Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa vào Thị trường Châu Âu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Mục lục                                                                                                         trang Lời nói đầu……………………………………………………………... 5 Chương I: Xuất nhập khẩu và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất nhập khẩu. 8 I.Khái quát về hoạt động xuất nhập khẩu…………………………………… 8 1. Khái niệm về xuất nhập khẩu………………………………………………. 8 1.1. Khái niệm………………………………………………………….. 8 1.2. Các hình thức xuất nhập khẩu……………………………………… 9 2. Vai trò, vị trí c

doc113 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa vào Thị trường Châu Âu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa xuất nhập khẩu đối với sự phát triển của một quốc gia…. 13 2.1. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển của một quốc gia... 13 2.2. Vị trí của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển của một quốc gia…. 15 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu…………………………………. 21 3.1 Yếu tố pháp luật…………………………………………………….. 21 3.2 Yếu tố kinh tế……………………………………………………….. 21 3.3. Yếu tố khoa học công nghệ………………………………………… 22 3.4. Yếu tố chính trị…………………………………………………….. 23 3.5. Yếu tố văn hoá xã hội……………………………………………… 24 3.6. Yếu tố thuộc về doanh nghiệp……………………………………… 24 3.7. Yếu tố về sản phẩm 25 3.8. Yếu tố đồng tiền thanh toán 25 II. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoàiȠđối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá………………………………………………………………. 26 1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài 26 2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến hoạt động xuất nhập khẩu 28 Chương II: Trực trạng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam sang thị trường châu âu trong thời gian qua 42 I. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua 42 1. Những yếu tố tác động tới xuất khẩu của Việt Nam…………………… 42 2. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực xuất khẩu của các doanh nghiệp có      vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam sang thị trường Châu Âu từ     năm 1998- 2001………………………………………………………… 47 II. Những thành công và hạn chế trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 56 1. Những thành công đã đạt được trong hoạt động xuất khẩu của các doanh     nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 56 2. Những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam 74 Chương III: Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sang thị trường Châu âu trong thờigian tới 80 I. Kiến nghị với Nhà nước…………………………………………………… 80 1. Các chính sách nhằm khuyến khích đầu tư…………………………………. 80 2. Các chính sách về tài chính tín dụng……………………………………….. 85 3. Đa dạng hoá chủ thể kinh doanh……………………………………………. 93 4. Các vấn đề chất lượng, thị trường và xúc tiến thương mại…………….……. 94 5. Cải cách thủ tục hành chính………………………………………………… 98 II. Kiến nghị với doanh nghiệp……………………………………………… 102 1. Củng cố và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp…………………………. 102 2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay……………………………………….. 106 3. Nâng cao trình độ làm việc của đội ngũ cán bộ, đổi mới tổ chức cán bộ ….. 107 4. Thông tin về đối tác thị trường……………………………………………… 109 5. Lựa chọn thị trường và đối tác……………………………………………… 111 6. Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu………………………………….. 111 Kết luận…………………………………………………………………… 113 Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………. 114 Lời nói đầu Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Những thay đổi đó, một mặt tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nước đang trên đà phát triển có thể nắm bắt, vươn tới nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, mặt khác đang đặt ra những thách thức, những vấn đề phức tạp hơn mà mỗi quốc gia phải đối phó giải quyết. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia. Hoà nhập với xu thế này, trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là từ khi tiến hành đổi mới kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội Đảng VIII đã nhấn mạnh: “...Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực ...” Tuy nhiên, chúng ta tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới nghĩa là chúng ta phải chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh. Đây vừa là thời cơ mà ta có thể tận dụng để phát triển đất nước đồng thời cũng là thách thức trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước xung quanh và trên thế giới. Hơn bao giờ hết xuất khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các chính sách và các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Do vậy, xây dựng được các chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu như thế nào để ta có thể tận dụng được những thuận lợi vượt qua những khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước, đưa kinh tế đất nước phát triển bền vững đang là một vấn đề được Nhà nước ta đưa nên hàng đầu. Xuất phát từ thực tế khách quan trên, sau một thời gian thực tập và nghiên cứu tại Vụ đầu tư - Bộ Thương Mại, em xin viết đề tài: “ Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Châu Âu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nội dung đề tài bao gồm : ỉ Chương I : Xuất nhập khẩu và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài                       đối với hoạt động xuất nhập khẩu. ỉ Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có                            vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sang thị trường                             Châu Âu trong thời gian qua. ỉ Chương III : Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của các                                 doanh nghiệp  có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt                                 Nam sang thị trường Châu Âu trong thời gian tới. Trong quá trình nghiên cứu, em đã nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo TS. LÊ ANH VÂN, TS. Đào VĂN Hải và sự đóng góp ý kiến của các cô chú trong Vụ đầu tư – Bộ Thương Mại. Tuy nhiên, do kiến thức hiểu biết còn hạn chế, nên trong bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để các bài viết sau được hoàn thiện hơn. Chương I Xuất nhập khẩu và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất nhập khẩu. I. Khái quát về hoạt động xuất nhập khẩu. 1. Khái niệm về xuất nhập khẩu. 1.1.Khái niệm: Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ của nước này đối với nước khác và ngoại tệ được lấy làm phương tiện thanh toán. Sự mua bán trao đổi này là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Hoạt động xuất nhập khẩu đối với một quốc gia là cần thiết vì lý do cơ bản là khai thác được lợi thế so sánh của các nước xuất khẩu và mở ra tiêu dùng trong nước nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế có điều kiện không gian và thời gian. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà nó có một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Song hoạt động mua bán ở đây có những sự khác biệt phức tạp hơn mua bán trong nước, các chủ thể thực hiện hành vi mua bán có các quốc tịch khác nhau và hàng hoá để mua bán được đưa tới một quốc gia khác. Một thực tế cho thấy một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống riêng lẻ tự cung tự cấp mà có thể đầy đủ. Nền thương mại quốc tế có tính chất sống còn cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng để có số lượng nhiều hơn, chất lương cao hơn, có thể tiêu thụ cùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước cao hơn khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thì phạm vi chuyên môn hóa ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày một nhiều hơn đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước cũng tăng lên. Nói cách khác, chuyên môn hóa thúc đẩy nhu cầu mậu dịch và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động buôn bán trao đổi với quốc gia khác. Chuyên môn hoá quốc tế là biểu hiện sinh động của qui luật lợi thế so sánh. Qui luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Qui luật này cũng khẳng định: nếu mỗi nước chuyên môn hoá hơn vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thương mại có lợi cho cả hai bên. Hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta là một trong những vấn đề được coi trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Do vậy Đảng và Nhà nước đã có chủ trương mở rộng, phát triển kinh tế đối ngoại trong đó chú trọng đến lĩnh vực vật tư và thương mại hàng hoá dịch vụ. 1.2. Các hình thức xuất nhập khẩu Hoạt động kinh doanh xuất xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng trong thực tế do tác động của điều kiện kinh doanh, Nhà nước tạo ra nhiều hình thức xuất xuất nhập khẩu khác nhau. ở đây, ta chỉ xét một vài hình thức xuất nhập khẩu phổ biến đang được áp dụng tại các doanh nghiệp nước ta hiện nay. 1.2.1- Doanh nghiệp tự doanh. Khái niệm: Hoạt động xuất nhập khẩu tự doanh là hình thức xuất nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất xuất nhập khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh xuất nhập khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước cũng như của quốc tế. Đặc điểm: Trong xuất nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào tất cả. Đây là hoạt động phải được xem xét cẩn thận ngay từ bước ban đầu là nghiên cứu thông tin cho đến việc ký kết hợp đồng bởi doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình chịu mọi phí tổn giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho, chi phí để tiêu thụ hàng hoá, các khoản thuế phải nộp khi doanh nghiệp tự doanh, doanh nghiệp được trích kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế mặt hàng. Thông thường, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với bên nước ngoài còn hợp đồng mua bán trong nước sau khi hàng về sẽ lập sau. 1.2.2- Xuất nhập khẩu uỷ thác Khái niệm: Xuất nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu xuất nhập khẩu một loại hàng hoá nhưng lại không có quyền tham gia quan hệ xuất xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành xuất nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để xuất nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác. Đặc điểm: Trong hoạt động xuất nhập khẩu này doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường hàng nhập mà chỉ đứng ra làm đại diện bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng cũng như thay bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành xuất nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp chỉ được tính phí uỷ thác chứ không được tính doanh thu và không chịu thuế doanh thu. Khi xuất nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập 2 hợp đồng: - Một hợp đồng ngoại - Một hợp đồng nội uỷ thác xuất nhập khẩu với bên uỷ thác 1.2.3- Xuất nhập khẩu liên doanh Khái niệm: là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên lãi cùng chia, lỗ cùng chịu Đặc điểm: so với xuất nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp bớt chịu rủi ro hơn bởi vì mỗi doanh nghiệp liên doanh xuất nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng theo vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp; lãi lỗ tuỳ theo hai bên thoả thuận phân chia dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên phải gánh vác. Trong xuất nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên số hàng đó. Doanh nghiệp xuất xuất nhập khẩu trực tiếp phải thực hiện 2 hợp đồng: - Một hợp đồng mua hàng với nước ngoài - Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác Sự phân chia trên là dựa vào chủ thể của hoạt động xuất nhập khẩu, nếu quan tâm đến hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể thấy 2 hình thức chính là mua bán, thanh toán bằng tiền và thanh toán bằng hàng hay còn gọi là mua bán đối lưu. Mua bán bằng tiền là hình thức thông thường và trong phạm vi ở đây cần quan tâm đến hình thức xuất nhập khẩu đối lưu hay đổi hàng. 1.2.4. Xuất nhập khẩu đối lưu Khái niệm: Xuất nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là 2 loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là một hình thức xuất nhập khẩu gắn với xuất khẩu, thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà dùng chính bằn hàng hoá. ở đây mục đích của xuất nhập khẩu hàng không chỉ để thu lãi từ hoạt động xuất nhập khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng thu cả lãi từ hoạt động xuất. Đặc điểm: Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành cùng một lúc hoạt động xuất và nhập, do đó có thể thu lãi từ 2 hoạt động.Hàng xuất và hàng nhập tương đương về giá trị, tính quý hiếm cân bằng về giá. Bạn hàng bán cũng chính là bạn hàng mua. Doanh nghiệp xuất xuất nhập khẩu trực tiếp được tính của kim ngạch xuất nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu, doanh số trên cả hàng nhập và hàng xuất. Ngoài ra chia theo mục đích hàng xuất nhập khẩu có thể phân ra nhập hàng tiêu thụ trong nước và nhập hàng để tái xuất. ở nước ta hiện nay chủ yếu là nhập về tiêu dùng trong nước, nhập tái xuất ít, chưa ở mức độ cao thế nhưng trong tương lai sẽ phát triển thông dụng. 1.2.5. Xuất nhập khẩu tái xuất Khái niệm: là hoạt động nhập hàng vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước nào đó nhằm thu lợi nhuận, những hàng nhập này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, xuất nhập khẩu tái xuất luôn thu hút 3 nước tham gia: nước xuất khẩu , nước tái xuất và nước xuất nhập khẩu. Đặc điểm: Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập 2 hợp đồng: - Một hợp đồng xuất nhập khẩu - Một hợp đồng xuất khẩu Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất và nhập sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. Doanh nghiệp xuất xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất và nhập, doanh số tính trên giá trị hàng xuất do đó phải chịu thuế doanh thu. Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ 3, nhưng trả tiền thì phải luôn do người tái xuất thu từ người xuất nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do thu được nhanh và trả chậm. Trên đây đã khái quát một số hình thức xuất nhập khẩu thông dụng ở nước ta hiện nay, cho dù là hình thức nào thì các bước tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu ở doanh nghiệp xuất xuất nhập khẩu cũng theo một trình tự chung. 2. Vai trò, vị trí của xuất khẩu đối với sự phát triển của một quốc gia. 2.1. Vị trí của xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu hàng hoá là những việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước này với các nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong nền kinh tế có thương mại quốc tế mở rộng bao gồm cả việc bán sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài và nhập khẩu sản phẩm từ nước khác. Kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán thuộc phạm vi quốc tế và là hoạt động kinh tế thương mại rất phức tạp. Do đó nó không chỉ là một hành vi bán riêng lẻ mà là cả một quá trình kinh doanh phức tạp bao gồm nhiều khâu khác nhau. Trong thời đại ngày nay, thời đại của cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no hạnh phúc và cũng là thời đại của việc vươn tới mở cửa và mở rộng giao lưu kinh tế. Do đó xu hướng phát triển của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ “đóng cửa” sang “mở cửa” và từ “thay thế nhập khẩu” sang “hướng vào xuất khẩu”. Có thể nói đây là con đường đúng đắn cho sự phát triển vượt bậc giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phát triển. Đối với những nước mà nền kinh tế chưa phát triển cao như nước ta thì những nhân tố thuộc về tiềm năng như lao động và tài nguyên thiên nhiên là rất lớn trong khi các nhân tố như vốn, kỹ thuật - công nghệ, và kinh nghiệm quản lý còn thiếu. Vì vậy, chiến lược hướng vào xuất khẩu thực chất là giải pháp “mở cửa ” nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài kết hợp với những tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên sẽ giúp cho nền kinh tế Việt nam tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Mặt khác, Việt nam cũng phải ra sức phát triển sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, nhập khẩu những công nghệ mới tiên tiến nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế đã đặt ra. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Ngoài ra, xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài cho phép chúng ta khai thác được tiềm năng, thế mạnh về sức lao động và tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào trong giai đoạn hiện nay phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu không những được thừa nhận là hoạt động cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại mà nó còn là một phương tiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do vậy, các Chính phủ ở các quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế của mình đều coi hoạt động xuất khẩu là một hoạt động trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2.2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế ta thấy, bất cứ một ngành sản xuất hay kinh doanh nào muốn thu hút được kết quả cao đều phải biết khai thác và phát huy triệt để những lợi thế sẵn có ở bên trong cũng như bên ngoài một cách đúng đắn và hợp lý. Đối với hoạt động xuất khẩu của Việt nam cần phải tận dụng các nguồn tiềm năng để mang lại hiệu quả ngày càng cao. Chúng ta có những điều kiện thuận lợi: nước ta là một nước Đông nam á nằm ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương - khu vực được coi là phát triển “năng động”, có tầm chiến lược ngày càng quan trọng trên bản đồ chính trị và kinh tế thế giới. Vị trí của Việt nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước SNG, Trung Quốc, Nhật bản, Nam Triều Tiên sang các nước Nam á, Trung Đông, và Châu phi. Với một vị trí thuận lợi như vậy tạo điều kiện cho Việt nam tham gia vào phân công lao động quốc tế và trong sự hợp tác với các nước trong khối ASEAN, trong khu vực, và các nước trên thế giới một cách dễ dàng. Mặt khác, nó cũng góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Không những thế, Việt nam còn có biển chạy dọc theo chiều dài đất nước, nhất là từ Phan Thiết trở vào còn có cảng nước sâu, khí hậu tốt, không có sương mù, tàu bè nước ngoài có thể cập bến an toàn quanh năm. Điều này rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán giữa các nước. Mặt khác, về vận tải hàng không, tuy chúng ta chưa có nhiều sân bay nhưng chúng ta có sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng cách đều thủ đô các thành phố quan trọng trong vùng như Băng cốc (Tháilan), Giacacta (Indonexia), Mamila (Philipin). Thông qua đó cho phép chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như hoạt động xuất nhập khẩu. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta cũng là một trong những nguồn tiềm năng góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Có thể kể đến là: + Đất đai : diện tích đất nông nghiệp nước ta tuy không lớn (bình quân đất sử dụng trên đầu người thấp 0.11 ha/người) nhưng mầu mỡ có thể sử dụng nhiều lần trong một năm. Hơn nữa, Việt nam nằm trong vùng khí hậu ẩm nhiệt đới thích hợp nhiều loại cây trồng có hiệu quả cao như cà phê, hạt điều, cao su, đậu, gạo, lạc, và các loại cây ăn quả khác. + Rừng : có khoảng 15-16 triệu ha đất lâm nghiệp nhưng chỉ còn 7,8 triệu ha có rừng che phủ. Trong đó có nhiều loại gỗ quý như lim, sếu, táu... + Biển, thuỷ sản: Việt nam có hơn 300 km bờ biển với trữ lượng thuỷ hải sản thuộc phạm vi hàng hải cho phép đánh bắt mỗi năm khoảng 4,3 - 4,5 triệu tấn cá, 5-6 vạn tấn tôm. Vùng ven biển có khả năng phát triển mạnh sản xuất cá tôm, thuỷ hải sản. + Khoáng sản : Theo các tài liệu cho biết, nước ta có nhiều khoáng sản với trữ lượng không nhỏ, trong đó đáng chú ý là: Than: chủ yếu tập trung ở Quảng Ninh có trữ lượng khoảng 3,59 tỷ tấn, vùng Thái nguyên có trữ lượng thăm dò 80 triệu tấn. Dầu thô: trữ lượng dự đoán khoảng 5 tỷ tấn, trữ lượng khai thác 1,2-1,4 tỷ tấn. Nước ta thuộc loại nước có nhiều dầu thô trên thế giới. Quặng sắt: tập trung chủ yếu ở khu mỏ Thạch Khê (Hà tĩnh) có trữ lượng thăm dò 580 triệu tấn. Quặng sắt Thạch Khê có chất lượng tốt, hàm lượng ôxít sắt cao 60-62%. Ngoài ra, Việt nam còn nhiều khoáng sản quý hiếm khác như boxit apatit, titan, mangan, thiếc, nhôm, chì... đang chờ thu hút vốn và kỹ thuật để khai thác. Với những nguồn tài nguyên này, chúng ta phải sử dụng chúng theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối. Hơn nữa nước ta lại có hệ thống sông ngòi dày đặc giúp cho việc phát triển hệ thống giao thông đường thuỷ tạo điều kiện phát huy thế mạnh cho việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta với các nước trên thế giới được dễ dàng thuận lợi hơn và chi phí thấp hơn so với các phương tiện khác. Về nguồn nhân lực Việt nam có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Việt nam là thị trường đáng kể và là đối tượng được quan tâm của giới kinh doanh quốc tế. Thêm vào đó, việt nam có tình hình chính trị - xã hội tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế mấy năm qua đạt tỷ lệ cao so với các nước trong khu vực. Cụ thể năm 1995 tốc độ tăng trưởng 9,5 %, năm 1996 là 9,3%, năm 1997 là 8,2%, năm 1998 là khoảng 5,8%. Chúng ta có sự cải thiện liên tục tình hình kinh tế, pháp luật và chính sách thương mại. Đó là những nhân tố tạo niềm tin và sức hấp dẫn cho các đối tượng nước ngoài. Bên cạnh những cơ hội, chúng ta cũng còn gặp rất nhiều khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Vì xuất phát điểm của chúng ta quá thấp. Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ “tụt hậu ” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vục và trên thế giới. Mỹ và phương tây tiếp tục mưu toan thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”. Gây áp lực đối với chúng ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, đa nguyên đa đảng. Nguy cơ đi chệch hướng XHCN. Nền kinh tế trong nước còn nhiều yếu kém. Vẫn hiện trạng tham ô, tham nhũng nhiều. Bộ máy quản lý còn quan liêu, thủ tục hành chính còn dườm dà. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu lại vừa yếu, đặc biệt đối với cán bộ thuộc lĩnh vực ngoại thương. Nhận thức rõ những điều kiện thuận lợi và khó khăn trên Đảng và Nhà nước ta đã đề ra phương hướng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống. Hướng mạnh vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Mở rộng quan hệ kinh tế đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài, trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vị trí, vai trò quan trọng trong đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện ở các mặt sau: 2.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ở nước ta, để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước trong thời gian ngắn, đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: đầu tư nước ngoài, vay nợ hoặc viện trợ, ngoại tệ thu được từ các nguồn khác. Trong các nguồn trên thì các nguồn như vay nợ và đầu tư nước ngoài tuy quan trọng nhưng cũng phải trả sau này. Và việc sử dụng chúng một cách thái quá sẽ gây hậu quả cho việc trả nợ về sau. Vì vậy, nguồn từ xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ quan trọng phục vụ cho quá trình nhập khẩu, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng nên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng của việc xuất khẩu bởi xuất khẩu - nguồn vốn duy nhất để trả nợ. 2.2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta . Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa.Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản là chưa đủ cho nhu cầu tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và thay thế cơ cấu kinh tế cũng sẽ rất chậm chạp. Hai là, coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điển thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này nên sản xuất thể hiện ở các mặt sau: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội đầy đủ cho việc phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu như bông, vải sợi... Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu gạo, chè, cà phê... sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành chế biến có liên quan. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Khi sản xuất bắt đầu lớn mạnh thị trường trong nước không đủ khả năng làm cho sản xuất phát triển mạnh được, chỉ có thị trường rộng lớn ở bên ngoài mới có thể đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng của các ngành nghề trong nước và đảm bảo sản xuất phát triển ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn, kỹ thuật và công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi với thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và không ngừng phát triển trong hoạt động kinh doanh của mình để có thể đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường thế giới. 2.2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống của nhân dân bao gồm rất nhiều mặt: Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi tiêu thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập không nhỏ. Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân hiện nay. 2.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh trế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đôi ngoại, khi xuất khẩu phát triển nó cũng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển theo như quan hệ về chính trị và ngoại giao. Mặt khác các quan hệ chính tri, kinh tế, ngoại giao phát triển mạnh lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. (có: biện pháp thúc đẩy XNK) 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu. 3.1. Yếu tố pháp luật Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra với sự tham gia của các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Mỗi một quốc gia đều có bộ luật riêng, trình độ pháp luật, hành pháp, tư pháp phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế ở các quốc gia đó. Các yếu tố pháp luật không chỉ chi phối hoạt động kinh doanh ở trên chính quốc gia đó mà nó còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Để có thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế thì trước hết doanh nghiệp phải hiểu rõ môi trường pháp luật ở chính quốc gia mình và quốc gia của đối tác cùng các thông lệ quốc tế hiện hành, vì chính các yếu tố pháp luật có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, tạo ra các cơ hội mới cho doanh nghiệp để tăng doanh số b._.án hàng, tăng lợi nhuận kinh doanh, khai thác được các cơ hội trong kinh doanh, mở rrộng hoạt động trên thị trường thế giới. 3.2. Yếu tố kinh tế Yếu tố kinh tế bao gồm các yếu tố sau: Chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, vấn đề lạm phát, thuế quan. Yếu tố kinh tế có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất nhập khẩu ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vi mô yếu tố kinh tế ảnh hưởng tới cơ cấu tổ chức và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Còn ở tầm vĩ mô yếu tố kinh tế tác động đến đặc điểm và sự phân bố của các cơ hội kinh doanh quốc tế và qui mô thị trường quốc tế. 3.3. Yếu tố khoa học công nghệ Một doanh nghiệp muốn có sản phẩm có chất lượng cao để tự khẳng định mình khi tham gia vào quá trình thương mại quốc tế thì không thể không áp dụng những thành tựu của khoa học trong quá trình sản xuất. Các yếu tố khoa học - công nghệ có mối quan hệ khá chặt chẽ với các yếu tố kinh tế nói chung và tới hoạt động xuất nhập khuẩu nói riêng. Khi khoa học công nghệ phát triển sẽ cho phép doanh nghiệp thực hiện công việc chuyên môn hoá ở mức cao hơn, tay nghề của người lao động càng được củng cố và nâng cao. Khoa học công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có được sự nhạy bén trong việc nhận biết thông tin, sự kiện đang xảy ra xung quanh. Khoa học công nghệ phần nào giúp cho doanh nghiệp hiểu được thị hiếu, nhu cầu, sở thích của khách hàng để từ đó đưa ra phương pháp thích hợp, kịp thời với sự biến đổi của thị trường. Khoa học công nghệ đặc biệt là trong lĩnh vực máy tính, điện gia dụng, các sản phẩm giải trí và hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu đã làm tăng khả năng truyền đạt và nhận biết các thông tin về ý tưởng cải tiến hoặc đổi mới sản phẩm giúp cho doanh nghiệp có khả năng bắt kịp với sự phát triển chung, đẩy lùi lạc hậu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, doang nghiệp có thể áp dụng thành tựu của khoa học công nghệ vào thiết kế, thử nghiệm, cải tiến sản phẩm, phân tích và dự báo xu hướng biến động của thị trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 3.4. Yếu tố chính trị Yếu tố chính trị có thể là yếu tố khuyến khích hoặc yếu tố hạn chế quá trình xuất nhập khẩu. Việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thiết lập các quan hệ là sự tác động mang tính tích cực, làm tăng cường sự liên kết các thị trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu. Chính sách của chính phủ đặt ra để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước và thị trường nội địa bởi sự cạnh tranh của nước ngoài với chính sách kinh tế có lợi cho doanh nghiệp trong nước bằng các hình thức như hàng rào thuế quan. Nhưng ngược lại, sự không ổn định về chính trị xẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế và kìm hãm các mối quan hệ quốc tế. Nhiều nơi trên thế giới hiện nay, sự bất ổn định về chính trị và các cuộc chiến tranh sắc tộc diễn ra liên tục. Tại đây, sự an toàn trong kinh doanh là không cao hoặc có. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp đang hoạt động tại đó phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh của mình. Họ phải đánh giá lại các cơ hội kinh doanh trên thị trường và phân bổ lại các nguồn lực sang các thị trường khác nơi có độ an toàn cao hơn. Một xã hội phát triển khi mà chính phủ thể hiện sự quan tâm của mình tới đời sống nhân dân. Cũng như vậy, các doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu kinh tế thì phải thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó sự quan tâm của xã hội được thể hiện qua mục tiêu về xã hội như Nhà nước tăng cường các qui định về cạnh tranh, các qui định về tiêu chuẩn sản phẩm, nhãn hiệu, an toàn vệ sinh. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển dần sang nền kinh tế thị trường. Việt Nam cũng như các nước tiến hành “mở cửa” nền kinh tế với sự hỗ trợ về giá của Nhà nước tạo ra một cơ chế định giá theo thị trường. Sự chuyển đổi này ảnh hưởng đến cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang hoạt động và mở ra các cơ hội kinh doanh mới trong các thị trường bị hạn chế trước đây. Các doanh nghiệp không có phản ứng linh hoạt xẽ chịu qui luật đào thải của sự cạnh tranh. Vậy các yếu tố chính trị có ảnh hưởng đến việc mở rộng phạm vi tiêu thụ sản phẩm và mở ra các cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp. Song chính các yếu tố chính trị cũng có thể là chiếc rào chắn giới hạn sự tự do hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới. 3.5. Yếu tố văn hoá xã hội Các yếu tố văn hoá xã hội có thể là: lối sống, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, thị hiếu… của người tiêu dùng. Các yếu tố văn hoá xã hội có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu thị trường làm nền tảng cho sự xuất hiện thị hiếu tiêu dùng, nó có tính chất quyết định đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Hoạt động xuất nhập khẩu được coi là hoạt động hết sức phức tạp vì hoạt động xúat nhập khẩu chịu sự tác động của nền văn hoá - xã hội của nhiều quốc gia có quan hệ ngoại thương. 3.6. Yếu tố thuộc về doanh nghiệp Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ban lãnh đạo doanh nghiệp: đây là bộ phận đầu não của doanh nghiệp, là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp để đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển công ty, đồng thời giám sát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch đề ra. Ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu khi đưa ra chiến lược kinh doanh. Cơ cấu tổ chức bộ máy: Một cơ cấu tổ chức hợp lý xẽ loại trừ sự bất hợp lý cùng các nhiễu trong sự truyền tải thông tin từ ban lãnh đạo đến các thành viên trong doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức này cũng có thể sửa đổi, bổ sung lượng thông tin kịp thời, chính xác, đúng vị trí một cách nhanh chóng. Đồng thời cơ cấu tổ chức cũng ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong kinh doanh bởi cách tổ chức theo từng loại cơ cấu như: trực tuyến chức năng, trực tuyến tham mưu… Cơ cấu tổ chức phải tìm được cách tổ chức hợp lý sao cho phát huy được hết sức mạnh của từng ban ngành, bộ phận, tạo hiệu quả kinh doanh cao nhất. Nguồn lực của công ty: hoạt động xuất nhập khẩu chỉ có thể tiến hành tốt khi đã có sự tiến hành nghiên cứu thị trường. Do đó vấn đề ở đây là phải có được đội ngũ cán bộ kinh doanh có chuyên môn trong lĩnh vực này, có kiến thức về thị trường quốc tế cũng như cách giải quyết các thủ tục hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoài ra, một doanh nghiệp hoạt động được tốt thì cũng cần có hệ thống cơ sở vật chất hoàn chỉnh như văn phòng, nhà xưởng, trang thiết bị… phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. 3.7. Yếu tố về sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường, mỗi một loại sản phẩm được sản xuất ra đều xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Nhà sản xuất phải biết thị trường cần gì trên cơ sở đó sản xuất kịp thời để phục vụ. Doanh nghiệp phải thực hiện theo phương châm sản xuất cái gì mà thị trường cần chứ không phải sản xuất cái gì mà nhà sản xuất có. Có như vậy thì hàng hoá của doanh nghiệp mới có thể thu hút được khách hàng. 3.8. Yếu tố đồng tiền thanh toán Phương thức thanh toán luôn gắn liền với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoại tệ mạnh là phương tiện thanh toán chủ yếu trong quan hệ thương mại quốc tế. Nếu đồng ngoại tệ biến động thì cũng xẽ ảnh hưởng đến các bên tham gia. Một hoặc một số các bên tham gia xẽ bị thiệt hại cũng như lợi tuỳ theo đồng tiền giao dịch mất giá hay được giá so với đồng tiền của mình. Đồng tiền giao dịch cần được ổn định để cho các bên tham gia cùng có lợi. II. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. 1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.1 Khái niệm về đầu tư. Các nhà kinh tế cho rằng: Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu hút về các kết quả nhất định trong tương lai, lớn hơn là các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các sản phẩm tài chính (tiền, vốn) tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…) tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kĩ thuật…) và nguồn nhân lực có điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. 1.2. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào quá trình điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm về kết quả, cùng hưởng lợi và cùng chia xẻ rủi ro tuỳ theo kết quả của hoạt động kinh doanh và phần vốn góp. Đây là loại hình đầu tư khá phổ biến hiện nay. Theo điều 1 chương I của luật đầu tư nước ngoài ngày 12/11/1996 qui định: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt nam vốn bằng tiền mặt hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của luật này”. ã Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi cao, không có những ràng buộc về chính trị, không dể lại gánh nặng nợ nần cho kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành mọi hoạt động đầu tư nếu doanh ngiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành hoạt động kinh doanh tuỳ theo phần vốn góp của mình. - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý…là những mục tiêu mà các hình thức khác không thể giải quyết được. - Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. 1.3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là doanh nghiệp sử dụng vốn dưới dạng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức cá nhân nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. ã Phân loại doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư nước ngoài được thông qua nhiều hình thức như: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC), cho thuê thiết bị. Ngoài ra các nhà đầu tư nước ngoài còn được đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao dưới các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hai loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phổ biến nhất hiện nay là Liên doanh và Đầu tư độc lập tạo ra các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến hoạt động xuất nhập khẩu. Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng thời kỳ đổi mới. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam ban hành năm 1997 đánh dấu sự khởi đầu của quá trình mở cửa nền kinh tế. Những đóng góp của nguồn vốn FDI đối với nền kinh tế. - Luồng vốn FDI đẫ bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển nhằm thực hiện mục tiêu đưa đất nước ra khỏi khủng khoảng, ổn định và phát triển kinh tế góp phần khai thác nội lực về vốn, đất đai, tài nguyên, lao động của đất nước. - Luồng vốn FDI bổ sung đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hình thành những cân đối lớn của nền kinh tế. Hoạt động của khu vực FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá trên thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu các hàng hoá thiết yếu, qua đó làm cho quan hệ cung cầu trên thị trường ổn định cân đối, tạo khả năng giảm giá và tỷ lệ lạm phát, nâng cao mức sống xã hội. Hoạt động của khu vực FDI cũng có những tác động tích cực đến cân đối chung của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển của khu vực FDI và mức đóng góp của chúng vào nguồn thu ngân sách ngày một gia tăng, tạo khả năng chủ động hơn trong cân đối ngân sách, giảm mức bội chi ngân sách. Nguồn vốn FDI vào Việt nam là của tư nhân và ngay cả các khoản vay đều do tư nhân nước ngoài bảo lãnh, do phía nước ngoài tự cân đối ngoại tệ là chính nên không ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia. Mặt khác, thế mạnh của FDI trong xuất khẩu cộng với đóng góp tiềm năng của FDI vào lĩnh vực thu ngoại tệ khác như khách sạn, du lịch đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán vãng lai. Ngoài ra, trong thời kỳ đầu tuy nhập khẩu trong hoạt động FDI lớn hơn xuất khẩu nhưng mặt nhập khẩu này mang tính tích cực vì nó tạo ra tài sản cố định và công nghệ cho sự phát triển bền vững. Khi hoạt động FDI được định hướng tốt hơn và ổn định thì cánh kéo xuất nhập khẩu trong khu vực này sẽ được thu hẹp lại và về lâu dài FDI sẽ có tác động tích cực đến cán cân thương mại quốc tế. - Nguồn vốn FDI góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo          hưóng CNH - HĐH đất nước. + Đại bộ phận vốn FDI hiện nay là đầu tư vào khu vực công nghiệp xây dựng ( 49.5%) và dịch vụ ( 46,5%). Do đó, đây là nhân tố quan trọng tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ. + Hiện nay, khu vực có vốn FDI tạo ra gần 25% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 24%/năm trong những năm gần đây, nó đã góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung lên rõ rệt. + Khu vực có vốn FDI hiện nay chiếm 100% về khai thác dầu thô, 70% công suất chế biến thép và kết cấu thép, 53,8% cán thép, 24% công suất xi măng và sẽ tăng lên 41% sau năm 2000. Trong công nghiệp điện tử, vốn FDI chiếm trên 50%, trong đó 100% về các sản phẩm như tụ điện, mạch in, máy thu băng, đầu video; chiếm 70% về đèn hình các loại. Trong công nghiệp dệt may vốn FDI chiếm 100% về năng suất sợi PE và PES, 55% năng lực kéo sợi; 39,3% năng lực may; 32% sản xuất giầy dép. Trong ngành rượu bia và nước giải khát vốn FDI có năng lực sản xuất chiếm 78% về rượu; 48% về bia; 56,5% về nước giải khát có ga. Ngoài ra khu vực có vốn FDI còn chiếm 28% về chế biến thực phẩm; 14% sản lượng hoá chất... Như vậy, khu vực có vốn FDI đã tạo ra một khối lượng hàng hoá lớn đáp ứng nhu cầu thị trường, hạn chế tối đa việc phải nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng như trước đây. + Hoạt động của khu vực FDI đã tạo ra nhiều ngành nghề mới và sản phẩm mới, đem lại năng lực sản xuất mới và công nghệ mới trong các ngành sản xuất mũi nhọn. Nhìn chung phần lớn các trang thiết bị đưa vào các doanh nghiệp có vốn FDI là đồng bộ, có trình độ cơ khí hoá trung bình hoặc cao hơn các thiết bị đã có ở trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Một số thiết bị đã qua sử dụng nhưng đã được qua tân trang lại hoặc tự động như các máy dệt, máy cán kim loại. + Hoạt động chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều sản phẩm tốt, hình thức đẹp đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng như hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản... Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều đạt tiêu chuẩn Việt nam, một số đạt tiêu chuẩn ISO. Sự cạnh tranh của các sản phẩm thuộc khu vực có vốn FDI và của hàng ngoại đã thúc ép các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. - Nguồn vốn FDI đã có đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng nguồn thu ngân sách. + Tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn FDI đến hết năm 1997 đạt 8,2 tỷ USD. Trong đó năm 1995 đạt gần 1,4 tỷ USD; năm 1996 đạt trên 1,8 tỷ USD; năm 1997 đạt khoảng 2,35 tỷ USD. Năm 1998 ước đạt 3 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng doanh thu thời kỳ 1991- 1997 từ 25% - 30%. + Đóng góp của khu vực có vốn FDI vào GDP tăng dần qua các năm: tỷ lệ này đạt 2% năm 1992; 3,6% năm 1993; 7,7% năm 1996 và 8,65 năm 1997. Nếu tính cả xây dựng cơ bản và dịch vụ khác thì tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI vào GDP của cả nước đạt trên 10%. + Quy mô xuất khẩu của khu vực có vốn FDI tăng nhanh qua các năm: Năm 1991 xuất khẩu đạt 52 triệu USD; năm 1995 đạt 440 triệu USD ; năm 1996 đạt 786 triệu USD; năm 1997 đạt 1720 triệu USSD; năm 1998 đạt 2000 triệu USD. Tỷ lệ xuất khẩu so với doanh thu tăng nhanh qua các năm: Năm 1995 đạt 31%; tăng lên 445 năm 1996; năm 1997 là 60%. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng như dệt may, giầy dép... Sự phát triển nhanh của hoạt động FDI cũng thúc đẩy mạnh các hoạt động du lịch và thu ngoại tệ tại chỗ của Việt nam. + Cùng với nhịp độ phát triển của khu vực có vốn FDI, nguồn thu nộp ngân sách từ các doanh nghiệp có vốn FDI ngày một gia tăng, tốc độ tăng trưởng bình quân 35% trong vòng 4 năm trở lại đây. Mức nộp ngân sách( không tính nguồn thu từ dầu thô) qua các năm cụ thể là: Năm 1994 đạt 128 triệu USD; năm 1995 đạt 195 triệu USD; năm 1996 đạt 263 triệu USD; năm 1997 đạt 315 triệu USD; năm 1998 nộp ngân sách nhà nước là 320 triệu USD. - Khu vực có FDI đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực, nâng cao sức mua trong nước. + Năm 1998 khu vực có vốn FDI đã thu hút 269500 lao động trực tiếp là người Việt nam. Tuy nhiên con số này có thể thấp hơn thực tế vì chưa tính đến hàng chục vạn lao động gián tiếp thông qua các hợp đồng xây dựng, cung ứng dịch vụ liên quan đến các dự án FDI. Với khả năng tiếp nhận số lượng lớn lao động nên FDI đã góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo nên một thị trường lao động đầy đủ các yếu tố cung cầu và cạnh tranh. Qua đó thúc đẩy sự quan tâm của xã hội đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo với mong muốn có việc làm với thu nhập cao và có chỗ đứng vững vàng trong xã hội. + Lương trung bình của công nhân làm việc cho các dự án FDI cao hơn đáng kể so với các khu vực khác khoảng từ 30% - 50% tuy theo từng ngành khác nhau. Trong khu vực có vốn FDI mức lương trung bình hiện nay là 70 USD/tháng: trong lĩnh vực dịch vụ từ 100 - 150 USD/ tháng. ước thu nhập của người lao động trong khu vực có vốn FDI hàng năm lên tới 300 USD. + Nhiều dự án FDI đã tạo cho lao động Việt nam có điều kiện nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng , công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến ngay tại doanh nghiệp có vốn FDI hoặc được gửi đi lao động ở nước ngoài. Nguồn lao động cũng được rèn luyện về kỷ luật lao động, tác phong lao động công nghiệp và thích ứng dần với cơ chế lao động mới. Trong tổng số lao động Việt nam làm việc cho các doanh nghiệp có vốn FDI thì có khoảng 6000 cán bộ quản lý, trên 25000 cán bộ kỹ thuật và trên 120000 công nhân lành nghề, trong đó số người có trình độ đại học khoảng 15%. Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đến hết năm 1998 có 2580 dự án được cấp giấy phép đầu tư với số vốn đăng ký đạt 35290,6 triệu USD. Năm 1998 có 133 dự án mở rộng quy mô với số vốn tăng thêm là 769 triệu USD doanh thu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3000 triệu USD. Tỷ lệ đóng góp vào GDP năm 1998 là khoảng 9,5%. Xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 1998 đạt 2000 triệu USD tăng hơn 11,7% so với năm 1997 ( năm 1997 đạt 1790 triệu USD ). Năm 1998 đầu tư vào KCN - KCX là 54 dự án, tổng số vốn đạt 266,2 triệu USD, giảm 17,76% so với năm 1997. Ta có thể có nhận xét sau về tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: - Nhịp độ thu hút FDI vào Việt Nam tăng nhanh so với các nước trong khu vực, nhất là thời kỳ 1991-1996. Quy mô vốn đầu tư cấp giấy phép năm 1996 bằng 6,6 lần năm 1991, là năm đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu ổn định và phát triển. Nguồn vốn FDI vào Việt Nam tăng nhanh vì Việt Nam là thị trường đầu tư mới có môi trường kinh tế vĩ mô tương đối ổn định và đang xúc tiến quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư, các quy định của luật đầu tư hấp dẫn và thông thoáng hơn. Tuy nhiên tương tự Trung Quốc và các nước ASEAN, vốn FDI vào Việt Nam từ năm 1997 đến nay chững lại và giảm sút do ảnh hưởng của cạnh tranh quốc tế và khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. - Cơ cấu thu hút vốn FDI thay đổi theo chiều hướng phù hợp hơn với yêu cầu dịch chuyển cơ cấu kinh tế của đất nước. Những năm đầu, vốn FDI tập trung phần lớn vào thăm dò, khai thác dầu khí và xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê. Nhưng trong những năm gần đây, đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất ( nhất là công nghiệp ) tăng nhanh, hiện chiếm khoảng 76,5% số dự án và 53,5% vốn đầu tư trong đó 2/3 số dự án là đầu tư chiều sâu để nâng cấp, mở rộng cơ sở kinh tế hiện có. Cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh hợp lý hơn, hướng mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ cấu sản xuất công nghiệp, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử dụng hiệu quả tài nguyên và nguồn lao động, ứng dụng được công nghệ cao và kỹ thuật hiện đại. Tuy nhiên vốn FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn rất hạn chế, hiện mới có khoảng 297 dự án ( chiếm 12,5% ) với số vốn đăng ký là 1287 triệu USD (chỉ tương khoảng 4% tổng số vốn FDI ). Tỷ trọng đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ khá cao (chiếm 46,5%) tuy số dự án không nhiều (23,5% ): trong đó riêng lĩnh vực khách sạn, du lịch, văn phòng, căn hộ cho thuê còn chiếm tới 34,74% số vốn đăng ký, tuy số dự án chỉ chiếm 12,3%. Ưu tiên nghành của FDI còn tuỳ thuộc vào các nhà đầu tư của các nước. Các công ty quốc gia của các nước công nghiệp phát triển như Nhật, Tây Âu, Mỹ hướng vào các dự án khai thác dầu khí lớn, công nghiệp sản xuất ô tô, viễn thông, hoá chất... Ngược lại, các nhà đầu tư các nước NICs, Đông á, ASEAN lại tập trung nhiều hơn vào công nghiệp nhẹ, chế biến lương thực, thực phẩm, xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê. Năm 1998, có thể được coi là năm có nhiều biến động trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, trong năm qua đã có sự khởi sắc ở một số nguồn đầu tư mới. Sự tham gia của Liên Bang Nga và Anh vào những dự án lọc dầu và sản xuất metalnol từ khí đồng hành với vốn đầu tư của mỗi dự án từ vài trăm triệu USD đến 1,3 tỷ USD đã đưa hai nước này “vọt” lên vị trí 1 và 3, còn Singapore với dự án du lịch Đà Lạt - Danhia 706 triệu USD vẫn giữ vị trí số 2 trong số 28 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án được cấp phép đầu tư vào Việt Nam năm 1998. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ cũng có chuyển biến: hiện có 61 tỉnh, thành phố có dự án FDI. Những năm đầu, vốn FDI chủ yếu tập trung vào khu vực phía nam, các tỉnh phía bắc chỉ chiếm khoảng 25% dự án và 20% vốn đăng ký. Đến nay, các tỷ lệ này đã tăng lên 28,5% và 39%. Về cơ cấu vùng lãnh thổ, nhìn chung, nguồn vốn FDI năm 1998 vào hầu hết các địa phương nằm trong các vùng kinh tế trọng điểm đều giảm mạnh, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Quảng Ninh... Bảng 1: Mười địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư năm 1998 ( tính đến ngày 3/12/1998) Tỉnh (Thành phố) Số dự án Vốn đầu tư (Tr. USD) Quảng Ngãi 1 1300,00 Lâm Đồng 12 732,72 TP. Hồ Chí Minh 82 703,89 Hà Nội 46 651,98 Bình Dương 33 193,54 Đồng Nai 21 123,64 Quảng Ngãi 7 88,51 Long An 6 39,02 Đã Nẵng 3 32,30 Bà Rịa - Vũng Tàu 8 23,00 Nguồn: Vụ đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch và đầu tư - Đối tác hợp tác đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng mở rộng, trong đó nguồn vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu từ các nước trong khu vực. Hiện nay đã có hàng ngàn công ty nước ngoài thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ có dự án FDI tại Việt Nam, trong đó ngày càng xuất hiện nhiều tập đoàn công ty xuyên quốc gia lớn có năng lực về tài chính, công nghệ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng chú trọng thu hút vốn FDI của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước ngoài vì đó là các doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thương trường, phù hợp với đối tác Việt Nam về khả năng góp vốn, năng lực tiếp thu công nghệ và có điều kiện tạo ra nhiều việc làm mới. Tuy nhiên khoảng 68% vốn đầu tư nước ngoài là từ các nước trong khu vực như các nước NICs, Đông á, ASEAN và Nhật Bản đã chiếm 60% vốn FDI. Các nước ASEAN chiếm 24,8% trong đó Singapore chiếm 17,14%, các nước ASEAN còn lại chỉ chiếm 7,67%. Nhóm G7 đã có 24,4% số dự án và 22,1% vốn FDI đăng ký tại Việt Nam, trong đó Nhật Bản chiếm 12% dự án và 10,2% vốn FDI, các nước G7 còn lại chỉ chiếm 12,4% dự án và 11,9% vốn FDI. Trong giai đoạn đầu, đầu tư nước ngoài chủ yếu bao gồm các dự án vừa và nhỏ của Đài Loan, Hồng Kông nhưng sau chuyển sang các dự án có quy mô lớn hơn của các công ty đa quốc như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ và Tây Âu. Bảng 2:Mười nhà đầu tư lớn nhất tại Việt nam ( tính đến3/12/1998) Tên nước, vùng lãnh thổ Số dự án Vốn đầu tư Singapore 208 6478,12 Đài Loan 400 4489,06 Nhật Bản 265 3711,79 Hàn Quốc 210 3253,30 Hồng Kông 197 2553,47 B.V. Islands 73 1719,25 Pháp 96 1505,12 Nga 29 1404,16 Malaysia 63 1346,09 Mỹ 75 1127,34 Nguồn: Vụ Quản lý dự án, Bộ kế hoạch và đầu tư - Các hình thức đầu tư ngày càng đa dạng hơn, việc khuyến khích đầu tư theo hình thức BOT, BTO, BT và đầu tư vào các khu công nghiệp và các khu chế xuất đã mở rộng khả năng thu hút các nguồn vốn FDI mới. Hình thức đầu chủ yếu hiện nay là doanh nghiệp liên doanh, chiếm 61% số dự án và 70% vốn đầu tư. Do chính sách của Việt nam là đối xử công bằng giữa doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh và kèm theo là việc tin tưởng vào môi trường đầu tư ở Việt nam nên những năm gần đây đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài tăng lên . Nếu tính theo vốn đầu tư thì tính đến cuối tháng 6 năm 1998 các dự án liên doanh chiếm 70%, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 20%, 10% còn lại là các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của các khu chế xuất, khu công nghiệp trong việc khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước, phục vụ CNH - HĐH và khuyến khích xuất khẩu. Chính phủ đã ban hành nghị quyết 36/CP ngày 24/4/1997 về quy chế KCX, KCN và khu công nghệ cao. Đến cuối tháng 7 năm 1998,Việt nam đã có 54 KCN - KCX trong đó 48 KCN - KCX đã đi vào hoạt động, phân bố rộng khắp nơi từ bắc vào nam. Trong số 54 KCN ( không kể KCN Dung Quất thuộc dạng đặc biệt ) có 20 KCN mới hiện đại, trong đó có 13 KCN hợp tác với nước ngoài để phát triển hạ tầng, 34 KCN thành lập trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. Đến hết tháng 6/1998 trên các KCN đã có 609 doanh nghiệp hoạt động vốn đầu tư khoảng 5,8 tỷ USD, vốn thực hiện 3,5 tỷ USD, thu hút 120 nghìn lao động, 6 tháng đầu năm 1998 các KCN đã đạt giá trị sản xuất công nghiệp 890 triệu USD, xuất khẩu 552 triệu USD. Bên cạnh các kết quả đạt được, đầu tư nước ngoài tại Việt nam còn có những mặt hạn chế và những vấn đề mới nảy sinh. Một là : Cơ cấu đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa hợp lý, 10 năm qua, các dự án ĐTNN tại Việt nam mới tập trung vào một số địa bàn và những ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, ít rủi ro và cơ sở hạ tầng khá. Trong số hơn 2200 dự án đầu tư có 58% tập trung vào vùng Đông Nam Bộ (nhiều nhất là thành phố Hồ Chí Minh ) với 52,5% tổng số vốn đầu tư và 54% tổng số vốn pháp định. Kế đến là đồng bằng Sông Hồng ( chủ yếu là Hà Nội, Hải Phòng ) với 23,6% số dự án, 31,7% số vốn đầu tư, 30% vốn pháp định. Trong khi đó 6 vùng còn lại, tuy còn nhiều tiềm năng nhưng rất ít dự án đầu tư: Tây Nguyên 7 dự án với số vốn 50 triệu USD, Tây Bắc 7 dự án với số vốn 41 triệu USD, đồng bằng Sông Cửu Long có 128 dự án với số vốn 763,2 triệu USD. Trên từng địa bàn, ĐTNN lại tập trung vào một số nghành có khả năng sinh lợi nhanh, 10 năm qua đã có 189 dự án đầu tư vào khách sạn, nhà hàng với số vốn gần 4 tỷ USD 1077 dự án công nghiệp với số vốn 11,5 tỷ đồng, chủ yếu là công nghiệp lắp ráp, da, bưu điện, ngân hàng, du lịch. Số dự án đầu tư vào vùng xa, vùng nghèo, và các ngành sản xuất nông lâm nghiệp lại quá ít. Ngành nông nghiệp chỉ có 233 dự án với số vốn 1665 triệu USD, chiếm 10% số dự án và 3,8% số vốn đầu tư, 3,95 vốn pháp định. Ngành thuỷ sản lại càng ít : 80 dự án và 331 triệu USD vốn đầu tư. Hai là: Hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều, một số dự án đã đi vào hoạt động 3 - 4 năm nhưng vẫn bị thua lỗ. Nguyên nhân lỗ vốn có nhiều, song có yếu tố đáng cảnh báo là chi phí vật chất và khấu hao TSCĐ quá lớn do định giá máy móc thiết bị nước ngoài đưa vào liên doanh quá cao so với thực tế. + Phần lớn máy móc thiết bị trong các dự án FDI thuộc loại trung bình hay tiên tiến trong khu vức, ít thiết bị hiện đại. Nhiều thiết bị trong dây chuyền sản xuất đã qua sử dụng được tân trang lại, có những máy đã được sử dụng trên 2 thập kỷ nên chi phí bảo dưỡng, sửa chữa quá lớn như các dây chuyền tôn lợp, sơn mạ, sợi, dệt, sản xuất thuốc lá... Một số dây chuyền là các thiết bị thanh lý để giải phóng mặt bằng cho trang thiết bị mới của nước ngoài. + Công nghệ nhập vào Việt nam chủ yếu là công nghệ sử dụng nhiều lao động thủ công, công nghệ gia công lắp ráp đơn giản. Ba là: Khu vực có vốn FDI chưa phát huy được tiềm năng và thế mạnh về xuất khẩu, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách còn hạn chế : - Tuy khối lượng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu có tăng dần qua các năm nhưng vẫn nhỏ hơn nhiều so với tỷ trọng nhập khẩu của khu vực này so với tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước dẫn đến thâm hụt thương mại kéo dài. Kim ngạch xuất khẩu của các nước từ năm 1991 đến nay đạt 41 tỷ USD trong đó phần xuất khẩu của doanh nghiệp ĐTNN chỉ chiếm khoảng 12,2%. Hơn nữa, các dự án có vốn đầu tư của 10 nước và lãnh thổ dẫn đầu ở nước ta hiện chiếm khoảng 85% về tổng vốn đầu tư nước ngoài nhưng chỉ chiếm chưa tới 69% tổng giá trị xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp ĐTNN. Thêm vào đó là những nước có số vốn đầu tư nhiều nhất không phải là những nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Chẳng hạn, Singapore đứng đầu về vốn đầu tư nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng hàng thứ 7. Trong khi đó Hàn Quốc và Nhật Bản, tuy đứng hàng thứ 5 và thứ 4 về vốn đầu tư lại chiếm vị trí số 1 và 2 về giá trị hàng xuất khẩu. + Giá trị xuất khẩu còn thấp so với doanh thu. Theo số liệu của vụ quản lý dự án-Bộ Kế hoạnh và đầu tư tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp ĐTNN trung bình chỉ chiếm 28,6% tổng doanh thu của khu vực doanh n._. Các nguồn tài trợ khác được chính phủ cho phép Các đối tượng được xét thưởng là các doanh nghiệp có một trong các tiêu chuẩn sau: Những sản phẩm, nhóm hàng mới lần đầu tiên xâm nhập được thị trường nước ngoài Nhưng sản phẩm hàng hoá được thị trường nước ngoài ưa chuộng, tín nhiệm và công nhận về mặt chất lượng. Những loại mặt hàng cho xuất khẩu và nững mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn ( quy định cho từng loại mặt hàng ). Những loại mặt hàng có tính chất đặc biệt: sử dụng nhiều lao động ở trong nước, tỷ lệ nguyên liệu trong nước cao.. 4.4. Thương mại cân bằng qua thương lượng. Chính phủ phải có các phương án đàm phán với một số nước hiện đang xuất siêu vào Việt nam để đòi mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu Việt nam tương ứng với việc Việt nam nhập hàng của họ. 5. Cải cách thủ tục hành chính. 5.1 Khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp, bằng thủ tục và dịch vụ một cửa. Các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung với lợi thế về công nghiệp và tài nguyên sẽ có điều kiện để phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, việc đơn giản hoá thủ tục hành chính sẽ giúp cho khu vực này có sức hấp dẫn hơn không chỉ nvowis đầu tư nước ngoài mà cả đối với đầu tư trong nước. Đề nghị Chính phủ cho phép áp dụng thí điểm cơ chế “ thủ tục và dịch vụ một cửa” cho một khu chế xuất hay một khu công nghiệp tập trung. Nếu thành công sẽ áp dụng cho các KCX, KCN khác. 5.2. Đơn giản hoá thủ tục gia công. Để khuyến khích việc gia công hàng xuất khẩu nên bãi bỏ việc hạn chế chủng loại, số lượng, mặt hàng gia công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng gia công hàng dệt, may mặc, giầy dép, đồ chơi trẻ em.. xoá bỏ việc xét duyệt hợp đồng gia công và đơn giản hoá hơn nữa. Những trường hợp gia công theo phương thức mua đứt bán đoạn thì được coi như đầu tư chế biến sẽ được hưởng các chính sách đối với đầu tư chế biến. 5.3. Công khai hoá các văn bản pháp luật. Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ. Có nhiều trường hợp cả luật sư cũng không có được văn bản mới của nhà nước. Ngay cả các chuyên viên của Bộ Thương mại, nếu không chịu khó sưu tầm thì cũng khó có thể có được các quy định của các ngành khác về quản lý XNK. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định về việc đăng công báo mọi văn bản có liên quan đến quản lý của các cơ quan nhà nước ( trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban hành). Đề nghị Chính phủ có chỉ thị nhắc nhở việc này và chỉ đạo các cơ quan hữu quan giúp văn phòng Chính phủ ra công báo nhanh hơn, cập nhật hơn. Cụ thể đề nghị Chính phủ nên quy định rõ: mọi văn bản về quản lý nhà nước chỉ có hiệu lực thi hành sau khi đã được đăng trên công báo. Riêng Bộ thương mại, ngoài việc công khai hoá quy trình cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép hàng hoá, còn có trách nhiệm công khai hoá toàn bộ các doanh nghiệp được phân bổ quota hoặc chỉ tiêu nhập khẩu ( trừ những trường hợp không thể công khai hoá vì lý do an ninh, quốc phòng hay các lý do chính đáng khác được Chính phủ cho phép ). 5.4. Rà soát các thủ tục hành chính. Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính có liên quan đến việc thực hiện cấp giấy phép đầu tư, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục hưởng các chính sách ưu đãi.. mà luật đã quy định, thủ tục khai báo và kiểm hàng hoá xuất khẩu tại các cửa khẩu để bảo đảm thông thoáng, kịp thời, nhanh chóng... Xử lý nghiêm những trường hợp gây khó khăn phiền hà, chậm trễ đối với hoạt động kinh doanh, nghiên cứu áp dụng cơ chế bồi thường, bù đắp thiệt hại cho các doanh nghiệp nếu các cơ quan quản lý, kiểm tra, kiểm soát thi hành sai luật gây ra. 5.5. Quyền khiếu kiện. Đề nghị Chính phủ cho ban hành nghị định cho phép mọi công dân và tổ chức có quyền khiếu kiện các quyết định của tất cả các cơ quan tham gia quản lý xuất nhập khẩu trước toà hành chính ( hiện nay họ chỉ mới được quyền khiếu kiện các quyết định về thuế của Hải quan). Họ cũng được quyền khiếu kiện trong trường hợp bị gây phiền hà, chậm trễ, được quyền đòi bồi thường, bù đắp thiệt hại nếu chứng minh thiệt hại đó là do các cơ quan quản lý kiểm tra, kiểm soát sai luật gây ra. 5.6. Mã hàng hoá thuộc diện quản lý Hiện nay có sự bất đồng giữa cơ quan Hải quan và các doanh nghiệp về biểu thuế xuất nhập khẩu vì việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu không thống nhất theo tên gọi và mã số của chúng tại danh mục hàng hoá XNK Việt nam hoặc tên gọi và mã số trong biểu thuế xuất nập khẩu. Việc không đồng nhất về mã số này đã được các cơ quan biết đến. Tuy nhiên, các cơ quan này thi hành việc giải quyết sự không đồng nhất này rất chậm trễ và sự phối hợp giữa các cơ quan không đồng bộ dẫn tới việc chưa giải quyết được vấn đề trên. Việc này đã dẫn tới các tác hại sau: + Đây là kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế và là kẽ hở nảy sinh các tiêu cực như hối lộ tham nhũng. Điều này dẫn tới thất thu của Ngân sách Nhà nước về thuế nhập khẩu. + Việc không đồng nhất về mã số thuế gây khó khăn cho chúng ta trong quá trình hội nhập vói các nước trong khu vực (khi thực sự hội nhập về thuế quan đòi hỏi nước ta phải có một biểu thuế với mã số thuế thống nhất). + Làm cho công cụ thuế nhập khẩu không bảo hộ được sản xuất trong nước, khiến cho hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh trạnh được với hàng hoá ngoại nhập. Để giải quyết sự không đồng nhất trên, cần có sự nhất trí của các cơ quan liên quan về mã số của đối tượng nộp thuế, coi đây là một khâu quan trọng trong quá trình cải cách quản lý nhà nước theo hướng chính quy, tạo điều kiện cho việc áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế và công tác quản lý nhà nước nói chung. Việc cần làm là: + Trước mắt tổng cục Hải quan là người đứng ra quy định mã số thuế cho các doanh nghiệp và các doanh nghiệp phải ghi mã số thuế trên tất cả các hoá đơn, chứng từ của mình. Mã số thuế này được căn cứ theo danh mục hàng hoá XNK Việt nam do tổng cục thống kê ban hành. + Tương lai các Bộ sẽ phối hợp để áp dụng mã số HS cho tất cả các loại hàng hoá xuất nhập khẩu và giải thích cho các doanh nghiệp về công ước “ HS ” Công ước “ HS ” là công ước quan trọng nhất của Hải quan thế giới vì nó là một công ước về “một ngôn ngữ chung toàn cầu về hàng hoá ” liên quan đến nhiều lĩnh vực như tài chính, thương mại, thống kê.. Nhà nước ta phải cố gắng tham gia công ước “ HS ”. Khi đã trở thành thành viên tham gia công ước thì việc chấp hành các quy định của công ước trở thành nghĩa vụ của mỗi nước thành viên. 5.7. Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp. Tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu theo hướng thành lập các tổng công ty và các tập đoàn mạnh, từng bước tạo tên tuổi trên thị trường thế giới, tiến tới có những nhãn mác hàng hoá của Việt nam được thế giới biết đến và thừa nhận. Các công ty mạnh phải mở được chi nhánh ở nước ngoài để phục vụ công tác Marketing. Tóm lại với mục đích tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam, các chính sách và biện pháp được kiến nghị trên sẽ giúp hàng hoá Việt nam chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. II. Kiến nghị với doanh nghiệp. 1. Củng cố và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp. Tiềm năng của doanh nghiệp có thế bao gồm vốn kỹ thuật, công nghệ tổ chức quản lý kinh doanh… Muốn kinh doanh thành công nói chung và xuất khẩu thành công nói riêng, các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát huy tiềm năng của mình. 1.1. Về vốn: Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất – kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trự tiếp nước ngoài có thể mạnh hơn các doanh nghiệp Việt Nam ở chỗ họ có nhiều vốn hơn. Nhưng chỉ nhiều hơn thì chưa đủ mà phải biết sử dụng nguồn vốn đó như thế nào, phải huy động thêm vốn như thế nào dể không ngừng mở rộng và phát triển sản xuất – kinh doanh. Các doanh nghiệp có thể bổ sung vốn lưu động và cố định vốn của mình trích từ lợi nhuận hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản của Công ty vì nguồn vốn bên trong bao giờ cũng là vốn quyết định năng lực thực sự. Sẽ tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nếu kinh doanh tốt thì nguồn vốn này được bổ sung thêm và ngược lại. Khi nguồn vốn được bổ sung và sử dụng có hiệu quả thì có cơ hội để kinh doanh tốt. Nhưng một doanh nghiệp biết cách kinh doanh là một doanh nghiệp phải biết tận dụng không chỉ nguồn vốn tự có của mình. Viêc huy động và sử dụng vốn bên ngoài cũng là một cách kinh doanh khác, vừa là để bổ sung cho tổng vốn, vừa để tận dụng hiệu quả nguồn lực nhàn rỗi của xã hội. Như ta thấy hiện nay, các doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang yêu cầu có cơ chế cho vay đơn giản từ phía Ngân hàng, các tổ chức tín dụng…Sự lớn mạnh và phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính, tín dụng phải phát triển một cách tương ứng. Ngược lại, những doanh nghiệp nào biết sử dụng có hiệu các nguồn vốn ngoài nguồn sẵn cóthì doanh nghiệp đó sẽ thành công. Một nguồn vốn phụ khác có thể huy động được là từ đối tác kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể yêu cầu hỗ trợ tín dụng từ phía đối tác. Cụ thể là đối với một số hợp đồng xuất khẩu (quá lớn hoặc quá rủi ro) doanh nghiệp nên yêu cầu người mua (nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như vốn của mình. 1.2.Về kỹ thuật công nghệ Ngày nay, khi khoa học công nghệ đã trở thành tư liệu sản xuất thì việc tăng cường đầu tư cho mặt này trong mỗi doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu. Khoa học kỹ thuật tiên tiến và phù hợp là tiền đề cho việc đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh khi xuất khẩu.Không chỉ dừng ở việc chế tạo, lắp ráp, sơ chế mà phải đàn theo hướng tinh chế nhằm tạo ra những mặt hàng mới, giá trị và chất lượng cao trong xuất khẩu. Việt Nam có lợi thế quan trọng về lao động và tài nguyên, vì vậy trước mắt, chưa thể chuyển hẳn sang những ngành công nghệ cao, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn cần hướng vào những ngành sử dụng nhiều lao động như nông, lâm thuỷ sản phục vụ xuất khẩu. Không ngừng đầu tư vào công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong nhiều trường hợp, tận dụng những công nghệ sẵn có chưa đủ để giành được thắng lợi. Vì vậy khi cần thiết các doanh nghiệp vẫn cần mạnh dạn đầu tư vào những công nghệ tiên tiến nhất, vượt trội nhất để đạt dược mục tiêu của mình. Công nghệ mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có lợi thế trên thương trường khi tung ra một sản phẩm mới, đáp ứng được thị trường quốc tế luôn cạnh tranh gay gắt. Công nghệ kỹ thuật mới cũng giúp cho doanh nghiệp có được vị thế tốt. 1.3.Về vấn đề tổ chức hoạt động xuất khẩu. Tổ chức hoạt động xuất khẩu không chỉ tập trung ở những khâu công việc cụ thể mà trước hết còn ở việc tổ chức hệ thống quản trị. Để đói phó với một thị trường cạnh tranh gay gắt, việc nâng cao chất lượng công tác quản trị mang tính tất yếu. Nâng cao chất lượng công tác quản trị nhằm thích ứng với thay đổicủa môi trường, chủ động và hiệu quả hơn. Việc đổi mới và hoàn chỉnh bộ máy tổ chức doanh nghiệp phải đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, hợp lý. Gọn nhẹ là để tránh vết mòn mà các doanh nghiệp Việt Nam thường đi qua là quá cồng kềnh dẫn tới chồng chéo, phủ định nhau, hơn nữa sẽ không phát huy được tối đa năng lực của môĩ người. Hợp lý vừa để vận dụng được nguồn trí lực hiện có, vừa tạo ra kết quả tốt. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp cần thực hiện việc phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các nhà quản trị cấp cao; phân công đúng nhiệm vụ phù hợp với năng lực cho mỗi nhà quản trị; tổ chức sắp xếp lại thành viên trong ban chức năng… Sau khi đã có một tổ chức quản lý hợp lý, doanh nghiệp mới có thể tiến hành tổ chức hoạt động xuất khẩu cho có hiệu quả được. Các doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ là những đơn vị sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu mà còn thực hiện thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp chỉ đơn thuần sản xuất hàng xuất khẩu thì biện pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu là đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở mục sau. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu thông qua thu mua, tạo nguồn thì biện pháp cần thiết là: - Mở rộng hình thức tạo nguồn: Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy, công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thông thường thì các hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương rồi đem về phân loại, đóng gói. Với hình thức này , việc tạo nguồn diễn ra đơn giản, nhanh gọn, vốn quay vòng nhanh , không đòi hỏi máy móc thiết bị cồng kềnh, có thể chuyển đổi mặt hàng kinh doanh một cách linh hoạt. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng duy nhất hình thức này thì hiệu quả đạt được sẽ không cao vì như vậy doanh nghiệp chỉ có mối quan hệ kinh tế hết sức đơn điệu. Hơn thế đối với những nguồn hàng nhỏ lẻ, cá thể thì các doanh nghiệp không thể thu mua trực tiếp được vì sẽ tốn rất nhiều thời gian. Vì thế đa dạng hoá các loại hình tạo nguồn cũng là điều cần làm. Các doanh nghiệp có thể tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Các doanh nghiệp cũng có thể nhận xuất khẩu uỷ thác – hình thức này hiện đang rất được ưa chuộng. Các doanh nghiệp có thể lợi dụng mối quan hệ bạn hàng rộng rãi đa phương của mình để có thể thực hiện được nhiều hơn các hợp đồng uỷ thác xuất khẩu. - Tổ chức tốt khâu bảo quản, dự trữ : Một trong những biên pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố, hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hang hoá. Điều này ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có phần tốt hơn các doanh nghiệp trong nước, mặc dù vậy vẫn cần chú ý nhiều hơn. Trong tình hình hiện nay, có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàimuốn đầu tư vào những ngành và lĩnh vực được Nhà nước bảo hộ nhiều hơn là vào kinh doanh xuất khẩu. Có những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực cụ thể và đòi hỏi Nhà nước bảo hộ cho ngành mà mình hoạt động kinh doanh. Điều này thực sự không làm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trườngcũng như trong hoạt động xuất khẩu. Tóm lại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phát huy những lợi thế vốn có về vốn, về công nghệ kỹ thuật, về tổ chức sản xuất để đầu tư, sản xuất những sản phẩm mới có chất lượng cao và có sức cạnh tranh lành mạnh trên thương trường quốc tế. 2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào. Trong một doanh nghiệp thường có các loại vốn vay có tác dụng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Giải pháp tháo gỡ về vốn hiện nay là giải pháp trọng tâm mang tích quyết định đối với doanh nghiệp. Trước mắt trong bối cảnh hiện nay nguồn vốn của doanh nghiệp đã rất hạn hẹp, lại còn phải giải quyết vấn đề công nợ và giải toả thuế xuất nhập khẩu từ những năm trước, nên hiện nay khó có thể thực hiện được những hợp đồng xuất nhập khẩu có giá trị lớn. Như vậy, rõ ràng là đã bỏ mất cơ hội làm ăn. Trên thực tế doanh nghiệp vẫn đang thực hiện một số hợp đồng xuất nhập khẩu và tăng cường hơn nữa hoạt động kinh doanh nội điạ để duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp , trong khi hoạt động xuất nhập khẩu mới là hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp . Vốn đang là vấn đề doanh nghiệp thực sự quan tâm để giải quyết những vướng mắc đang còn tồn đọng trong hoạt động xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn sau : - Kêu gọi toàn bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng góp vốn, doanh nghiệp sẽ trả lãi suất, tất cả vì lợi ích chung của doanh nghiệp mà vẫn có lãi. - Vay vốn từ các ngân hàng : Trong quan hệ với các ngân hàng doanh nghiệp cần phải tạo niềm tin và chữ tín với họ thì mới có thể tăng mức tín dụng hàng năm, nhằm đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh. - Tạo những mối quan hệ tốt với các đối tác xuất khẩu để lấy uy tín, từ đó bằng uytín của mình có thể thoả thuận được trong việc thanh toán chậm. Như vậy doanh nghiệp sẽ tận dụng vốn kinh doanh, nếu tiêu thụ sớm đạt kết quả thu hồi sẽ đỡ phải đi vay ngân hàng, giảm bớt chi phí ngân hàng. Hiệu quả sử dụng đồng vốn vay của doanh nghiệp còn quá yếu. Vì thế, các biện pháp kiện toàn công tác tài chính đối với doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Trước hết, doanh nghiệp cần có sự quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn của các đơn vị kinh doanh. Trách nhiệm này thuộc về ban lãnh đạo doanh nghiệp , không nên tuỳ tiện giao vốn cho cán bộ kinh doanh mà không biết họ sử dụng đồng vốn như thế nào, có đảm bảo đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp hay không. Cần ban hành quy định về quản lý tiền vốn, quy chế về hoạt động tài chính và hoạt động kinh doanh, triệt để thực hành tiết kiệm chi dùng, tiết kiệm chi phí. Theo dõi chặt chẽ công nợ của doanh nghiệp - có kế hoạch thu chi tiền mặt và các hình thức thanh toán một cách rõ ràng hợp lý. Kiểm tra hướng dẫn sát sao các đơn vị, các phòng ban trong việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch sử dụng các loại vốn, vốn vay, vốn cố định.. Tổ chắc nghiêm túc việc quyết toán theo quý, sáu tháng, một năm đúng tiến độ, hạch toán lỗ lãi cho từng đơn vị, phòng ban giúp giám đốc nắm chắc nguồn vốn và lời lãi. Trang bị đào tạo thêm cho đội ngũ nhân viên kế toán sử dụng thành thạo máy vi tính, phục vụ tốt nhất cho công tác quản lý tài chính. Là một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp khi có nguồn vốn mạnh thì sẽ đẩy mạnh được hoạt động xuất nhập khẩu, doanh nghiệp cần có chiến lược hoàn thiện hơn nữa công tác tài chính, tranh thủ huy động và có các biện pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nhất đồng vốn vay để đưa doanh nghiệp phát triển hơn nữa chứ không phải chỉ để phục vụ cho việc duy trì hoạt động như tình hình hiện nay của doanh nghiệp . 3. Nâng cao trình độ làm việc đội ngũ cán bộ, đổi mới tổ chức cán bộ. Có thể nói, đây là một công việc hết sức cần thiết và cấp bách trong thời gian tới của doanh nghiệp . Tuy nhiên, nó cũng phải được duy trì thực hiện thường xuyên và liên tục. Bởi vì con người luôn là yếu tố quyết định sự thành bại ở bất kỳ một tổ chức kinh tế xã hội nào. Xuất nhập khẩu là một hoạt động kinh tế hết sức phức tạp. Nó đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải có trình độ cao và khả năng thích ứng với sự biến động của thị trường. Nói cách khác, một đội ngũ cán bộ kinh doanh mạnh phải là một đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời họ phải nắm bắt được chính xã mọi thông tin về sự thay đổi giá cả của thị trường cũng như nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó. Để có một đội ngũ cán bộ kinh doanh như vậy mỗi cán bộ kinh doanh và nhân viên trước hết phải là những người giói chuyên môn nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình, đồng thời phải giỏi ngoại ngữ. Luôn rèn luyện thói quen theo dõi ghi nhận, nghiên cứu và phân tích các thông tin có liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới, đồng thời phải nắm được kỹ năng sử dụng một số phương tiện phân tích thông tin và truyền tin hiện đại như máy tính, fax..để nâng cao khả năng phân tích thông tin chính xác kịp thời và nhanh chóng. Thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ nhân viên trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có nhiều người được chuyển từ các bộ phận công tác khác sang. Những người có trình độ ngoại ngữ khá hơn thì thiếu kinh nghiệm thực tế. Do đó, doanh nghiệp cần có những biện pháp nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ này, đặc biệt là đội ngũ chuyên sâu trong công tác nghiên cứu thị trường. Doanh nghiệp nên cho cán bộ kinh doanh tham gia thên các lớp học ngắn hạn để nâng cao thêm về chuyên môn nghiệp vụ, tìm hiểu thêm các vấn đề mới như đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán.. Trong doanh nghiệp hiện nay còn tồn tại một số phòng, trạm kinh doanh hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy việc tinh giảm bớt các đầu mối kinh doanh cũng như cá nhân kinh doanh kém là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trên cơ sở nhận thức đó, cần bố trí mô hình tổ chức kinh doanh hợp lý là lấy mục tiêu hiệu quả, lợi nhuận doanh nghiệp làm nền tảng. Cần có thái độ đúng trong việc bố trí sắp xếp nhân lực đảm bảo thực hiện đúng chế độ thực hiện của người lao động. Đồng thời lấy hiệu quả công tác làm tiêu chuẩn, tiêu thức. Đòi hỏi đặt ra với doanh nghiệp hiện nay là cần sắp xếp bố trí những cán bộ lãnh đạo dưới quyền giám đốc, bao gồm những người có trình độ quản lý, có năng lực hoạt động kinh doanh, có chuyên môn cao, tạo điều kiện tốt nhất để họ phấn đấu trở thành những người tiêu biểu làm kinh doanh. 4. Thông tin về đối tác thị trường . Thông tin có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Có thể nói nhờ có thông tin mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh được. Do vậy trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thông tin càng vô cùng quan trọng bởi đặc điểm riêng của loại hình này. Hiện tượng các doanh nghiệp Việt Nam đơn phương độc mã tham gia vào thị trường nước ngoài thất bại cũng chủ yếu là do thiếu thông tin hoặc thông tin không kịp thời. Trên thương trường, ai không nhận thức và vận dụng không đúng các quy luật của nó thì thất bại là điều tất yếu. Để tiếp cận và hoà nhập với thị trường quốc tế thì công tác thông tin về thị trường, về đối tác phải thực hiện hoàn chỉnh thì mới đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thuận lợi, tận dụng được cơ hội, tránh rủi ro. Do mỗi nước có đặc điểm riêng nên phải thu thập những thông tin cần thiết về thị trường. Công tác điều tra nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu cần bao gồm những nội dung chủ yếu sau: + Điều tra nghiên cứu hàng hoá xuất nhập khẩu của thị trường đó. Trên cùng một thị trường hàng hoá ở nước ngoài có tiêu thụ hàng hoá cùng loại của các nước. Trong số hàng hoá cùng lợi này, thường là hàng hoá của một số nước chiếm phần nhiều thị trường, một số hàng hoá chiếm phần ít thị trường. Điều này có quan hệ mật thiết đến chất lượng, quy cách, chủng loại của hàng hoá có thích ứng với thị trường hay không. Doanh nghiệp cần làm rõ tình hình tiêu thụ của thị trường các hàng hoá có chủng loại khác nhau này, đặc biệt cần nghiên cứu đặc điểm của các loại hàng bán chạy trên thị trường nhằm chủ động tích cực thích ứng với nhu cầu của thị trường. + Điều tra quan hệ cung cầu của thị trường. Quan hệ cung cầu trên thị trường của hàng hoá quốc tế thường thay đổi. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ này như : Chu kỳ sản xuất, chu kỳ tiêu thụ, tập quán tiêu dùng. Cần phải căn cứ vào quy luật biến động cung cầu của thị trường. Đồng thời, tìm hiểu nhu cầu thực tế xuất nhập khẩu của nước mình để có kế hoạch xuất nhập khẩu hợp lý. + Điều tra nghiên cứu giá cả thị trường hàng hoá quốc tế: Xu hướng biến động giá cả của các loại hàng trên thị trường thế giới rất phức tạp. Có lúc tăng, lúc giảm, cá biệt có trường hợp ổn định nhưng nói chung xu hớng đó có tính chất tạm thời. Để có thể dự đoán được biến động của giá cả theo từng loại hàng hoá trên thị trường thế giới phải dựa vào kết qủa nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường từng loại hàng hoá, đồng thời đánh giá chính xác các nhân tố tác động đến xu hướng biến động giá cả. Nói chung, trong công tác nghiên cứu thị trường doanh nghiệp cần có những cán bộ chuyên sâu, có khả năng phân tích và đưa ra những nhận định chính xác trên cơ sở lập kế hoạch về nhu cầu nhập. Phải dự đoán được xu thế biến động của tỷ giá hối đoá, tỷ lệ lạm phát và tác động của nó đến giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp cần chú ý đến những vấn đề sau đây khi nghiên cứu thị trường. Phân loại thị trường nhằm biết về quy luật hoạt động của thị trường trên các mặt: loại sản phẩm họ có, yêu cầu đặt ra đối với sản phẩm về chất lựơng, bao gói, mẫu mã...dung lượng thị trường, điều kiện chính trị, thương mại, tập quán buôn bán, hệ thống pháp luật..Mục tiêu của việ phân loại là để nắm bắt thị trường và có kế hoạch cụ thể về loại hàng hoá mà doanh nghiệp nhập về. Việc nghiên cứu tình hình thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp lựa chọn được thị trường xuất nhập khẩu, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kết quả kinh doanh còn phụ thuộc vào đối tác kinh doanh với mình. Trong cùng điều kiện như nhau việc giao dịch với bạn hàng cụ thể này thì thành công, với đối tác khác thì bất lợi. Vì vậy, doanh nghiệp cần nghiên cứu những vấn đề sau về đối tác : + Tình hình sản xuất kinh doanh của họ để từ đó có thể thấy được khả năng đáp ứng nguồn hàng lâu dài và thường xuyên. + Khả năng về vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật. + Thái độ và quan điểm kinh doanh. + Uy tín của đối tác trong kinh doanh. 5. Lựa chọn thị trường và đối tác. Sau khi nghiên cứu thị trường và thu thập thông tin, doanh nghiệp sẽ tiến hành lựa chọn thị trường và bạn hàng để xuất nhập khẩu. Thông thường doanh nghiệp chọn cho mình thị trường và bạn hàng truyền thống quen thuộc vì có những ưu đãi về giá, phương thức thanh toán, chất lượng hàng hoá bảo đảm, dịch vụ bảo hành đầy đủ, đồng thời cũng nên quan hệ kinh doanh với các thị trường và các hãng khác nhằm tạo ra khả năng lựa chọn dễ dàng khi mối quan hệ với bạn hàng truyền thống bị vướng mắc. 6. Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Trong điều kiện hiện nay, chế độ chính sách đối với hoạt động xuất nhập khẩu của nhà nước ta có nhiều thay đổi. Chẳng hạn, việc xuất nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng bị hạn chế đi nhiều do sản xuất trong nước ngày càng phát triển và gần như có thể thay thế hàng nhập ngoại. Trong khi đó yêu cầu của công nghiệp hoá, hiền đại hoá đất nước lại đòi hỏi phải xuất nhập khẩu những vật tư máy móc thiết bị cần thiết có chất lượng cao, kỹ thuật tiên tiến mà trong nước cung cấp còn hạn chế. Vì vậy doanh nghiệp cần luon chú trọng vào việc thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu nếu không hàng nhập về sẽ khó tiêu thụ hoặc không tiêu thụ được. Như vậy, doanh nghiệp khó có thể duy trì được sự tồn tại của mình trên thị trường. Xu hướng ở doanh nghiệp hiện nay nên tăng cường nhập các thiết bị máy nông nghiệp là khá phù hợp với tình hình đất nước hiện nay. Tuy nhiên, việc thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu còn phụ thuộc vào phần nào nguồn hàng xuất nhập khẩu từ các thị trường khác nhau. Mặt khác định hướng thay đổi cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường trong nước. Công việc này đòi hỏi tính thời cơ và sự đồng ý của các cơ quan hữu trách, nhưng cũng cần phải chú trọng đến một số vấn đề sau khi thay đổi cơ cấu hoặc bổ sung mặt hàng mới: + Các đặc tính của chủng loại hàng hoá đó. + Chính sách của nhà nước hiện tại và tương lai đối với mặt hàng đó. + Những doanh nghiệp nào đã và đang kinh doanh mặt hàng này với số lượng bao nhiêu. + Số bạn hàng sẵn sàng mua mặt hàng đó. Có thể nói, việc bổ sung và hoàn thiện cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu cũng là một giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp. Kết luận Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, xuất khẩu càng đóng góp vai trò quan trọng hơn đối với một nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Việt nam là một nước đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập vào khu vực và thế giới. Vì vậy xuất khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện thành công các mục tiêu trên. Nhằm phát huy hết các vai trò của xuất khẩu, Chính phủ Việt nam đã có những định hướng chính sách và biện pháp đúng đắn thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện tự do hoá thương mại, chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách khuyến khích đầu tư.. Các chính sách này đã có tác động đáng kể tới hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, cơ cấu mặt hàng chuyển biến tích cực, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng nhiều, ngoại tệ thu được về cho đất nước tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt nam vẫn còn gặp nhiều trở ngại do các yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Vì vậy để giúp hoạt động xuất khẩu vượt qua những khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước phải được đi kèm với các nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Và cần thấy một điều quan trọng là các chính sách và biện pháp thúc đảy xuất khẩu của nhà nước muốn thực sự phát huy tác dụng thì phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở giấy tờ. Hy vọng những tiềm lực như nhân lực và vật lực của Việt nam cùng với hệ thống chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đúng dắn của nhà nước ta sẽ là những nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt nam ngày một phát triển, xây dựng nước nhà ngày một phồn vinh. Danh mục tài liệu tham khảo Văn kiện Hội nghị TƯ, khoá VII Báo cáo của Bộ Thương mại ngày 30/12/1994 Niên giám thống kê 2000 Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 11/1996 và 11/1997. Quyết định 28 TTg ngày 13/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 3/1999. Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 11/1998 Báo cáo của Bộ Thương mại tháng 15/11/1999 Tập tài liệu Vụ đầu tư – Bộ Thương mại Báo cáo tình hình thực hiện năm 2001, Vụ đầu tư – Bộ Thương mại Nghị định số10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích đầu tư Mai ngọc Cường và Vũ văn Huân : “ Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở Việt nam”. NXB Thống kê- Hà nội 1996. Mohamed Ariff và Hal Hill: “ công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - kinh nghiện của ASEAN”. NXB khoa học xã hội - Viện châu á Thái Binh Dương - 1992. Vũ Ngọc Thanh: “ chính sách thuế trong kế hoạch 5 năm 1996-2000”. Bộ kế hoạch và đầu tư - trung tâm thông tin - Hà nội 5/1996. Võ thanh Thu: “ Kinh tế đối ngoại”. NXB Thống kê 1994. Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, Nghị quyết TƯ 4 - Khoá VIII. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4600.doc