Mở rộng hoạt động cho vay có tại sản đảm bảo tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank chi nhánh Thăng Long

MỞ ĐẦU Trong một vài năm trở lại đây, tình hình kinh tế xã hội của nước ta có nhiều tác động không thuận lợi đến hoạt động tín dụng như chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, lũ lụt thiên tai xảy ra ở nhiều vùng, bùng phát nạn dịch gia cầm, đồng thời nhiều DNNN bộc lộ yếu kém trong quản lý, tài chính và hoạt động kinh doanh. Trước bối cảnh đó, việc định hướng cấp tín dụng đúng đắn để hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn nhằm thoát khỏi tình trạng khó khăn đồng thời mở ra một giai đoạn phát triển mới ch

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay có tại sản đảm bảo tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o các NHTM là rất cần thiết. Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam là một ngân hàng TMCP lớn tại Việt Nam. Chi Nhánh Techcombank Thăng Long ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của NHTMCP Kỹ Thương VN. Kể từ ngày thành lập đến nay, Techcombank Thăng Long đã không ngừng phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng, trở thành một trong những ngân hàng hiện đại, đạt hiệu quả cao trong hệ thống Techcombak. Phạm vi hoạt động của Techcombank Thăng Long không chỉ bó hẹp trên địa bàn một quận mà đã vươn ra toàn thành phố Hà Nội. Hoạt động tín dụng của Techcombank Thăng Long trong những năm gần đây cũng đã đạt được nhiều thành quả nhất định, đóng góp vào sự thành công chung của hệ thống Techcombank và của toàn ngành ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay của Techcombank Thăng Long, vì những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan mà vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế đồi hỏi cần có biện pháp khắc phục, đặc biệt là hình thức cho vay có Tài sản đảm bảo. Đây không chỉ là thực tế ở riêng Techcombank Thăng Long mà còn là thực tế ở hầu hết các NH TM CP ở nước ta. Trong thời gian thực tập ở chi nhánh Thăng Long, em cũng đã nhận ra thực trạng trên. Chính vì vậy, để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình, em đã chọn và nghiên cứu đề tài : “Mở rộng hoạt động cho vay có tài sản đảm bảo tại Techcombank Thăng Long”. Nội dung của đề tài nghiên cứu bao gồm: Chương I: Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay có TSĐB tại Techcombank Thăng Long Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay có TSĐB tại Techcombank Thăng Long Mặc dù đã cố gắng, nhưng do điều kiện khách quan cũng như chủ quan mà bài viết của em chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Kính mong sự chỉ bảo, góp ý của các thấy cô giáo, các anh chị đồng nghiệp và các bạn quan tâm. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Trần Thanh Tú đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực hiện bài viết này. Em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô, các chú, các anh và các chị làm việc tại Tehcombank Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết của mình. Hà Nội, ngày 16 tháng 10 năm 2008 Sinh viên Bùi Thị Hà CHƯƠNG I HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế . Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thành toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vốn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Do đó, cần phải nghiên cứu và hiểu một cách cặn kẽ về loại hình tổ chức này để có thể vận hành và quản lí nó có hiệu quả. 1.1.2. Chức năng * Trung gian tài chính: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu. tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyền từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Lấy quan hệ tín dụng làm ví dụ. Người có tiền tiết kiệm đòi 1 % cho chi phí giao dịch, 2% phòng rủi ro và 3% là thu nhập ròng từ số tiền tiết kiệm mà anh ta đang phải tạm thời từ bở quyền sử dụng. Tổng cộng anh ta đòi 6 % trên số tiền cho vay. Người vay phải chi 1% chi phí giao dịch, 6% trả cho người có tiền, tổng cộng phí tổn là 7%. Nếu việc sử dụng tiền vay có thể tạo ra cho anh ta một tỷ suất thu nhập lớn hơn 7% (giả sử là 10%) thì quan hệ tín dụng sẽ được thiết lập. Quan hệ tín dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian… Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hóa, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch, ví dụ từ 2% xuống còn 1 % ở ví dụ trên, chi phí rủi ro từ 2% suống 1%. Trung gian có thể trả cho người tiết kiệm 3,5% với cam kết không có rủi ro ( lớn hơn 3% thu nhập trước đó) và đòi người sử dụng 6,5% (nhỏ hơn 7% trước đó). Chênh lệch 6,5% - 3,5% = 3% chính là thu nhập trung gian. Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tồn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch. Hầu hết các lý thuyết hiện tại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người. Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất. * Tạo phương tiện thanh toán Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nợ với khách hàng. Giấy nợ do ngân hàng phát hànhvới ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra các phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn…Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng), các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi ( tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng). *Trung gian thanh toán Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thưc hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhang chúng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quĩ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lí tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thông nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thể giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 1.1.3. Các hoạt động cơ bản Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. * Mua, bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua, bán) ngoại tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. *Nhận tiền gửi Cho vay dược coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đóng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Như vậy, khi cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi, ngân hàng thu “ phí” gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng tiền gửi đó. *Cho vay - Cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. - Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vái vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. - Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất. *Bảo quản tài sản hộ: Các ngân hàng thực hiện việc lưu trữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ… *Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chúng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ… *Quản lý ngân quĩ Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lí ngân quĩ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lí ngân quĩ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. *Tài trợ các hoạt động của Chính phủ Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thướng là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. *Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác… *Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing) Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. *Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư…Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lí tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. *Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới. *Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí… *Cung cấp các dịch vụ đại lí Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… 1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay Cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. 1.2.2. Vai trò Cho vay là hoạt động mang tính chất sống còn đối với hầu hết các ngân hàng thương mại. Đây không chỉ là khoản sử dụng vốn lớn nhất của ngân hàng, mà còn là nguồn tạo ra thu nhập lớn nhất trong tất cả các tài sản có sinh lợi. Hơn thế nữa, chính chức năng cho vay này có thể dẫn đến những rủi ro lớn nhất mà các ngân hàng nói chung phải chấp nhận. Sự sụp đổ của một ngân hàng thương mại thường có liên hệ với những vấn đề tồn tại trong danh mục các khoản cho vay hơn là từ sự thua lỗ ở các loại tài sản có khác. Phần lớn quỹ của ngân hàng đều được dùng để cho vay; mức doanh lợi chủ yếu được sản sinh từ các khoản cho vay, và gánh nặng rủi ro kinh doanh cũng tập trung ở đây. Cho vay có ý nghĩa rất lớn đối với từng chủ thể kinh tế cũng như đối với nền kinh tế đất nước và nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng xã hội của ngân hàng trong nền kinh tế. Cho vay là lý do tồn tại cơ bản đối với ngân hàng thương mại. Tín dụng ngân hàng là nhu cầu thiết của tất cả các chủ thể và thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Việc đáp ứng nhu cầu tín dụng này có thể được xem như là một cam kết hay nghĩa vụ xã hội của ngân hàng trong khuôn khổ của khả năng sinh lợi và rủi ro. Hệ thống ngân hàng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho việc mua hàng hóa và dịch vụ và để hỗ trợ cho đầu tư (như xây dựng nhà cửa, xa lộ, cầu cống và những công trình kiến trúc khác, cũng như để mua máy móc và thiết bị). Đầu tư làm gia tăng năng suất các nguồn của cải xã hội và tạo ra mức sống cao hơn cho cá nhân và gia đình. Khi tín dụng ngân hàng khan hiếm và chi phí cao thì chi tiêu trong nền kinh tế chậm lại và nạn thất nghiệp thường gia tăng. Các biến động về tín dụng ngân hàng cũng có tác động lên lạm phát. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bái vì tiền gửi ngân hàng là một trong những thành phần lớn nhất của cung tiền tệ được sử dụng bái công chúng và những thay đổi về cung tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với những thay đổi về giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Còn tiển gửi vào ngân hàng lại có mối liên hệ với các khoản cho vay của ngân hàng. Các khoản cho vay gần như luôn luôn được thực hiện bằng cách nâng kết số dư tài khoản của khách hàng nếu như khách hàng đó có sẵn tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, hoặc bằng cách mở một tài khoản tiền gửi cho số tiền vay nếu người vay là một khách hàng mới. Như vậy, khi một ngân hàng cho một cá nhân hoặc doanh nghiệp vay, thì nó tạo ra trên sổ sách của nó một tài khoản tiền gửi dành cho quyền lợi của người đi vay, nghĩa là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cho vay. Hoạt động cho vay có tính phức tạp, vì chức năng cho vay đóng vai trò cơ bản đối với các ngân hàng, và mức độ rủi ro ở từng khoản cho vay có nhiều khác biệt. Ngân hàng phải đánh giá lợi tức mang lại và những đặc điểm rủi ro của các khoản cho vay và phải thẩm định mức độ hấp hẫn tương đối giữa các loại cho vay khác nhau. 1.2.3. Các hình thức cho vay 1.2.3.1. Cho vay thấu chi trên tài khoản tiền gửi Là nghiệp vụ cho vay mà ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Số lãi mà khách hàng trả. Số lãi mà khách hàng phải trả = Lãi suất thấu chi * Thời gian thấu chi * Số tiền thấu chi Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.Thấu chi được dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. 1.2.3.2. Cho vay trực tiếp từng lần Đây là hiện tượng tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện được cấp hạn mức thấu chi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt, tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và tài sản đảm bảo nếu cần.Nếu cho vay dựa và giá trị tài sản bảo đảm: Số lượng cho vay = Giá trị tài sản đảm bảo* Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo 1.2.3.3. Cho vay theo hạn mức tín dụng Là nghiệp vụ mà theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức, tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay vốn thường xuyên, vốn tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. 1.2.3.4. Cho vay luân chuyển Nghiệp vụ mà ngân hàng cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Ngoài ra còn có nhiều các loại hình khác như: Cho vay trả góp, Cho vay theo dự án, Cho vay qua thẻ tín dụng…vv. Các loại hình trên giúp ngân hàng năng động hơn, mở rộng mối quan hệ với các khách hàng. Nhưng đứng trên phương diện của một tổ chức kinh tế, hoạt động này cũng ẩn chứa rất nhiều rủi ro cho ngân hàng. Chính vì vậy bảo đảm tiền vay ra đời như một biện pháp hữu hiệu nhằm giúp ngân hàng an toàn, an tâm hơn trong các khoản cho vay của mình. 1.3 Cho vay có Tài sản đảm bảo 1.3.1 Khái niệm về Tài sản đảm bảo Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của NH mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết đảm bảo thực hiện bằng tài sản cầm cố thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc tài sản của bên thứ ba bảo lãnh. Tài sản đảm bảo tiền vay là tài sản của khách hàng vay, của bên bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bao gồm: Tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của khách hàng vay, của bên bảo lãnh, tài sản thuộc quyền quản lý sử dụng của khách hàng vay, của bên bảo lãnh, tài sản thuộc quyền quản lý sử dụng của khách hàng vay, của bên bảo lãnh là doanh nghiệp nhà nước, tài sản hình thành từ vốn vay 1.3.2. Hình thức bảo đảm bằng tài sản Thể hiện qua sơ đồ 1.1: Đảm bảo bằng bất động sản ( Thế chấp) Đảm bảo bằng tài sản trực tiếp Đảm bảo cho vay Đảm bảo bằng tài sản gián tiếp ( Bảo lãnh) Đảm bảo bằng động sản ( Cầm cố) 1.3.2.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh 1.3.2.1.1. Tài sản cầm cố - Khái niệm: Cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ ba giữ. Quyền tài sản được phép giao dịch cũng có thể được cầm cố. Như vậy cầm cố được thiết lập trên cơ sở động sản. Động sản là những tài sản không được quy định là bất động sản - Các loại hình tài sản cầm cố. Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý và các vật có giá khác. Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ. Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, các giấy tờ có giá khác trị giá được bằng tiền. Nếu ngân hàng phát hành cổ phiếu thì khách hàng vay không được cầm cố cổ phiếu ngân hàng tại các chi nhánh. Các ngân hàng rất quan tâm đến loại hình bảo đảm bằng chứng chỉ tiền gửi, đặc biệt là chứng chỉ tiền gửi do tổ chức ngân hàng hoặc nhóm ngân hàng đó phát hành.Chứng chỉ tiền gửi dễ dàng chuyển nhượng và hầu như không chiuh sự biến động của thị trường. Hơn nữa chi phí phát sinh trong việc quản lý tiền gửi bảo đảm không đáng kể, vấn đề xử lý cũng đơn giản. Trong hoạt động cầm cố khách hàng trao cho ngân hàng quyền sở hữu các chứng chỉ tiền gửi nếu khách hàng không trả được nợ khi đến hạn. Nếu chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng khác phát hành thì ngân hàng cho vay phải thông báo cho ngân hàng đó biết về việc bảo đảm tiền vay. Việc cho vay được thực hiện khi ngân hàng phát hành có sự xác nhận chính thức và thông báo rằng chứng chỉ tiền gửi được chuyển giao theo cam kết. Chứng chỉ tiền gửi là loại tài sản đảm bảo có độ an toàn tương đối cao do đó mức cho vay so với giá trị đảm bảo cũng cao. Cho vay bảo đảm bằng cổ phiếu, trái phiếu, các loại giấy nợ khác, mức cho vay tuỳ thuộc vào khả năng biến động giá trên thị trường của các loại chứng khoán, như vậy giá trái phiếu kho bạc ít biến động hơn giá trái phiếu công ty, giá trái phiếu ít biến động hơn giá cổ phiếu.. Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc các căn cứ pháp lý khác. Quyền đối với vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật. Tàu biển theo quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố. Tài sản hình thành trong tương lai là động sản hình thành sau thời điểm ký kết giao dịch cầm cố và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố như hoa lợi, lợi tức tài sản hình thành từ vốn vay, các động sản khác mà bên cầm cố có quyền nhận. Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản cầm cố, nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định, trường hợp tài sản cầm cố được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố 1.3.2.1.2. Tài sản thế chấp - Khái niệm. Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ ( bên đi vay) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để đảm bảơ thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền ( bên cho vay).Thế chấp được thiết lập trên bất động sản, do đó tài sản thực hiện không có sự giao tài sản trực tiếp mà thường giao giấy tờ sở hữu tài sản đó mà thôi - Các hình thức thế chấp tài sản: các hình thức thế chấp tài sản bao gồm: Thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai Thế chấp công bằng và thế chấp pháp lý Thế chấp trực tiếp và thế chấp giá._.n tiếp Ngoài các loại hình trên có thể phân chia hình thức thế chấp căn cứ vào mức độ tham gia của bất động sản: Thế chấp toàn bộ: Là hình thức thế chấp trong đó các vật phụ gắn liền với bất động sản cũng được tính vào giá trị của tài sản thế chấp Thế chấp một phần bất động sản: Là hình thức thế chấp trong đó các vật phụ gắn liền với bất động sản không được tính vào giá trị của tài sản thế chấp nếu hai bên không có thoả thuận riêng. - Các loại tài sản thế chấp. a. Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất. b. Giá trị quyền sử dụng đất theo quy định tại nghị định79/NĐ-CP ngày 1/11/2001 của Chính phủ. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, được nhà nước giao hoặc do nhận quyền sử dụng đất hợp pháp được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất để vay vốn hoạt động sản xuất kinh doanh. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được thế chấp giá trị quyền sử dụng đát như nêu ở trên, thì cũng được quyền bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Tổ chức kinh tế được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất khi có một trong các điều kiện sau. + Đất do nhà nước giao có thu tiền. + Đất do nhận chuyển nhượng hợp pháp. + Đất do nhà nước cho thuê mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc cho nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại phải trả trên 1 năm. Riêng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất trong thời hạn thuê đất, thuê lại đất trong trường hợp đã trả trước tiền thuê đất cho nhiều năm, nếu thời hạn thuê đất đã trả tiền còn lại ít nhất 5 năm. Thời hạn cho vay phải phù hợp với thời hạn thuê còn lại. + Trong trường hợp tổ chức kinh tế được nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối hoặc được nhà nước giao cho thuê đất mà trả tiền thuê đất hàng năm thì chỉ được thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất đó Tổ chức kinh tế được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất như đã nêu thì cũng được quyền bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất. c. Tàu biển theo quy định của bộ luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của Luật hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được thế chấp. d. Tài sản hình thành trong tương lai là bất động sản hình thành sau thời điểm ký kết giao dịch thế chấp và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp như hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, công trình xây dựng, các bất động sản khác mà bên thế chấp có quyền nhận. e. Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp thế chấp toàn bộ tài sản có vật phụ thì vật phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu các bên có thoả thuận. Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp. Khi nhận tài sản thế chấp ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng tính hợp phát của tài sản và giữ bản chính giấy cấp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu đối với các tài sản khác. Ngân hàng cần mô tả rõ về tài sản thế chấp trong hợp đồng kinh tế như diện tích, công dụng, đặc điểm, phương tiện …đồng thời phát mại quyền tài sản thế chấp của ngân hàng. Xác định giá trị của các tài sản thế chấp rất quan trọng vì các tài sản thế chấp thường có giá trị lớn, nếu định giá quá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng vay vốn của khách hàng, nhưng nếu định giá quá cao dẫn đến quy mô tài trợ của ngân hàng cho khách lớn. Khi đó nếu khách hàng không trả được nợ thì việc thanh lý tài sản không đủ bù đắp cho ngân hàng dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. 1.3.2.1.3. Tài sản bảo lãnh - Khái niệm: Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc bên thứ ba ( còn gọi là bên bảo lãnh) cam kết với tổ chức tín dụng về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của mình, đối với doanh nghiệp nhà nước là tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Có ba chủ thể tham gia vào quá trình bảo lãnh Hợp đồng tín dụng Chủ nợ ( Ngân hàng) Người đi vay Hợp đồng bảo lãnh Người bảo lãnh Đảm bảo cho vay bằng bảo lãnh khác hẳn đảm bảo dưới các hình thức khác như cầm cố, thế chấp ở chỗ đây là dịch vụ kinh doanh của bên cấp bảo lãnh. Đặc điểm kinh doanh này bắt nguồn từ chính sự chia sẻ rủi ro của bảo lãnh. Ngoài bản thân mục tiêu bảo lãnh là đề phòng người vay được bảo lãnh bị mất khả năng thanh toán, bảo lãnh được các ngân hàng đặc biệt sử dụng vì phí tổn ít, đơn giản có khả năng dàn xếp hợp đồng, có lợi nhất cho chủ nợ về điều khoản hợp đồng bảo lãnh, điều khoản quy định khi người bảo lãnh đứng ra trả tiền Đây là tài sản của bên thứ 3 dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm các loại tài sản như tài sản cầm cố, tài sản thế chấp - Tài sản mà khách hàng vay, bên bảo lãnh dùng để cầm cố thế chấp, bảo lãnh vay vốn tại tổ chức tín dụng phải có đủ các điều kiện sau đây. Tài sản phải thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng vay, bên bảo lãnh theo quy định. Đối với giá trị quyền sử dụng đất, phải thuộc quyền sử dụng của khách hàng vay, bên bảo lãnh được thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật về đất đai. Đối với tài sản của doanh nghiệp nhà nước, thì phải là tài sản do nhà nước giao cho doanh nghiệp đó quản lý sử dụng và được dùng để bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước. Đối với các tài sản khác, thì phải thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay, bên bảo lãnh. Trường hợp tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì khách hàng vay, bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Tài sản được phép giao dịch, tức là tài sản mà pháp luật cho phép hoặc không cấm mua bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và các giao dịch khác. Tài sản không có tranh chấp, tức là tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng vay, bên bảo lãnh tài thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm. Trong văn bản lập riêng hoặc hợp đồng cầm cố thế chấp, bảo lãnh khách hàng vay, bên bảo lãnh phải cam kết với tổ chức tín dụng về việc tài sản cầm cố thế chấp, bảo lãnh không có tranh chấp và phải chịu trách nhiệm về cam kết của mình. Tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng vay, bên bảo lãnh phải mua bảo hiểm tài sản trong thời hạn bảo đảm tiền vay 1.3.2.1.4. Điều kiện đối với tài sản bảo đảm Thứ nhất: Thuộc quyền sở hữu, quyền quản lý sử dụng của khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh. Để chứng minh được điều kiện này, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải xuất trình Giấy chứng nhận sở hữu, quyền quản lý sử dụng tài sản. Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất, khách hàng vay hoặc vên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được thế chấp theo quy định của pháp luật về đất đai. Đối với tài sản mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước quản lý, sử dụng, doanh nghiệp phải chứng minh được quyền được cầm cố thế chấp, hoặc được bảo lãnh tài sản đó. Thứ hai: Thuộc loại tài sản được phép giao dịch. Tài sản được phép giao dịch được hiểu là các loại tài sản mà pháp luật cho phép hoặc không cấm mua, bán, tặng, cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, và các giao dịch khác. Thứ ba: Không có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm. Yêu cầu khách hàng vay, bên bảo lãnh phải cam kết bằng văn bản về việc tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý tài sản đó và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình. Thứ tư: Phải mua bảo hiểm nếu pháp luật có quy định Đối với các tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng phải xuất trình hợp đồng mua bảo hiểm trong thời hạn đảm bảo tiền vay, trong trường hợp nếu khoản vay có thời hạn dài, khách hàng vay và bên bảo lãnh có thể xuất trình Hợp đồng bảo hiểm có thời hạn ngắn hơn song phải cam kết bằng văn bản về việc tiếp tục mua bảo hiểm trong thời gian tiếp theo cho đến khi hết thời hạn đảm bảo. Hiện nay mức độ đảm bảo của tài sản được hiểu là mức độ bù đắp vốn của một tài sản đảm bảo trong trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Mức độ đó được thể hiện qua mối tương quan giữa số tiền cho vay và giá trị tài sản được dùng làm đảm bảo. Hđb = Giá trị của khoản vay Giá trị của tài sản đảm bảo Một món vay có giá trị đảm bảo càng cao thì tỷ lệ càng nhỏ. Nhưng trên thực tế việc xác định mối quan hệ giữa cho vay và chất lượng của tài sản đảm bảo còn phụ thuộc vào các yếu tố như giá trị của tài sản đó trên thị trường, khả năng phát mại của tài sản, tình hình biến động giá cả của tài sản đó trên thị trường mà từ đó ngân hàng có quyết định cụ thể cho khoản vay của mình. Trong phân tích tài chính trong các ngân hàng thương maị có rất nhiều chỉ tiêu được đề cập đến, chỉ tiêu khả năng thanh toán.chỉ tiêu khả năng sinh lời…vv. Trong đó có hai chỉ tiêu liên quan phản ánh hiệu quả của tài sản đảm bảo. *Chỉ tiêu về tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm trên tổng dư nợ: Tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm trên tổng dư nợ = Dư nợ có tài sản bảo đảm * 100% Tổng dư nợ Chỉ tiêu trên cho biết bao nhiêu % dư nợ của tổ chức tín dụng được bảo đảm bằng tài sản. Tỷ lệ này càng cao thì càng tốt nhưng không có nghĩa là mức độ an toàn của nó cao, vì trên thực tế có nhiều khách hàng khi vay vốn, yêu cầu về tài sản đảm bảo rất khó khăn cho họ nhưng bù lại họ có phương án kinh doanh tốt, khả năng chi trả nợ là rất cao. * Chỉ tiêu về khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng trên cơ sở tài sản đảm bảo. Hiện nay chỉ tiêu này mỗi ngân hàng có một mức quy định khác nhau nhưng nhìn chung bao giờ giá trị của tài sản đảm bảo cũng phải lớn hơn số vốn mà ngân hàng cho khách hàng vay, tuy nhiên mức này cũng ở một số lượng vừa phải, nếu quá thấp không đáp ứng được nhu cầu vốn mở rộng sản xuất của khách hàng, nếu qúa cao thì mức độ an toàn của các khoản vay giảm. Vì vậy đây là một chỉ tiêu khá quan trọng phản ánh chất lượng bảo đảm tiền vay của ngân hàng. 1.3.2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay Đây là những loại tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng, là biện pháp cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế việc người vay bán tài sản hình thành từ vốn vay. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay thực chất cũng là bảo đảm bằng cầm cố thế chấp nhưng chỉ khác là tại thời điểm xin vay, giải ngân tài sản đó chưa được hình thành mà tài sản đó được hình thành dần dần trong qúa trình sử dụng vốn. Lúc đó tài sản này mới chính thức trở thành tài sản bảo đảm. Điều kiện đối với khách hàng. Đối với khách hàng vay + Có tín nhiệm đối với tổ chức tín dụng + Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ + Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ, hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật + Có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án Đối với tài sản. + Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định được quyền sở hữu hoặc được giao quyền sử dụng; giá trị, số lượng và được phép giao dịch. Nếu tài sản là bất động sản gắn liền với đất thì phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn thành các thủ tục về đâu tư xây dựng theo quy định của pháp luật. + Đối với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm, thì khách hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng. 1.3.3. Những khó khăn và thuận lợi trong cho vay có bảo đảm bằng tài sản Điều quan trọng để ngân hàng và khách hàng có thể tiếp cận và thực hiện được các quan hệ vay vốn đó là khách hàng phải bảo đảm được ba vấn đề cơ bản, cũng là ba điều kiện tiên quyết: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm của khách hàng; Tình hình tài chính, nguồn thu và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng; bảo đảm khoản vay. Vấn đề bảo đảm tiền vay đã được điều chỉnh bởi một số văn bản pháp lý của Chính phủ, của ngành ngân hàng tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng vận dụng trong công việc. Việc các tổ chức tín dụng nhận tài sản đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng có vốn mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tạo cơ hội cho các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng, mở rộng mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên bên cạnh đó việc nhận tài sản đảm bảo đang gặp không ít những khó khăn, vướng mắc về thủ tục và khả năng thẩm định Khó khăn khi nhận tài sản đảm bảo là máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất. Máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất khi cầm cố thường đã qua quá trình sử dụng, do đó việc định giá đánh giá tài sản này là khó khăn và đòi hỏi tổ chức tín dụng phải kiểm tra đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo, đồng thời phải có khả năng giám sát việc sử dụng tài sản đảm bảo của khách hàng. Đôi khi tổ chức tín dụng phải thuê tổ chức chuyên môn, tổ chức tư vấn xác định. Vì vậy khi đã nhận cầm cố và đặc biệt phải bán thanh lý khi người vay không trả được nợ là rất phức tạp và số tiền bán tài sản thường không thu hồi đủ gôc lãi vay do ít người có nhu cầu mua lại máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất đã qua sử dụng, thời gian bán tài sản kéo dài làm cho tài sản bị hư hỏng, xuống cấp, mất giá. Vấn đề sở hữu và giấy tờ chứng minh quyền sở hữu: Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vấn đề này là đơn giản vì các tài sản dùng thế chấp tài sản đều có giấy tờ hợp pháp để chứng minh quyền sở hữu và những trường hợp giấy tờ pháp lý không đủ thì ngân hàng có thể từ chối cho vay. Nhưng đối với các doanh nghiệp nhà nước thì do lịch sử để lại, các tài sản của doanh nghiệp thường không có các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu cần thiết nhất là nhà cửa , bất động sản… Do đó nhiều doanh nghiệp hiện đang quản lý sử dụng khối lượng tài sản rất lớn nhưng giá trị tài sản đủ điều kiện làm tài sản thế chấp cho ngân hàng là rất ít. Điều này làm cho ngân hàng rất khó khăn trong việc kiểm soát và xử lý tài sản để thu hồi nợ khi bên vay không trả được nợ. Có trường hợp cho vay thế chấp nhà ở đã thực hiện đầy đủ thủ tục thế chấp, có chứng thực của công chứng nhưng sau đó phát hiện nhà này thuộc diện quy hoạch giải toả, người vay không trả được nợ đã bỏ trốn, tổ chức tín dụng không thể xử lý tài sản để thu hồi nợ do Toà án từ chối giải quyết vì lý do không lấy được lời khai của người vay, uỷ ban nhân dân cũng không hỗ trợ trong việc thực hiện thủ tục chuyển nhượng do nhà thuộc diện quy hoạch Thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp bảo lãnh tuy đã có nhiều cải tiến, song việc thực hiện đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất không thống nhất giữa các phòng công chứng. Nguyên nhân xuất phát từ nhiều phía như: Cơ chế chính sách về bất động sản còn quy định nhiều thủ tục rườm rà, không thống nhất, văn bản pháp luật tới cơ quan chức năng của Nhà nước chưa thực hiện đồng bộ. Ví dụ như, đối với thủ tục đăng ký thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải đăng ký tại Sở địa chính và thông qua công chứng đối với tái sản gắn liền với đất. Trong khi đó bất động sản là nhà ở thì chỉ thông qua công chứng. Phòng công chứng chỉ xác nhận chứng thực về tài sản gắn liền với đất không xác nhận tài sản là đất. Như vậy những bất động sản là nhà ở có diện tích khuôn viên lớn hơn diện tích xây dựng khi xử lý tài sản các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn. Thiếu danh mục các loại tài sản mà tổ chức tín dụng có thể nhận thế chấp,cầm cố: Tài sản của doanh nghiệp có thể nhiều nhưng chấp nhận những tài sản nào làm tài sản cầm cố, thế chấp là quyền của NHTM, nhưng nếu có một danh mục các tài sản có thể nhận thế chấp, cầm cố với các tiêu chuẩn rõ ràng, cụ thể thì sẽ tạo cho ngân hàng thuận lợi khi thực hiện, giảm sức ép đối với ngân hàng khi nhận tài sản cầm cố, thế chấp và bảo đảm tài sản cầm cố thế chấp làm đựơc nhiệm vụ của mình là nguồn trả nợ thứ hai, là vòng bảo vệ an toàn thứ hai đối với tổ chức tín dụng Vấn đề chế độ trách nhiệm và sự phối hợp của cơ quan quản lý nhà nước: Thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm quy định khá chặt chẽ, nhưng việc phân công thực hiện các nội dung thì phân tán ở nhiều nơi. Các cơ quan được giao nhiệm vụ không công bố rộng rãi các công việc thuộc thẩm quyền xử lý của mình, các hồ sơ tài liệu khách hàng cần xuất trình để xử lý công việc, mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và chế độ trách nhiệm không được quy định rõ dẫn đến hiện tượng đùn đẩy gây khó khăn cho khách hàng, ngân hàng trong việc hoàn thiện thủ tục cầm cố thế chấp tài sản.Và nếu như bên vay không trả được nợ thì ngân hàng rất khó có thể bán được tài sản thế chấp cầm cố để thu hồi nợ vì các thủ tục để bán khá phức tạp, nhiều việc không thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước, trong khi chức năng và nhiệm vụ chưa được quy định rõ rất khó cho các NHTM khi triển khai thực hiện. Vấn đề xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ, theo quy định các tổ chức tín dụng không được quyền tự bán mà phải bán đấu giá thông qua trung tâm đấu giá, do đó mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ cho ngân hàng, phát sinh nhiều chi phí cho việc đấu giá. Khi xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và bất động sản khi con nợ chây ì, cố tình trì hoãn kéo dài thời gian xử lý tài sản để chiếm dụng vốn của tổ chức tín dụng vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào toà án và các cơ quan luật pháp. Việc thế chấp bằng quyền sử dụng đất tại những địa bàn nông thôn ngoại thành phần lớn là những món vay nhỏ khi quá hạn tổ chức tín dụng đã tìm mọi biện pháp để thu nợ kể cả biện pháp khởi kiện nhưng toà án địa phương không thụ lý với lý do số tiền vay nhỏ nên không thể áp dụng biện pháp kê biên, yêu cầu ngân hàng tự xử lý Khó khăn khác: Hiện nay luật về thị trường bất động sản chưa được ban hành, hệ thống quản lý hành chính về đất đai còn nhiều bất cập, việc ban hành và thực thi những cơ chế chính sách, quy định về bất động sản của các cơ quan chức năng chưa rõ ràng làm cho ngân hàng, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, những người dân lúng túng trong hoạt động đầu tư vào bất động sản làm cho thị trường bất động sản bị chững lại ít sôi động. Chính những cơ chế chính sách của nhà nước đối với các doanh nghiệp đầu tư vào bất động sản chưa thể hiện rõ ràng nền các doanh nghiệp này vẫn chưa ổn định trong việc xây dựng các dự án kinh doanh bất động sản hiệu quả. Vì vậy ngân hàng đầu tư cho vay vào lĩnh vực bất động sản sẽ có nhiều rủi ro hơn cho ngân hàng. CHƯƠNG II  THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÓ TSĐB TẠI TECHCOMBANK THĂNG LONG 2.1. Giới thiệu chung về Techcombank Thăng Long 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam được thành lập ngày 27 tháng 9 năm 1993 theo giấy phép hoạt động số 0040/NH-GP do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 06/08/1993, giấy phép thành lập số 153/QĐ-UB do Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội cấp ngày 04/09/1993 và giấy phép kinh doanh số 055697 do trọng tài kinh tế Hà Nội (nay là Sở kế hoạch Đầu tư thành phố Hà Nội) cấp ngày 07/09/1993. Ngân hàng được thành lập với tên giao dịch là Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam, tên tiếng anh là Vietnam Technological and Commercial Join Stock Bank, viết tắt là Techcombank. Ngân hàng Techcombank được thành lập để tiến hành các hoạt động ngân hàng bao gồm: nhận tiền gửi ngắn, trung và dài hạn từ các tổ chức, cá nhân; cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các tổ chức và cá nhân tuỳ theo tính chất và khả năng nguồn vốn của ngân hàng; thực hịên các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá; cung cấp các dịch vụ cho khách hàng; các dịch vụ ngân hàng khác khi được ngân hàng Nhà nước cho phép. Từ khi thành lập và phát triển cho đến nay, Ngân hàng Techcombank đã đạt được nhiều thành quả lớn trong nhiều mặt. Cho đến nay, tổng số vốn điều lệ của Techcombank đã đạt trên mức 3165 tỷ đồng và với hơn hơn 300 điểm giao dịch trên cả nước. Với sứ mệnh hoạt động của mình là xây dựng ngân hàng Techcombank thành Ngân hàng thương mại đô thị đa năng ở Việt Nam, cung cấp sản phẩm dịch vụ tài chính đồng bộ, đa dạng và có tính cạnh tranh cao cho dân cư và doanh nghiệp nhằm mục đích thoả mãn khách hàng, tạo giá trị gia tăng cho cổ đông, lợi ích và phát triển cho nhân viên và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng. Ngân hàng Techcombank đang phấn đấu đến năm 2010 sẽ thuộc vào ngân hàng đô thị hàng đầu về độ tin cậy, chất lượng và hiệu quả ở Việt Nam. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động của Techcombank Thăng Long Là chi nhánh cấp một đầu tiên của hệ thống Techcombank, Techcombank Thăng Long ra đời có thể coi là chi nhánh khởi đầu cho sự mở rộng phát triển của Techcombank. Ngày 24/4/1996, theo quyết định số 00149/NH-GP của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chi nhánh Techcombank Thăng Long được thành lập tại địa chỉ giao dịch là 193 C3 phố Bà Triệu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tel: +84(4)9760055-56 / Fax: +84(4)9760057 E-mail: thanglong@techcombank.com.vn Hiện tại Techcombank Thăng Long đã được chuyển sang địa chỉ giao dịch mới: 171 Nguyễn Lương Bằng, Quận Đống Đa, Hà Nội Đến nay chi nhánh Techcombank Thăng Long đã có 14 chi nhánh cấp II trên hầu hết các quận tại Hà Nội với hơn 200 cán bộ công nhân viên trẻ, năng động và đầy sáng tạo. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của chi nhánh Techcombank Thăng Long bao gồm các bộ phận: Phó Giám Đốc Giám Đốc Phòng Kế Toán GD&KQ Chi nhánh Cấp II Phòng Hành Chính Phòng Kinh Doanh Phòng Hỗ Trợ Ngân hàng Bán lẻ Ngân hàng Doanh Nghiệp 10 Phòng giao dịch 2.1.3 Các hoạt động chủ yếu của Techcombank Thăng Long 2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn là hai nghiệp vụ quan trọng và chủ yếu của bất kỳ ngân hàng nào. Cho vay được coi là một hoạt động sinh lời cao do đó các ngân hàng luôn tìm mọi cách để huy động được khối lượng tiền lớn. Ngân hàng Techcombank nói chung và Techcombank Thăng Long nói riêng luôn coi hoạt động huy động vốn là hoạt động quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng trong thời gian qua. Bảng 2.1 - Hoạt động huy động vốn của Techcombank Thăng Long Đơn vị: tỷ VNĐ Năm 2004 2005 2006 2007 Tổng vốn huy động 132,95 182,50 210,10 411,29 TGTK của dân cư 33,70 50,20 69,10 188,72 TG của các TCKT 26,01 37,14 53,72 158,20 (Nguồn: Phòng giao dịch Kế toán và Kho quỹ Techcombank Thăng Long) Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tình hình huy động vốn của Techcombank trong những năm qua đều tăng đặc biệt tăng nhanh trong năm 2007. Trong năm 2005, tổng nguồn vốn huy động của Techcombank tăng 49,55 tỷ đồng tương đương tăng 37,3% so với năm 2004, trong đó nguồn vốn huy động từ các TCKT tăng 11,13 tỷ đồng (tương đương tăng 42,79%), khối lượng vốn huy động từ dân cư tăng 16,5 tỷ đồng (tương đương tăng 48,96%). Năm 2006, khối lượng vốn huy động của Techcombank Thăng Long tăng 27,6 tỷ VNĐ tương đương tăng 13,14% so với năm 2005. Như vậy so với năm 2005 thì tốc độ tăng vốn huy động của Techcombank Thăng Long trong năm 2006 tăng ít hơn so với tốc độ tăng nguồn vốn huy động trong năm 2004. Bước sang năm 2007, nguồn vốn huy động của Techcombank Thăng Long có sự tăng trưởng mạnh. Tổng nguồn vốn huy động được trong năm 2007 là 411,29 tỷ đồng trong đó khối lượng vốn huy động từ dân cư chiếm 45,9% tổng vốn huy động, đạt được 97% kế hoạch và huy động từ các tổ chức tín dụng chiếm 38,46% tổng nguồn vốn huy động, đạt 192% kế hoạch đặt ra trong năm. Đạt được sự tăng trưởng như vậy là do trong thời gian qua tốc độ tăng trưởng chung của đất nước đều tăng cao, thu nhập của dân cư từ đó cũng được tăng lên nhanh chóng mà hơn nữa đối tượng khách hàng của Techcombank phần lớn là ở các đô thị lớn. Mặt khác, trong những năm qua, do sự phát triển nhanh chóng của lực lượng lao động đi xuất khẩu lao động nước ngoài nên lượng tiền kiều hối chuyển về Việt Nam tăng lên nhiều. Hơn nữa, trong thời gian qua Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam đã không ngừng cải tiến và đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới đặc biệt là các dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế làm cho khối lượng vốn huy động từ tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp tăng mạnh. Do xu hướng tăng lãi suất chung của hệ thống ngân hàng trong nước buộc Techcombank cũng phải thay đổi mức lãi suất để cạnh tranh với các ngân hàng nên cũng đã làm cho lượng khách hàng gia tăng thêm. Với xu hướng phát triển ngày càng mạnh của nền kinh tế cùng với chiến lược phát triển trong thời gian tới, hoạt động huy động vốn của Techcombank Thăng Long sẽ tiếp tục hứa hẹn nhiều kết quả tốt đẹp. Hoạt động tín dụng Biểu đồ số 2.1: Tổng dư nợ tín dụng của Techcombank TL Biểu đồ số 2.1: Phân loại dư nợ tín dụng năm 2007 Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Chi nhánh năm 2007 Tính đến thời điểm 31/12/2007, tổng dư nợ tín dụng của Techcombank Thăng Long đạt 359,2 tỷ đồng, so với thời điểm cuối năm 2006 tăng 52 tỷ đồng. Trong đó dư nợ tín dụng doanh nghiệp đạt 272,51 tỷ đồng, chiếm 75,9% tổng dư nợ tín dụng; dư nợ tín dụng bán lẻ là 86,69 tỷ đồng, chiếm 24,1% tổng dư nợ tín dụng. Trong cơ cấu tín dụng của Techcombank Thăng Long thì cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu, chiếm hơn 73,8% tổng dư nợ. Có được tỷ lệ này là do trong thời gian qua, hoạt động tín dụng doanh nghiệp của Techcombank Thăng Long phát triển mạnh, khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm gần 85% hạn mức tín dụng doanh nghiệp của Techcombank TL), các doanh nghiệp này vay vốn tại Techcombank TL phần lớn là để thanh toán tiền hàng, đầu tư tài sản lưu động…Vì thế bên cạnh sử dụng sản phẩm tín dụng doanh nghiệp, các doanh nghiệp đến với Techcombank Thăng Long còn sử dụng kèm dịch vụ thanh toán nên hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế của Ngân hàng cũng được phát triển mạnh. Trong dư nợ tín dụng, cho vay VNĐ vẫn chiếm chiếm tỷ trọng đa phần, cho vay ngoại tệ chủ yếu được áp dụng cho các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ như các công ty xuất nhập khẩu, các ngành dịch vụ có nguồn thu ngoại tệ…nên chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu tín dụng của Techcombank Thăng Long. Techcombank có tín dụng ưu đãi cho các công ty xuất khẩu theo chương trình hợp tác với Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và dưới sự chỉ đạo sát sao của Techcombank, hàng tháng Techcombank Thăng Long đã tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Tính đến 31/12/2007 tỷ lệ nợ loại 1 chiếm 95,03%; nợ loại 2 chiếm 2,76%; nợ loại 3 chiếm 0,24%; nợ loại 4 chiếm 0,65% và nợ có khả năng mất vốn chiếm 1,33% tổng dư nợ cho vay. Tổng nợ quá hạn cuối năm 2007 là 7.990.027.396 đồng, hàng tháng Ngân hàng đã tiến hành trích lập dự phòng cho các khoản nợ loại 2-5 nên chất lượng tín dụng được cải thiện đáng kể. 2.2. Thực trạng về tình hình cho vay có tài sản đảm bảo tại Chi nhánh Techcombank Thăng Long 2.2.1. Tình hình cho vay có tài sản bảo đảm của chi nhánh Thăng Long Bất cứ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng cần vốn, đặc biệt hiện nay trong điều kiện các doanh nghiệp rất cần đi tắt đón đầu trong sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy vốn lại càng có ý nghĩa rất quan trọng giúp doanh nghiệp đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế. Sở giao dịch đứng trên tư cách như là một NHTM cũng là một nơi để các doanh nghiệp huy động vốn. Khi cho vay, Chi nhánh phải tuân thủ các quy chế về cho vay, quyết định về đảm bảo tiền vay và giao dịch đảm bảo. Hiện nay căn cứ vào nghị đinh 178/1999/NĐ-CP ra ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, Nghị định 85/2002/NĐ- CP về sửa đổi bổ xung nghị định 178, Quyết định về việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống Techcombank Việt Nam, trong năm qua hoạt động bảo đảm tiền vay tại Chi nhánh đã có những bước chuyển biến đáng kể. Đảm bảo tiền vay là một điều kiện cho vay quan trọng, vì vậy trong quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước, Chi nhánh luôn xác định thực hiện bảo đảm tiền vay là điều kiện không thể thiếu trong quan hệ vay vốn, bảo lãnh và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Bảng 2.2: Doanh số cho vay theo các hình thức bảo đảm Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm Tổng DSCV DSCV có BĐBTS DSCV không có BĐBTS %DSCV có BĐBTS/ Tổng DSCV 2004 1013,783 197,163 861,620 19,4% 2005 1371,625 310,400 1061,225 22.6% 2006 1833,723 610,740 1222,983 33,31% 2007 1682,586 758,227 924,359 45,06% Nguồn: Báo cáo kết quả cho vay của Chi nhánh từ năm 2004- 2007 Vấn đề bảo đảm tiền vay trở thành một vấn đề rất cần thiết đối với công tác bảo toàn vốn và phát triển hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Chi nhánh Thăng Long được thành lập đã lâu, các khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các khách hàng quen,có mối quan hệ làm ăn lâu năm vì thế khoản mục cho vay không có tài sản đảm bảo chiếm khá lớn trong doanh số cho vay của Chi nhánh Thăng Long. Tuy nhiên trong thời gian gần đây do yêu cầu phát triển của nền kinh tế, hội nhập và mở cửa mà qua bảng trên ta thấy Chi nhánh Thăng Long đã chú ý nhiều tới vấn đề tài sản đảm bảo. Doanh số cho vay không có Bảo đảm bằng tài sản tuy chiếm một tỷ trọng lớn nhưng có xu hướng ngày càng giảm, doanh số cho vay có bảo đảm ngày càng tăng từ 19,4% ( 2002); 22.6% (2005); 33,31%(2006) tới 45,06% ( 2007). Có được điều này là do xuất phát từ phương châm đa dạng hoá khách hàng, hoạt động an toàn hiệu quả của Chi nhánh Thăng Long. Trong các loại hình bảo đảm tiền vay bằng tài sản thì hình thức bảo đảm tiền vay hình thành từ vốn vay tuy là hình thức mới song doanh số cho vay cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn trong các loại hình tài sản bảo đảm, tiếp theo đó là thế chấp, cầm cố và bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. 2.2.1.1. Tài sản cầm cố thế chấp của Chi nhánh Thăng Long Trong nghiệp vụ cho vay của các ngân hàng hiện đại, việc thu hồi nợ từ thanh lý tài sản c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7583.doc
Tài liệu liên quan