Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Đối với mỗi quốc gia trên thế giới nói chung tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên khi xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển nền kinh tế. Đây cũng là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ của quốc gia đó trong mỗi giai đoạn cụ thể. Việt Nam là một nước đang phát triển, với mong muốn hội nhập kinh tế quốc tế, khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, tận dụng những lợi thế so sánh để xây dựng một nền kinh tế ổn định, phát triển, nhanh chóng đuổi kịp các nướ

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c phát triển thì tăng trưởng và phát triển kinh tế còn đóng vai trò quan trọng hơn. Tuy nhiên, chỉ với việc phát huy nội lực, sử dụng hiệu quả những lợi thế trong nước như lực lượng lao động đông đảo, chi phí rẻ ; nguyên nhiêu vật liệu … thì không thể đạt được mục tiêu tăng trưởng và hướng tới phát triển bền vững được. Với tình trạng thiếu vốn, khoa học công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực không có chất lượng thì việc thu hút đầu tư trong nước đặc biệt là đầu tư nước ngoài là một chìa khóa giúp chúng ta giải quyết những vấn đề trên. Những năm gần đây đặc biệt là giai đoạn 2001-2008 Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, đặc biệt là năm 2007 với tốc độ tăng trưởng ở mức 8,48 % một con số ấn tượng. Nhưng từ cuối năm 2007, nền kinh tế thế giới có những dấu hiệu của một cuộc suy thoái, rất nhiều nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật đều có dấu hiệu suy giảm nền kinh tế. Việt Nam cũng không tránh khỏi ngoại lệ, với tốc độ tăng trưởng năm 2008 đạt 6.23 %. Để nhanh chóng khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế, ổn định đời sống cho nhân dân, tiếp tục thực hiện những mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển nền kinh tế.Chúng ta cần chú trọng vào những nhân tố tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, để nhanh chóng bước ra khỏi cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu hay đơn giản hơn chỉ là ổn định kinh tế trong nước và đầu tư chính là một nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng tác động đến đầu tư, tạo điều kiện thu hút đầu tư phục phụ những mục tiêu đề ra. Mối quan hệ đó có tính chất tương quan tác động lẫn nhau. Chính vì mục đích đó, chúng tôi lựa chọn đề tài : “Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế”, với mục đích tìm hiểu , phân tích mối quan hệ đó trong lý thuyết và thực tiễn. Qua đó chúng em muốn liên hệ với thực trạng của nước ta hiện nay để đề xuất một vài giái pháp về đầu tư cũng như về tăng trưởng và phát triển. Trong quá trình thực hiện đề án do vốn kiến thức còn hạn hẹp, khả năng trình bày còn chưa rõ ràng ,còn rất nhiều thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để hoàn thiện bài viết. Chúng em xin chân thành cảm ơn của PGS-TS Từ Quang Phương và TS Phạm Văn Hùng đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này. Nhóm 3 Chương 1: Lý thuyết về đầu tư,tăng trưởng và phát triển I. Sơ lược về đầu tư,tăng trưởng,phát triển. 1. Đầu tư 1.1.Khái niệm Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu được các kết quả,thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. 1.2.Phân loại đầu tư Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước; một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, một vấn đề trong cuộc sống được mọi gia đình, mọi cá nhân quan tâm khi có điều kiện nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình. Bản chất thuật ngữ “đầu tư” là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh sự chi phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao động,...) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn (các chi phí đã bỏ ra) trong tương lai (như thu về được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra, có thêm nhà máy, trường học, bệnh viện, máy móc thiết bị, sản phẩm được sản xuất ra,... tăng thêm sức lao động bao gồm cả số lượng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sức khoẻ). Trong các kết quả trên đây có loại chỉ có ý nghĩa trực tiếp ở phạm vi hẹp đối với bản thân người đầu tư, có loại lại có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với cá nhân người đầu tư mà còn quan trọng đối với cả nền kinh tế của đất nước.Do đó,ta có thể chia Đầu tư thành các loại: * Đầu tư tài chính Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài chính nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho Công ty thì đây lại là đầu tư phát triển nếu được Nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do Nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. * Đầu tư thương mại Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung (chúng ta cần lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất, nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó khăn cho việc quản lý lưu thông phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng chi của người tiêu dùng). * Đầu tư phát triển Xét về bản chất chính là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài sản mới cho mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại, bổ sung tài sản và tăng thêm tiềm lực của mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Trong các hình thức đầu tư trên,đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của hoạt động đầu tư,là cơ sở,là tiền đề,mang vai trò quan trọng nhất. 2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế 2.1. Tăng trưởng kinh tế 2.1.1. Khái niệm : Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định(thường là 1 năm). 2.1.2. Bản chất Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập,sự gia tăng này thể hiện ở cả quy mô và tốc độ.Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít,còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kì.Thu nhập của nền kinh tế có biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị.Thu nhập bằng giá trị qua các chỉ tiê GDP,GNI và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người.Như vậy,bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. 2.1.3. Yêu cầu của tăng trưởng Ngày nay,yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao.Theo khía cạnh này,điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục,có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. 2.2. Phát triển 2.2.1.Khái niệm Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế.Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng về chất,nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoản thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. 2.2.2.Nội dung của phát triển kinh tế. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo 3 tiêu thức: Một là,sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia gia tăng thu nhập bình quân trên một đầu người.(Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đối về lượng của nền kinh tế,là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của quốc gia và thể hiện những mục tiêu khác của phát triển). Hai là,sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế.(Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế một quốc gia.Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau,người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được). Ba là,sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. 2.2.3. Mục tiêu của phát triển Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà là việc xóa bỏ đói nghèo,suy dinh dưỡng,sự tăng lên của tuổi thọ bình quân,khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế,nước sạch,trình độ dân trí giáo dục của quảng đại quần chúng...Để làm được điều đó,cần có một kế hoặc,quá trình phát triển bền vững,phát triển có sự kết hợp hài hòa,chặt chẽ,hợp lý giữa 3 mặt của sự phát triển:tăng trưởng kinh tế,cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. 2.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên thế giới , là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của các quốc gia. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển. Tăng trưởng kinh tế với bản chất là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Đó là sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Trong khi đó phát triển kinh tế lại là sự tăng tiến của nền kinh tế về mọi mặt. Đó được xem là quán trình biến đổi cả về lượng và chất của nền kinh tế, nó là sự kết hợp của quá trình hoàn thiện hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế theo cách hiểu toàn diện như trên được đánh giá qua 3 tiêu thức: Tăng trưởng kinh tế Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Sự thay đổi trong các chỉ tiêu xã hội. Như vậy tăng trưởng kinh tế chưa chắc đã là phát triển kinh tế trong khi phát triển kinh tế bao hàm tăng trưởng kinh tế. Chỉ khi tăng trưởng kinh tế trong thời gian dài, kết hợp với sự thay đổi trong cả kinh tế và xã hội mới tạo nên sự phát triển kinh tế. Như vậy cần phải đảm bảo, duy trì tăng trưởng ổn định, kết hợp với cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, đó chính là mục tiêu của phát triển kinh tế bền vững. Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm về phát triển bền vững trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2010: “Phát triển nhanh, hiệu quả đi đôi với thực hiện tiến bộ , công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”, gắn với sự phát triển kinh tế với giữ vững ổn định chính trị- xã hội. II. Mối quan hệ,tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1. Vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư và vai trò của nó đến tăng trưởng kinh tế là vấn đề mà rất nhiều nhà kinh tế nghiên cứu trên lý thuyết cũng như sử dụng thực tiễn để phân tích và chứng minh sự tác động này. Để đạt được tăng trưởng ổn định với tốc độ cao và chất lượng tốt đã là một bài toán khó với những người điều hành nền kinh tế, nhưng từ mức tăng trưởng đó, đạt được sự phát triển kinh tế theo mục tiêu đã đặt ra cần phải xem xét trên nhiều khía cạnh, mang tính tổng hợp cao. Theo đó để xem xét sự tác động của đầu tư đến phát triển kinh tế, chúng ta phải xem xét ở 3 khía cạnh: Đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư và sự thay đổi trong các chỉ tiêu xã hội. 1.1. Đầu tư tác động đến tổng cung,tổng cầu của nền kinh tế 1.1.1.Tác động đến tổng cầu. Yếu tố liên quan trực tiếp đến đầu ra của nền kinh tế chính là khả năng chi tiêu,sức mua,và năng lực thanh toán,tức tổng cầu của nền kinh tế.Theo Kinh tế vĩ mô,có 4 yếu tố trực tiếp cấu thành tổng cầu:Tiêu dùng của cá nhân(C),tiêu dùng của chính phủ(G),đầu tư(I),xuất nhập khẩu(NX).Trong đó,đầu tư là một yếu tố lớn,chiếm tỷ trong cao trong tổng cầu của nền kinh tế.Theo số liệu cung cấp của Ngân hàng thế giới,đầu tư chiếm khoảng 26% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Ta có mô hình tổng cầu: AD=C+I+G+NX Vậy đầu tư tác động đến tổng cầu thế nào?Theo quan điểm của các nhà kinh tế nghiên cứu kinh tế vĩ mô,đầu tư tác động đến tổng cầu và thể hiện rõ ràng trong ngắn hạn.Họ lý giải như sau:khi tổng cung chưa kịp thay đổi,một sự thay đổi của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu thay đổi(với điều kiện các yếu tố khác không đổi).Đầu tư giảm sẽ làm cho tổng cầu bị giảm sút.Điều này gây lãng phí rất lớn cho các yếu tố nguồn lực của quốc gia đã có nhưng không được huy động,làm hạn chế tăng trưởng.Còn ngược lại,đầu tư quá mức,làm cho tổng cầu quá cao sẽ làm cho kinh tế tăng trưởng nóng.Tuy nhiên,cái giá phải trả cho điều đó là giá cả các yếu tố nguồn lực trở nên đắt đỏ,từ đó đẩy mức giá chung của nền kinh tế lên,gây ra lạm phát và kéo theo nhiều bất ổn trong nền kinh tế.Hình ảnh nền kinh tế Trung Quốc vài năm gần đây là hình ảnh minh họa cụ thể. Đồ thị sau sẽ minh họa tác động của đầu tư tới tổng cầu khi tăng đầu tư: P S E1 P1 P0 E0 (1) D’ D Q0 Q1 Q Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên, điều đó có nghĩa là nhu cầu chi tiêu mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, phương tiện giao thông vận tải, vật liệu xây dựng …cũng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu chuyển dịch. Đường cầu D dịch chuyển sang D’,kéo sản lượng cân bằng tăng theo,từ Q0 sang Q1 và giá cả các yếu tố đầu vào tăng từ P0 lên P1.Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.Như vậy nhờ có sự thay đổi trong đầu tư ( xét trong điều kiện các yếu tố khác không đổi) mà sản lượng của nền kinh tế tăng lên, thúc đẩy tăng trưởng. Lý thuyết này cũng lý giải chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế tăng trưởng chậm do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 1.1.2. Tác động đến tổng cung Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài.Thông thường và cũng với ý nghĩa cổ điển,nói đến các yếu tố tổng cung tác trưởng đến tăng trưởng kinh tế là nói đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu là vốn(K),Lao động(L),Tài nguyên(R),Công nghệ kỹ thuật(T) thể hiện qua một hàm sản xuất: Y=F(K,L,R,T) Hoạt động đầu tư có thể tác động tới cả 4 yếu tố của tổng cung.Tuy nhiên,ta cũng có thể thấy,những tác động này thường thể hiện sau tác động của đầu tư tới tổng cầu. Đầu tư tăng sẽ dẫn tới tăng vốn sản xuất, nghĩa là số lượng các nhà máy , thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất sẽ tăng lên, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.Sự thay đổi này tác động đến tổng cung. Giả sử ta tăng đầu tư,ngay lập tức tổng cầu tăng.Giai đoạn này,tổng cung chưa tăng ngay,phải đến khi các thành quả của đầu tư phát huy tác dụng,các năng lực mới được khai thác thì tổng cung mới tăng. Tổng cung tăng làm đường cung S dịch chuyển sang S’ kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1 đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P1 xuống P2.Sản lượng tăng,giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng.Tăng tiêu dùng,đến lượt nó lại là nhân tố kéo tiếp tục kích thích sản xuất phát triển,tăng qui mô đầu tư. P S E1 (2) S’ P1 Po Eo E2 P2 (1) D’ D Qo Q1 Q2 Q Dựa vào mô hình đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu các nhà kinh tế có thể đưa ra giải pháp thích hợp tùy vào điều kiện từng nền kinh tế để đạt được hiệu quả trong quá trình quản lý và điều hành nền kinh tế. 1.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế. Mỗi một quốc gia đều có những mục tiêu định hướng cho sự phát triển riêng, sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó đầu tư là một nhân tố rất quan trọng trong việc quyết định mức độ tăng trưởng. Hoạt động đầu tư tạo nguồn vốn rất lớn phục phụ những mục tiêu của đất nước đó. Việc tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn vốn đó chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo định hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như tạo ra chuỗi các tác động mang tính liên tục… từ đó nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. 1.2.1. Tác động đến tốc độ tăng trưởng. Hệ số ICOR Học thuyết của Keynes xuất hiện vào những năm 30 của thế kỉ trước thể hiện rất rõ tư tưởng của ông. Ông cho rằng : Nền kinh tế có thể đạt tới và duy trì sự cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy được xu hướng phát triển của nền kinh tế đó là đưa mức sản lượng trên thực tế càng về mức sản lượng tiềm năng càng tốt. Để có được sự dịch chuyển này thì đầu tư đóng vai trò quyết định. Mô hình kinh tế của hai nhà kinh tế học là Roy Harrod và Evsay Domar được đưa ra dựa trên tư tưởng của Keynes. Mô hình này cho rằng đầu ra của bất kì đơn vị kinh tế nào của toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho đơn vị đó.Trong mô hình này xuất hiện hệ số ICOR- thể hiện mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng và phát triển. k = ∆Kt/∆Y (*) Trong đó : k : hệ số ICOR ∆Kt : vốn đầu tư tăng thêm (DKt= Kt – Kt-1) ∆Y : GDP tăng thêm (DY = Yt – Yt-1 ) Chia cả tử và mẫu cho Y chúng ta sẽ thu được công thức sau: k= (∆Kt/ Y)/(∆Y/ Y) ∆Kt/ Y : tỷ lệ vốn đầu tư /GDP ∆Y/ Y : tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từ công thức (*) chúng ta có thể nhận thấy : nếu hệ số ICOR (k) không đổi, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư trên tổng GDP. Hệ số ICOR của nền kinh tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố nên sự khác biệt tùy thuộc vào từng quốc gia : Sự thay đổi cơ cấu đầu tư ngành Sự phát triển của khoa học công nghệ. Cơ chế chính sách, cách thức tổ chức quản lý. Hệ số ICOR là một chỉ tiêu quan trọng, chúng ta có thể dựa vào công thức để dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm sắp tới, hoặc số vốn đầu tư cần thiết để đạt được mục tiêu tăng trưởng đặt ra từ đó đưa ra các biện pháp thu hút vốn đầu tư thích hợp. Bên cạnh đó, hệ số ICOR còn phản ánh hiệu quả đầu tư, chúng ta có thể dựa vào sự tăng giảm của k để đánh giá hiệu quả đầu tư. Ví dụ như khi k tăng thì để tạo ra một đơn vị GDP nền kinh tế phải bỏ ra lượng vốn đầu tư nhiều hơn, nếu các điều kiện khác ít thay đổi và ngược lại. Lý thuyết số nhân đầu tư Công thức tính : k= ∆Y/∆I (1) Trong đó : k là số nhân đầu tư ∆Y là mức gia tăng sản lượng ∆I là mức gia tăng đầu tư Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho biết khi đầu tư gia tăng một đơn vị thì sản lượng gia tăng bao nhiêu đơn vị. Từ công thức trên : ∆Y= k* ∆I (2) Gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên số nhân lần. Khi I=S ta có thể biến đổi công thức (2) như sau: k = = = = = = Trong đó : MPC= ∆C/∆Y : khuynh hướng tiêu dùng cận biên MPS= ∆S/∆Y : khuynh hướng tiết kiệm cận biên Do MPS > k>1 Vậy khi MPC càng lớn thì k càng lớn, lúc đó khi đầu tư gia tăng sẽ làm độ khuyếch đại của sản lượng càng lớn. Khi sản lượng tăng, việc làm gia tăng. Trong thực tế, mỗi khi gia tăng đầu tư, tức là tăng khả năng thực hiện các hoạt động kinh tế, khi đó cầu các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và qui mô lao động. Sản lượng của nền kinh tế gia tăng do có sự kết hợp hai yếu tố này làm cho sản xuất phát triển. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại: Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu đố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động, vốn sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và khoa học công nghệ. Y= f(K,L,R,T) Họ cũng đồng ý về sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng qua phân tích của hàm sản xuất Cobb-Douglas : Y=T*K g= t+ αk + βl + γr trong đó : g : tốc độ tăng trưởng của GDP k,l ,r : tốc độ tăng trưởng của vốn,lao động,tài nguyên t : phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ. Lý thuyết này cũng thống nhất với mô hình Harrod- Domar về vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế hiện tại, để có được tiến bộ khoa học kĩ thuật hay đơn thuần chỉ là kỹ thuật phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế của mỗi nước đều dựa vào việc sử dụng vốn lớn. Vì thế vốn là yếu tố quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế và lâu dài hơn là tác động đến phát triển kinh tế. 1.2.2. Tác động đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế. Ở phần trên chúng ta đã tìm hiểu về tác động của đầu tư đến tốc độ tăng trưởng. Nhưng bên cạnh đó , đầu tư còn tác động đến chất lượng của tăng trưởng. Trên góc độ phân tích đa nhân tốt, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế thường được phân tích theo biểu thức sau : g = Di+ Dl+ TFP trong đó Di là phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng GDP Dl là phần đóng góp của lao động vào tăng trưởng GDP TFP là phần đóng góp của các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP ( gồm có công nghệ , cơ chế chính sách) Chất lượng tăng trưởng thể hiện sự bền vững của tăng trưởng,mục tiêu tăng trưởng dài hạn và của phát triển kinh tế.Đồng thời chất lượng tăng trưởng thể hiện có tính hiệu quả,đặc biệt sự hiểu quả lan toả ở các vùng,các ngành và các khu vực kinh tế khác nhau. Chất lượng tăng trưởng thể hiện nhất quán và liên tục trong suốt một quá trình tái sản xuất xã hội. Chất lượng tăng trưởng thể hiện ở cả yếu tố đầu vào như việc quản lý và phân bố hợp lý các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất, kết quả đầu ra của quá trình sản xuất là cải thiện chất lượng cuộc sống, phân phối sản phẩm đầu ra đảm bảo tính công bằng , và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Chất lượng tăng trưởng kinh tế thể hiện sự bền vững của tăng trưởng và tiến tới thực hiện tốt mục tiêu tăng trưởng trong dài hạn. Tốc độ tăng trưởng cao trong ngắn hạn là điều kiện rất cần thiết nhưng chất lượng tăng trưởng là điều kiện đủ để đạt được mục tiêu phát triển bền vững. 1.3. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại về cả số và chất lượng giữa các bộ phận với nhau. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có nghĩa là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra khi có sự phát triển không đồng đều về qui mô, tốc độ giữa các ngành, vùng của nền kinh tế. Những cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân chủ yếu gồm: Cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu vùng kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế. Đầu tư tác động như thế nào đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình đó diễn ra như thế nào, mức độ tác động đến đâu? Chúng ta sẽ cùng trả lời câu hỏi đó. Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực tế là sự tác động đó chủ yếu tới cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. Một nền kinh tế có mục tiêu tăng trưởng, khi có sự đầu tư đúng hướng sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, từ đó tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân , giữa các ngành, các vùng , vừa phát huy được yếu tố nội lực kết hợp với coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành kinh tế : khi các nhà kinh tế định hướng cũng như đưa ra mục tiêu chú trọng phát triển vào ngành nào, đầu tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, vốn đầu tư có được sử dụng hiệu quả hay không, đều có tác động đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới, tạo sự đa dạng cho nền kinh tế góp phần tăng trưởng kinh tế, cũng như vốn đầu tư vào 1 ngành nào đó bị giảm sẽ làm tốc độ phát triển, cơ sở vật chất, kĩ thuật của ngành ấy cũng giảm. Đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành Đối với cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ : đầu tư tác động giái quyết sự mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, qua hệ thống các mục tiêu kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn sẽ đưa các vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy được tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, kinh tế, chính trị xã hội của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, tạo cơ sở tiền đề thúc đẩy sự phát triển của các vùng khác. 1.4. Đầu tư tác động đến khoa học và công nghệ. Mỗi một quốc gia với những nội lực vốn có không thể tự phát triển khoa học công nghệ để cải thiện tình hình phát triển của nền kinh tế. Đầu tư chính là nhân tố quan trọng đóng vai trò quyết định đến đổi mới và phát triển khoa học công nghệ của một doanh nghiệp nói riêng và một quốc gia nói chung. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản : phần cứng ( máy móc thiết bị), phần mềm (các văn bản, tài liệu, bí quyết…), các yếu tố con người như kĩ nang quản lý, kinh nghiệm…, yếu tố tổ chức như các thể chế, phương pháp tổ chức...Như vậy muốn có sự phát triển về công nghê thì cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành. Trên thực tế, trong mỗi thời kỳ, mỗi nước có những bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đoạn đầu các nước đang phát triển với lợi thế là nhiều lao động và nguyên nhiên vật liệu, xu hướng thời kì này là đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, sau đó giảm dần hàm lượng lao động nguyên liệu trong sản xuất và tăng dần hàm lượng vốn trang thiết bị máy móc và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhan lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư vào máy móc thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Quá trình chuyển biến giữa 2 giai đoạn này là một quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư nhiều, vì thế cần có sự chuyển bị về khả năng vốn đầu tư để đảm bảo sự thành công trong quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học và công nghệ. Công nghệ có thể có được do tự nghiên cứu sáng chế, hoặc cải tiến từ công nghệ cũ lạc hậu hoặc được nhập khẩu từ bên ngoài. FDI ( đầu tư trực tiếp nước ngoài) vẫn được coi là nguồn quan trọng để phát triển công nghệ của nước tiếp nhận FDI. Vai trò này được thể hiện ở 2 khía cạnh: Chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào nước tiếp nhận đầu tư. Phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước tiếp nhận đầu tư. Đây chính là những mục tiêu quan trọng nước tiếp nhận FDI mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài. Chuyển giao công nghệ thông qua FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các công ty đa quốc gia (TNCs) dưới nhiều hình thức như : chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một công ty đa quốc gia , chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNCs. Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs dưới các hạng mục chủ yếu như tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ , công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing. Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs còn góp phần tích cực đối với tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ cho các nước tiếp nhận FDI. Quá trình nghiên cứu cải biến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của từng địa phương đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình. Như vậy đầu tư có tác động lớn đến khoa học và công nghệ vì thế nâng cao năng suất các nhân tố từ đó thúc đấy tăng trưởng. 1.5. Đầu tư với việc phát triển nguồn nhân lực và tạo việc, nâng cao chất lượng tăng trưởng. Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xã hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào các lĩnh vực : sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục , đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng. Chúng ta hãy xem xét sự tác động của FDI đến việc làm và phát triển nguồn nhân lực: FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, FDI đã đóng góp tích cực tạo ra việc làm trong một số ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, điện tử, chế biến. Thông qua các khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo nghê, FDI còn góp phần quan trọng đối với phát triển giáo dục của nước chủ nhà trong các lĩnh vực dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Qua việc phân tích tác động của FDI đến phát triển nguồn nhân lực và tạo công ăn việc làm, chúng ta có thể hiểu vai trò của đầu tư đến việc tạo ra nguồn nhân lực cũng như cung cấp việc làm , tạo điểu kiện ổn định xã hội , hướng tới mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững. 2. Tác động ngược chiều của tăng trưởng và phát triển kinh tế đến đầu tư. 2.1.Ảnh hưởng tới gia tốc đầu tư. Nếu như ở lý thuyết Số nhân đầu tư, đầu tư xuất hiện như là một yếu tố của tổng cầu, thì trong lý thuyết gia tốc sẽ được trình bày ngay sau đây đầu tư lại được xem xét từ góc độ tổng cung, một cách hiểu khác là : khi sản lượng thay đổi một lượng nào đó thì đầu tư sẽ thay đổi như thế nào và bao nhiêu? Công thức : x= K/Y (1) Trong đó : K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu Y: sản lượng tại thời kỳ nghiên cứu x : hệ số gia tốc đầu tư Theo lý thuyết thì để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần ._.phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Công thức (1) biểu diễn tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư. (1) =>> K= x* Y (2) Nếu x không đổi thì quy mô sản lượng sản xuất tăng lên dẫn tới nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công, mà nhu cầu các yếu tố sản xuất lại phụ thuộc vào qui mô sản phẩm cần sản xuất. Từ công thức (2) có thể đưa ra kết luận : Để đầu tư tăng cùng tốc độ hay không đổi so với thời kỳ trước thì sản lượng phải tăng liên tục. Bên cạnh đó lý thuyết gia tốc đầu tư cũng cho thấy : đầu tư tăng tỷ lệ với sản lượng trong trung và dài hạn. Một số ưu điểm của lý thuyết : Lý thuyết này phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu hệ số gia tốc đầu tư ( x) không thay đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức (1) hoặc (2) để lập kế hoạch nhu cầu đầu tư khá chính xác. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng của nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm ngày càng tăng cao và đầu tư cũng tăng lên. Nhược điểm của lý thuyết: Trên thực tế x là đại lượng luôn luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác mà giả định của lý thuyết chính là hệ số gia tốc đầu tư không đổi. Lý thuyết thực chất đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần NI chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư thì toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ. Trên thực tế, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung…vì thế việc toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ là không đúng. Theo thời gian lý thuyết trên được hoàn thiện, qui mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn : vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ. Nếu gọi : K t* và Kt-1 là vốn đầu tư thực hiện trong thời kỳ t và t-1 K t* là vốn đầu tư mong muốn λ là một hằng số ( 0<λ<1) thì : K t* - Kt-1 = λ (K t* - Kt-1 ) có nghĩa là,sự thay đổi của vốn đầu tư thực hiện giữa hai thời kỳ chỉ bằng một phần của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-1.Nếu λ =1 thì K t* = Kt-1 và lý thuyết gia tốc đầu tư sau này cũng đã đề cập đến tổng vốn đầu tư.Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần : Δ I = It - Dt = K t* - Kt-1 Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì: K t* - Kt-1 = λ (K t* - Kt-1 ) do đó : Δ I = λ (K t* - Kt-1 ) để xác định tổng đầu tư,chúng ta giả định : Dt = δ. Kt-1 δ : hệ số khấu hao và 0< δ<1 .do đó : It - Dt = It  δ. Kt-1= λ (K t* - Kt-1) hoặc It = λ(K t* - Kt-1 ) + δ. Kt-1 It : chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện. It = x. ΔY + δ. Kt-1 Lý thuyết gia tốc đầu tư đã giải thích mối quan hệ giữa sản lượng và đầu tư. Tăng trưởng kinh tế thực chất là sự gia tăng sản lượng của nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Mỗi sự gia tăng sản lượng dẫn tới gia tăng tiêu dùng do thu nhập của người tiêu dùng tăng., từ đó cầu hàng hóa và dịch vụ tăng nên lại đòi hỏi gia tăng đầu tư mới. Gia tăng đầu tư mới dẫn tới gia tăng sản lượng, gia tăng sản lượng lại là nhân tố thúc đẩy gia tăng đầu tư. Đây là một quá trình diễn ra liên tục , dây chuyền. 2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế cải thiện môi trường đầu tư. Một quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao, chất lượng tăng trưởng cao cũng như phát triển bền vững ( bao hàm cả các yếu tố chính trị xã hội ) sẽ tạo được ấn tượng tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài, là dấu hiện về một nền kinh tế năng động, chính trị ổn định. Tăng trưởng kinh tế là một trong những yếu tố thu hút lượng vốn đầu tư từ nước ngoài vào trong nước cũng như đầu tư tư nhân trong nước.Môi trường đầu tư được cải thiện thể hiện ở hệ thống pháp luật và hệ thống cơ chế chính sách của nhà nước. Hệ thống pháp luật với luật đầu tư công bằng , hợp lý và được đảm bảo thực thi trong thực tế đối với mọi thành phần kinh tế.Hệ thống cơ chế chính sách mở cửa của nền kinh tế thị trường, tạo điểu kiện cải thiện môi trường đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ các đa dạng các nguồn. Từng bước trong quá trình 2.3. Tăng trưởng và phát triển góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, cải tiến công nghệ, tạo điều kiện tiếp nhận đầu tư. Mục tiêu của bất cứ quốc gia nào cũng là đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, khi đã duy trì được mức độ tăng trưởng ổn định, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư sẽ tăng lên. Đồng thời thực hiện những mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn , xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng, nghiên cứu cải tiến công nghệ. Khi nhà đầu tư quyết định đầu tư vào một quốc gia nào đó, điều kiện để quốc gia đó tiếp nhận đầu tư không chỉ ở tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức cao, và chính trị ổn định mà còn ở hạ tầng cơ sở có thuận lợi cho việc đầu tư không, quy hoạch có khoa học, có tầm nhìn lâu dài không, công nghệ của nước tiếp nhận đầu tư ở mức độ nào , có thể đáp ứng được yêu cầu về kĩ thuật không. Đó là một trong những lý do mà nhà đầu tư bỏ vốn cho dù nước bên cạnh những lợi thế so sánh khác. Chương 2: Thực trạng về mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 2000- 2008. I. Tổng quan về hoạt động đầu tư và tình hình tăng trưởng& phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn những năm 2000-2008. 1. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư. Từ năm 2000 cho đến nay,tổng vốn đầu tư phát triển của Việt Nam tăng khá nhanh.Tỷ lệ đầu tư so với GDP luôn ở mức cao rất cao.Năm 2000,tỷ lệ đầu tư so với GDP chiếm 34,2% thì trong năm 2008,tỷ lệ này đã tăng lên là 41,7%.Nếu chi đầu tư theo thành phần kinh tế bao gồm 3 khu vực là khu vực kinh tế nhà nước(KTNN),kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thì đầu tư cuarkhu vực KTNN luôn là đầu tàu,chiếm một tỷ trọng rất cao.Tuy nhiên,tỷ trọng đầu tư của khu vưc Nhà nước đang giảm dần,từ 59,1% năm 2000 xuống còn 43,3% năm 2007 còn tỷ lệ này của khu vực ngoài quốc doanh lại tăng rất mạnh,từ 22,9% năm 2000 lên tới 41,8% năm 2008.Điều này có thể cho thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang tăng trưởng và vươn lên rất mạnh mẽ. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP Năm Tống số (nghìn tỷ đồng) Thành Phần(%) Tổng vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước(%) Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài quốc doanh Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2000 151,2 59,1 22,9 18 34,2 2001 170,5 59,8 22,6 17,6 35,4 2002 200,1 57,3 25,3 17,6 37,4 2003 239,3 52,9 31,1 16 39,0 2004 290,8 48,1 37,7 14,2 40,7 2005 343,1 47,1 38 14,9 40,9 2006 398,9 46,4 37,7 15,9 41,5 2007 521,7 43,3 40,7 16 45,6 2008 637,3 28,9 41,3 29,8 43,1 1.1.Đầu tư trong nước: Hoạt động đầu tư trong nước có thể được chia thành 2 khu vực,đó là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh. 1.1.1.Khu vực KTNN Từ năm 2000 cho đến nay,tỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực KTNN liên tục giảm qua các năm.Tuy đã giảm từ 59,1% xuống tận 43,3% song đó vẫn là một tỷ trọng rất lớn.Năm 2007,tổng vốn đầu tư của cả nước đạt mức 521,7 nghìn tỷ đồng,trong đó,khu vực KTNN chiếm 208,1 nghìn tỷ đồng.Tình hình cụ thể được thể hiện trong bảng trên. Có nhiều nguyên nhân khiến tỷ trọng khu vực KTNN giảm trong thời gian qua và ta có thể kể vài nguyên nhân như sau: -Thứ nhất là sự ra đời của Luật Doanh Nghiệp năm 2000.Chính sự ra đời của luật Doanh Nghiệp đã làm thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân.Hàng loạt doanh nghiệp tư nhân đã được hình thành làm cho tổng đầu tư của các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh. -Thứ hai là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997.Năm 1995,tỷ trọng đầu tư của khu vực KTNN chỉ là 42%.Năm 1997 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế,khiến cho đầu tư toàn xã hội giảm nghiêm trọng,đặc biệt là ở khu vực ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài.Giai đoạn 1998-2000,nền kinh tế xảy ra giảm phát.Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế,chính phủ đã thực hiện chính sách kích cầu,tăng đầu tư.Điều đó là tỷ trọng đầu tư của KTNN tăng mạnh,đạt ở mức quá cao.Do vậy,sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế qua đi,tỷ trọng này giảm cũng là điều dễ hiểu. - Thứ ba là do sự lớn mạnh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. -Thứ tư là do nỗ lực đẩy nhanh cổ phần hóa DNNN của chính phủ. 1.1.2.Khu vực ngoài quốc doanh Với sự ra đời của Luật dân sự năm 2000,khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có một bước nhảy lớn và dần khằng định mình là một khu vực kinh tế lớn mạnh nhất,quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc gia.Ở năm 2000,tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới chỉ chiếm 22,9% tổng đầu tư xã hội với 34,6 nghìn tỷ đồng,bằng 38,7% khu vực KTNN thì đến năm 2007,nó đã chiếm 40,7% với hơn 212 nghìn tỷ đồng,bằng 94% khu vực KTNN.Xu hướng một vài năm tới,khu vực ngoài quốc doanh vượt xa khu vực KTNN là điều hoàn toàn có thể xảy ra. 1.2. Đầu tư nước ngoài: Những năm đầu thế kỉ 21,nước ta đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.3 kênh huy động chủ yếu của nước ta có thể kể đến là kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),kênh hỗ trợ phát triển chính thức(ODA),kênh đầu tư gián tiếp(FPI). 1.2.1.Kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Kênh FDI đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng với mức thu hút vốn liên tục tăng cao sau các năm.Tính cho đến hết năm 2008,tổng vốn đăng kí đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam khoảng 163 tỷ USD,vốn thực hiện đạt 53 tỷ USD.Riêng 2 năm 2007,2008,tổng vốn đăng kí và thực hiện lần lượt đã là 85 tỷ USD và 16 tỷ.Năm 2008,cả nước có 1171 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Bình quân vốn đăng ký của một dự án đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân 12,5 triệu USD/dự án của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới trong năm 2008, các dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 75,3% về số dự án và 51,7% về vốn đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án được cấp giấy phép mới năm nay tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 252,1 triệu USD, chiếm 0,4%. Năm 2008 cả nước có 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án được cấp phép mới, trong đó Ninh Thuận có số vốn đăng ký dẫn đầu với 9,8 tỷ USD, chiếm 16,3% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Bà Rịa-Vũng Tàu 9,3 tỷ USD, chiếm 15,5%; thành phố Hồ Chí Minh 8,9 tỷ USD, chiếm 14,7%; Hà Tĩnh 7,9 tỷ USD, chiếm 13,1%; Thanh Hóa 6,2 tỷ USD, chiếm 10,3%; Phú Yên 4,3 tỷ USD, chiếm 7,2%; Hà Nội 3,1 tỷ USD, chiếm 5,1%. Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Ma-lai-xi-a là nhà đầu tư lớn nhất với 14,9 tỷ USD, chiếm 24,8% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là Đài Loan 8,6 tỷ USD, chiếm 14,3%; Nhật Bản 7,3 tỷ USD, chiếm 12,1%; Xin-ga-po 4,5 tỷ USD, chiếm 7,4%; Bru-nây 4,4 tỷ USD, chiếm 7,3%; Ca-na-đa 4,2 tỷ USD, chiếm 7%. 1.2.2.Kênh hỗ trợ phát triển chính thức ODA ODA đã đạt được mức cam kết kỉ lục trong năm 2008:đạt 5,426 tỷ USD.So với năm 2007, mức cam kết này tăng 1 tỉ USD, xấp xỉ 20%. Như vậy, liên tiếp trong 5 năm qua, cam kết ODA cho VN luôn đạt kỷ lục mới. Cùng với tình hình tăng mức cam kết,tình hình giải ngân vốn trong những năm qua cũng đã có nhiều tiến bộ do chính phủ thực hiện kế hoạch phân cấp,phần quyền phê duyệt ODA. ODA cam kết, ký kết và giải ngân thời kỳ 2000-2009 (Đơn vị: Triệu USD) Năm Số vốn cam kết Vốn ký kết Vốn giải ngân 2000 2400 1768 1650 2001 2399 2418 1500 2002 2462 1805 1528 2003 2839 1757 1421 2004 3441 2568 1650 2005 3748 2515 1787 2006 4457 2824 1785 2007 5426 3795 2176 2008 5426 3458 2136 2009 5014 3200 2000 Tổng số 52863 38202 24000 1.2.3.Kênh đầu tư gián tiếp FPI: Nếu như đầu tư trực tiếp (FDI) là hình thức nhà đầu tư nước ngoài tham gia trực tiếp vào các dự án sản xuất kinh doanh đã trở nên quen thuộc với nhiều người. Có thể nói đến những cái tên như: Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh … trải thảm đỏ mời gọi các nhà đầu tư. Thì đầu tư gián tiếp (FPI) là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác,quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh lại khá xa lạ. Tuy nhiên câu chuyện vốn đầu tư gián tiêp đã  trở nên dễ hiểu và gần gũi hơn trong thời gian gần đây,đặc biệt là trong năm 2006 và những tháng đầu năm 2007 khi thị trường chứng khoán và bất động sản nóng và sôi động đến mức tốn không ít giấy mực của báo chí trong và ngoài nước.Một dòng vốn đầu tư lớn đã được đổ vào Việt Nam,khoảng 20 tỷ USD vào thị trường chứng khoán và..tỷ USD vào thị trường bất động sản.Bên cạnh đó,hàng loạt quĩ đầu tư đã được hình thành trong những năm qua.Tính đến hết năm 2008,có gần 50 quĩ,trong đó có những quĩ có số vốn khá lớn như Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL),quỹ bất động sản VinaLand thuộc Công ty Quản lý quỹ VinaCapital, Quỹ Bất động sản Indochina Land, Quỹ Indochina Capital Vietnam Holding Limited với số vốn lên đến vài trăm triệu USD mỗi quĩ. Dù FPI đã tăng mạnh,nhưng có một thực trạng là tỷ trọng dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) so với FDI vẫn ở mức quá thấp, chỉ chiếm 1,2% (năm 2002), 2,3% (năm 2003) và 5,7% (năm 2007) quá thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc, tỷ trọng dòng vốn FPI so với FDI vào khoảng 30% - 40%.Đây là một thực trạng không tốt mà nền kinh tế Việt Nam cần chú ý và khắc phục. 2. Tình hình tăng trưởng & phát triển kinh tế ở Việt Nam từ năm 2000-2008 Từ năm 1991,nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có những khởi sắc với tốc độ tăng trưởng 8,7% và đạt mức cao nhất vào năm 1995 với tốc độ tăng trưởng là 9,5%.Sáu năm liên tục,từ năm 1991 tới năm 1996,Việt Nam đạt mức tăng trưởng trên 8%.Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoàng tài chính tiền tệ của khu vực năm 1997,tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giảm xuống 5,8% năm 1998 và 4,8% năm 1999.Tuy nhiên,bước sang những năm đầu của thế kỷ 21,kinh tế đã có sự phục hồi.Từ năm 2001 cho đến nay,chưa năm nào tốc độ tăng trưởng thấp hơn 6%.Nếu so với các nước trong khu vực,tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đứng thứ 2,sau Trung Quốc,cao hơn các nước Asean khác như Malaysia,Thái Lan,Indonesia. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000-2008 Năm 2008, tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%, nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn. II. Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng & phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm qua. 1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung & tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam. Tác động của đầu tư tới tổng cung,tổng cầu được thể hiện khá rõ qua giá trị sản xuất của các ngành cũng như giá trị tiêu dùng của người dân.Sau đây là những nét sơ lược về kết quả của những tác động đó. Nông,lâm,thủy sản Trong những năm qua,dù không được đầu tư mạnh như ngành công nghiệp nhưng ngành nông,lâm thủy sản vẫn là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,đóng góp tới hơn 20% trong GDP.Do xu hướng phát triển của xã hội nền ngành nông nghiệp dù có tăng trưởng đều hàng năm xong tỷ trọng đóng góp của nó vào nền kinh tế quốc dân ngày càng giảm.Đã có những thời điểm,nông nghiệp là ngành kinh tế chủ lực,chiếm tới 46,3% đóng góp cho GDP1998) thì cho tới nay-năm 2008,ngành này chỉ còn chiếm khoảng 16%.Trong tương lai,tỷ trọng của ngành Nông,lâm thủy sản trong nền kinh tế sẽ tiếp tục giảm và giảm mạnh. Năm 2008,gía trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 212,0 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với năm 2007, bao gồm giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 155,2 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%; giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 6,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% ; giá trị sản xuất thuỷ sản đạt 50,1 nghìn tỷ đồng, tăng 6,7%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất Nông,Lâm,Ngư nghiệp(%) 2004 2005 2006 2007 2008 I.Vốn đtư toàn ngành (tỷđ) 22963 25749 29842 33354 34412 II.Tăng giá trị toàn ngành (%) 5,6 4,9 4,4 4,6 5,6 Trong đó 1.NNghiệp 2.LNghiệp 3.TSản 4,1 1,1 12,5 3,2 1,2 12,5 3,6 1,2 7,7 2,9 1 11 5,4 2,2 6,7 Đầu tư và tăng trưởng trong ngành nông nghiệp Công nghiệp Thời gian qua,ngành công nghiệp luôn là ngành sản xuất được chú ý và đầu tư mạnh mẽ nhất.Trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội hơn 10 năm qua,riêng ngành công nghiệp luôn chiếm trên dưới 40%.Do đó,ngành công nghiệp luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế,tỷ trọng đóng góp ngày càng lớn và bỏ rất xa ngành nông nghiệp là điều dễ hiểu. Năm 2008,giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 14,6% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 4%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,6%, trong đó dầu khí giảm 4,3%(do ảnh hưởng của việc giá dầu trên thế giới xuống giá thảm hại). Trong các ngành công nghiệp, giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến năm 2008 ước tính đạt 580,2 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2007, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành với 88,9%; ngành công nghiệp điện, ga và nước đạt 37 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4%, chiếm 5,7%; giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp khai thác đạt 35,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,5% do lượng dầu thô khai thác giảm, chiếm tỷ trọng 5,4%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành Công nghiệp Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 I.Vốn đầu tư toàn ngành (tỷ đồng) 98794 124352 146104 163831 223428 219614 II.Tăng giá trị toàn ngành (%) 16,8 16,6 17,1 17 17,3 14,6 1.DNNN 11,9 11,9 7,2 9,3 10,3 4 -TW 16,2 14,8 12,4 11,9 13,3 6,2 -Địa phương 3,5 5,6 -5,2 2 3 1,3 2.DN Ngoài quốc doanh 23,3 22,3 25,4 23,9 20,9 18,8 3.DN có vốn ĐTNN 18 17,4 21,2 18,8 18,2 18,6 Dịch vụ Các ngành sản xuất tăng mạnh về sản lượng và giá trị cho nên hoạt động thương mại dịch vụ trong những năm qua cũng tăng mạnh.Trong năm 2008,tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2008 ước tính đạt 968,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng chỉ đạt 6,5%), trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đạt 112,9 nghìn tỷ đồng, tăng 20,4%; kinh tế cá thể đạt 538,1 nghìn tỷ đồng, tăng 32,2%; kinh tế tư nhân đạt 284,5 nghìn tỷ đồng, tăng 34,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22,7 nghìn tỷ đồng, tăng 20,9%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng nêu trên, kinh doanh thương nghiệp đạt 798,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31,5%; khách sạn, nhà hàng đạt 109,3 nghìn tỷ đồng, tăng 26,2%; dịch vụ đạt 48,4 nghìn tỷ đồng, tăng 31,3%; du lịch đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, tăng 41,8%.Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Năm Tổng mức (Tỷ đồng) Tỷ trọng theo thành phần kinh tế(%) KTNN Ngoài quốc doanh Có vốn ĐTNN 2001 245315 16,7 81,7 1,6 2002 280,884 16,2 79,9 3,9 2003 333,809 15,7 80,2 4,1 2004 398,525 15,0 81,2 3.8 2005 480,294 12,9 83,3 3.8 2006 588,900 13,6 83,3 3.1 2007 726,113 10,9 86 3.1 2008 968,1 11.5 84.9 3.6 Tổng mức bán lẻ và dịch vụ 1.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng Trong thời gian gần đây,hoạt động đầu tư,thu hút vốn diễn ra mạnh mẽ khiến kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng.Cả ba khu vực nông,lâm,ngư nghiệp;Công nghiệp-xây dựng và dịch vụ đều có tốc độ tăng trưởng khá,đạt hoặc vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.Những điều đó được thể hiện dưới bảng và đồ thị sau: Tốc độ tăng trưởng của các ngành trong nền kinh tế Năm 2004 2005 2006 2007 2008 1.Vốn đtư xã hội(tỷđ) 290927 343135 398900 521700 637300 2.Tăng trưởng(%) 7,79 8,44 8,17 8,48 6,23 Nông, lâm,thuỷ sản 4,36 4,00 3,69 3,40 3,79 Công nghiệp,xây dựng 10,21 10,68 10,38 10,60 6,33 Dịch vụ 7,26 8,48 8,29 8,68 7,20 Với những kết quả đạt được trong giai đoạn 2000-2008 Việt Nam được đánh giá là một trong những nước tăng trưởng nhanh trên thế giới song quỹ đạo tăng trưởng của Việt Nam hiện vẫn đang nằm giữa hai nhóm phát triển thấp và trung bình.Dù tăng trưởng nhanh nhưng không phải là nền kinh tế nước ta không có vấn đề gì về tăng trưởng.Hai vấn đề nổi cộm nhất hiện nay đó là:tại sao mặc dù xuất phát điểm của Việt Nam thấp hơn, đồng thời tỷ lệ đầu tư trên GDP lại rất cao so với các nước trong khu vực nhưng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam chỉ ở mức trung bình của khu vực? Và tăng trưởng của Việt Nam có ổn định và bền vững hay không?Cả hai vấn đề này đã đặt ra những câu hỏi không hề dễ giải đáp. Về vấn đề thứ nhất,tốc độ tăng trưởng của Việt Nam không cao vì hiệu quả đầu tư của nền kinh tế thấp, được thể hiện qua hệ số ICOR – là hệ số cho biết số đơn vị đầu tư (tính theo % của GDP) cần thiết để đạt được 1% đơn vị tăng trưởng GDP, nghĩa là nếu chỉ số này càng cao thì hoạt động đầu tư càng kém hiệu quả và chỉ tiêu năng suất các yếu tố tổng hợp(TFP). Nhìn vào bảng sau thấy ICOR của Việt Nam hiện đang rất cao so với Hàn Quốc và Đài Loan trong những giai đoạn phát triển tương đương. Chẳng hạn như Đài Loan đã duy trì được tốc độ tăng trưởng 9,7% trong suốt 20 năm mà chỉ cần đầu tư 26,2% GDP, trong khi đó Việt Nam đầu tư tới 33,5% GDP nhưng tốc độ tăng trưởng trung bình cũng chỉ đạt 7,6%. Nói cách khác, cái giá phải trả cho tăng trưởng của Việt Nam cao gần gấp đôi so với Đài Loan. Hệ số ICOR của Việt Nam so với một số nước trong khu vực Nước Giai đoạn Tăng trưởng GDP(%/năm) Tổng đầu tư(% của GDP/năm) ICOR Hàn Quốc 1961-1980 7,9 23,3 3,0 Đài Loan 1961-1980 9,7 26,2 2,7 Inđônêsia 1981-1995 6,9 25,7 3,7 Malaysia 1981-1995 7,2 32,9 4,6 Thái Lan 1981-1995 8,1 33,3 4,1 Trung Quốc 2001-2006 9,7 38,8 4,0 Việt Nam 2001-2008 7,6 33,5 5,0 Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng trong thời gian qua nhưng tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào những nhân tố theo chiều rộng.Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp(TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm,từ 22,6% năm 2000 lên 28,2% trong giai đoạn 2000-2008,tuy nhiên tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 52,7% và lao động chiếm 19,1%,tức cả hai yếu tố này còn chiếm tới 71,8% trong tác động đến tăng trưởng.So với các nước khác thì tỷ lệ này là quá cao,gần gấp đối các nước trong khu vực(Thái Lan là 34%,Philippin là 41%,Indonesia là 43%) Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam Đơn vị : % Năm Vốn đầu tư Lao động Năng suất nhân tố tổng hợp 2000 48,5 21,5 22,6 2001 49,3 26,9 23,8 2002 48,7 27,3 24 2003 49,6 27,1 23,3 2004 47,2 28,3 24,5 ….. 2008 52,7 19,1 27,3 Vấn đề thứ hai đưa chúng ta trở về với bối cảnh chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong mấy năm trở lại đây, trong đó một vấn đề nổi lên hàng đầu là lạm phát. Mặc dù tốc độ tăng trưởng không có sự cải thiện đáng kể nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lại tăng đột biến, từ mức 3-4% vào đầu những năm 2000 lên tới 12,6% năm 2007 và gần 24% năm 2008.Không thể phủ nhận việc giá xăng dầu và một số nguyên liệu sản xuất trên thị trường thế giới tăng nhanh trong thời gian qua là nguyên nhân khách quan dẫn tới việc tăng giá nhiều mặt hàng tiêu dùng hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề lạm phát ở Việt Nam không đơn thuần chỉ là do yếu tố khách quan, mà quan trọng hơn chính là do các yếu tố chủ quan, có tính nội tại của nền kinh tế. Cụ thể là, thứ nhất, nếu lạm phát có nguyên nhân chủ yếu từ việc tăng giá thế giới thì các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia... cũng đều phải chịu cú sốc tương tự. Tuy nhiên, lạm phát ở các nước này tính đến thời điểm hiện nay lại thấp hơn đáng kể so với Việt Nam (Hình 2). Nguyên nhân chính là cả Việt Nam và Trung Quốc đều có tỷ lệ đầu tư/GDP cao kỷ lục, tín dụng tăng trưởng rất nhanh, trong đó một tỷ lệ rất lớn được dành cho các DN nhà nước kém hiệu quả. Đồng thời, tính không độc lập của Ngân hàng Nhà nước làm xói mòn khả năng điều hành chính sách tiền tệ và chống lạm phát của cơ quan này. Thứ hai, tuy đã nhìn thấy và đưa ra một số chính sách kiềm chế lạm phát nhưng điều quan trọng là Chính Phủ chưa nhận thức đúng hoặc cố tình phủ nhận những nguyên nhân rất cơ bản dẫn đến lạm phát. Đầu tiên, ở lĩnh vực tiền tệ, đó là tăng cung tiền và tín dụng. Trong giai đoạn vừa qua, VN tiếp nhận khá nhiều nguồn vốn FDI, đầu tư gián tiếp, ODA, kiều hối... từ nước ngoài. Dòng ngoại tệ chảy vào VN rất lớn gây sức ép tăng giá VND, và do vậy có nguy cơ làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu, và làm cho tình trạng thâm hụt cán cân thương mại thêm nghiêm trọng. Do lo ngại điều này, Chính phủ đã cố giữ tỷgiá USD/VND ổn định bằng cách tung tiền đồng ra để mua vào khoảng 9 tỉ USD. Ở lĩnh vực tín dụng, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8-8,5%/năm, Chính phủ liên tục thúc đẩy tăng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước là nơi sử dụng đồng vốn hiệu quả thấp. Tính trung bình, tốc độ tăng trưởng tín dụng của VN trong 5 năm trở lại đây vào khoảng 30%/năm (năm 2007, con số này tăng đột biến, lên tới hơn 40%). Với tốc độ tăng tín dụng cao trong nhiều năm liền, đồng thời cung tiền tăng đột biến, lạm phát xảy ra là điều tất yếu. Chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam và một số nước trong khu vực (2007) Lạm phát cao gây nên nhiều tác động tiêu cực, trong đó có ba vấn đề đặc biệt đáng lo ngại. Thứ nhất, CPI tăng nhanh là một thứ “thuế lạm phát” làm giảm mức sống của đại bộ phận người tiêu dùng, đặc biệt là những người hưởng lương cố định và có thu nhập thấp. Thứ hai, vì mức lạm phát cao hơn lãi suất tiết kiệm (tức là lãi suất thực bị âm) nên tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế phải chạy đi tìm những cơ hội đầu tư có suất sinh lời cao hơn như địa ốc hay chứng khoán. Việc đầu cơ quá mức vào bất động sản và chứng khoán làm xuất hiện hiện tượng bong bóng tài sản; và sớm hay muộn thì hiện tượng này cũng sẽ dẫn tới sự bất ổn định cho nền kinh tế. Thứ ba, hiện nay tỉ lệ dư nợ cho vay mua bất động sản ở hệ thống ngân hàng thương mại là khoảng 10%, một tỉ lệ khá cao. Đáng lo ngại hơn, rất nhiều các khoản vay ngân hàng được bảo đảm bằng bất động sản với giá bong bóng. Điều này có nghĩa là, nếu bong bóng vỡ, bất động sản rớt giá thì tài sản bảo đảm này không còn đảm bảo nữa. Hệ quả là nhiều khoản vay sẽ trở thành nợ xấu, ảnh hưởng trực tiếp tới sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Như vậy,nhờ đầu tư lớn,nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng chính bản thân nó đã xuất hiện những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. 1.3.Tác động đến khoa học công nghệ. Trong nền kinh tế thị trường,công nghệ được coi là vũ khí cạnh tranh chính.Công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn,năng suất cao hơn,chi phí giá thành giảm,tạo ưu thế cạnh tranh trên thị trường.Hiểu rõ được điều đó,những năm qua,đất nước ta rất chú trọng phát triển khoa học công nghệ.Một lượng vốn không nhỏ đã được đầu tư vào lĩnh vực này. Trong đầu tư của nhà nước,chi cho khoa học công nghệ chiếm gần 2% trong tổng vốn đầu tư.Cụ thể như năm 2005,nhà nước chi 1900 tỷ,2006 là 2404 tỷ và 2007 là 2735 tỷ.Tuy chỉ chiếm gần 2% nhưng những tác động của nó tới tình hình tăng trưởng và phát triển là hết sức to lớn,tạo cho nước ta một bước tiến dài trên con đường tiếp cận và làm chủ công nghệ.Sự đầu tư của nhà nước đã thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu,hàng loạt viện,trung tâm nghiên cứu ra đời góp phần nâng cao năng lực công nghệ của cả nước. Theo số liệu của Viện Khoa học Lao động - Xã hội Bộ LĐTB&XH, đến cuối năm 2008, tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, bao gồm những người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai, các viện, trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng dụng KH-CN của cả nước là gần 40.000 người,tỉ lệ cán bộ có trình độ đại học trở lên chiếm 94,7% tổng số lao động trong lĩnh vực KH-CN, trong đó thạc sĩ là 35,5%, tiến sĩ là 30,5%. Xét về mặt học vị, Việt Nam ở mức cao so với mức trung bình của khu vực. Tuy nhiên, ngoại ngữ và tin học là nguyên nhân cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đội ngũ cán bộ KH-CN.Cả nước có nhiều khu công nghệ cao,trong đó lớn nhất và hiện đại nhất là hai khu công nghệ cao Láng Hòa Lạc và Thành phố Hồ Chí Minh.. Bên cạnh các hoạt động đầu tư của nhà nước cho lĩnh vực khoa học công nghệ,tư nhân,các doanh nghiệp cũng rất chú trọng đầu tư phát triển,nghiên cứu,tìm tòi,sáng tạo công nghệ hay mua sắm,chuyển giao các công nghệ hiện đại từ nước ngoài về nước.Tuy nhiên cho đến nay,Việt Nam mới chỉ có 11 đơn đăng ký sáng chế ở nước ngoài, trong khi đó Indonesia có 36, Thái Lan 39, Philipin có 85, Hàn Quốc có 15.000, Nhật Bản 87.620 Mỹ 206.710. Nếu căn cứ vào số lượng các công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế và bằng sáng chế được quốc tế công  nhận thuộc 27 môn khoa học, thì Việt Nam chưa lọt vào danh sách của 50 nước được tính đến. Trong khi đó, Singapo, Malaisia và Thái Lan đã có tên trong danh sách này. Điều đó có nghĩa là, trình độ ng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22470.doc
Tài liệu liên quan