Mở rộng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Láng Hạ

Danh mục các ký hiệu viết tắt: - Doanh nghiệp vừa và nhỏ- DNVVN - Tài sản cố định- TSCĐ - Tài sản lưu động- TSLĐ - Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn- NHNo&PTNT - Tổ chức tín dụng- TCTD - Ngân hàng thương mại- NHTM MỤC LỤC Trang Lời mở đầu 4 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6 1- Tổng quan về ngân hàng thương mại 6 1.1 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 6 1.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại 10 1.3. Vai trò của

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín dụng ngân hàng đối với DNVVN 18 1.4.. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ 23 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ. 31 I. Tổng quan về Chi nhánh 31 1. Lịch sử hình thành 31 2. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh 34 II- Thực trạng hoạt động Cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ 49 1. Tình hình hoạt động tín dụng tại Chi nhánh(đến 31/12/2006) 49 1.1. Kết quả cho vay, thu nợ, dư nợ 49 1.2. Chất lượng tín dụng: 50 1.3. Tín dụng theo loại hình doanh nghiệp: 51 2. Thực trạng hoạt động cho vay các DNVVN tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ. 52 3. Đánh giá khái quát thực trạng cho vay các DNVVN tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ. 3.1. Thành tựu đạt được. 55 3.2. Hạn chế và nguyên nhân 55 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ. 57 A. Định hướng phát triển hoạt động cho vay của Chi nhánh 57 I. Mục tiêu định hướng hoạt động tín dụng năm 2007. 57 1. Công tác chỉ đạo điều hành: 57 2. Định hướng kinh doanh trong năm 2007: 57 B.Các biệ pháp để mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNVVN 58 1. Thực hiện chiến lược khách hàng toàn diện, cụ thể. 58 2. Đẩy mạnh cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 63 3. Thực hiện chính sách sản phẩm cho vay thu hút khách hàng. 67 4. Thường xuyên tuyên truyền quảng cáo nâng cao uy tín vị thế của chi nhánh. 71 5. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng tại chi nhánh. 72 C. Kiến nghị 72 1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thông Việt Nam 73 2. Kiến nghị Đối với Ngân hàng Nhà nước 73 3. Kiến nghị đối với nhà nước 74 Kết luận 75 LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay nền kinh tế thế giớ nói chung và nền kinh tế nước ta nói riêng đang phát triển rất mạnh mẽ đặc biệt chúng ta đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giơi WTO. Để đạt được những sự phát triển đó có sự đóng góp của các DNVVN. Các DNVVN không những đã tạo thu nhập cho nền kinh tế đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được việc làm cho hàng nghìn lao động. Hơn nữa khu vực kinh tế này là một thành phần rất năng động của nền kinh tế và sự phát triển của thành này cũng là đúng theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng ta. Tuy nhiên do số lượng nhiều và do nhu cầu của nền kinh tế nên hiện nay các DNVVN đang cần nhu cầu về vốn rất lớn do vậy đây là một thị trường rất tiềm năng đối với các ngân hàng thương mại nhưng do những đặc điểm hạn chế của các DNVVN hiện nay các ngân hàng thương mại vẫn chưa quan tâm đúng mức tới thị trường này. Xuất phát từ những lý do đó em đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” làm chuyên đề tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là tìm hiểu về hoạt động cho vay đối với các DNVVN tại Chi nhánh cũng như đánh giá những kết quả đã đạt được và những hạn chế còn vướng mắc, trên cơ sỏ đó đề xuất những giải pháp nhằm mở rộng cho vay hơn nữa đối với các DNVVN Nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng. Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tham khảo chuyên đề được kết cấu thành 3 chương: Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Chương II: THỰC TRẠNG CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ. Chưong III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1- Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 1.1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thưong mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng ngân hàng. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp nhỏ từ người bán rau quả tới người kinh doanh ô tô, ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng cơ bản phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ. Khi kinh doanh và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá dịch vụ, họ thường sử dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử. Và khi cần thông tin tài chính hay cần lập kế hoạch tài chính, họ thường tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh té, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Vậy nói một cách ngắn gọn ngân hàng là gì? Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng vay tiền của người gửi và cho các công ty và cá nhân vay lại. Tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản nợ của ngân hàng. Tiền cho công ty và cá nhân vay lại cũng như tiền gửi ở các ngân các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản có của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động và được và số tiền đem cho vay, gửi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có của ngân hàng thương mại. Phần tài sản có tính thanh khoản được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút ra đột ngột gọi là tỷ lệ dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại: Vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ cộng với lợi nhuận không chia cộng với các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của ngân hàng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: Phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của Ngân hàng, nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài và dự phòng chung cho rủi ro tín dụng. Trên đây chỉ là định nghĩa cơ bản nhất về ngân hàng bởi trên thực tế hiện nay rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giớ chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. 1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại a- Mua bán ngoại tệ Một trong những hoạt động ngân hàng đầu tiên là thực hiện trao đổi( mua bán ) ngoại tệ- một ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một loại tiền khác chẳng hạn JPY và hường phí dịch vụ. Sự trao đổi đó rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia mà họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do ngân hàng lớn thực hiện vì những giao dịch như vậy có rủi ro cao, đồng thời yêu cầ phải có trình độ chuyên môn cao. b- Nhận tiền gửi Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được nhiều tiền nhằm cho vay lại. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi như tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân hộ gia đình và các doanh nghiệp. Để có thể thu hút được các cá nhân hộ gia đình và các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng mình các ngân hàng đã trả lãi cho các khoản tiền gửi và tạo ra các dịch vụ tiện ích khác cho người gửi tiền và đây cũng chính là công cụ để các ngân hàng cạnh tranh với nhau trong việc thu hút tiền gửi. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Tóm lại một ngân hàng muốn phát triển thì việc đầu tiên là phải tìm cách để thu hút nguồn tiền gửi vào ngân hàng vì vậy có thể nói nhận tiền gửi là một trong những hoạt động rất quan trọng của ngân hàng thương mại. c- Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại Chiết khấu thương phiếu và cho vay thưong mại là một trong những hoạt động truyền thống của ngân hàng thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Người bán bán các khoản nợ( khoản phải thu ) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. d- Bảo quản vật có giá Vật có giá như vàng bạc đá quý … và ngay từ thời trung cổ các ngân hàng đã thực hiện việc lưu giữ vật có giá cho khách hàng. Khi lưu giữ các vật có giá ngân hàng sẽ ký phát cho khách hàng một loại giấy biên nhận và giấy biên nhận này sẽ được lưu hành như tiền và đó chính là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vậy có giá cho khách hàng thường do phòng bảo quản của ngân hàng thực hiện. e- Tài trợ các hoạt động của chính phủ Chính phủ các nước vẫn thường có tình trạng có những thời điểm thu không đủ chi tức lá thâm hụt ngân sách và chính phủ phải tìm cách cân bằng ngân sách mà một trong những cách đó là tìm đến các ngân hàng. Nếu ngân hàng nào đó không muốn cho chính phủ vay vì rủi ro lớn thì chính phủ có thể dùng một số đặc quyền của mình để buộc các ngân hàng phải cho vay f- Cung cấp các tài khoản giao dịch Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu và châu Mỹ đã làm cho nền kinh tế thế giới thay đổi một cách mạnh mẽ và cùng với sự phát triển đó trong lĩnh vực ngân hàng cũng đánh dấu một bước phát triển mới bằng sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch một tài khoản cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng vì nhờ nó mà quá trình thanh toán trong kinh doanh được cải thiện làm cho các giao dịch trong kinh doanh dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn h- Các hoạt động khác Ngoái các hoạt động đã được đề cập trên ngân hàng còn hoạt động trên các lĩnh vực khác như bán dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các kế hoạch hưu trí, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp. 1.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại 1.2.1. Các hình thức cho vay phân theo hình thức cấp tín dụng 1.2.1.1.Chiết khấu thương phiếu Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người hưởng thụ) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua( hoặc người phải trả ) nhưng trong trường hợp người bán đang cần tiền mà vẫn chưa đến hạn người mua trả tiền thì họ có thể mang đến ngân hàng để xin được chiết khấu khấu trước hạn. Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và lệ phí chiết khấu. Bên cạnh áp dụng lãi suất chiết khấu (thường chung cho các loại thương phiếu), ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm phần lệ phí chiết khấu đối với những trường hợp cụ thể có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền. Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách, ngân hàng thường ký với khách hợp đồng chiết khấu (cấp cho khách hàng hạn mức chiết khấu trong kỳ). Khi cần chiết khấu, khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngần hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao (trừ trường hợp ngân hàng ký miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp (vì vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng- có tính thanh khoản cao) 1.2.1.2 Cho vay a. Thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng vài tháng trong năm. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời. ví dụ như những người đi du lịch trước khi đi du lịch họ có thể xin thấu chi để trong chuyến đi đề phòng những khoản chi bất thường hoặc khi họ muốn đi tiếp đến một địa điểm du lịch khác mà chưa xác đ ịnh trước Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả: Số lãi phải trả= lãi suất thấu chi * thời gian thấu chi* Số tiền thấu chi Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. b. Cho vay trực tiếp từng lần Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay trong đó mỗi lần vay đối với một khách hàng được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau. Hình thức này được áp dụng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Số lượng cho vay = Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh - Vốn chủ sở hữu tham gia - Các nguồn vốn khác tham gia Trong đó: Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh = Nhu cầu vốn đầu tư cho TSLĐ và TSCĐ - Giá trị tài sản và chi phí không thuộc đối tượng tài trợ của NH Nếu cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo: Số lượng cho vay = Giá trị tài sản đảm bảo x Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo. c. Cho vay theo hạn mức Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức tín dụng của ngân hàng theo đó ngân hàng sẽ thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Có nghĩa là khách hàng có thể vay, trả đối với ngân hàng nhiều lần trong kỳ nhưng không được vay quá hạn mức mà ngân hàng đã cấp cho khách hàng. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay của khách hàng. Ngân hàng sẽ ước lượng và đưa ra hạn mức tín dụng đối với các khách hàng Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trở nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức. Cho vay theo hạn mức cũng là một hình thức tín dụng đơn giản đối với khách hàng tạo điều kiện cho những khách hàng có nhu cầu về vốn thường xuyên để tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sử dụng nó như là vốn lưu động do ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ khi khách hàng cần thì sẽ vay và khi khách hàng có thu nhập ngân hàng sẽ thu nợ. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút. d. Cho vay luân chuyển Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được sử dụng trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng. Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hoá tồn đọng…) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng. e. Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Khi cho vay ngân hàng sẽ phân tích dòng tiền của khách hàng để xác định số tiền gốc và thời gian trả gốc mỗi lần tháng, quý , năm… Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. f. Cho vay gián tiếp Đa số các khoản cho vay của ngân hàng là vay trực tiếp . Tuy nhiên bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Cho vay gián tiếp là hình thức cho vay của ngân hàng trong đó ngân hàng không đứng ra trực tiếp cho vay đối với những người có nhu cầu vay vốn mà thông qua một tổ chức trung gian ví dụ như hội nông dân tập thể, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh… Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra đảm bảo cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, nhiều người phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích, giám sát, thu nợ…). Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình, để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn. g- Cho thêu tài sản: do tài sản cho thêu thường có giá trị lớn khách thường không đủ khả năng mua hoặc nhu cầu sử dụng tài sản của khách hàng không lâu dài nên ngân hàng đi mua tài sản theo nhu cầu của khách hàng và cho thêu lại h - Bảo lãnh ( tái bảo lãnh): Là hình thức cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. 1.2.2 Các hình thức cho vay phân theo thời gian 1.2.2.1. Tín dụng ngắn hạn - Tín dụng ngắn hạn: Là tín dụng có thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của khách hàng. Ngân hàng có thể cho vay dưới hình thức cho vay trực tiếp hoặc cho vay gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không có đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển 1.2.2.2. Tín dụng trung hạn - Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn nhằm đáp ứng nhu cầu về đối với các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghê…Đáp ứng nhu cầu cho nhà nước vay để đầu tư phát triển, hay cho vay đối với người tiêu dùng để thoã mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà của, ô tô… 1.2.2.3. Tín dụng dài hạn - Tín dụng dài hạn: Là tín dụng có thời gian từ 5 năm trỏ lên. Chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp và cho nhà nước khi họ đầu tư vào những phương án cần vốn lâu dài. 1.2.3 Các hình thức cho vay phân loại theo tài sản đảm bảo 1.2.3.1. Cho vay có tài sản đảm bảo - Cho vay có tài sản đảm bảo: Là tín dụng khi vay khách hàng phải có vật bảo đảm có thể là cầm cố hoặc thế chấp tài sản của mình 1.2.3.2. Cho vay không có tài sản đảm bảo - Cho vay không có tài sản đảm bảo: là tín dụng mà khi vay khách hàng không cần phải có tài sản để cầm cố hoặc thế chấp mà chủ yếu dựa vào sự tín nhiệm của ngân hàng và khách hàng. 1.2.4. Các hình thức cho vay phân theo mục đích 1.2.4.1. Cho vay kinh doanh - Cho vay kinh doanh: Là cho vay nhằm mục đích cho sản xuất kinh doanh 1.2.4.2. Cho vay tiêu dùng - Cho vay tiêu dùng: Chủ yếu áp đối với các cá nhân hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn để mua sắm 1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN 1.3.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ a. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiện nay, trên thế giới có nhiều loại hình doanh nghiệp đa dạng và phong phú trong nền kinh tế. Nếu chúng ta căn cứ vào quy mô hoạt động của doanh nghiệp thì chia ra làm hai loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Các tiêu chuẩn để xác định quy mô doanh nghiệp thường được các nước sử dụng đó là: (1) số lượng lao động, (2) tổng nguồn vốn hay tổng tài sản và (3) doanh thu trung bình hàng năm. Tuy nhiên, để có thể đưa ra một khái niệm chính xác về DNVVN là rất khó bởi vì quy mô doanh nghiệp lớn hay nhỏ ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế ở quốc gia đó cũng như mục đích phân loại trong từng thời điểm nhất định. Hơn nữa, cách xác định các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng ngành nghề kinh doanh là khác nhau. Ví dụ như doanh nghiệp công nghiệp có thể coi là nhỏ trong khi một doanh nghiệp thương mại cùng cỡ lại là doanh nghiệp vừa hoặc lớn bởi vì doanh nghiệp công nghiệp cần nhiều lao động hơn. Hiện nay, theo tiểu chuẩn của Ngân hàng Thể giới- WB (World Bank) các doanh nghiệp vừa và nhỏ được chia theo quy mô như sau: Bảng 1: Tiêu chí xác định DNVVN của Ngân hàng Thế giới Loại hình DN Số lao động (người) Doanh thu hàng năm (USD) Tổng tài sản (USD) DN siêu nhỏ 1- 9 <0,1 triệu <0,1 triệu DN nhỏ 10- 49 <3 triệu <3 triệu DN vừa 50- 300 <15 triệu <15 triệu Nguồn: http:// www. Worldbank. org Đây là cách phân loại chung được Ngân hàng Thế giới đưa ra sau khi đã thu thập số liệu về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở hầu hết các quốc gia trên giới. Do đó, chúng ta có thể coi đây là một cách phân loại đáng tin cậy và khá chính xác. Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước phát triển với các nước kém phát triển nên cách phân loại này chỉ còn phù hợp về tiêu chí số lượng lao động. Chúng ta thấy rõ điều này qua ví dụ về phân loại doanh nghiệp trong liên minh các nước Châu Âu (EU) Bảng 2: Tiêu chí xác định các DNVVN của hội đồng Châu Âu Loại hình doanh nghiệp (DN) Số lao động (người) Doanh thu hàng năm (Euros) Tổng tài sản (Euros) DN siêu nhỏ 1- 9 < 2 triệu <2 triệu DN nhỏ 10- 49 < 10 triệu <10 triệu DN vừa 50- 249 < 10 triệu <43 triệu DN lớn >250 > 50 triệu > 43 triệu Nguồn: http:// europa.eu.int Còn ở các nước đang phát triển thì chỉ tiêu này lại khác, chẳng hạn ở Việt Nam các DNVVN bao gồm các doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, hợp tác xã, liên minh hợp tác xã, Doanh nghiệp Nhà nước hoặc hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh theo Nghị định 02/2002/NĐ- CP) có số vốn nhỏ hơn 10 tỷ đồng và số lao động thường xuyên hàng năm không qua 300 người. Vì vậy không có một khái niệm chính xác đối với các DNVVN mà theo tiêu chí đánh giá của từng quốc gia. b. Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Có thể nói các DNVVN là một thành phần kinh tế không thể thiếu trong nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào bởi nó giúp cho những doanh nghiệp không có vốn lớn vẫn có thể hoạt động kinh doanh tồn tại và phát triển trong nền kinh tế. Giải thích điều đó là DNVVN là một thực thể kinh tế mang những đặc điểm riêng không giống bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra một số đặc điểm nổ bật của các DNVVN mang lại cho các doanh nghiệp này những ưu thế nhất định như sau: * Về quy mô nhỏ so với các doanh nghiệp lớn nhưng chính đặc điểm này giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ năng động, linh hoạt, thích ứng kịp thời với những biến động của thị trường, có khả năng tiếp cận và đáp ứng những nhu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực tốt hơn các doanh nghiệp lớn, có thể tận dụng công nghệ kỹ thuật mới kết hợp với sự đa dạng hoá về mặt hàng tạo điều kiện sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường để tăng khả năng cạnh tranh. * Bộ máy tổ chức sản xuất và quản lý không cồng kềnh, phức tạp như trong các doanh nghiệp lớn mà khá đơn giản, gọn nhẹ nên tiết kiệm phần lớn chi phí, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp. * Vốn đầu tư vào khu vực DNVVN thương ít nhưng khả năng thu vốn đầu tư nhanh, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận hàng năm cao. Điều này đã thu hút một số lượng vốn đầu tư đáng kể để hỗ trợ và phát triển các DNVVN. * Do quy mô nhỏ, điều kiện làm việc không tốt bằng ở các doanh nghiệp lớn nên trình độ lao động trong khu vực DNVVN nói chung thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn nhưng tạo điều kiện thu hút số lượng lớn lao động nhàn rỗi trong xã hội đến với các DNVVN, giải quyết tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh các lợi thế đó DNVVN cũng gặp nhiều hạn chế đối với sự phát triển xuất phát từ chính những đặc điểm của lọai hình doanh nghiệp này. Hầu hết vốn chủ sở hữu ở các DNVVN thấp so với các doanh nghiệp lớn, lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư ít nên hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh, áp dụng công nghệ kỹ thuật mới để hiện đại hoá sản xuất. Điều này làm giảm rõ rệt khả năng cạnh tranh của các DNVVN trong việc thoả mãn nhu cầu trên thị trường. Trong khi đó vốn huy động từ thị trường chứng khoán bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu lại khá xa vời do uy tín của các DNVVN thấp, thị trường tài chính không thực sự hoàn hảo làm nhà đầu tư ngần ngại khi bỏ vốn đầu tư, hơn nữa bị hạn chế khi tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng thương mại (NHTM). Nguyên nhân chủ yếu vẫn do vốn thấp, không có người bảo lãnh, không lập phương án kinh doa._.nh khả thi…nên DNVVN thường vay vốn từ bạn bè, họ hàng, chính người lao động trong doanh nghiệp để tiến hành hoạt động nhưng không ổn định. Mặt khác các doanh nghiệp lớn có điều kiện làm việc cũng như các ưu đãi khác tốt hơn (đặc biệt là trả lương cao) nên thu hút nhiều lao động chất lượng cao. Tất yếu một số ít lao động trình độ cao và còn lại có trình độ thấp hơn sẽ về các DNVVN thực tế này giải thích một phần tại sao năng suất lao động trong các DNVVN thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn. Đây cũng là một hạn chế cho sự phát triển của các DNVVN. DNVVN gặp nhiều khó khăn do điều kiện cạnh tranh không bình đẳng khi mà quyền sở hữu trí tuệ và công nghiệp chưa được thực hiện và công nhận một cách nghiêm túc, luôn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp lớn và DNVVN. Trong khi đó, bản thân một số DNVVN không muốn tăng trưởng và phát triển vì sợ mất quyền kiểm soát doanh nghiệp. Do đó, hạn chế đối với các DNVVN không chỉ xuất phát từ bên ngoài mà còn từ chính bản thân bên trong doanh nghiệp. Trên đây là những đặc điểm nỗi bật của DNVVN và chính những đặc điểm đó nó đã tạo ra những ưu điểm và nhược điểm cho các DNVVN. 1.3.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động và phát triển được thì họ luôn cần phải có vốn. Có thể nguồn vốn đó là vốn chủ sở hữu hoặc là vốn vay và hiện nay tín dụng ngân hàng ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng vai trò đó được biểu hiện cụ thể như sau: - Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mở rộng sản xuất theo chiều rộng và theo chiều sâu là yêu cầu khách quan của việc tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với tư cách là một trung tâm tín dụng, các ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng trong việc tích tụ và tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các cơ sở sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, trong các tổ chức văn hoá xã hội và trong các tầng lớp dân cư, trong nước và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, hoặc bù đắp phần vốn thiếu hụt để cho số vốn tự có trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chu chuyển bình thường. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn có các công trình trọng điểm có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. - Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác. Như chúng ta đã biết, trong các ngành sản xuất khác nhau do điều kiện kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý khác nhau, do đó cùng một lượng vốn đầu tư vào các ngành như nhau, nhưng lợi nhuận thu được trong cùng một thời gian không bằng nhau hay nói cách khác có tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Từ đó dẫn đến sự cạnh tranh di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tuy nhiên, việc di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác không phải doanh nghiệp nào muốn là có thể làm được, vì phải có những điều kiện nhất định. Song điều kiện khó khăn nhất, có ý nghĩa quyết định nhất là điều kiện đổi mới vốn cố định, tức là loại bỏ thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất mặt hàng cũ, mua sắm thiết bị kỹ thuật và công nghệ mới để sản xuất mặt hàng mới, cùng với các phương tiện dịch vụ sản xuất mới. Trong trường hợp này, nhiều doanh nghiệp phải dựa vào sự hỗ trợ nguồn vốn của tín dụng ngân hàng. Tóm lại tín dụng ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với DNVVN nói riêng giúp các doanh nghiệp có thể phát triển mở rộng sản xuất. 1.4.. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ Như ta đã biết, chất lượng tín dụng là chỉ tiêu để đánh giá tình hình hoạt động tín dụng của một ngân hàng và có ý nghĩa lớn đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để có thể thực hiện được mục tiêu hoạt động của mình và tìm kiếm lợi nhuận dựa trên chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng mà cụ thể ở đây là hoạt động tín dụng, mỗi ngân hàng phải làm sao để nâng cao được chất lượng tín dụng. Để thực hiện được điều này ta cần nghiên cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, đó là 3 nhóm nhân tố sau đây: 1.4.1. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng và phải phù hợp với khả năng thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Trong các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng trước đến phải kể đến những nhân tố như: Chính sách tín dụng, công tác tổ chức, chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng, quy mô vốn của ngân hàng, thông tin tín dụng, quy trình nghiệp vụ tín dụng… * Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp có liên quan đến việc khuyếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng thương mại đó. Việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng , đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, chấp hành đúng luật pháp và đường lối của ngân hàng Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Bất kỳ một ngân hàng nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thì phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng. Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường chứa đựng nhiều rủi ro. Khi ngân hàng gặp những rủi ro thì có thể đi đến phá sản hoặc bị thiệt hại lớn, mất uy tín với khách hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy khi hoạch định chính sách tín dụng, các nhà hoạch định luôn coi trọng việc đảm bảo mục tiêu phải đạt được do đó có thể nói rằng: Chất lượng tín dụng của ngân hàng có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng ngân hàng có đúng đắn, phù hợp không. *Công tác tổ chức ngân hàng Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban,có sự thống nhất đoàn kết từ trên xuống, từ ban lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên. Điều đó có nghĩa là công tác tổ chức ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa thực hiện tốt công tác này, ngân hàng đã làm cho guồng máy của mình hoạt động một cách uyển chuyển, linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng nên luôn chú trọng công tác này để ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. *Thông tin tín dụng Cho vay không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa nói tới những kẻ mạo danh, mạo nhận là doanh nghiệp để vay vốn trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro và tổn thất cho ngân hàng. Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nắm bắt kịp thời và chính xác luồng thông tin là điều kiện để xem xét, phân tích, nhằm tìm ra cơ hội tốt nhất trong kinh doanh cũng như đề phòng những rủi ro có thể xẩy ra trong hoạt động của ngân hàng. * Chất lượng đào tạo cán bộ ngân hàng. Chất lượng cán bộ là “cơ sở vật chất” để thực hiện những kế hoạch kinh doanh trong cơ chế thị trường thường xuyên thay đổi và có nhiều biến động như hiện nay. Do vậy trong quá trình tuyển chọn cán bộ ngân hàng cần phải ưu đãi những người có tư cách đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, năng động, sáng tạo. Trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng cần thường xuyên tiến hành đào tạo và đào tạo lại cán bộ để cao chất lượng đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ được nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong xử lý những sai sót có thể xảy ra. Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ được đào tạo với chất lượng, trình được chuyên môn giỏi thì việc quản lý thực hiện các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng nói riêng và các nghiệp vụ ngân hàng nói chung sẽ trở nên quy củ, có hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, nó còn giúp cho ngân hàng tránh được các rủi ro có thể xảy ra. *Những vấn đề thuộc về kiểm tra ,thanh tra, kiểm soát Một trong những hoạt động có mục đích cho ngân hàng tránh được những rủi ro, bât trắc có thể xẩy ra thì sẽ dễ dàng dẫn đến sự sụp đổ giải thể của mỗi ngân hàng. Một trong những hoạt động có mục đích cho ngân hàng tránh được những rủi ro đó là công tác kiểm tra, thanh tra ,kiểm soát.Công tác này không chỉ được thực hiện đối với khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay)mà còn được thực hiện đối với bản thân ngân hàng (như quy trình thực hiện cho vay,quá trình quản lý vốn vay ,loại trừ cán bộmất phẩm chất có hiện tượng tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng cũng đồng thời là ngân hàng phải kịp phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luậtcó ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng .Muốn vậy ,việc đào tạo đọi ngũ cán bộ có năng lực trình độvà trách nhiệmthực hiện công tác kiểm tra ,thanh tra,kiểm soát là một vấn đề mà không ngân hàng nào coi nhẹ. 1.4.2. Nhân tố thuộc về khách hàng Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanhnên chất lượng tín dụng được đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý.thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản ,thuận lợi,thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn bảo đảm ngyên tắc tín dụng Đối với những khách hàng gửi tiết kiệm hoặc sử dụng các dịch vụ của ngân hàng họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản lãi vay từ tiền gửi hay các dịch vụ thanh toán tiện lợi,do đó sự tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng sẽ tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động. Đối với những khách hàng có nhu cầu về vốn họ tìm đến ngân hàng và họ mong muốn được đáp ứng tốt nhu cầu vốn của họ phù hợp với kế hoạch kinh doanh của khách hàng *Yếu tố con người Nhân tố con người : bao gồm đạo đức của khách hàng ,mục tiêu kinh doanh,nhiệm vụ , động cơ của người vay … Những thông tin sai trái của người vay là một dấu hiệu nguy hiểm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả của người vay . Một nhân tố khác không kém phần quan trọng là tính quyết tâm và năng lực trong kinh doanh của khách hàng. Một người vay có tính quyết tâm cao sẽ là một điều kiện giúp cho phương án kinh doanh có thể thắng lợi từ đó có nguồng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn và đầy đủ,chất lượng tín dụng của ngân hàng sẽ được đảm bảo và uy tín của ngân hàng được nâng cao. *Uy tín và khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng Ngân hàng sẽ chỉ đồng ý cho vay nếu khách hàng chứng tỏ được khả năng tài chính của mình đối với ngân hàng. Ngân hàng không dám mạo hiểm cho vay đối với khách hàng nào mà uy tín bị giảm sút, khả năng tài chính đang có vấn đề. Vì vậy tài sản đảm bảo là một đòi hỏi của ngân hàng để đáp ứng cho nguồn trả nợ thứ hai bổ sung cho món vay. Giá trị tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền mà khách hàng được vay, vì ngân hàng căn cứ vào giá trị tài sản đảm bảo để xác định số tiền cho vay tối đa chỉ được 70% giá trị tài sản đảm bảo (nếu như không có quy định khác). * Tính khả thi của dự án vay vốn Khi dự án có khả thi thì các cán bộ sẽ dựa vào đó để quyết định cho vay, quy mô tín dụng nhờ đó sẽ được mở rộng. Đây còn là yếu tố ảnh hưởng đến chât lượng món vay, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Mặt khác, nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc sử dụng vốn vay ngắn hạn cho đầu tư sản xuất cố định hoặc kinh doanh bất động sản thì sẽ không thu hồi kịp vốn để hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động tín dụng. 1.4.3. Những nhân tố khách quan *Môi trường kinh tế Để ngân hàng có thể huy động được nhiều vốn mở rộng hoạt động tín dụng phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì cần có một nền kinh tế ổn định. Một nền kinh tế phát triển ổn định, sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình, làm giá cả luôn giữ mức ổn định, tránh được tình trạng lạm phát hoặc giảm phát… Ngân hàng sẽ khó tránh khỏi rủi ro nếu nền kinh tế không ổn định, chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường bị suy thoái, sản xuất bị đình trệ, kinh doanh bị thu hẹp thì nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn tín dụng đã được thực hiện thì cũng khó có thể thực hiện có hiệu quả hay khó có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh SXKD được mở rộng dẫn đến nhu cầu về vốn tăng, từ đó chất lượng tín dụng được nâng lên, giảm bơt rủi ro tín dụng. Như vậy, chu kỳ kinh tế ảnh hưởng nhiều đến Ngoài ra, các chính sách và sự điều tiết của các cơ quan có thẩm quyền ở mỗi ngành, mỗi vùng đều có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. * Môi trường chính trị- xã hội Khách hàng và ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cở sở tín nhiệm giữa hai bên. Vì vậy sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Uy tín của ngân hàng trên thị trường ngày càng cao thì sẽ thu hút được lượng khách hàng ngày càng đông. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa ngân hàng và khách hàng là nhân tố không kém phần quan trọng quyết định tới quy mô, phạm vi hoạt động của mối ngân hàng, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Nhân tố chính trị cũng có ảnh hưởng khá nhiều tới hoạt động tín dụng. Thật vậy mỗi quốc gia không có sự biến động về chính trị hay không xảy ra chiến tranh là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài bởi họ không chỉ quan tâm tới lợi nhuận mà còn chú trọng tới an toàn của vốn đầu tư. Tình hình kinh tế chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đất nước. Riêng đối với ngân hàng, nó có ảnh hưởng tới việc huy động, cho vay và đầu tư vốn của ngân hàng. Điều đó có ý nghĩa là nhân tố này ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. *Môi trường pháp lý Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ một nền kinh tế nào. Không có pháp luật hoặc các chính sách ban hành không phù hợp sẽ khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, nếu hệ thống pháp luật ban hành không đầy đủ, không đồng bộ, các văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn trong khi thực hiện và chưa thật phù hợp với các ban ngành, các đơn vị có liên quan đến hoạt động tín dụng thì có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động SXKD của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Nó còn là cơ sở pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Các DN cũng như ngân hàng phải tuân thủ những quy định nghiêm chỉnh của pháp luật thì hiệu quả và lợi ích sẽ được đảm bảo. Môi trường pháp luật này luôn được điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hơn để nó ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng. * Các nhân tố khác Ngoài những nhân tố nêu trên, hiệu quả của công tác cho vay của ngân hàng còn chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố chủ quan, khách quan khác như: thái độ phục vụ khách hàng, đạo đức xã hội, trang thiết bị phục vụ hoạt động hay những yếu tố môi trường như thời tiết, dịch bệnh… và các biện pháp trong bảo vệ môi trường sinh thái. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ. I.Tổng quan về Chi nhánh 1 Lịch sử hình thành Năm 1996 hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mới, cùng với các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh khác, hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp đã góp phần không nhỏ đáp ứng yêu cầu cung cấp vốn cho các thành phần kinh tế trên mọi miền đất nước mà đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Quyết định số 280/QĐ- NHNN ngày 15/11/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam hoạt hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam được xác định thêm nhiệm vụ: Đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đứng trước tình hình nhiệm vụ, xây dựng ngân hàng trong giai đoạn mới đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đất nước sau 10 năm đổi mới, đòi hỏi các tổ chức tín dụng cần phải đa năng hơn trong hoạt động kinh doanh nhằm tạo lợi thế cạnh tranh, góp phần thúc đẩy nhanh quà trình phát triển bền vững đổi mới kinh tế đươi ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII- Đại hội Đảng lần thứ hai trong giai đoạn đổi mới nền kinh tế đất nước. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị ngành Ngân hàng quyết tâm xây dựng và củng cố tiếp tục đưa toàn hệ thống không ngừng lớn mạnh, không những đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước tại các khu vực đô thị, mà còn chủ động được nguồn vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam đã thể hiện định hướng chiến lược có ý nghĩa quan trọng trong những tháng cuối năm 1996 là: Củng cố và giữ vững thị trường nông thôn, tiếp cận nhanh và từmg bước chiếm lĩnh thị phần tại thị trường thành thị, phát triển kinh doanh đa năng, hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước. Từ thực tiễn trên, cùng với việc ra đời của một số Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tại các thành phố lớn, khu đô thị và trung tâm kinh tế trên mọi miền đất nước trong giai đoạn 1996-1997. Ngày 1/8/1996 tại quyết định số 334/QĐ- NHNo-02 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát Nông thôn Láng Hạ được thành lập và chính đi vào hoạt động từ 17/3/1997. Đồng chí Kiều Trọng Tuyến, nguyên phó giám đốc sở giao dịch I ( nay là chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thăng Long) được cử giữ chức Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Láng Hạ. Các đồng chí Lê Hồng Phong- nguyên trưởng phòng Thanh toán Quốc tế chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Nội; Nguyễn Mạnh Tiến- nguyên phó trưởng phòng thư ký pháp chế Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, trợ lý Tổng giám đốc được cử giữ chức phó giám đốc chi nhánh. Đồng chí Ngô Quốc Ninh- Trưởng phòng kinh tế kế hoạch Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Sơn La được cử giữ chức phó trưởng phòng, phụ trách phòng kế hoạch kinh doanh. Đồng chí Trần xuân Đạo chuyên viên ban tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam được cử giữ chức phó trưởng phòng kế hoạch kinh doanh. Đồng chí Cao Thị Hạnh- chuyên viên Ban Hạch toán kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam là phó phòng, phụ trách phòng kế toán ngân quỹ. Đồng chí Đậu Thị Quý- nguyên trưởng quỹ tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam được cử giữ chức vụ phó trưởng phòng kế toán ngân quỹ- phụ trách bộ phận ngân quỹ. Tổng số cán bộ viên chức Chi nhánh Láng Hạ ban đầu chỉ có 13 người( từ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Nội, Sở giao dịch I về nhận nhiệm vụ. Biên chế tổ chức của chi nhánh ban đầu gồm Ban giám đốc( 3 đồng chí) có 2 phòng chức năng là kế hoạch kinh doanh và kế toán ngân quỹ. - Phòng kế hoạch kinh doanh có 7 người vừa thực hiện nhiệm vụ tín dụng, kế hoạch vừa làm các công việc của Hành chính- Tổ chức cán bộ( chưa có bộ phận kiểm tra kiểm toán nội bộ) - Phòng kế toán ngân quỹ gồm 3 người: Về tổ chức Đảng, chi nhánh thành lập một chi bộ gồm 5 Đảng viên do đồng chí Kiều Trọng Tuyến- Giám đốc là Bí thư chi bộ, đồng chí Lê Hồng Phong- phó giám đốc là phó bí thư chi bộ( các Đảng viên là: Nguyễn Mạnh Tiến, Cao Thị Hạnh, Đậu Thị Quý). - Ngày 18/3/1997 lễ công bố quyết định thành lập Chi nhánh Láng Hạ được tổ chức tại trụ sở 44 Láng Hạ( nay là 24 Láng Hạ- Quận Đống Đa- Hà Nội). Sự ra đời của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Láng Hạ là bước mở đầu cho sự phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam tại các địa bàn đô thị, khu công nghiệp và trung tâm kinh tế trên mọi miền đất nước, thể hiện hướng đi đúng trong bước phát triển tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam. Sự ra đời của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Láng Hạ( gọi tắt là Chi nhánh Láng Hạ) trong giai đoạn này đã góp phần không nhỏ làm cho quy mô và phạm vi hoạt động cũng như năng lực vị thế của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp trên địa bàn thủ đô được mở rộng và nâng cao thêm, đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh trong giai đoạn mới, giai đoạn khắc phục khó khăn khách quan và chủ quan, ổn định phát triển mạnh mẽ theo hướng Ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam, tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên thế giới Ngày 17/3/1997 ngày thành lập Chi nhánh Láng Hạ đã trở thành ngày truyền thống khơi nguồn lịch sử cho lớp lớp cán bộ kế tiếp nhau trưởng thành. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, Ban tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, tập thể cán bộ viên chức Chi nhánh đã chung sức đồng lòng cùng các Chi nhánh khác trong toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp góp sức xây dựng Ngân hàng không ngừng lớn mạnh, đủ sức đảm đương nhiệm vụ trong hoạt động kinh doanh trên địa bàn theo định hướng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. 2. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh 2.1. Cơ cấu tổ chức SƠ ĐỒ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHI NHÁNH NHNO&PTNT LÁNG HẠGIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC PHÒNG KẾ TOÁN NQ PHÒNG TIN HỌC PHÒNG H.CHÍNH Q. TRỊ PHÒNG TCCB&ĐT PHÒNG TÍN DỤNG PHÒNG NG.VỐN & KH-TH PHÒNG THẨM ĐỊNH TỔ KTKT NB PHÒNG KDNT& TTQT TỔ NG. VỤ THẺ TỔ TIẾP THỊ CN. BÁCH KHOA PHÒNG KTNQ PHÒNG TÍN DỤNG PHÒNG HÀNH CHÍNH PHÒNG GD. SỐ 4 PHÒNG GD. SỐ 9 CN. MỸ ĐÌNH PHÒNG KTNQ PHÒNG TÍN DỤNG PHÒNG HÀNH CHÍNH PHÒNG GD. SỐ 2 PHÒNG GD. SỐ 3 PHÒNG GD. SỐ 5 PHÒNG GD. SỐ 6 PHÒNG GD. SỐ 7 PHÒNG GD. SỐ 8 PHÒNG GD. SỐ 10 PHÒNG GD. SỐ 11 2.2 Chức năng các phòng, tổ thuộc chi nhánh 2.2.1) Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp Phòng Nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp có các chức năng nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu, đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn tại địa phương - Xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, trung và dài hạn theo định hướng kinh doanh của NHNo& PTNT Việt Nam. - Tổng hợp, theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh. - Cân đối nguồn vốn, sử dụng vốn và điều hoà vốn kinh doanh. - Tổng hợp, phân tích hoạt động kinh doanh quý, năm. Dự thảo các báo cáo sơ kết, tổng kết. - Đầu mối thực hiện thông tin phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng. - Tổng hợp, báo cáo chuyên đề theo quy định. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc chi nhánh giao 2.2.2) Phòng tín dụng Phòng tín dụng có các nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm, mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. - Phân tích kinh tế theo ngành, nghề kinh tế kỹ thuật, danh mục khách hàng lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao. - Thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền. - Thẩm định các dự án, hoàn thiện hồ sơ trình ngân hàng cấp trên theo phân cấp uỷ quyền. - Tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong nước, nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn thuộc chính phủ, bộ, ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. - Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc phục. - Giúp giám đốc chi nhánh chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín dụng của các chi nhánh trực thuộc trên địa bàn. - Tổng hợp, báo cáo và kiểm tra chuyên đề theo quy định. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh giao 2.2.3) Phòng thẩm định Phòng thẩm định có những nhiệm vụ sau đây: - Thu thập, quản lý, cung cấp những thông tin phục vụ cho việc thẩm định và phòng ngừa rủi ro tín dụng. - Thẩm định các khoản vay do giám đốc chi nhánh quy định. - Tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định. - Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo theo quy định. - Thực hiện công viêc khác do giám đốc chi nhánh giao 2.2.4) Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế có những nhiệm vụ sau đây: - Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ( mua- bán, chuyển đổi ) thanh toán quốc tế trực tiếp theo quy định. - Thực hiện công tác thanh toán quốc tế thông qua mạng SWIFT NHNo&PTNT Việt Nam. - Thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh ngoại tệ có liên quan đến thanh toán quốc tế. - Thực hiện các dịch vụ kiều hối và chuyển tiền, mở tài khoản khách hàng nước ngoài - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. 2.2.5) Phòng kế toán- Ngân quỹ Phòng kế toán- Ngân quỹ có những nhiệm vụ sau đây: - Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam. - Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu, chi tài chính, quỹ tiền lương trình Ngân hàng cấp trên phê duyệt. - Quản lý sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của NHNo&PTNT trên địa bàn. - Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định. - Thực hiện các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo luật định. - Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước. - Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định. - Quản lý, sử dụng thiết bị thông tin, điện toán phục vụ nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. - Chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề. - Thực hiện các nhiệm khác do giám đốc chi nhánh giao. 2.2.6) Phòng tin học Phòng tin học có nhiệm sau đây - Tổng hợp, thống kê và lưu trữ số liệu, thông tin liên quan đến hoạt động của chi nhánh. - Sử lý các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hạch toán kế toán, kế toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ và tín dụng và các hoạt động khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh. - Chấp hành chế độ báo cáo, thống kê và cung cấp số liệu, thông tin theo quy định. - Quản lý, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc, thiết bị tin học - Làm dịch vụ tin học - Thực hiện các nhiệm vụ được giám đốc chi nhánh giao. 2.2.7) Phòng Hành chính- Quản trị Phòng Hành chính- Quản trị có nhiệm vụ sau đây. - Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quý của chi nhánh và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được giám đốc chi nhánh phê duyệt. - Xây dựng và triển khai chương trình giao ban nội bộ chi nhánh. Trực tiếp làm thư ký tổng hợp cho Giám đốc NHNo&PTNT. - Tư vấn pháp chế trong việc thực thi các nhiệm vụ cụ thể về giao kết hợp đồng, hoạt động tố tụng, tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành chính liên quan đến cán bộ, nhân viên và tài sản của chi nhánh. - Thực thi pháp luật có liên quan đến an ninh, trật tự, phòng cháy, nổ tại cơ quan. - Lưu trữ các văn bản pháp luật có liên quan đến ngân hàng và văn bản định chế của NHNo&PTNT Việt Nam. - Đầu mối giao tiếp với khách đến làm việc, công tác tại chi nhánh. - Trực tiếp quản lý con dấu của chi nhánh; thực hiện công tác hành chính, văn thư, lễ tân, phương tiện giao thông, bảo vệ, y tế của chi nhánh. - Thực hiện công tác xây dựng cơ bản, sửa chữa TSCĐ, mua sắm công cụ lao động; quản lý nhà tập thể, nhà khách của cơ quan - Đầu mối trong việc chăm lo đời sống vật chất, văn hoá- tinh thần và thăm hỏi ốm, đau, hiếu , hỷ cán bộ, nhân viên. - Thực nhiệm vụ khác được Giám độc chi nhánh giao. 2.2.8) Phòng Tổ chức cán bộ và Đào tạo Phòng Tổ chức cán bộ và Đào tạo có những nhiệm vụ sau đây: - Xây dựng quy định lề lối làm việc trong đơn vị và mối quan hệ với tổ chức Đảng, Công đoàn, chi nhánh trực thuộc - Đề xuất mở rộng mạng lưới kinh doanh trên địa bàn. - Đề xuất định mức lao động, giao khoán quỹ tiền lươg theo quy chế khoán tài chính của NHNo&PTNT Việt Nam. - Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, đề xuất cử cán bộ, nhân viên đi công tác, học tập trong và ngoài nước. Tổng hợp, theo dõi thường xuyên cán bộ, nhân viên được quy hoạch, đào tạo. - Đề xuất, hoàn thiện và lưu trữ hồ sơ theo đúng quy định của Nhà nước, Đảng, Ngân hàng nhà nước trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, nhân viên trong phạm vi phân cấp uỷ quyền của tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. - Trực tiếp quản lý hồ sơ cán bộ và hoàn tất hồ sơ cán bộ nghỉ hưu, nghỉ chế độ theo quy định của nhà nước, của ngân hàng. - Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng của chi nhánh. - Chấp hành công tác báo cáo thống kê, kiểm tra chuyên đề. - Thực hiện các nhiệm vụ do giám đốc giao. 2.2.9) Tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ Tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ có những nhiệm vụ sau đây: - Xây dựng chương trình công tác năm, quý phù hợp với chương trình công tác kiểm tra, kiểm toán của NHNo&PTNT Việt Nam và đặc điểm cụ thể của đơn vị mình. - Tuân thủ tuyệt đối sự chỉ đạo nghiệp vụ kiểm tra, kiểm toán. Tổ chức thực hiện kiểm tra, kiểm toán theo đề cương, chương trình công tác kiểm tra, kiểm toán của NHo&PTNT Việt Nam và kế hoạch của đơn vị, kiểm toán nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32122.doc
Tài liệu liên quan