn tín dụng NH dễ dàng hơn. Các cơ quan quản lý phải không ngừng nâng cao năng lực, trình độ của mình. Tình trạng “không quản được thì cấm” phải được chấm dứt ngay, tránh để các DN phải chịu thua thiệt một cách vô lý. Việc quản lý chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan có thẩm quyền cũng sẽ giúp loại bỏ các DN làm ăn sai trái, góp phần làm tăng uy tín của khối DNTN trong mắt các NHTM. Ngoài ra, các DNTN cũng rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tiếp cận thông tin kinh tế, pháp luật. Vì vậy, thông tin về cơ chế chính sách và các quy định mới cần được Nhà nước và các cơ quan thẩm quyền công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để DN tiếp cận kịp thời. Tóm lại, để hoạt động cho vay đối với DNTN được mở rộng thì nỗ lực của riêng SGD là không đủ. Sự phối hợp đồng bộ từ phía các DNTN, từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, từ Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền là rất quan trọng. Những thay đổi trong hoạt động của các cơ quan này sẽ giúp SGD thực thi hiệu quả các giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với các DNTN. KẾT LUẬN Đề tài “Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” được nghiên cứu trên giác độ của SGD. Nội dung chính của đề tài đã được trình bày trong khoá luận, cụ thể như sau: Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động cho vay đối với DNTN của NHTM. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với DNTN của NHTM. Đánh giá thực trạng cho vay đối với DNTN của SGD. Phân tích một số nguyên nhân khiến cho hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD chưa được mở rộng như: chính sách tín dụng của SGD kém linh hoạt, công tác marketing chưa được quan tâm, hệ thống chấm điểm xếp hạng khách hàng chưa phù hợp… Đề xuất một số giải pháp như: tăng cường huy động vốn, tăng cường hoạt động marketing, nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro, đổi mới quy trình cho vay… nhằm mở rộng cho vay đối với các DNTN của SGD. Tóm lại, hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Song hoạt động này vẫn chưa được mở rộng, nếu so với mục tiêu mà SGD đã đặt ra. Mặt khác, cho vay các DNTN thật sự là một thị trường đầy tiềm năng đối với SGD. Bởi vậy, SGD cần nhanh chóng thực hiện các giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với các DNTN. Hơn thế nữa, các giải pháp đó phải được thực hiện với sự đầu tư lớn và quyết tâm cao. Như vậy, hoạt động mở rộng cho vay đối với các DNTN mới thực sự đạt hiệu quả, góp phần tăng cường sức mạnh của SGD trong cuộc cạnh tranh với các NHTM Việt Nam và nước ngoài. MỤC LỤC Trang DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ Trang Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn 33 Hình 2.1 Biến động cơ cấu vốn huy động 35 Bảng 2.2 Cơ cấu cho vay theo thành phần 36 Hình 2.2 Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn 37 Hình 2.3 Tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm 38 Bảng 2.3 Doanh thu từ dịch vụ qua các năm 39 Bảng 2.4 Cơ cấu dư nợ của DNTN theo kỳ hạn 45 Hình 2.4 Cơ cấu dư nợ cho vay DNTN theo kỳ hạn 46 Hình 2.5 Cơ cấu dư nợ theo thành phần 47 Bảng 2.5 Doanh số cho vay theo thành phần của SGD 48 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7680.doc
Tài liệu liên quan