Mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Tây

ĐỀ TÀI: MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNQD TẠI CHI NHÁNH NH ĐT&PT HÀ TÂY. MỤC LỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CN-TTCN :Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp CSH :Chủ sở hữu DN :DN DNNN :DN nhà nước DNNQD :DNNQD ĐT&PT : Đầu tư và phát triển HTX :Hợp tác xã NH :Ngân hàng NHTM :NH thương mại NHNo&PTNT :Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NHTMCP :Ngân hàng thương mại cổ phần SXKD :SXKD TCTD :Tổ chức tín dụng TNHH :Trách nhiệm hữu hạn TSCĐ :Tài sản cố định TSL

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đ :TSLĐ LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, cũng như có ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia và các thành phần của quốc gia đó. Việt Nam sau nhiều giai đoạn thăng trầm, nay đã có nhiều đổi mới phù hợp với xu thế chung và yêu cầu hội nhập. Trong nhiều năm thực hiện chế độ kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD)luôn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi nhà nước ta thực hiện cải cách, mở cửa, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia, đặc biệt là sau khi ban hành luật doanh nghiệp 2005, số lượng và chất lượng các DNNQD đã gia tăng nhanh chóng và đáng kể. Các DNNQD ngày nay đã khẳng định là một thành phần kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân và dần thể hiện vai trò tích cực của mình trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hoạt động của các DNNQD đã tạo ra công ăn việc làm cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh doanh, thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước…. Tuy nhiên các DNNQD ở nước ta hầu hết mới đi vào hoạt động, quy mô vốn nhỏ nên nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật công nghệ và đầu tư rất lớn. Trong khi đó kênh huy động vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp (DN) này thông qua thị trường chứng khoán chưa thực sự phát triển và ổn định. Vì vậy, các DNNQD huy động vốn phần lớn bằng cách đi vay NH (NH). Trong những năm qua, số lượng các DNNQD trên địa bàn Hà Tây và các vùng lân cận cũng không ngừng gia tăng về số lượng và có tình hình sản xuất kinh doanh (SXKD) khả quan, dần đi vào ổn định. Cùng với đó là nhu cầu vay vốn cho hoạt động SXKD của các DN này cũng ngày càng nhiều. Thấy rõ được điều đó, chi nhánh NH đầu tư và phát triển (NHĐT&PT) Hà Tây đã ngày càng quan tâm và chú trọng hơn đến khu vực DNNQD. Tuy nhiên, trong quá trình thực tập tại chi nhánh, em nhận thấy tỷ trọng cho vay đối với các DNNQD đang ngày càng gia tăng nhưng hiện vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của cả NH và các DN. Trong khi phương hướng hoạt động của chi nhánh trong thời gian tới là tập trung phát triển cho vay DNNQD, nhưng vẫn phải đảm bảo cho vay có hiệu quả và an toàn. Chính vì vậy, em quyết định nghiên cứu về Đề tài: “ Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NH đâù tư và phát triển Hà Tây”, với hy vọng góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng trong khu vực này tại chi nhánh, phần nào giúp chi nhánh nâng cao năng lực cạnh tranh, hoạt động an toàn và hiệu quả, cũng như giải quyết một số vướng mắc, thúc đẩy DNNQD phát triển đứng vững và lớn mạnh trong điều kiện mới. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề tốt nghiệp được bố cục thành ba chương: Chương 1: Lý thuyết chung về cho vay của NHTM đối với DNNQD. Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với các DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT Hà tây. Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với các DNNQD tại Chi nhánh NH ĐT&PT Hà tây. CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHO VAY CỦA NHTM ĐỐI VỚI DNNQD. 1.1 Một số vấn đề cơ bản về DNNQD ở Việt Nam. 1.1.1 Khái niệm về DNNQD. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong đó, DNNQD là các DN vốn trong nước mà nguồn vốn thuộc sở hữu tập thể, tư nhân một người hoặc một nhóm người hoặc thuộc sở hữu nhà nước nhưng phần vốn góp của nhà nước chiếm từ 49% vốn điều lệ trở xuống. DNNQD bao gồm các hình thức tổ chức: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (Cty TNHH), công ty hợp danh, DN tư nhân và HTX. 1.1.2 Đặc điểm của các DNNQD ở Việt Nam. Đông về số lượng, tốc độ gia tăng cao trong những năm gần đây, phạm vi mở rộng. Sau hơn 20 năm đổi mới, trong cơ chế mới, Nhà nước tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển. Đến nay, các DNNQD đã hình thành một bộ phận quan trọng tạo nên tốc độ phát triển kinh tế nhanh. Các DNNQD đã có bước tăng nhanh về số lượng. Bắt đầu từ năm 1991, khi luật công ty và luật DN tư nhân ra đời, tổng số DNNQD trên cả nước mới có 414 DN, năm 1999 tăng đột biến lên 30.500 DN. Như vậy, bình quân trong giai đoạn này, mỗi năm có thêm khoảng 3.252 DNNQD mới, tương ứng với tốc độ tăng là 30%. Ngày 1/1/2000, luật DN bắt đầu có hiệu lực. Bắt đầu từ đây lại diễn ra một bước đột phá vượt bậc của các DNNQD. Có thể nói các DNNQD thực sự bùng nổ một cách dữ giội từ sau sự kiện này. Năm 2000 mới có 35.004 DN hoạt động, đến 2005 đã lên đến 105.569 DN, mỗi năm tăng trung bình 14.113 DN.Số lượng DN thực tế đang hoạt động đến 31/12/2005 là 113.352 DN, tăng 23,54% so với 31/12/2004. Bình quân 5 năm 2001 - 2005 tăng 27,95%/năm (mỗi năm số DN thực tế hoạt động tăng thêm 14.213 DN). Trong khi đó DN nhà nước (DNNN) liên tục giảm về số lượng, năm 2000 là 5759 DN, đến 2003: 4845 DN và năm 2005 còn 4086 DN. Có thể thấy số lượng các DNNQD tăng nhanh nhất là các công ty cổ phần, các Cty TNHH, sau đó là các DN tư nhân. Bảng 1: Tỷ lệ cơ cấu các DN Việt Nam năm 2005 Đơn vị: Phần trăm ĐƠN VỊ TÍNH TỔNG SỐ THÀNH PHẦN DN Nhà nước DN ngoài quốc doanh DN có vốn đầu tư nước ngoài 1. Số DN 100 3,61 93,13 3,26 2. Số lao động 100 32,69 47,46 19,55 3. Nguồn vốn 100 54,06 26,27 19,67 4. TSCĐ 100 51,11 20,61 28,29 5. Doanh thu thuần 100 38,63 38,77 22,59 6. Lợi nhuận 100 41,19 8,77 50,04 7. Nộp ngân sách 100 40,76 18,91 40,33 (Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam) Không chỉ số lượng các DNNQD tăng nhanh mà quy mô trung bình và phạm vi hoạt động của các DNNQD cũng được mở rộng. Cùng với sự gia tăng nhanh số lượng DNNQD, các yếu tố SXKD của DN như: lao động, nguồn vốn, tài sản và kết quả SXKD phản ánh qua doanh thu, nộp ngân sách cũng tăng lên. Các DNNQD thu hút nhiều lao động. Hiện nay nước ta có hơn 12 triệu lao động, mỗi năm số lượng lao động tăng khoảng 726 nghìn người, Chủ yếu lao động là ở khu vực nông thôn, phần lớn không có trình độ cao, không được đào tạo chính thức. Trong khi đó, các DNNQD hiện tại tập trung ở các lĩnh vực như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN), sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, thu hút nhiều lao động trình độ trung bình, nhàn rỗi ở nông thôn, miễn là rẻ và biết việc. DNNQD phát triển góp phần tạo ra việc làm cho một số lượng lớn lao động, đặc biệt là lượng lao động từ nông thôn. Tính đến năm 2004, các DNNQD thu hút được 1,7 triệu lao động (chiếm 36,5% trong tổng số lao động của khu vực DN), tốc độ tăng lao động bình quân trong khu vực DNNQD các năm gần đây là 28%. Năm 2005, 46,47% lao động là làm việc trong các DNNQD, số còn lại 32,69% là trong các DNQD, 19,55% làm cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động cũng góp phần giải quyết các vấn đề như giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, tệ nạn xã hội, trộm cướp, di cư ra thành phố, giúp thu hẹp bớt phân hóa giàu nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, …. Đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, phát triển góp phần năng cao tính cạnh tranh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các DN đóng góp cho ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế. Một DNNQD đóng góp cho ngân sách nhà nước có thể không lớn, nhưng do số lượng DNNQD lớn, do đó tổng giá trị đóng góp của khu vực kinh tế này chiếm tỷ trọng khoảng 19% trong tổng thu ngân sách của nhà nước đối với khu vực DN nói chung. Sự đóng góp của các DNNQD vào ngân sách nhà nước giúp nhà nước có thêm vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành, nghề quan trọng, tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước. Từ khi các DNNQD phát triển một cách mạnh mẽ, thì nền kinh tế chứng kiến một bước chuyển mình trong số lượng cũng như chất lượng phong phú của hàng hóa dịch vụ. Với sự phong phú đa dạng như vậy, ngày nay, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, khắt khe, đòi hỏi cao hơn trong việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, điều này thúc đẩy các DN cạnh tranh, ganh đua với nhau để đáp ứng nhu cầu của thị trường, tiêu thụ được sản phẩm, chiếm lĩnh thị phần bằng nhiều phương thức như cải tiến mẫu mã, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tiện ích, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ, cũng như đưa sản phẩm ra đủ sức cạnh tranh với thị trường thế giới,……..Có thể nói, các DNNQD hiện nay là những đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ của các DNNN, cũng như sự cạnh tranh trong chính các DNNQD cũng tạo động lực phát triển kinh tế. Hiện nay, các DNNQD phát triển ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ…..Các DNNQD được tập trung ở một số tỉnh và thành phố lớn như Tp.Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương. Nhìn chung, các DNNQD hoạt động chủ yếu là trong lĩnh vực CN-TTCN, xây dựng, thương mại, dịch vụ, chế biến nông sản. Các DNNQD góp phần thu hút một lực lượng lớn lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang các lĩnh vực khác, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa. Đồng thời, các DNNQD còn đi đầu trong việc mạnh dạn áp dụng các công nghệ mới, hiện đại, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. DNNQD đóng góp vào giá trị gia tăng, góp phần đáng kể vào việc tăng trưởng kinh tế. Hàng năm, khu vực DNNQD đã đóng góp khoảng 40%GDP, trung bình mỗi DNNQD mỗi năm nộp ngân sách trung bình 70 triệu đồng. 30%giá trị sản lượng công nghiệp là do khối DNNQD tạo ra, các DNNQD chiếm 80% tổng mức bán lẻ, 66% tổng lượng vận chuyển hàng hóa, 100% tổng giá trị sản lượng ở một số ngành như: chiếu cói, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ….. Phát triển còn mang nặng tính tự phát, dàn trải, thiếu quy hoạch, thiếu định hướng. Nhà nước đã có một vài định hướng cho các DN đầu tư, thậm chí ở một số ngành đã có chiến lược phát triển như: xi măng, mía đường, sản xuất xe máy,…..song các DN vẫn phát triển dàn trải, thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ, nặng tính tự phát theo phong trào. Vì thế, không ít các tỉnh có tới hàng ngàn DN tập trung phần lớn vào một số ngành mà không phải những ngành quan trọng quyết định đối với kinh tế địa phương. Có quá nhiều DN cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng một thị trường đã dẫn đến tình trạng năng lực cạnh tranh của các DN giảm sút. Tình trạng các DN trong nước cạnh tranh với nhau, làm giảm giá một cách không cần thiết, đặc biệt là với các mặt hàng xuất khẩu đã làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các DN. Số lượng thì nhiều tuy nhiên quy mô còn nhỏ, công nghệ chủ yếu còn lạc hậu, sức cạnh tranh thấp, lao động thiếu ổn định và bền vững lâu dài. Hiện nay, hầu hết các DNNQD là các DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Điều này thể hiện ở vốn tự có, tài sản, lao động bình quân và phạm vi hoạt động. Theo luật thì DN nhỏ và vừa là DN có vốn dưới 10 tỷ đồng, số lao động bình quân trong năm dưới 300 người. Năm 2000, bình quân mỗi DNNQD có 30 lao động, bằng 8,3% so với trung bình toàn quốc. Năm 2005, bình quân 1 DNNQD có khoảng 42 lao động (nhưng cũng chỉ bằng 10% so với DNNN và bằng 14% so với DN có vốn đầu tư nước ngoài). Quy mô lao động nhỏ, thêm vào đó là quy mô vốn của các DNNQD cũng rất nhỏ. Cụ thể là: - Số DN có vốn duới 500 triệu đồng chiếm 29% - Số DN có vốn từ 500 triệu đến 1 tỷ chiếm 20% - Số DN có vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ chiếm 37% - Số DN có vốn trên 5 tỷ chỉ chiếm 14% Năm 2000, trung bình 1 DNNQD có 3 tỷ vốn hoạt động so với 130 tỷ vốn hoạt động trung bình của toàn bộ các DN. Tính đến ngày 01/01/2004, cả nước có 72.012 DN thực tế hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558 tỷ đồng DNNQD chiếm 19,55% tương đương 337.155 tỷ đồng. Điều này cho thấy số vốn hoạt động trung bình của một DNNQD khoảng 5.2 tỷ đồng, nếu so với trung bình 1 DNQD có 192.7 tỷ đồng nghĩa là chỉ bằng 3,6% so với DNNN và bằng 3,9% so với DN có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2005, số vốn bình quân đã tăng nhưng không nhiều, chỉ dừng lại ở con số 7 tỷ đồng, trong khi vốn bình quân của các DN toàn quốc đã lên đến 355 tỷ đồng, như vậy là quá nhỏ bé. Năm 2006      Tài sản cố định (TSCĐ) bình quân của 1 DN đạt thấp, nhưng mức trang bị TSCĐ cho 1 lao động càng thấp hơn. Bình quân 1 lao động của DN chỉ đạt 153 triệu đồng/lao động, trong đó: - DNNN đạt 239 triệu đồng/lao động. - DN có vốn đầu tư nước ngoài 221 triệu đồng/lao động. - DNNQD 66 triệu đồng/lao động (trong khi số lượng DNNQD chiếm tới 93,13%). Như vậy, có thể thấy, các DNNQD chủ yếu là các DN vừa và nhỏ, vì vậy, còn thiếu nhiều vốn để trạng bị kỹ thuật công nghệ tiên tiến cũng như trang bị TSCĐ. Nhìn chung các DN này còn lúng túng trong tìm kiếm các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, dịch vụ cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, môi trường đầu tư do thiếu vốn. Vì thế, sức cạnh tranh của các DN này bị ảnh hưởng lớn, hiệu quả kinh doanh chưa cao, lao động còn thiếu tính ổn định, chuyên nghiệp và bền vững lâu dài. Có cơ cấu tổ chức bộ máy gọn nhẹ, nhạy bén trong SXKD, dễ thay đổi ngành nghề hoạt động, nhưng hiệu quả kinh doanh chưa cao. Các DNNQD có ưu điểm là có bộ máy hoạt động gọn nhẹ. Thường hiệu quả hoạt động của DN ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống của người quản lý DN cũng như tiền đầu tư vào DN là của chủ DN nên họ phải tìm mọi cách để quản lý DN làm ăn có hiệu quả cao nhất. Đãi ngộ nhân tài, sử dụng hiệu quả từng đồng vốn, giảm thiểu chi phí đến mức thấp nhất có thể như thuê vừa đủ lao động nhưng làm việc năng suất cao, hiệu quả, nghiên cứu các phương pháp tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, nhân công,…..tất cả làm nên các DNNQD với bộ máy tổ chức không cồng kềnh mà vẫn hữu hiệu. Với số vốn kinh doanh không nhiều, hầu hết mới đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất, nên các DNNQD có thể dễ dàng chuyển đổi loại hình kinh doanh, cũng như loại hình DN để thích ứng với thị trường, cũng như điều kiện cạnh tranh như hiện nay. Việc thay đổi loại hình kinh doanh đối với DNNN là khó khăn hơn khi các DN này đã đầu tư một lượng vốn lớn vào sản xuất, đã chuyên sâu trong một vài lĩnh vực, chuyện chuyển đổi là vô cùng lãng phí, gây khó khăn cho nhà nước. Từ khi thành lập, các DNNQD hầu hết đã phải tự mình thực hiện hoạt động kinh doanh, tự thích nghi với các biến động của thị trường, tự rút ra bài học trên thương trường, cũng như tự tìm hiểu, phát triển thị trường, quảng bá, cải tiến sản phẩm, nên có thể nói các DNNQD có sự năng động, nhạy bén hơn so với một số DNNN quen được ưu đãi, độc quyền, cấp vốn, bù lỗ….. Tuy nhiên, hiện nay, nhìn chung, hiệu quả kinh doanh của các DNNQD còn chưa cao . Theo nghiên cứu thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn của các DNNQD còn thấp, ở tỷ lệ 2,3%-quá thấp so với lãi suất tiền vay. Tỷ lệ lãi trên doanh thu tiêu thụ tuy có tăng nhưng vẫn còn thấp ở mức 1,5% Thiếu vốn để đổi mới công nghệ, sức cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, ít có khả năng lựa chọn mặt hàng kinh doanh có hiệu quả cao. Chủ yếu chiếm dụng vốn lẫn nhau trong các DNNQD, làm lây nhiễm rủi ro, hoặc vay từ những nguồn nhỏ lẻ, không ổn định. Như vậy, có thể thấy đại đa số các DN đang hoạt động trong tình trạng không đủ vốn cần thiết, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của các DN trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây là điều đáng lo khi các chính sách - bảo hộ của Nhà nước trong thời gian tới hầu như sẽ không còn nữa vì theo lịch trình giảm thuế quan cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN – AFTA, khi đó, các DN Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của các tập đoàn lớn trong khu vực và trên thế giới. Rất nhiều DNNQD đang sử dụng máy móc, thiết bị do các DN nước ngoài đã thải bỏ. Đặc biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 75%. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và không ổn định làm cho DN khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá (giá thành các sản phẩm trong nước cao hơn các sản phẩm nhập khẩu từ 20% - 40%). Chưa có mạng lưới phân phối trực tiếp ở nước ngoài, sản phẩm chưa có tính đặc thù cao, môi trường SXKD chưa thuận lợi, thị trường tiêu thụ chưa được khai thác triệt để, còn nhỏ bé. Hiện nay các DNNQD đang tiến hành hoạt động SXKD trong một môi trường có rất nhiều biến động. Thêm vào đó, yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động (gạo, thuỷ sản) hoặc điều kiện tự nhiên, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của sản phẩm không cao, trừ số ít sản phẩm mang đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa đặc thù như hàng thủ công mỹ nghệ... các sản phẩm khác còn lại hầu như luôn đi sau các nước khác về kiểu dáng, tính năng, thậm chí nhiều sản phẩm tiêu dùng và công nghiệp lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ, giá trị gia tăng sản phẩm trong tổng giá trị của sản phẩm nói chung còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới. Hơn nữa, hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác, nhiều DN đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu vào nghiên cứu thị trường. Một bộ phận các DNNQD vẫn còn tổ chức kênh phân phối theo kiểu trao đổi đơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần), một bộ phận khác tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, không hề có tác động quản lý điều khiển theo hướng có mục tiêu. Về lĩnh vực quảng bá sản phẩm thì chi phí dành cho quảng cáo còn quá thấp,đơn điệu, không mang dấu ấn, chưa chuyên nghiệp, chưa có nhiều thương hiệu nổi tiếng trong và ngoài nước. 1.1.3 Các loại hình DNNQD. 1.1.3.1 DN tư nhân. DN tư nhân là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. DN tư nhân là loại DN không có tư cách pháp nhân, CSH DN tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của DN. Đại diện theo pháp luật của DN chính là chủ DN - người có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của DN cũng như có toàn quyền quyết định trong việc sử dụng lợi nhuận của DN, mặc dù có thể thuê người khác quản lý điều hành hoạt động của DN. 1.1.3.2 Công ty Công ty là loại hình DN có sự liên kết giữa các thành viên với nhau, thể hiện ở các khía cạnh vốn và điều lệ nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Có 3 loại hình công ty đó là: Cty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Công ty TNHH. Cty TNHH một thành viên là công ty do một tổ chức làm CSH. Trong đó, chủ sở hữu (CSH) chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Ở Cty TNHH một thành viên, chủ thể thành lập công ty phải là pháp nhân, bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng các cấp, ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc, tổng liên đoàn lao động Việt Nam, hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam... Cty TNHH là DN có tư cách pháp nhân, nhưng cũng giống như DN tư nhân, không được phép phát hành cổ phiếu. Cty TNHH từ hai thành viên trở lên là công ty được thành lập bằng vốn góp của các thành viên. Thành viên ở đây có thể là cá nhân hoặc tổ chức, nhưng số lượng thành viên không được vượt quá 50 người. Các thành viên trong Cty TNHH nhiều thành viên sẽ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn góp của mình vào công ty. Cty TNHH từ hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân, được phép phát hành trái phiếu nhưng cũng không được phát hành cổ phiếu. Thành viên của Cty TNHH từ hai thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hay toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác. Khi thành viên muốn chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác thì phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ vốn góp tương ứng cùng điều kiện trước, nếu không thành viên nào mua hoặc không mua hết thì sẽ được phép chuyển nhượng cho người khác không thuộc công ty. Công ty cổ phần. Công ty cổ phần là công ty trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần là cổ đông và giá trị của cổ phần thể hiện trên chứng chỉ gọi là cổ phiếu. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty cổ phần có thể lựa chọn phát hành hai loại cổ phần là cổ phần ưu đãi và cổ phần phổ thông. Cổ phần phổ thông là cổ phần bắt buộc phải có đối với mọi công ty cổ phần. Người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông có quyền biểu quyết, đề cử người vào hội đồng quản trị, ban kiểm soát…. Cổ phần ưu đãi là cổ phần có thể có hoặc không đối với các công ty cổ phần. Người sở hữu cổ phần ưu đãi có thể được một số ưu đãi nhất định như: Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Là cổ phần có số biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Chỉ có sáng lập viên và các tổ chức được nhà nước ủy quyền được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Loại cổ phần này là cổ phần ghi danh nên không được tự do chuyển nhượng. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chi có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết chuyển thành cổ phần phổ thông. Cổ phần ưu đãi hoàn lại: Là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sử hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ phần ưu đãi hoàn lại bao gồm cổ phần ưu đãi hoàn lại vô điều kiện và cổ phần ưu đãi có điều kiện. Cổ phần ưu đãi cổ tức: Là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức của cổ đông ưu đãi cổ tức gồm hai phần là cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty và cổ tức thưởng.. Tuy nhiên người nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, không có quyền dự họp đại hội cổ đông, không có quyền đề cử người vào hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Cổ đông có thể là cá nhân hoặc tổ chức, số lượng thành viên chỉ hạn chế tối thiểu là 3 người, không hạn chế tối đa. Bởi vì ưu điểm của công ty cổ phần là huy động vốn nhàn rỗi trong dân, càng nhiều thành viên tham gia thì càng huy động được nhiều vốn nhàn rỗi. Công ty cổ phần có thể phát hành tất cả các loại chứng khoán, phụ thuộc vào quy định của luật chứng khoán Công ty hợp danh. Công ty hợp danh là DN trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Có hai hoại công ty hợp danh là công ty toàn thành viên hợp danh và công ty cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, uy tín nghề nghiệp. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, có quyền quản lý công ty, quyền nhân danh công ty để tiến hành hoạt động kinh doanh và phải cùng liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ của công ty. Còn thành viên góp vốn có thể là cá nhân hoặc tổ chức và chỉ phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định tại điều lệ của công ty và không có quyền nhân danh công ty để tiến hành hoạt động kinh doanh. Công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân và không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. 1.1.3.3 HTX. HTX (HTX) là tổ chức kinh tế tập thể do các các nhân, hộ gia đình,pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội đất nước. HTX hoạt động như một loại hình DN, có tư cách pháp nhân, tự chủ, chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật. 1.1.4. Nhu cầu vay vốn của DNNQD Hiện nay nước ta có khoảng 200.000 DNNQD với tổng số vốn lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng. Đây chính là kết quả đáng ghi nhận từ những cơ chế, chính sách ngày càng cởi mở của Nhà nước ta. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các DNNQD vẫn còn gặp một số khó khăn trong hoạt động nhất là việc thực hiện các cơ chế, chính sách tài chính,… Thời gian qua, chính sách hỗ trợ huy động vốn đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển thành công của DNNQD. Nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư cho việc phát triển đã được thực hiện như: ban hành, sửa đổi các chính sách về thuế, chính sách tài chính-tín dụng, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho DNNQD. Đồng thời, để hỗ trợ cho DNNQD tiếp cận nguồn vốn tín dụng NH, nhà nước đã thành lập và phát triển các định chế tài chính thuộc sở hữu nhà nước để thực hiện chính sách bảo lãnh tín dụng cho DN. Tuy nhiên, dù đã có chuyển biến tích cực nhưng trên thực tế việc vay vốn, huy động vốn tài chính vẫn đang là vấn đề khó khăn nhất đối với DN. Tình trạng thiếu vốn đang là chuyện phổ biến ở các DN và đặc biệt là các DNNQD. Các DNNQD có thể huy động vốn thông qua: góp vốn, chiếm dụng vốn (tiền lương, khấu hao, thuế, và các khoản khác….), lập chương trình tài trợ dự án để hưởng chính sách ưu đãi đầu tư khi vào cụm, khu công nghiệp, phát hành cổ phiếu, trái phiếu DN (tuy nhiên cách này thường huy động vốn trung và dài hạn, không được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động, sản xuất kinh doanh (SXKD), hơn nữa các DNNQD phần lớn là nhỏ và vừa, chưa có thương hiệu, uy tín trên thị trường đủ để các nhà đầu tư tin tưởng mua cổ phần hay trái phiếu, trong khi thị trường chứng khoán Việt Nam còn sơ khai, nhiều biến động, các DN niêm yết trên thị trường thường trả cổ tức cao nên các DNNQD khi huy động bằng kênh này cũng phải đạt lợi nhuận cao, hoạt động thực sự hiệu quả, có bản cáo bạch rõ ràng, chuẩn xác….điều này là vô cùng khó khăn đối với các DNNQD), và cách cuối cùng là đi vay các tổ chức tín dụng, vay ngân hàng. Có thể thấy, nhu cầu vay vốn của khối DNNQD là rất lớn. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, việc các DNNQD thiếu vốn đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại, nghiên cứu, chiếm lĩnh, thâm nhập thị trường nước ngoài, cải tiến sản phẩm, mở rộng sản xuất, để đủ sức cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế đang là vấn đề bức xúc, trong khi các DN này hoạt động mang lại nhiều hiệu quả và lợi ích cho nền kinh tế đất nước và xã hội, thì nguồn cung vốn cho các DNNQD lại đang có nhiều vướng mắc, khó khăn, cản trở sự phát triển lành mạnh của khối DN này. Hơn nữa, khối các DNNN đang dần thu hẹp, một số DN hoạt động kinh doanh trì trệ, không còn phù hợp với tình hình mới, các khoản cho vay đối với các DN này tiềm ẩn nhiều rủi ro, ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng và ổn định vĩ mô. Tuy nhiên hầu hết các DNNQD đều cho rằng, vay vốn NH rất khó khăn với nhiều thủ tục như thế chấp, bảo lãnh…Trong khi đó, phần lớn DNNQD có vốn CSH rất thấp, ít có đủ tài sản thế chấp, cầm cố, lại không có người bảo lãnh, khả năng lập dự án, phương án SXKD còn thiếu sức thuyết phục, trình độ quản lý hạn chế, báo cáo tài chính không đủ độ tin cậy…Thêm nữa, NH lại qúa “cầu toàn” trong việc xác định tài sản thế chấp và chặt chẽ các thủ tục nhằm tránh rủi ro xảy ra. Và không ít DN bức xúc về trình độ nghiệp vụ NH trong thẩm định các dự án của DN khiến nhiều dự án không thể vay được vốn. Ví dụ như một doanh có tài sản thế chấp để vay vốn NH, nhưng các thủ tục tiến hành định giá tài sản của NH vẫn còn rườm rà và thấp hơn nhiều so với giá thị trường khiến cho việc vay vốn của DN càng trở nên khó khăn hơn . Hơn nữa, thông thường, các DN chỉ được vay khoảng 20% giá trị tài sản thế chấp, còn DN nào thực sự có uy tín mới được vay đến 50%. Theo đánh giá của bản thân các DN thì như vậy là quá thấp. Vì thế, nhiều DN muốn hoạt động được thì họ thường phải vay vốn từ các tổ chức tài chính phi chính thức, tư nhân, bạn bè, họ hàng và bản thân người lao động trong DN. Thực tế, nguồn vốn được “chắp vá” này thường không ổn định nên ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng SXKD của DN. Bên cạnh đó, chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho DNNQD có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên ngoài một cách rộng rãi và ổn định hơn. Nhiều DNNQD đã gặp rất nhiều bức xúc trong quá trình áp dụng các cơ chế chính sách tài chính, các thủ tục trong vay vốn hoạt động SXKD, đồng thời cũng đã đưa ra nhiều kiến nghị. 1.2 Hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNNQD. 1.2.1 Hoạt động cho vay của NHTM.. Cho vay được hiểu một cách đơn giản là NH giao tiền cho khách hàng để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định với nguyên tắc khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi. Hoạt động cho vay của NHTM bao gồm: Cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu, các NH đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán, người bán chuyển các khoản phải thu cho NH để lấy tiền trước. Sau đó, NH cho vay trực tiếp đố._.i với các khách hàng (người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng SXKD. Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, hầu hết các NH thương mại không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các NH tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các NH ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn như tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển công nghệ cao. Một số NH còn cho vay để đầu tư vào đất. Cho vay được định lượng qua 2 chỉ tiêu là doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà NH đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà NH hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính, cho vay được ghi dưới hình thức dư nợ. Hoạt động cho vay có rất nhiều hình thức như cho vay ngắn hạn, trung-dài hạn, cho vay theo hạn mức, cho vay thấu chi, cho vay trả góp, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay gián tiếp… 1.2.2 Vai trò của hoạt động cho vay đối với các DNNQD. Hoạt động cho vay của NH thương mại có vai trò rất quan trọng, có tác động tích cực đến toàn bộ nền kinh tế. Dưới đây ta xem xét tác động của hoạt động cho vay đối với các DNNQD, NH và nền kinh tế. 1.2.2.1 Đối với các DNNQD. Trong nền kinh tế thị trường, DN muốn tồn tại và phát triển thì tất yếu phải không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến và đa dạng hóa sản phẩm, trang bị máy móc thiết bị hiện đại, ứng dụng công nghệ tiên tiến….Để làm được tất cả những điều này đòi hỏi các DN phải gia tăng một lượng vốn lưu động nhất định. Điều này cũng không ngoại lệ đối với các DN quốc doanh. Chính vì vậy, hoạt động cho vay có vai trò rất quan trọng đối với các DNNQD. Cụ thể: Cho vay giúp các DNNQD có điều kiện để mở rộng sản xuất, tăng quy mô nguồn vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả SXKD. Hoạt động cho vay của NHTM giúp các DN bổ sung thêm vốn lưu động và tiến hành tái đầu tư mở rộng sản xuất, giúp cho quá trình SXKD của các DN diễn ra liên tục và phát triển. Ngoài ra, với hình thức cho vay trung và dài hạn còn giúp cho các DN có vốn để đầu tư dây chuyền SXKD cho các DN. Cho vay khuyến khích các DNNQD sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Để được vay vốn NH thì các DN phải có các phương án SXKD thực thi và có hiệu quả. Điều này buộc các DN phải nghiên cứu thị trường, tính toán phương án SXKD và hiệu quả của phương án đó sao cho sau khi trả gốc và lãi vay NH thì DN vẫn có lợi nhuận. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng vốn vay NH, nếu DN sử dụng vốn không đúng mục đích hoặc không hiệu quả thì sẽ bị NH không tiếp tục cho vay và có thể bị đòi nợ trước hạn. Do vậy, khi sử dụng vốn vay NH thì các DN nâng cao hiệu quả đồng vốn hơn, sử dụng có tính toán và tìm mọi cách để đồng vốn vay sinh lãi, có hiệu quả, để ngoài phần trả lãi NH ra, số tiền đồng vốn mang lại vẫn còn đủ để mạng lại cho DN một khoản lợi nhuận. Ngoài ra, cho vay còn giúp các DNNQD chớp được kịp thời các cơ hội kinh doanh có hiệu quả. Giúp các DNNQD có thể mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến, đa dạng hóa sản phẩm, trang bị máy móc hiện đại, ứng dụng công nghệ tiên tiến, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả SXKD. Khuyến khích các DNNQD sử dụng vốn có hiệu quả, thực hiện SXKD theo những phương án được cân nhắc kỹ và có hiệu quả, đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích, chớp kịp thời cơ kinh doanh. 1.2.2.2 Đối với NH. Nâng cao năng lực cạnh tranh, hình ảnh, uy tín của NH, góp phần tăng thu nhập của NH, giúp cải tiến công nghệ. NH là một DN kinh doanh tiền tệ, hoạt động với phương châm đi vay để cho vay. Vì vậy, hoạt động cho vay có vai trò rất quan trọng đối với NH thương mại. Hoạt động cho vay để sinh lời từ tiền đã huy động được là lẽ sống còn của NH. Bởi vì, cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NH thương mại và là hoạt động tạo ra nhiều lợi nhuận nhất cho NH. Chỉ có tiền lãi thu được từ cho vay mới bù nổi các chi phí như chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí hoạt động kinh doanh và chi phí quản lý…..đồng thời đem lại cho NH một khoản thu nhập rất lớn, giúp NH có điều kiện để cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần nâng cao hình ảnh, uy tín của NH. Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng, là một biện pháp đảm bảo an toàn cho ngân hàng: hiện nay, tình trạng nợ xấu đang là vấn đề đáng quan tâm của bất cứ ngân hàng nào. 90% nợ xấu, nợ quá hạn là ở khu vực DN, trong đó 60% là các DNNN. Theo thống kê thì 1/3 DNNN làm ăn có lãi, 1/3 hòa vốn và 1/3 lỗ. Trong khi khối DNNN đang có xu hướng thu hẹp dần, tỷ trọng DNNQD lại chiếm phần lớn và không ngừng lớn mạnh. Cho vay DNNQD thường là cho vay ngắn hạn, với số vốn không lớn bằng cho vay DNNN, nên ít rủi ro hơn, khi rủi ro xảy ra cũng ít gây cho NH nhiều khó khăn, ảnh hưởng như khi một món vay lớn cho khối DNNN gặp rủi ro. Cho vay đối với DNNQD cũng là một biện pháp đa dạng hóa sản phẩm ngân hàng và cũng để đảm bảo an toàn cho ngân hàng trong hoạt động nhiều rủi ro này. 1.2.2.3 Đối với nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động cho vay của NH thương mại ngày càng thể thiện rõ vai trò tích cực của mình trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hoạt động cho vay của NH thương mại giúp cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt thất nghiệp cho xã hội, góp phần giảm thiểu tệ nạn xã hội, đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng, kích thích các thành phần kinh tế cùng phát triển, nâng cao đời sống của người dân, góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước…đóng góp đáng để vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam . 1.2.3 Các hình thức cho vay đối với DNNQD Dựa vào những tiêu chí khác nhau, có những cách phân chia cho vay đối với DNNQD theo những hình thức khác nhau. Cụ thể: a)Căn cứ vào thời hạn cho vay có 3 hình thức cho vay là cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn - Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay dưới 12 tháng, nhằm mục đích bổ sung vốn lưu động cho DN. Với hình thức này, lãi suất cho vay thường thấp, tính thanh khoản của món vay cao và độ rủi ro thấp - Cho vay trung hạn có thời hạn cho vay từ 1 năm đến 5 năm, nhằm mục đích tài trợ cho các TSCĐ như sửa chữa, mua sắm thêm phương tiện vận tải, thay đổi sản phẩm hàng hóa… Hình thức cho vay này thường có lãi suất cao, tính thanh khoản của món vay thấp và có độ rủi ro tương đối cao - Cho vay dài hạn có thời hạn vay từ 5 năm trở lên, với mục đích tài trợ cho các công trình xây dựng cơ bản như: cầu đường, sân bay, máy móc thiết bị có giá trị lớn thời gian sử dụng lâu dài, phát triển SXKD theo chiều rộng hoặc chiều sâu… Đối với cho vay dài hạn, lãi suất thường rất cao để bù đắp độ rủi ro lớn, tính thanh khoản của món vay rất thấp b)Căn cứ vào tài sản đảm bảo phân chia thành cho vay có tài sản đảm bảo và không có tài sản đảm bảo. - Cho vay có tài sản đảm bảo là việc cho vay vốn của TCTD mà theo đó, nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố,thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Trong đó, cho vay thế chấp là hình thức mà người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản đảm bảo sang cho NH nắm giữ trong thời gian cam kết. Còn cho vay cầm cố là hình thức mà người nhận tài trợ của NH phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho NH trong thời gian cam kết - Cho vay không có tài sản đảm bảo: Cho vay không có tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc vay theo món nhỏ so với vốn của người vay. tổ chức tín dụng (TCTD) được lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển, phương án SXKD, dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay đủ các điều kiện sau: Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn trong quan hệ vay vốn với TCTD hoặc các TCTD khác. Có dự án đầu tư, phương án SXKD dịch vụ khả thi, có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật. Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của TCTD nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản. c)Căn cứ vào mức độ cho vay chia ra thành 2 loại: cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp. - Cho vay trực tiếp là hình thức cho vay rất phổ biến của NH. NH trực tiếp cho khách hàng vay vốn thông qua hồ sơ vay vốn mà khách hàng nộp cho NH. Khách hàng làm việc trực tiếp với cán bộ, nhân viên NH để nộp đơn xin vay vốn, thỏa thuận các vấn đề liên quan…. - Cho vay gián tiếp : phần lớn cho vay của NH là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó, NH cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua tổ chức trung gian. NH cho vay thông qua các tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ,…. Mục đích được tổ chức này cùng quan tâm đến là vấn đề phát triển kinh tế, làm giàu, xóa đói, giảm nghèo. Cho vay gián tiếp có 2 loại là cho vay gián tiếp thông qua tổ chức trung gian và cho vay thông quan người bán lẻ. Cho vay gián tiếp thông qua tổ chức trung gian: NH có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay….Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện cho người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Cho vay thông qua người bán lẻ: NH có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. d)Căn cứ vào phương thức cho vay chia ra thành cho vay trực tiếp từng lần và cho vay theo hạn mức. - Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, chủ yếu sử dụng vốn CSH, chỉ vay trong trường hợp cần thiết, có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng để vốn NH tham gia một giai đoạn nhất định của chu kỳ SXKD, hoặc không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Đối với hình thức này, mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình NH phương án sử dụng vốn vay. NH sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác dịnh quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo (nếu cần). Mỗi món vay được tách biệt nhau thành hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Theo đó: Số tiền cho vay = Nhu cầu vốn cho SXKD– Vốn CSH tham gia – Các nguồn khác Trong đó: Nhu cầu vốn cho SXKD = Nhu cầu vốn đầu tư cho TSCĐ và TSLĐ - Giá trị tài sản và chi phí không thuộc đối tượng cho vay của ngân hàng Nếu cho vay có bảo đảm thì: Số tiền cho vay = Giá trị tài sản X Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, NH sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, NH sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, NH sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Hình thức cho vay này NH có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo. - Cho vay theo hạn mức là nghiệp vụ tín dụng, theo đó NH thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Trong kỳ, khách hàng có thể thực hiện vay-trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp NH quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. Các khách hàng khi có nhu cầu bổ sung vốn lưu động thường xuyên, sẽ có thể được vay NH theo hạn mức. Mỗi lần vay, khách hàng cần trình phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ và yêu cầu vay vốn. Sau khi kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ, NH sẽ cho khách hàng vay vốn. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch SXKD, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. NH ước lượng hạn mức tín dụng đối với các DN như sau: Cách 1: Bước 1: Xác định dự trữ hợp lý cao nhất trong kỳ trước: Dữ trữ cao nhất hợp lý kỳ trước = Dữ trữ thực tế cao nhất - Hàng kém phẩm chất, chậm luân chuyển, hàng không thuộc đối tượng cho vay của NH Bước 2: Xác định dự trữ cao nhất hợp lý kỳ này: Dự trữ cao nhất hợp lý kỳ này = Dữ trữ cao nhất hợp lý kỳ trước + Tăng (giảm) dữ trữ do giá hàng hóa tăng (giảm) + Tăng (giảm) dữ trữ do kế hoạch tăng (giảm) sản lượng tiêu thụ Bước 3: Xác định hạn mức tín dụng cao nhất trong kỳ: Hạn mức tín dụng cao nhất trong kỳ = Dữ trữ cao nhất hợp lý kỳ này - Vốn chủ sở hữu tham gia dữ trữ - Các nguồn khác tham gia dữ trữ Cách 2: Bước 1: Xác định nu cầu dự trữ bình quân kỳ này: Nhu cầu dữ trữ hàng hóa bình quân kỳ này = Doanh số bán tính theo giá vốn kỳ này Vòng quay hàng hóa dự trữ kỳ này Bước 2: Vòng quay được tính dựa trên doanh số bán của kỳ trước Vòng quay hàng hóa dự trữ kỳ này = Doanh số bán ra tính theo giá vốn kỳ trước Dự trữ hàng hóa bình quân kỳ trước Bước 3: Xác đinh nhu cầu tín dụng cao nhất kỳ này (hạn mức tín dụng) Nhu cầu tín dụng ngắn hạn để dự trữ hàng hóa = Nhu cầu dự trữ hành hóa bình quân trong kỳ + Chênh lệch dự trữ bình quân và dự trữ cao nhất - Hàng hóa kém phẩm chất, không thuộc đối tượng vay - Vốn chủ sở hữu và các nguồn tài trợ khác Đối với tín dụng trung và dài hạn: Tín dụng NH = Nhu cầu đầu tư - Các nguồn tài trợ khác Nếu DN chưa vay NH, NH có thể cho vay bằng nhu cầu vừa tính. Nếu DN hiện đang vay NH thì số tiền có thể cho vay thêm là: Số tiền có thể cho vay thêm = Nhu cầu vay ngắn hạn NH trong kỳ - Dư nợ đến thời điểm xin vay Hình thức cho vay này đem lại thuận tiện cho các khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình SXKD. Trong nghiệp vụ này, NH không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn cho vay. Khi khách hàng có thu nhập, NH sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên NH khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. NH chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút. e)Các hình thức cho vay khác: cho vay thấu chi, cho vay luân chuyển,….. - Cho vay thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó NH cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đối tượng vay của hình thức này thường phải là các khách hàng có độ tin cậy cao,thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. Để được vay thấu chi, khách hàng làm đơn xin NH hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể khách hàng phải trả phí cam kết cho NH). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi,mua thẻ séc….vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song phải trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, NH sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà NH phải trả: Số lãi phải trả + Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ phải chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Hình thức cho vay này dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Do vậy, hình thức cho vay này tạo nhiều thuận lợi cho khách hàng, linh hoạt, chủ động, nhanh chóng, kịp thời, với thủ tục đơn giản, phần lớn là không có tài sản đảm bảo, có thể cấp vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm,dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn. - Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. DN khi mua hàng có thể thiếu vốn, NH có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi DN bán hàng. Theo đó, vào đầu năm hoặc đầu quý, người vay làm đơn xin vay luân chuyển. NH và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà thời hạn để NH xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định cho vay nữa hay không, tùy thuộc vào mối quan hệ giữa NH và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng. Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa nên cả NH lẫn DN đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến NH các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay. NH cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hóa đơn mua vào (có hóa đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được NH cho vay, thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho NH. NH sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các DN thương nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay-trả thường xuyên với NH. Hình thức cho vay này cũng tạo nhiều thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp cũng nhanh gọn. Nhưng nếu DN gặp khó khăn trong tiêu thụ thì NH sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng. Ngoài ra còn một số cách thức cho vay khác như cho vay một NH tài trợ và cho vay đồng tài trợ (cho vay hợp vốn), cho vay theo lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ….. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay của NH thương mại. 1.3.1 Các nhân tố thuộc về NH. 1.3.1.1 Chính sách tín dụng của NH. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một NH, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên NH, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời cho NH. Chính sách tín dụng bao gồm các nội dung: chính sách khách hàng, chính sách về quy mô và giới hạn tín dụng, lãi suất và phí suất tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, các khoản đảm bảo, chính sách đối với tài sản có vấn đề… Như vậy chính sách tín dụng trực tiếp quyết định đến chiến lược cho vay của NHTM. Chính sách tín dụng của NH có vai trò rất quan trọng đến hoạt động cho vay của NH. Đặc biệt, chính sách tín dụng của NH có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô khách hàng là DNNQD và doanh số cho vay đối với các DNNQD. Bởi vì, chính sách tín dụng thực chất là chính sách khách hàng trên cơ sở an toàn. Vì vậy, nếu chính sách tín dụng của NH hướng đến nhóm khách hàng mục tiêu là các DNNQD thì việc mở rộng quy mô khách hàng cũng như nâng cao doanh số cho vay đối với các DN này sẽ dễ dàng thực hiện hơn. Ngược lại, chính sách tín dụng cuả NH mà hạn chế việc cho vay đối với các DNNQD thì các DNNQD càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận được vốn vay của NH. Do vậy, hoạt động cho vay của NH đối với các DNNQD sẽ bị hạn chế. 1.3.1.2 Chất lượng thẩm định Một công việc không thể bỏ qua trước khi đưa ra quyết định cho vay của NH đó là tiến hành thẩm định khách hàng. Nói một cách chính xác hơn là tiến hành thẩm định tình hình tài chính và dự án SXKD của khách hàng. Khi khách hàng xin vay vốn NH, NH sẽ tiến hành phân tích, đánh giá khả năng tài chính của khách hàng và tính khả thi của dự án SXKD, đồng thời, NH sẽ xem xét mối quan hệ tín dụng của khách hàng với các NH trước để đưa ra quyết định. Nếu NH tiến hành thu thập thông tin, số liệu một cách đầy đủ về khách hàng từ nhiều nguồn thông tin và đi thực tế tại nơi SXKD của khách hàng để tìm hiểu thông tin, tuân thủ đúng quy trình thẩm định, có đội ngũ cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp….thì hoạt động cho vay của NH sẽ đạt được hiệu quả cao hơn, tránh được nhiều rủi ro hơn. Do vậy, chất lượng công tác thẩm định có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của NH. Quyết định cho vay của NH được đưa ra trên cơ sở các thông tin về khách hàng mà NH có được. Để có thể mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay của NH đối với các DN, NH phải có được các thông tin chính xác về phía DN, bao gồm các thông tin về tình hình tài chính như: khả năng tài chính DN, kết quả hoạt động SXKD, tình hình nghĩa vụ đối với nhà nước, hiệu quả kinh tế của các dự án vay vốn, khả năng trả nợ, giá trị tài sản đảm bảo khoản vay….hay các thông tin tài chính của DN như năng lực pháp lý, năng lực quản lý, quan hệ xã hội, cơ cấu tổ chức của DN …. Đồng thời các ngân hàng cần có thêm thông tin khác về tình hình kinh tế xã hội, xu hướng phát triển của các ngành nghề…. Các thông tin tín dụng mà NH đưa ra được chính xác bao nhiêu thì các quyết định cho vay đúng đắn bấy nhiêu, đồng thời giúp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các NH, nâng cao chất lượng kinh doanh nói chung cũng như hoạt động cho vay nói riêng, tạo tiền đề cho ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, việc ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng mở rộng trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Với công nghệ và trang thiết bị hiện đại sẽ giúp các ngân hàng đơn giản hóa các thủ tục, loại bỏ các thủ tục giấy tờ không cần thiết, rút ngắn thời gian giao dịch giữa NH và khách hàng, đồng thời việc quản lý hồ sơ khách hàng trở nên dễ dàng hơn, đem lại nhiều tiện ích cho cả ngân hàng và khách hàng, tạo nên hình ảnh về một NH hiện đại, thu hút nhiều khách hàng. 1.3.1.3 Hoạt động marketing của NH Trong hoạt động NH, marketing luôn đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự thành công của mỗi NH. Bởi vì, hoạt động marketing NH giúp NH xác định được nhóm khách hàng mục tiêu, loại sản phẩm dịch vụ mà NH cần cung ứng ra thị trường, tổ chức tốt quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ NH và hoàn thiện mối quan hệ giữa khách hàng và NH trên thị trường. Đồng thời, hoạt động marketing NH còn trở thành cầu nối gắn kết hoạt động của NH với khách hàng và góp phần tạo vị thế cạnh tranh của NH, nâng cao hình ảnh, uy tín của NH …. Đặc biệt, các chính sách marketing của NH như chính sách khách hàng, chính sách giá, sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của NH nói chung và hoạt động cho vay của NH nói riêng. Vì vậy, nếu NH có hoạt động marketing có hiệu quả, có các chính sách marketing hấp dẫn thì hoạt động cho vay của NH sẽ diễn ra thuận lợi và có hiệu quả hơn. Do đó, hoạt động marketing NH có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc mở rộng cho vay của NH. 1.3.1.4 Trình độ và phẩm chất của cán bộ NH. Trình độ và phẩm chất cán bộ NH nói chung và cán bộ tín dụng, thẩm định nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như quy mô hoạt động cho vay của NH. Bởi vì, cán bộ tín dụng, thẩm định là người trực tiếp gặp gỡ khách hàng, kiểm tra tình hình hoạt động SXKD, tình hình tài chính của khách hàng….và cán bộ tín dụng chính là người đưa ra ý kiến đầu tiên về mức cho vay đối với khách hàng dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp và các thông tin thu thập được trong quá trình thẩm định khách hàng, cán bộ thẩm định cũng là người đưa ra mức cho vay đối với khách hàng sau quá trình thẩm định và mức cho vay mà cán bộ tín dụng đưa ra phải phù hợp với ý kiến của cán bộ thẩm định…. Vì vậy, nếu NH có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, có khả năng phân tích, đánh giá, nhận định rủi ro…có đạo đức nghề nghiệp tốt thì sẽ có ảnh hưởng rất tích cực đến việc mở rộng hoạt động cho vay của NH. Ngược lại, nếu cán bộ của NH không chịu tích lũy kiến thức, nâng cao trình độ, bị cám dỗ bởi đồng tiền, nhận hối lộ của khách hàng để tiếp tay cho khách hàng rút ruột NH, ….thì sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của NH, gây mất lòng tin đối với khách hàng và việc mở rộng hoạt động cho vay của NH đương nhiên sẽ gặp khó khăn. 1.3.1.5 Năng lực quản lý NH. NH kinh doanh tiền tệ dưới hình hức huy động vốn, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ tài chính. Để có thể tiến hành hoạt động cho vay, trước tiên NH phải tiến hành hoạt động huy động vốn. Như vậy, nguồn vốn huy động được quyết định đến quy mô và thời hạn các khoản vay mà NH có thể cung cấp cho khách hàng, đồng thời quyết định đến khả năng mở rộng cho vay của NHTM. Trong điều kiện nguồn vốn huy động bị cạnh tranh mạnh mẽ hiện nay, với sự xuất hiện của loại hình tiết kiệm bưu điện, các công ty bảo hiểm và đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, đòi hỏi các NHTM cần có chiến lược huy động vốn phù hợp để phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Quản lý lãi suất cũng là một chính sách quan trọng. Theo đó, lãi suất phản ánh chi phí mà NH phải trả cho dân cư và DN khi huy động vốn, đồng thời là khoản lãi vay mà NH thu được từ phía khách hàng vay. Một chính sách lãi suất hợp lý, một mặt đảm bảo lợi nhuận và bù đắp được những chi phí và rủi ro trong hoạt động kinh doanh, mặt khác tăng khả năng cạnh tranh của bản thân NH với các NH khác, thúc đẩy việc mở rộng cho vay của NH đó. 1.3.2 Các nhân tố khách quan 1.3.2.1 Các nhân tố từ phía các DNNQD Khách hàng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của NH NH muốn mở rộng hoạt động cho vay của mình phải phụ thuộc vào nhu cầu vốn cho mở rộng SXKD của DN. Nếu như trong một thời kỳ nào đó, do môi trường kinh doanh không thuận lợi, các DN không muốn mở rộng SXKD, nhu cầu về vốn vay ngân hàng giảm thì NH không thể mở rộng hoạt động cho vay của mình. Tùy từng loại hình DN, tùy từng thời kỳ khác nhau trong năm mà nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển khác nhau, ngân hàng cần phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ từng loại hình DN, xác định được thời kỳ nhu cầu vốn tăng cao, từ đó có chiến lược mở rộng hoạt động tín dụng của mình. Về quy mô của DN. Quy mô DN càng cao và năng lực tài chính càng vững mạnh thì khả năng đáp ứng các điều kiện cho vay đối với các DN càng lớn. Do vậy, DN sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để tiếp cận nguồn vốn vay NH và hoạt động cho vay của NH cũng có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trở ngại đầu tiên trong việc tiếp cận vốn vay NH của các DNNQD xuất phát từ quy mô của DN. Các DNNQD chủ yếu là các DN vừa và nhỏ, vốn CSH thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu chưa tạo dựng được uy tín bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì DN rất khó tìm người bảo lãnh cho mình trong quan hệ vay vốn với NH. Vì vậy, việc khó tiếp cận được vốn vay NH đối với NH. Do đó việc khó vay được vốn của NH đối với DNNQD là điều dễ hiểu. Tính khả thi của dự án. Muốn vay vốn NH thì các DNNQD phải lập được dự án đầu tư có tính khả thi, có hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận mà dự án thu được phải đủ để bù đắp chi phí trả lãi và vốn vay NH, đồng thời vẫn còn một phần lợi nhuận cho DN…. Tuy nhiên, việc xây dựng dự án khả thi của không ít các DNNQD còn yếu, trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ các DN lại chưa phát triển. Bên cạnh đó, còn rất nhiều DNNQD lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị DN, nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Ngoài ra, còn nhiều DN lập báo cáo tài chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế, nên đã cố tình làm giảm khấu hao, tăng sản phẩm dở dang, nợ treo… Một số DN khác còn làm trái chức năng được cấp phép, làm trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quản lý nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết… Do nguồn tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng xây dựng dự án khả thi yếu, không ít DN hoạt động kinh doanh chạy theo thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể, nên mức độ rủi ro cao, trong khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt công tác kế toán thống kê. Một số DN chưa nhận thức đúng, đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh, nên việc tiếp cận vốn vay từ NH thương mại còn hạn chế. Do đó, tính khả thi của dự án có ảnh hưởng rât quan trọng đến quyết định cho vay hay không cho vay của NH. Tài sản đảm bảo, thế chấp. Nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến việc vay vốn của các DNNQD đó chính là tài sản đảm bảo, thế chấp. Bởi vì, tài sản đảm bảo, thế chấp chính là căn cứ để NH xác định mức cho vay tối đa đối với khách hàng. Vì vậy, nếu DN có đủ tài sản đảm bảo, thế chấp hoặc có tài sản đảm bảo thế chấp có giá trị cao thì DN sẽ dễ dàng tiếp cận được vốn vay của NH hơn. Tuy nhiên, hầu hết các ._. cửa (bất động sản), tiền ký quỹ của khách hàng, giấy tờ có giá, tuy nhiên số lượng và giá trị còn rất nhỏ. Trong thời gian tới, để có thể mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay đối với các DNNQD, chi nhánh nên đa dạng hóa hơn nữa các hình thức tài sản đảm bảo, chấp nhận nhiều loại tài sản đảm bảo hơn nữa từ khách hàng như các giấy tờ chứng minh khả năng thu tiền của khách hàng như các hóa đơn bán hàng, cho vay cầm cố cổ phiếu. Chi nhánh cần tăng cường khâu định giá, quản lý, kiểm tra thường xuyên với các tài sản cầm cố, thế chấp, tránh các trường hợp DN cố tình dùng một tài sản đảm bảo để vay ở nhiều NH, hoặc tẩu tán, rút dần tài sản….. Hơn nữa, việc xác đinh giá trị tài sản đảm bảo nên xác định theo giá thị trường hơn để gia tăng mức vay vốn đối với các DNNQD. Về thời hạn vay vốn: tạo điều kiện để các DNNQD có thể tiếp cận được với nguồn vốn trung-dài hạn. Nếu các DN có tình hình hoạt động SXKD ổn định trong nhiều năm, có phương án SXKD khả thi trong dài hạn…thì chi nhánh nên đáp ứng nhu cầu vay vốn của họ. Về hình thức vay vốn và thủ tục vay vốn: chi nhánh nên áp dụng nhiều phương thức cho vay đối với khách hàng là DNNQD hơn. Nên chấp nhận cho vay ngoại tệ đối với các DNNQD với tỷ lệ, thời hạn, lãi suất hợp lý, đảm bảo an toàn 3.2.3 Cải tiến quy trình cho vay Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng: thẩm định tốt chính là NH tạo ra cho minh sự an toàn trong kinh doanh và giảm thiểu rủi ro, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các khách hàng vay vốn. Vì vậy, chi nhánh cần phải tiến hành xem xét giá trị tài sản đảm bảo theo giá thị trường, đồng thời phải nâng cao trình độ thẩm định của các cán bộ thẩm định, tuân thủ đúng quy trình thẩm định. Tăng cường kiểm tra kiểm soát trong hoạt động tín dụng: nhằm đảm bảo đồng vốn NH cung cấp được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, hạn chế rủi ro có thể phát sinh trong quá trình sử dụng vốn vay, từ đó giúp cho NH và khách hàng hoạt động có hiệu quả hơn. Nhanh gọn, hiệu quả, chủ động. Tăng cường trang thiết bị, công nghệ hiện đại cho chi nhánh, đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các nghiệp vụ của NH, trên cơ sở đó, chi nhánh có thể thực hiện đa dạng hóa các nghiệp vụ, các hoạt động, dịch vụ, khách hàng vừa có quan hệ tín dụng với NH và được chi nhánh cung cấp thêm các dịch vụ NH tiện ích như thanh toán hộ, thu hộ, chi hộ, kiểm soát luồng tiền cho khách hàng…đem lại cho khách hàng những lợi ích lớn, giúp cho chi nhánh thu hút thêm khách hàng có quan hệ với mình, góp phần mở rộng hoạt động cho vay. Chi nhánh nên có chính sách hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn hình thức đầu tư, kinh doanh. NH đóng vai trò là trung gian trong tất cả các hoạt động của nền kinh tế, do vậy các thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội về các chính sách kinh tế của chính phủ, xu hướng phát triển các ngành nghề, biến động tiền tệ, giá cả…..luôn phải được cập nhật. Các thông tin này là rất hữu ích cho các DN trong việc ra quyết định lựa chọn lĩnh vực đầu tư. NH trên cơ sở các thông tin có được, tư vấn cho khách hàng của mình, một mặt giúp khách hàng lựa chọn được lĩnh vực đầu tư tốt, nguồn vốn vay từ NH được sử dụng hiệu quả, tăng nhu cầu về vay vốn NH, mặt khác tạo được uy tín, vị thế của chi nhánh trong khách hàng, tạo ra mối quan hệ lâu dài và bền vững giữa NH và khách hàng. 3.2.4 Đa dạng hóa các phương thức cho vay Hiện nay, mặc dù chi nhánh NH ĐT&PT Hà Tây đã triển khai nhiều phương thức cho vay. Tuy nhiên, phương thức cho vay chủ yếu áp dụng đối với DNNQD mới chỉ có hai phương thức chủ yếu là cho vay theo món và cho vay theo hạn mức tín dụng, trong đó phần lớn là cho vay theo món. Việc áp dụng các phương thức cho vay đơn điệu nhiều khi gây bất lợi cho các DN khi sử dụng phương thức không phù hợp với hoạt động SXKD và làm cho NH gặp khó khăn khi theo dõi và quản lý món vay do nhu cầu vốn ngày càng phong phú, đa dạng. Vì vậy, trong thờigian tới, chi nhánh nên triển khai áp dụng nhiều phương thức cho vay khác nhau như cho vay thấu chi, cho vay qua đêm, giải quyết cho vay trong 1 ngày, 1 tuần….nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng, đồng thời đảm bảo an toàn và lợi ích cho NH. Chẳng hạn, chi nhánh nên sớm áp dụng phương thức cho vay thấu chi đối với các DNNQD có hoạt động SXKD ổn định, họ chỉ tạm thời thiếu vốn để thanh toán tiền lương, tiền hàng….do chưa nhận được tiền thanh toán của bên đối tác… Áp dụng cho vay thấu chi vì nhiều DN xuất khẩu chỉ có nhu cầu vay trong vài ba ngày để trả tiền hàng. Bên cạnh đó, chi nhánh cũng cần triển khai áp dụng phương thức cho vay theo dự án đối với các DNNQD để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các DN để đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thêm nhà xưởng… 3.2.5 Đẩy mạnh hoạt động marketing NH Tăng cường quảng bá hình ảnh, các dịch vụ NH, nghiên cứu điều chỉnh giá hợp lý. Chi nhánh cần đẩy mạnh công tác marketing, tiếp thị, quảng bá hình ảnh của chi nhánh đến người dân, quảng bá rộng rãi những tiện ích do việc triển khai chương trình hiện đại hóa NH mang lại, đưa các nghiệp vụ NH không xa lạ với người dân. Duy trì các sản phẩm tín dụng truyền thống, đồng thời phát triển thêm nhiều sản phẩm tín dụng như cho vay cầm cố bằng hàng hóa, tài sản hình thành từ vốn vay, cho vay qua đêm, cho vay tuần,…. Mở rộng thêm nhiều kênh phân phối sản phẩm dịch vụ đến với khách hàng, mở rộng thêm nhiều mối quan hệ xã hội để truyền thông rộng rãi hình ảnh của chi nhánh. Hoạt động marketing ở đây chính là tự marketing, nghĩa là NH cần chủ động trong việc tiếp xúc với khách hàng, thu hút khách hàng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các NH trong việc thu hút các khách hàng là các DNNQD, đồng thời hoàn thiện, phát triển hơn nữa các dịch vụ liên quan. Một trong những điểm yếu hiện nay của các NH nói chung và chi nhánh NH ĐT&PT Hà Tây nói riêng là hoạt động marketing rất kém hiệu quả. Vì vậy, NH cần phải xây dựng một chính sách marketing hiệu quả cho riêng mình. Vậy, NH nên thực hiện các biện pháp: Chính sách marketing phải tập trung vào nghiên cứu thấu đáo thị trường, làm sáng tỏ nhu cầu hiện tại và tiềm năng của thị trường trong tương lai để từ đó lựa chọn được những thị phần cụ thể, hợp lý. Từ việc nghiên cứu thị trường, NH không những chỉ xác định được nhu cầu và cách thức đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn đa dạng, phức tạp của khách hàng mà còn dự báo được sự biến động của thị trường. Trên cơ sở đó, xây dựng được mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn, từ đó phát huy được thế chủ động và hiệu quả của hoạt động marketing nói riêng và hoạt động kinh doanh của NH nói chung. Xây dựng chính sách giao tiếp khuyếch trương: trong cơ chế thị trường, giữa các NH có sự cạnh tranh gay gắt, do vậy để thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, NH cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo nâng cao uy tín, vị thế của NH. Thời gian tới, NH cần có nhiều chương trình giới thiệu, tuyên truyền nhận thức cho khách hàng hiểu rõ hơn về sản phẩm của NH, giúp họ tiếp cận một cách tốt nhất nguồn vốn vay của NH. NH có thể sử dụng các phương pháp khuyếch trương hiệu quả như quan hệ công chúng, bán hàng cá nhân, tham gia tài trợ, quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường công tác tiếp thị, tích cực tìm kiếm khách hàng và các dự án SXKD có hiệu quả, có nhu cầu vốn tín dụng….Do vậy, NH nên thành lập các nhóm tiếp thị khách hàng, phát triển khách hàng trên các mối quan hệ sẵn có. Chia thành các đội thường là 2 người/đội tự tìm hiểu khách hàng, đến tận các khu, cụm, điểm công nghiệp để tìm hiểu và làm công tác marketing. Xây dựng một chính sách giá hợp lý, linh hoạt và đủ sức cạnh tranh trên từng cấu phần thị trường đã lựa chọn. NH nên áp dụng các mức lãi suất linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng. Ngoài ra, chính sách lãi suất còn phải linh hoạt theo mức vốn vay và thời gian vay. 3.2.6 Đào tạo đội ngũ cán bộ tinh thông về nghiệp vụ, giáo dục phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ Công tác tổ chức ảnh hưởng đến hoạt động của toàn NH, vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động tín dụng thì trước hết chi nhánh cần xây dựng cơ cấu tổ chức và quản lý chặt chẽ, hợp lý, đồng bộ, luôn bám sát yêu cầu thực tế của công việc để tránh sự chồng chéo trong hoạt động của các phòng. Xây dựng được một tập thể vững mạnh, phát huy hết khả năng của từng cán bộ. Ngòai ra chi nhánh cũng cần không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng. Tác phong làm việc, thái độ phục vụ, năng lực, trình độ nghiệp vụ là những yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn NH của khách hàng. Mặc dù hiện nay, trình độ của cán bộ trong chi nhánh đã không ngừng được nâng cao, nhưng để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong hoạt động NH thì chi nhánh phải luôn chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng bằng cách: Xây dựng chính sách phát triển nguồn lực con người, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ hợp lý, đúng người, đúng việc để phát huy hết điểm mạnh và hạn chế điểm yếu của từng người, tạo lập một bộ máy thống nhất, hoạt động có hiệu quả nhất. Có chính sách khen thưởng, kỷ luật hợp lý cả về vật chất và tinh thần nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, sự gắn bó, long yêu nghề, phát huy tối đa khả năng sáng tạo của độ ngũ cán bộ, công nhân viên trong toàn chi nhánh. Nâng cao hơn nữa chất lượng nội dung các phong trào thi đua lập thành tích, xây dựng ngành, chi nhánh phát triển bền vững và có tăng trưởng cao. Xây dựng đội ngũ cán bộ có tâm, có nghiệp vụ chuyên môn cao góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động NH rất phức tạp, kinh doanh dựa trên cơ sở mối quan hệ, liên quan đến đông đảo khách hàng thuộc các thành phần khác nhau. Các khách hàng này có đạo đức kinh doanh, tình hình tài chính, SXKD, năng lực SXKD khác nhau, sở thích nhu cầu khác nhau. Do đó, cán bộ NH cần có nhận thức toàn diện hơn về khách hàng, cần thường xuyên được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để cạnh tranh được thì NH phải có người biết kinh doanh tiền tệ, dịch vụ NH giỏi, cần có đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học công nghệ,có tài năng…vì vậy NH nên thực hiện các giải pháp sau: Trong quá trình giáo dục, đào tạo, trước hết cần làm cho cán bộ nhân viên thấy rõ được sứ mệnh của mỗi NH thương mại trước xã hội và góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lợi ích của mỗi người lao động cũng như của NH luôn gắn liền với sự thành đạt của khách hàng. Từ đó, nhận rõ được trách nhiệm của từng cán bộ nhân viên, có lòng ham mê học hỏi. Trong đào tạo bao gồm kỹ năng quản trị điều hành, kỹ năng tác nghiệp hiện đại và văn hóa của NH nói chung và phong cách giao tiếp nói riêng, văn minh, lịch sự. Chú trọng công tác đào tạo sau tuyển dụng nhằm giúp nhân viên mới khỏi thiếu hụt những kiến thức cần thiết bắt đầu sự nghiệp. chi nhánh nên tổ chức đếu đặn, thường xuyên các buổi học nghiệp vụ định kỳ, tạo điều kiện cho người học trước truyền đạt lại những kiến thức kỹ năng cho những người chưa học, hoặc củng cố lại những kiến thức đã học, có chính sách khuyến học, tạo niềm say mê học tập thường xuyên trong cán bộ nhân viên, còn làm việc còn phải học tập,vừa bắt buộc vừa có những khuyến khích thỏa đáng. Bên cạnh đào tạo trong nước cần tăng cường hợp tác đào tạo với các nước nhằm tiếp cận được với khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới về những kiến thức kỹ năng nghiệp vụ, quản trị điều hành NH hiện đại, nhanh chóng rút ngắn được khoảng cách phát triển và hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh. Đặc biệt là phải giao nhiệm vụ cụ thể, có thưởng phạt cho từng cán bộ tín dụng. Ra chỉ tiêu cho từng cán bộ như mỗi tháng mỗi cán bộ phải tiếp cận được 3 đến 5 khách hàng mới, mỗi phòng phải cho vay được trên 3 đến 5 tỷ một tháng. Khích lệ cán bộ bằng tiền lương, thưởng, tiền công tác phí… 3.2.7 Tăng cường hiệu quả công tác huy động vốn. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động quyết định đến khả năng mở rộng tín dụng của chi nhánh, trong những năm tiếp theo, để hoạt động cho vay đối với các DNNQD ngày càng được mở rộng, chi nhánh cần đảm bảo nguồn vốn huy động bằng cách: Chủ động tìm địa điểm để mở các phòng giao dịch và các quỹ tiết kiệm trên cơ sở tính toán hiệu quả hoạt động, tập trung tại các khu vực đông dân cư, có nhiều tiềm năng về vốn như các khu chung cư mới mở trên địa bàn. Nghiên cứu để bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ cho các phòng giao dịch, đặc biệt là cung ứng dịch vụ NH theo nguyên tắc an toàn và có hiệu quả. Cho phép các quỹ tiết kiệm được cho vay DNNQD với những món vay đơn giản. Hiện DNNQD muốn vay của chi nhánh mới chỉ đến giao dịch tại 2 phòng giao dịch, 2 điểm giao dịch và hội sở, nhưng chủ yếu là ở hội sở. Còn ở 3 quỹ tiết kiệm thì mới chỉ được thực cho vay chiết khấu chứng từ có giá. Điều này làm cho chi nhánh của NH đã mỏng và chưa rộng khắp lại càng khó khăn hơn, đồng thời chưa tạo thuận lợi cho DN khi có nhu cầu giao dịch. Chủ động tiếp cận nguồn tiền của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội để vận động tham gia gửi tiền tại chi nhánh. Xây dựng kế hoạch chăm sóc khách hàng có số dư tiền gửi lớn và thường xuyên, tiếp tục phát triển các nhóm khách hàng có tiềm năng về tiền gửi. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Ngoài những hình thức huy động truyền thống, chi nhánh cần đưa ra các hình thức huy động mới, đẩy mạnh việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi với lãi suất hấp dẫn và phù hợp diễn biến của lãi suất trên thị trường. Tiếp tục thực hiện các chương trình tiết kiệm dự thưởng đã thành công để thu hút thêm khách hàng có quan hệ với NH và mở rộng quy mô nguồn vốn. Đa dạng hóa kỳ hạn, thường xuyên theo dõi lãi suất thị trường, dự báo xu hướng biến động, đưa ra lãi suất hợp lý linh hoạt, vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh, vừa đem lại lợi nhuận và thu hút thêm khách hàng. Sắp xếp, bố trí lại giờ giao dịch phù hợp để tạo thuận lợi cho người gửi tiền. Có chính sách ưu đãi, khuyến khích về mặt dịch vụ, tín dụng đối với khách hàng có quan hệ tiền gửi với chi nhánh. Tận dụng tối đa các tiện ích của các chương trình ứng dụng, nghiên cứu cải tiến quy trình nghiệp vụ, giảm bớt thủ tục giấy tờ nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, thông qua khách hàng cũ mở rộng marketing tới khách hàng mới. Tổ chức đánh giá phân tích cơ cấu tài sản-nguồn vốn của chi nhánh theo định kỳ, theo biến động của thị trường để có chính sách huy động vốn phù hợp. 3.3 Kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với NH ĐT&PT Việt Nam NH ĐT&PT Việt Nam là cơ quan chỉ đạo và điều hành hoạt động của cả hệ thống NH ĐT&PT trên cả nước, do vậy có quyết định trực tiếp đến chiến lược, phương hướng hoạt động tín dụng của chi nhánh. Để trong những năm tiếp theo, hoạt động tín dụng của NH ĐT&PT Việt Nam nói chung và chi nhánh Hà Tây nói riêng ngày càng được mở rộng, thì NH ĐT&PT Việt Nam cần: Trang bị thêm thiết bị công nghệ hiện đại cho chi nhánh, không ngừng áp dụng những tiện ích của công nghệ thông tin trong hoạt động NH như thanh toán, quản lý khách hàng, tiến tới ngang tầm khu vực và trên thế giới. Cung cấp và hướng dẫn thực hiện kịp thời các văn bản, các quy chế của NH nhà nước và của NH ĐT&PT Việt Nam về hoạt động tín dụng như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu….tạo điều kiện thuận lợi cho chi nhánh trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo tuân thủ pháp luật và quy định của NH nhà nước về hoạt động NH. Không ngừng hoàn thiện hơn nữa “Sổ tay tín dụng” để phù hợp hơn với từng hình thức cho vay, cũng như đối tượng khách hàng và biến động của thị trường, nhằm hướng dẫn cho cán bộ tín dụng một cách có hệ thống, quy trình chuẩn, cụ thể, rõ ràng. Ban hành các văn bản, công văn hướng dẫn cụ thể các hoạt động của chi nhánh theo đúng dự án hiện đại hóa NH hiện nay. Hỗ trợ và chỉ đạo chi nhánh thành lập phòng marketing để nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh. Hỗ trợ cho chi nhánh trong việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhân viên NH nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ NH. Thường xuyên mở các lớp tập huấn theo từng chuyên đề, tổ chức các buổi hội thảo, nghiên cứu khoa học để trao đổi thông tin, cập nhật thông tin, nâng cao trình độ hiểu biết cho cán bộ. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của chi nhánh. Đẩy mạnh việc nghiên cứu nhằm đưa ra thị trường các sản phẩm mới. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức cho vay, đa dạng hóa các hình thức bảo đảm, đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt.. Xem xét để có thể cấp vốn cho chi nhánh mua hoặc thuê dài hạn các địa điểm PGD có vị trí thương mại: Hà Đông, giáp ranh Thanh Xuân,….vừa tạo thế cạnh tranh, nâng cao thị phần, thương hiệu và tài sản cho ngành. Trước mắt, trong năm 2007 đề nghị được thuê dài hạn hoặc mua đất, văn phòng giao dịch tại trung tâm thương mại Hà Đông. Bổ sung cho chi nhánh thêm xe chuyên dụng để đảm bảo vận chuyển hàng đặc biệt kịp thời, an toàn và phục vụ công tác xa. Tạo điều kiện cho chi nhánh mở rộng thêm mạng lưới đáp ứng tối đa nhu cầu hợp lý của khách hàng. Cho phép chi nhánh cho vay đối với một số khách hàng ngoài quốc doanh thuộc địa bàn quận thanh Xuân, Cầu Giấy. Làm việc với các cơ quan trung ương trong việc tổ chức cuộc tổng điều tra về nhà, đất ở. Từ đó hoàn thiện hồ sơ và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho CSH làm cơ sở cho người dân tiếp cận được nguồn vốn đầu tư và sử dụng các sản phẩm dịch vụ NH. 3.3.2 Kiến nghị với NH nhà nước Việt Nam Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa luật NH nhà nước và luật các TCTD phù hợp với thực tiễn nền kinh tế để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho hoạt động của các TCTD. Ban hành các văn bản pháp luật, các quy chế, các hướng dẫn cụ thể, tạo thuận lợi cho hoạt động của các TCTD nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Có các quy định rõ ràng về tài sản đảm bảo, việc xử lý tài sản đảm bảo của các TCTD, nghĩa vụ của DN và TCTD về tài sản đảm bảo, tạo cho các TCTD có những cơ sở vững chắc, yên tâm khi mở rộng hoạt động tín dụng đối với các DNNQD. Tiếp tục duy trì và thực thi chính sách tiền tệ một cách hiệu quả, sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt để kiểm soát lạm phát, tạo môi trường kinh tế ổn định cho hoạt động của các NH thương mại và các DN nói chung. Thực thi chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, quản lý ngoại hối….một cách linh hoạt mềm dẻo, điều tiết hoạt động của nền kinh tế và của các TCTD một cách hiệu quả. NH nhà nước cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của trung tâm tín dụng NH. Bên cạnh đó cần thành lập các công ty tư vấn nhằm cung cấp thông tin về thị trường, thông tin về DN một cách chính xác, giúp cán bộ tín dụng có những thông tin về tình hình của khách hàng, từ đó đưa ra được các quyết định tín dụng khách quan, chính xác. Đồng thời, cũng giúp cho các DNNQD có đầy đủ thông tin về thị trường tài chính, nền kinh tế hay thông tin về các TCTD. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các NH thương mại để đảm bảo cho hệ thống NH thương mại hoạt động lành mạnh, hiệu quả, đảm bảo an toàn cho nền kinh tế. Chỉ đạo các NHTM báo cáo rõ các vướng mắc, tồn tại, bất cập (nếu có) trong các văn bản pháp luật đã ban hành và những yêu cầu về những vấn đề phát sinh trong thực tiễn hoạt động đã phát sinh cần có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, để NH nhà nước kịp thời xem xét, chỉnh sửa hoặc ban hành mới, tạo môi trường thể chế thuận lợi cho hoạt động NH và phù hợp với chuẩn mực quốc tế. NH nhà nước nên có những hình thức thông báo thường xuyên về tình hình biến động kinh tế cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nước và quốc tế để các NHTM mại làm cơ sở tổ chức hoạt động kinh doanh và công tác nghiên cứu của mình. Cảnh báo sớm những nguy cơ, rủi ro đối với hệ thống NHTM, có cơ chế bảo vệ NHTM trước những tin đồn có khả năng gây rủi ro thanh toán…. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện để hiệp hội NH thực sự thực hiện tốt mục tiêu tăng cường sự hợp tác giữa các NHTM. Tăng cường các chương trình đào tạo, tập huấn cho các NHTM. Đặc biệt là các khóa học về quản trị NH và các kỹ năng lãnh đạo. Đồng thời, NH nhà nước có các biện pháp tăng cường tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm với các trường đại học để các chương trình đào tạo của các trường đi sát thực tế hơn. CIC nâng cao hơn nữa chất lượng thu nhận, phân tích và dự báo thông tin tín dụng để các NHTMcó đủ thông tin đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, có thêm cơ sở quyết định cho vay được an toàn, hiệu quả. 3.3.3 Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước Về quyền sử dụng đất và công chứng giấy tờ: Quyền sử dụng đất, bất động sản vẫn là tài sản chủ yếu của các DNNQD dùng để đảm bảo cho việc vay vốn tại NH thương mại. Nhưng hiện nay, thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là rất phức tạp. Đồng thời, việc công chứng cho các giấy tờ của các DNNQD cũng còn nhiều bất cập, gây nhiều khó khăn cho cả các DNNQD và các NH thương mại. Trong thời gian tới, đề nghị các cơ quan hữu quan có thẩm quyền hoàn thiện hơn nữa công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bất động sản cho các DN, thủ tục công chứng cần nhanh chóng, tạo điều kiện về thời gian và công sức cho DN. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa tất cả các DN, tạo ra sự công bằng cho các DNNQD thông qua thiết lập một cơ chế, chính sách quản lý hợp lý cho các DNNQD hoạt động, khẩn trương ban hành các chính sách, văn bản dưới luật áp dụng cho các DNNQD, đặc biệt là chính sách quản lý tài chính, tạo ra hành lang pháp lý ổn định, đảm bảo cho sự phát triển của các DNNQD. Hoàn thiện hơn nữa luật DN và luật đầu tư. Trong thời gian tới cần xây dựng và ban hành thêm nhiều bộ luật khác, tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn cho các DN. - Có thể thành lập các quỹ bảo lãnh vay vốn cho các DN để giải quyết những khó khăn về tài sản đảm bảo, quỹ này có các thành viên là các DNNQD, các thành viên trong quỹ khi vay vốn với một giới hạn nào đó thì được quỹ bảo lãnh không cần phải có tài sản thế chấp, tuy nhiên vẫn phải đáp ứng các yêu cầu tín dụng khách từ phía NH. - Tăng cường hơn nữa hoạt động trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNQD, đẩy mạnh khả năng tiếp cận các nguồn tài chính cho DN, phát triển quỹ hỗ trợ DN vừa và nhỏ, quỹ đầu tư mạo hiểm….., thành lập nhiều hơn “Hội DN trẻ”- là nơi để các DN giao lưu, trao đổi các kinh nghiệm quản lý và giúp đỡ nhau. - Phần lớn các DNNQD hoạt động trong tình trạng thiếu cập nhật thông tin về các cơ chế chính sách mới ban hành. Vì vậy, họ rất cần sự giúp đỡ của nhà nước, của cơ quan ban hành cơ chế chính sách trong việc cung cấp thông tin thông qua hình thức mở các lớp tập huấn, đào tạo, các trung tâm thông tin phát hành rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các DN tiếp cận kịp thời. - Tạo ra một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi cho DN hoạt động bằng cách: - Tiếp tục xây dựng cơ chế thị trường đồng bộ, hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống tiền tệ, tín dụng, giá cả….Tiếp tục phát triển hơn nữa thị trường chứng khoán, giúp các DN khẳng định uy tín và vị thế của mình trên thương trường, cũng là nơi cung cấp kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các DN. - Có chính sách kinh tế đối ngoại mở rộng hơn nữa, tăng cường các quan hệ kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường cho các DN, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu phục vụ cho việc phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển của các DNNQD nói riêng, để các DNNQD đóng góp ngày càng nhiều vào chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Các cơ quan quản lý nhà nước cần đảm bảo môi trường kinh doanh ổn định và phát triển: cần có những chính sách, biện pháp đảm bảo một môi trường kinh doanh ổn định cho hoạt động của các DN, trong đó có cả NH và các DNNQD. Nhà nước nên có những bước đệm hoặc những giải pháp thiết thực nhằm tháo gỡ các khó khăn khi có sự chuyển đổi, điều chỉnh cơ chế chính sách liên quan đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa toàn bộ hệ thống NH thương mại nhà nước để tạo ra động cơ kinh doanh mới và tăng năng lực quản trị điều hành. Đồng thời giúp làm tăng vốn tự có cho các NH thương mại nhà nước đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo ủy ban Basle là 8%, hiện đại hóa công nghệ NH và nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh cho các NH trong quá trình hội nhập quốc tế. Xây dựng hành lang pháp lý hoàn thiện và chặt chẽ cho hoạt động NH. Khuôn khổ pháp luật hoàn thiện và chặt chẽ cho hoạt động NH nói chung và nghiệp vụ cho vay nói riêng. Hoàn thiện môi trường pháp lý và các văn bản có liên quan đến hoạt động của các DNNQD nhằm nâng cao hiệu quản sản xuất và đảm bảo khả năng hội nhập của các DNNQD. Theo đó, các DN tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung-cầu trên thị trường mà pháp luật không cấm. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ, khuyến khích các DN thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật . Đồng thời sớm ban hành luật kế toán và pháp lệnh kiểm toán nhà nước phù hợp với thông lệ, tiêu chuẩn quốc tế nhằm cải tiến hệ thống kiểm toán, kế toán, tăng cường khả năng quản lý của các DNNQD. Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DN nhà nước. Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ các DNNQD. KẾT LUẬN Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, các DNNQD đã có những bước phát triển vượt bậc và đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ, góp phần đẩy nhanh phát triển kinh tế xã hội. Thành công này đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần mà Đảng và nhà nước đã đề ra. Vì vậy, với mục tiêu khuyến khích các DNNQD phát triển, các NH đã và đang có nhiều chính sách để mở rộng cho vay đối với các DN này. Có thể nói, với thủ tục nhanh gọn kịp thời nhưng an toàn hiệu quả, hoạt động cho vay các DNNQD không chỉ dừng lại ở ý nghĩa hỗ trợ, tao điều kiện thuận lợi cho các DNNQD sản xuất, kinh doanh và phát triển hoạt động cho vay đối với các DNNQD thực sự trở thành triển vọng đầu ra tín dụng lớn cho các NH thương mại. Mở rộng cho vay đối với DNNQD là hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho cả NH và DN. Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh NH ĐT&PT Hà Tây, được sự tận tình giúp đỡ của các cán bộ trong chi nhánh đặc biệt là các cán bộ phòng tín dụng và phòng kế hoạch nguồn vốn, cùng với sự nghiên cứu của bản thân, em đã hoàn thành được bài luận văn tốt nghiệp này. Những nội dung cơ bản của bài viết được dựa vào lý thuyết cơ bản về hoạt động cho vay của NH, về DNNQD, từ đó nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng cho vay đối với DNNQD, đồng thời đề xuất một số giải pháp thực hiện. Theo đó nội dung luận văn đã tập trung vào các vấn đề cơ bản về DNNQD, hoạt động cho vay của NHTM, vai trò của DNNQD đối với nền kinh tế, để thấy được tầm quan trọng của việc mở rộng cho vay đối với DNNQD và những nhân tố tác động. Tìm hiểu thực trạng tình hình cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NH ĐT&PT Hà Tây, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế và tìm ra nguyên nhân. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với DNNQD của chi nhánh. Việc mở rộng cho vay DNNQD nếu được chi nhánh quan tâm và thực hiện kịp thời, hiệu quả sẽ góp phần nâng cao vai trò, uy tín của chi nhánh, của NH ĐT&PT Việt Nam nói riêng và giúp nền kinh tế phát triển trong thời kỳ mới. Do những hạn chế về thời gian khảo sát thực tế cũng như những hạn chế về bản thân, nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và những người quan tâm để bài viết có ý nghĩa, thiết thực. Em xin bày tỏ sự cảm ơn sâu xắc tới PGS.TS Lê Đức Lữ, người đã tận tâm hướng dẫn em trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp, các thầy cô trong khoa NH -tài chính và các cán bộ chi nhánh NHĐT&PT Hà Tây, đặc biệt là các cán bộ của phòng tín dụng và phòng kế hoạch nguồn vốn đã nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình thực tập, tìm hiểu, nghiên cứu thực tế, thu thập thông tin và xử lý tài liệu để hoàn thành luận văn. . TÀI LIỆU THAM KHẢO Frederic S.Mishikin (1999), “Tiền tệ, NH và thị trường tài chính”- Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật. Peter S.Rose (2001), “ Quản trị NHTM”- Nhà xuất bản tài chính. Lý thuyết tài chính - tiền tệ, trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. TS. Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), NHTM quản trị và nghiệp vụ-Đại học Kinh Tế Quốc Dân - Khoa NH Tài Chính – Nhà xuất bản Thống Kê. TS. Nguyễn Hợp Toàn (2005), “Giáo trình Pháp luật kinh tế” - Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân - Khoa Luật Kinh Tế - Nhà xuất bản Thống Kê. Báo cáo tổng kết năm 2004, 2005, 2006 của NH ĐT&PT Hà Tây. Một số trang web tham khảo: www.hapi.gov.vn www.cpv.org.vn www.mof.gov.vn www.luatvietnam.com.vn www.bbc.co.uk www.gso.gov.vn www.moi.gov.vn www.sbv.gov.vn www.baohatay.com.vn www.hatay.gov.vn Và một số tài liệu tham khảo khác. nhẬn xét cỦa chi nhánh NH ĐT&PT HÀ TÂY ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... ………………………………………………………………………………………... CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập-Tự do-Hạnh phúc --------o0o------- NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32126.doc
Tài liệu liên quan