Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu lao động tại Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex

Tài liệu Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu lao động tại Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex: LỜI MỞ ĐẦU Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam; giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào sự hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, ... Ebook Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu lao động tại Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu lao động tại Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đảng ta đã đề ra chủ trương, đường lối thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, tạo việc làm cho nhiều người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn. Góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế-xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước trên thế giới. Cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá… Nước ta là một nước có dân số trẻ, với trên 84 triệu dân, trong đó khoảng một nửa dân số trong độ tuổi lao động. Tuy nhiên số người thất nghiệp lại chiếm tỷ lệ cao, số thời gian lao động chưa được sử dụng ở nông thôn lên tới gần 30%. Như vậy cung và cầu lao động trong nước chưa cân bằng, hiện tượng này làm nảy sinh nhu cầu tìm việc làm ngoài nước, hay nói cách khác là nảy sinh hoạt động Xuất khẩu lao động. Hoạt động Xuất khẩu lao động đã góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm và cải thiện đời sống đáng kể cho một bộ phận lao động và gia đình họ, tăng nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất. Bình quân mỗi lao động gửi về gia đình khoảng 4000 USD một năm. Trong những năm qua, Xuất khẩu lao động của nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, tuy nhiên cũng còn rất nhiều hạn chế đòi hỏi phải giải quyết. Đó là các vấn đề về: thương hiệu cho các doanh nghiệp Xuất khẩu lao động, nâng cao công tác đào tạo lao động của doanh nghiệp... đến việc quản lý lao động làm việc ở nước ngoài. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp Xuất khẩu lao động nói chung cũng như Trung tâm xuất nhập khẩu lao động Coma-Imex nói riêng đã từng bước đi vào ổn định và phát triển. Tuy nhiên trong bối cảnh chung của nền kinh tế thị trường mới mẻ như nước ta hiện nay, họ đã gặp phải không ít khó khăn và thách thức. Phù hợp với thực tiễn nền kinh tế chuyển đổi của đất nước và xu thế hội nhập của toàn cầu; với mong muốn góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động Xuất khẩu lao động, cố gắng áp dụng lý luận vào thực tiễn, em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu lao động tại Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em ngoài mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương chính sau: Chương I: Lý luận chung về hoạt động Xuất khẩu lao động. Chương II: Thực trạng của hoạt động Xuất khẩu lao động tại Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex. Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động Xuất khẩu lao động tại Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex. Hiện nay vấn đề Xuất khẩu lao động vẫn còn là một vấn đề mới mẻ và khá phức tạp đối với nước ta, đồng thời do nhận thức còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô và bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn. LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo GS.TS .Trần Chí Thành - người đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ công nhân viên của Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc hoàn thành chuyên đề thực tập này. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế và thời gian có hạn nên chuyên đề thực tập của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ công nhân viên thuộc Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex và các bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn: Sinh viên: Trịnh Thị Liên CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 1.1. Khái quát chung về hoạt động Xuất khẩu lao động. 1.1.1. Lao động, sức lao động, hàng hoá sức lao động. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên và xã hội nhằm mang lại của cải vật chất cho bản thân con người, xã hội. Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là xã hội muốn tồn tại và phát triển thì không thể thiếu lao động. Hay nói cách khác lao động là nguồn gốc và động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy xã hội càng văn minh thì tính chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động càng tiến bộ. Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải, vật chất cho xã hội. Sức lao động phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên trong quá trình lao động xã hội. Khi sức lao động được đem ra trao đổi và mua bán trên thị trường thì nó trở thành hàng hóa. Trong thị trường lao động, sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt với những đặc điểm riêng của nó. 1.1.2. Xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động được coi là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung. Nó là một bộ phận của kinh tế đối ngoại, trong đó hàng hoá được đem ra để xuất khẩu là sức lao động của con người, đối tác xuất khẩu hay người mua sức lao động ở đây là chủ thể nước ngoài. Theo Liên Hợp Quốc thì: ‘‘ Xuất khẩu lao động là một loại hình di chuyển quốc tế sức lao động ``. Người lao động cùng với trình độ tay nghề và sức lao động của họ được di chuyển từ nước có nguồn lao động dồi dào sang nước có nguồn nhân lực còn thiếu so với nhu cầu của đất nước họ. Có thể nói xuất khẩu lao động là hiện tượng người lao động di chuyển ra nước ngoài để làm việc với mục đích có thu nhập cao hơn so với nước mình dưới sự cho phép của Chính phủ. Khi ra khỏi nước mình người lao động được gọi là xuất cư, còn sức lao động của người đó gọi là sức lao động xuất khẩu. Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế-xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước trên thế giới. Cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá… Xuất khẩu lao động là một vấn đề có nội dung kinh tế - xã hội. Trong đó, Chính phủ hay tổ chức, cá nhân của một quốc gia thực hiện cung ứng sức lao động cho Chính phủ, tổ chức, cá nhân của quốc gia khác trên cơ sở những Hiệp định hay hợp đồng cung ứng và tiếp nhận lao động. Các hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài gồm có: - Cung ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài. - Đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài. - Đưa lao động đi làm việc theo các dự án đầu tư ở nước ngoài. - Các hình thức khác theo quy định của pháp luật. 1.1.3. Thị trường Xuất khẩu lao động. Thị trường xuất khẩu lao động là toàn bộ các quan hệ cung và cầu về lao động. Nó được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn và cho thuê lao động, bao gồm các mối quan hệ cơ bản như: thuê mướn, sa thải, tiền công, tiền thuế thu nhập, bảo hiểm, tranh chấp lao động… của một bên là lao động của một nước và bên kia là người sử dụng lao động của nước khác. Do thị trường xuất khẩu lao động rất rộng, vượt khỏi biên giới quốc gia nên quan hệ thị trường này rất phức tạp. Nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, cơ chế chính sách của Nhà nước, trình độ, tay nghề, văn hoá và xã hội… của mỗi nước. Đối với Việt Nam, kể từ thời mở cửa đến nay thị trường xuất khẩu lao động của ta có nhiều sự thay đổi bất ngờ. Không kể thời kỳ quan hệ kinh tế mật thiết với các nước Đông Âu, xuất khẩu lao động của Việt Nam tăng nhanh từ cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á, nhất là Ma-lai-xia, Đài Loan và Hàn Quốc. Gần đây thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động được đưa đi ra nước ngoài. Hiện nay có hơn 400.000 lao động VN làm việc tại 40 nước và lãnh thổ, trong đó riêng tại Malaysia có hơn 100.000 người, chíếm độ 10 % tổng số lao động nhập khẩu của nước này. Ông Nguyễn Xuân Vui, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Dịch vụ và Thương mại hàng không (Airseco), một trong những doanh nghiệp đang dẫn đầu về số lượng xuất khẩu lao động sang Trung Đông cho biết, trong khu vực này, Ả rập Xê-út là nước có nhu cầu lao động lớn nhất , mỗi năm cần khoảng 800- 900 nghìn lao động từ các quốc gia có nhu cầu về xuất khẩu lao động, thuộc nhiều ngành nghề. Hiện, Việt Nam đang có khoảng 1500 người làm việc tại đây. Riêng Qatar, sau lễ ký kết hiệp định lao động, nước này đồng ý tiếp nhận 25.000 lao động Việt Nam trong năm nay. Nếu phía Việt Nam thực hiện được thì có thể đưa cả trăm ngàn lao động vào Qatar trong những năm tới. 1.2. Sự cần thiết của xuất khẩu lao động đối với nước ta hiện nay. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ, nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cao vượt ra khỏi phạm vi của mỗi nước. Mặt khác, sản xuất lớn chỉ đạt hiệu quả cao khi quan hệ phân công và hợp tác lao động được mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Điều đó tất yếu dẫn đến sự hợp tác lao động và phân công lao động quốc tế. Mặt khác, sự mất cân đối về số lượng và chất lượng lao động của dân số - lao động - việc làm trên thế giới, cùng với lợi thế so sánh về giá cả hàng hoá và sức lao động giữa các quốc gia khác nhau, là những nguyên nhân dẫn đến sự di chuyển sức lao động giữa các quốc gia. Trong thời đại toàn cầu hoá, lao động di chuyển từ nước này sang nước khác đã trở thành hiện tượng khá phổ biến. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và công nghệ, lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới tìm nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác với sự di chuyển của lao động trí thức đã có từ trước, xuất và nhập khẩu lao động giản đơn (unskilled labor, less-skilled labor) hay lao động chân tay (blue-collar workers) là hiện tượng tương đối mới. Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại: một là:những nước có dân số ít mà lại giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia; hai là: những nước đã phát triển, kể cả các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malayxia. Trong nhóm thứ hai cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động tri thức và chuyển sang nước ngoài những ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên tại những nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn lại có quy mô lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong những ngành đang phát triển mạnh ở những nước này, có nhiều công đoạn còn dùng lao động giản đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động ngày càng tăng Đối với một nước hơn 84 triệu dân, trong đó có khoảng 1 nửa dân số trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp lên tới 9 – 12% ở khu vực thành thị, 7 – 8% ở khu vực nông thôn và số thời gian làm việc chưa được sử dụng ở nông thôn lên tới gần 30%, hơn thế nữa Việt Nam lại là một nước nghèo trên thế giới, thì xuất khẩu lao động là một kênh, là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng thất nghiệp cho người dân, nâng cao thu nhập cho người lao động nói riêng và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước nói chung, từ đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội. 1.3. Đặc điểm và vai trò của dịch vụ Xuất khẩu lao động trong nền kinh tế thị trường. Theo Mác: ‘‘ Sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt và chính nó tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản”. Theo Liên Hợp Quốc thì Xuất khẩu lao động không chỉ là hoạt động xuất khẩu hàng hoá thông thường mà là xuất khẩu loại hàng hoá đặc biệt – hàng hoá sức lao động của con người. Chính nhờ những lý luận trên mà hàng loạt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động ra đời – là cầu nối quan trọng trong việc giải quyết tình trạng mất cân đối cung cầu về lao động ở một số quốc gia trên thế giới. 1.3.1. Đặc điểm của Xuất khẩu lao động. 1.3.1.1. Mang tính chất xã hội và tính nhân văn. Mọi hoạt động liên quan đến xuất khẩu lao động đều có liên quan đến người lao động. Bởi vì sức lao động được xuất khẩu gắn chặt với người lao động, nó được tạo ra từ chính sức khỏe, từ tâm huyết và trí tuệ của người lao động. Mọi hoạt động lao động đều xuất phát từ con người, từ lợi ích của họ và của xã hội, cho nên xuất khẩu lao động là hoạt động mang tính nhân văn và xã hội. Đây là đặc điểm nổi bật và có ý nghĩa lớn nhất đối với hoạt động xuất khẩu lao động. 1.3.1.2. Là hoạt động kinh tế đối ngoại. Là hoạt động mang tính bang giao giữa các nước, hoạt động xuất khẩu lao động làm thắt chặt thêm mối quan hệ thân tình giữa các nước, cụ thể ở đây là những nước xuất khẩu lao động và nước nhập khẩu lao động. Chính nhờ điều này mà có thể tạo ra sự ưu ái trong cơ chế cho và nhận lao động xuất khẩu, về tiền công, tiền lương hay điều kiện ăn ở, sinh hoạt, cải thiện đời sống hơn cho người lao động. 1.3.1.3. Tạo ra sự kết hợp hài hoà giữa Nhà nước với các tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu lao động trong việc quản lý vĩ mô. Nền kinh tế thị trường cùng với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu đã chuyển chức năng xuất khẩu lao động từ của Nhà nước sang của các tổ chức, cá nhân khác nhau dưới sự quản lý của Nhà nước. Những tổ chức cá nhân này phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi hoạt động của mình trước pháp luật của nước mình cũng như của nước nhập khẩu lao động. Vì thế vai trò quản lý của Nhà nước là ở tầm vĩ mô. Các hiệp định và thoả thuận song phương giữa các quốc gia chỉ mang tính nguyên tắc. 1.3.1.4. Phải đảm bảo lợi ích hài hoà cho cả ba bên tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động. Thứ nhất, đó là lợi ích của người lao động, bởi họ là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất, họ phải bỏ sức lực và chất xám của mình để hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Chính vì vậy họ mong muốn nhận được những lợi ích tương xứng với những gì họ đã bỏ ra. Lợi ích ở đây chính là thù lao lao động mà người sử dụng lao động phải trả cho họ, cùng với quyền lợi được bảo hộ trong lao động: không bị bóc lột sức lao động, có đầy đủ các trang thiết bị bảo hộ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng của họ trong công việc. Thứ hai, phải đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp thực hiện chức năng xuất khẩu lao động. Bởi nếu không có lợi ích thì họ sẽ không thể tồn tại được, lợi ích của họ ở đây chính là phần phí môi giới mà họ nhận được phải trang trải được đầy đủ các chi phí và có một phần dôi thừa để mở rộng quy mô doanh nghiệp... Thứ ba, đó là phải đảm bảo lợi ích cho Nhà nước, bởi Nhà nước chính là cầu nối - tạo ra mối quan hệ bang giao trước tiên giữa hai nước chuyển và nhận lao động. Nhà nước có quyền đưa ra luật pháp và ban hành những chính sách có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động, chịu trách nhiệm cao nhất trong vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Lợi ích của Nhà nước là được đánh thuế và nhận tiền thuế thu nhập của người của người thu nhập, góp phần tăng ngân sách của Nhà nước nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội. Mặt khác thông qua những người lao động của ta ở nước ngoài, sẽ tạo nên uy tín và hình ảnh cho đất nước ta về những người lao động cần cù chịu khó, ham học hỏi và có óc sáng tạo. Nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc tạo ra những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội để thu hút ngoại tệ do người lao động gửi về nước, góp phần tăng số vốn dự trữ, vốn sản xuất kinh doanh trong dân. Đây chính là ‘‘lợi ích kép’’ mà bất cứ nước nào có hoạt động xuất khẩu lao động cũng đều phải tìm cách chiếm lĩnh thị trường ở mức cao nhất có thể. 1.3.1.5. Là hoạt động mang tính thời kỳ. Thời gian xuất khẩu lao động là có hạn,người lao động ra nước ngoài làm việc chỉ có thể được tiến hành trong thời gian nhất định. Ở nước ta hiện nay là hai hoặc ba năm. 1.3.1.6. Xuất khẩu lao động phải được đảm bảo bằng hợp đồng. Hợp đồng xuất khẩu lao động là sự ràng buộc giữa người sử dụng lao động và chính bản thân người lao động. Nó quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cả người lao động và người sử dụng lao động: điều kiện từ người lao động được xuất khẩu lao động, điều kiện về thù lao trả cho người lao động, điều kiện làm việc, điều kiện về trình độ của người lao động...Nhờ có hợp đồng lao động mà không chỉ người lao động được bảo vệ mà người sử dụng lao động cũng được bảo vệ trước pháp luật. Nếu một trong hai bên mà vi phạm hợp đồng thì phải bồi thường theo quy định của hợp đồng. Bản hợp đồng xuất nhập khẩu rất quan trọng, chính vì thế trước khi ký hợp đồng với người môi giới, người lao động phải yêu cầu với đối tác là phải cung cấp bản hợp đồng cụ thể, rõ ràng, tránh tình trạng chung chung. Thực tế hiện nay cho thấy, nguyên nhân vỡ hợp đồng không chỉ do lỗi của người lao động mà còn do nhiều công ty môi giới xuất khẩu lao động của Việt Nam bắt tay với công ty môi giới xuất khẩu lao động nước ngoài phù phép hợp đồng. Một số lời quảng cáo trong bản hợp đồng lao động ghi chung chung: “ Thu nhập trên 6 triệu đồng/tháng, nhưng khi người lao động đến nơi làm việc ở nước ngoài chỉ nhận được khoảng 2,5 triệu đồng/ tháng, mới ngã ngửa: “6 triệu đồng/ tháng là với điều kiện phải tăng ca, nhưng xí nghiệp không có nhu cầu tăng ca nên chỉ phát lương ngần ấy”. Bức xúc vì bị lừa, người lao động phản ứng bằng cách lãn công. Thế là rơi vào cái bẫy phá vỡ hợp đồng, bị trả về nước, người lao động bị thua. 1.3.2. Vai trò của xuất khẩu lao động: Xuất khẩu lao động là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết sức lao động dôi thừa ở trong nước, đem lại thu nhập cao cho người lao động, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, giảm tệ nạn xã hội. Số người thất nghiệp trong nước giảm đáng kể. Đất nước cũng có nguồn thu từ thuế thu nhập của người lao động để đầu tư cho y tế, giáo dục, xây dựng các công trình phúc lợi xã hội... Người lao động cũng có tích lũy để tái đầu tư vào sản xuất kinh doanh... Trong quá trình làm việc ở nước ngoài, được tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, với phương thức và tác phong làm việc có ý thức kỷ luật cao, trình độ hiểu biết và tay nghề, thái độ làm việc của người lao động cũng được cải thiện rõ rệt. Cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa... Trong những năm 80, thực hiện hợp tác lao động và chuyên gia với các nước Xã hội chủ nghĩa và một số nước Trung Đông, Châu Phi, chúng ta đã giải quyết việc làm ngoài nước cho hàng chục vạn người. Từ năm 1991 đến nay, việc xuất khẩu lao động được chuyển đổi cho phù hợp với cơ chế quản lý mới, đã đưa được hàng vạn lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài, góp phần nâng cao tay nghề, ngoại ngữ cho lao động, nâng cao dời sống các gia đình có người đi xuất khẩu lao động và đóng góp cho ngân sách. Xuất khẩu lao động của VN tăng nhanh từ cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á, nhất là Ma-lai-xia, Đài Loan và Hàn Quốc. Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động được đưa đi ra nước ngoài. Hiện nay có hơn 400.000 lao động VN làm việc tại 40 nước và lãnh thổ. Số lao động xuất khẩu có tay nghề chiếm hơn 70%, thu nhập bình quân sau khi đã trừ đi chi phí là khoảng 650USD/ tháng. Ngoài ra số người đang làm việc ở nước ngoài đã gi úp Việt Nam tiết kiệm khoảng trên 3.000 tỷ đồng cho dạy nghề, đào tạo và chỗ làm việc mới. Năm 2007, cả nước đã đưa được 85.020 lao động đi làm việc ở nước ngoài, vượt 6,3% kế hoạch năm. Trong đó thị trường Malayxia với 26.704 lao động, kế đến là Đài Loan 23.640 lao động, Hàn Quốc 12.187 lao động... Nguồn thu ngoại tệ trong năm qua từ xuất khẩu lao động tính theo thực tê do người lao động tích luỹ chuyển về nước ước đạt 1,8 tỷ USD. Chủ trương của Nhà nước ta hiện nay là bên cạnh củng cố và duy trì những thị trường truyền thống còn phải khai thác và chiếm lĩnh những thị trường tiềm năng. Mở rộng và phát triển các thị trường XKLĐ nhất là thị trường có thu nhập cao, an toàn cho người lao động: ổn định và phát triển thị trường Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông và Malaysia; mở thị trường mới như Hoa Kỳ, Ôxtrâylia, Canada, Baranh, Séc, v.v…; ký thoả thuận hợp tác lao động với CHLB Nga, Lào, Lybia, Qatar, UAE… Phát triển dạy nghề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cơ hội việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động. Năm 2008, Xuất khẩu lao động của ta có những thuận lợi cơ bản là: “Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” đã có hiệu lực; hệ thống văn bản chính sách của ta đã tương đối hoàn chỉnh, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả. Thị trường lao động mới được mở ra nhiều, khả năng khai thác các thị trường mới rõ nét hơn. Lĩnh vực dạy nghề được chính phủ quan tâm lớn, tạo bước đột phá nâng cao chất lượng đội ngũ lao động… Bên cạnh việc xuất khẩu lao động phổ thông cần tiếp tục đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động sĩ quan, thuỷ thủ vận tải tầu biển và chuyên gia tàu cá, gia tăng số lượng số lượng các chuyên gia và lao động đi làm việc ở nước ngoài không chỉ trong lĩnh vực y tế, giáo dục mà trong cả lĩnh vực nông nghiệp cho các nước Châu Phi đang có nhu cầu. 1.4. Nội dung của hoạt động Xuất khẩu lao động. 1.4.1. Khai thác thị trường. 1.4.1.1. Khai thác thị trường sức lao động trong nước: Là một đất nước có dân số trẻ với hơn 84 triệu dân, nguồn lực lao động dồi dào cộng với chi phí nhân công rẻ, thị trường lao động Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường hấp dẫn nhất khu vực. Tuy nhiên tỷ lệ người thất nghiệp lại cao, chính vì thế người lao động có xu hướng muốn đi xuất khẩu lao động, nhưng không phải người lao động nào cũng được đào tạo chuyên nghiệp, có tay nghề cao và có kinh nghiệm. Trong khi đó yêu cầu của nước nhập khẩu là người lao động phải thoả mãn các yêu cầu về: sức khoẻ, trình độ chuyên môn thuộc một ngành nghề nào đó, ngoại ngữ và một số tiền đặt ký quỹ khoảng 500 đến 4.000 USD tuỳ theo từng thị trường nước ngoài yêu cầu. Để có một lực lượng lao động dồi dào đáp ứng được nhu cầu thị trường xuất khẩu lao động đòi hỏi phải có sự gắn kết giữa "nhà tuyển dụng" (doanh nghiệp xuất khẩu lao động) và "nhà trường" (cơ sở dạy nghề) trong việc chuẩn bị nguồn lao động có trình độ kỹ năng nghề và ngoại ngữ cho thị trường ngoài nước. Tuy nhiên, sự gắn kết này chỉ thực sự có hiệu quả, bền vững và thực sự tháo gỡ khó khăn cho người lao động, nhất là về kinh phí học nghề, ngoại ngữ, vốn vay để trang trải các chi phí xuất cảnh khi có sự vào cuộc đồng bộ của "nhà nước" (cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề và về xuất khẩu lao động). Vai trò "nhà nước" ở đây chính là "bà đỡ" tạo cơ chế và theo dõi, chỉ đạo sự gắn kết đó đi đúng hướng, hiệu quả. Đây cũng chính là sự đầu tư cần thiết và hiệu quả của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực và đem lại lợi ích to lớn nhiều mặt của xuất khẩu lao động cho xã hội. 1.4.1.2. Củng cố và thiết lập mối quan hệ với các đối tác nước ngoài. Về phía Nhà Nước: Nhà nước đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động. Bên cạnh chức năng xác định chủ trương, chính sách, định hướng chiến lược cho hoạt động này thì Nhà nước còn có vai trò to lớn trong việc thiết lập quan hệ hữu nghị với các nước có nhu cầu sử dụng lao động, nhằm phát triển thị trường ngoài nước. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thống nhất quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động trong phạm vi địa phương mình. Đồng thời phối hợp cùng với các Bộ ngành khác trong nước có nhiệm vụ lập kế hoạch, phân tích, đánh giá, triển khai nghiên cứu và tạo môi trường cho các doanh nghiệp đầu tư, thực hiện hoạt động này với các thị trường nước ngoài. Việt Nam đã ký được Bản ghi nhớ về hợp tác lao động với Oman, đang đàm phán để ký kết Hiệp định với các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất, Libi, Liên bang Nga và CHDCND Lào trong năm 2008. Đã thiết lập được quan hệ chính thức với Cộng hòa Czech, Cộng hòa Cyprus, Australia, Hoa Kỳ... Mở ra cơ hội lớn cho hoạt động Xuất khẩu lao động làm ăn có hiệu quả, nhiều lao động có cơ hội được xuất khẩu lao động. Về phía doanh nghiệp: phải cố gắng duy trì và củng cố các mối quan hệ với các doanh nghiệp nước ngoài có chức năng xuất khẩu lao động. Bởi đối tác nước ngoài có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó phải luôn thiết lập và mở rộng mối quan hệ với các đối tác tiềm năng. 1.4.2. Đàm phán và ký kết hợp đồng. 1.4.2.1. Thu thập thông tin về đối tác và thị trường tiếp nhận lao động. Thông tin là rất quan trọng, trong kinh doanh nói chung ai có thông tin người đó sẽ là người có lợi thế. Trong hoạt động xuất khẩu lao động cũng thế, các thông tin về đối tác và thị trường tiếp nhận lao động bao gồm: Luật pháp, phong tục tập quán, văn hoá, lối sống và tình hình kinh tế chính trị của nước tiếp nhận lao động cũng như giá cả sinh hoạt chung... Nhờ sự thu thập thông tin mà người lao động sẽ chuẩn bị được tâm lý và không khỏi bỡ ngỡ trước sự khác biệt về văn hoá, giá cả sinh hoạt... Doanh nghiệp thực hiện chức năng xuất khẩu lao động cần phải tìm hiểu rõ về đối tác mà mình hợp tác, tránh tình trạng mù mờ thông tin, bị đối tác lừa... làm thiệt hại không chỉ cho doanh nghiệp mà còn làm thiệt hại cho người lao động. Trong thực tế, không ít người thất vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở xứ người, và có nhiều trường hợp phạm pháp xảy ra, gây ra hình ảnh xấu cho nước xuất khẩu lao động. Australia, Canada, Hoa kỳ là những thị trường có yêu cầu cao, một số ít doanh nghiệp trong bước thử nghiệm cần tìm hiểu rất kỹ yêu cầu về điều kiện nhập cảnh, phải có sự chuẩn bị công phu về nguồn lao động chất lượng cao, cả về nghề, ngoại ngữ, phải thông tin đẩy đủ, chính xác cho người lao động ngay từ đầu để họ biết mình phải chuẩn bị thế nào, tránh gây ảo tưởng và thất vọng cho họ. 1.4.2.2. Đàm phán và ký kết hợp đồng. Hợp đồng xuất khẩu lao động về thực chất là một hợp đồng ngoại thương, vì vậy yêu cầu các điều khoản và điều kiện phải chặt chẽ. Mặt khác đối tượng của hợp đồng lại là hàng hoá đặc biệt nên phải rất chú trọng đến các điều khoản và điều kiện mang tính đặc thù. Khi có được những thông tin đầy đủ về đối tác, về nguồn lao động, kết hợp điều kiện, kinh nghiệm, khả năng của công ty, tiến tới đàm phán và ký kết hợp đồng. Vấn đề cần chú trọng nhất trong khâu này là yêu cầu của đối tác, khả năng cung ứng của công ty như thế nào, sau đó là những điều kiện về tiền lương, số giờ làm việc một ngày, số ngày làm việc trong tuần, bảo hiểm, tiền thưởng, điều kiện nghỉ phép... 1.4.3. Triển khai hợp đồng. Sau khi đàm phán và ký kết hợp đồng, bước tiếp theo là triển khai hợp đồng. Khâu triển khai hợp đồng bao gồm 5 bước sau: Bước 1: Làm thủ tục đăng ký hợp đồng với bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Bước 2: Tổ chức thông báo và tuyển chọn lao động trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bước 3: Tổ chức tuyển chọn người lao động phù hợp với yêu cầu của đối tác. Bước 4: Đào tạo, giáo dục và định hướng cho người lao động trước khi đi xuất khẩu lao động. Bước 5: Làm thủ tục xuất cảnh cho người lao động. Đây là năm bước quan trọng trong khâu triển khai hợp đồng, doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động muốn thành công thì đòi hỏi phải tuân thủ đầy đủ nội dung và trình tự của nó. 1.4.4. Quản lý lao động ở nước ngoài. Đây là một điều hết sức quan trọng trong hoạt động xuất khẩu lao động. Thực tế khi ra nước ngoài làm việc, có rất nhiều lao động xuất khẩu đã vi phạm hợp đồng, nhiều lao động đã tự ý bỏ doanh nghiệp mà mình đã ký hợp đồng ra ngoài làm việc, lượng bỏ trốn nhiều sẽ làm cho uy tín của lao động Việt Nam giảm xuống, dẫn tới phải đóng cửa thị trường lao động. Chính vì vậy, đơn vị đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải có đại diện ở tại nước nhập khẩu lao động để giải quyết những vướng mắc và các vấn đề phát sinh... Bên đại diện của doanh nghiệp phải chịu sự chỉ đạo và quản lý của cơ quan đại diện của nước ta tại nước nhập khẩu lao động. Đối với những nước có số lượng lao động Việt Nam nhiều thì cần phải lập Văn phòng đại diện, vừa có thể giải quyết kịp thời những phát sinh, vừa có thể tìm kiếm thị trường mới. Hiện nay tại Hàn Quốc, Việt Nam đã thành lập bộ phận quản lý lao động ở Đại sứ quán để quản lý chung. Theo Luật quản lý lao động ở ngoài nước thì doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải có trách nhiệm như sau: - Lập danh sách lao động theo mẫu đã quy định và gửi cơ quan đại diện Việt Nam tại nước sở tại, Cục quản lý lao động ngoài nước chậm nhất 05 ngày làm việc sau mỗi chuyến đưa lao động đi. - Quản lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong thời gian làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài. Những vấn đề về lao động vượt quá thẩm quyền thì lao động báo cáo bằng văn bản với cơ quan quản lý doanh nghiệp ; đồng thời gửi cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại, Cục Quản lý lao động ngoài nước. - Cử cán bộ quản lý có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn ngoại ngữ và thông báo địa chỉ văn phòng đại diện (nếu có); họ tên, địa chỉ, số điện thoại của cán bộ quản lý cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại, Cục Quản lý lao động Việt Nam ngoài nước. - Trường hợp doanh nghiệp không đủ điều kiện để đổi cấp giấy phép hoặc bị đình chỉ hoạt động xuất khẩu lao động thì có trách nhiệm tiếp tục quản lý người lao động do doanh nghiệp đưa đi cho đến khi thanh lý xong hợp đồng với người lao động. - Trường hợp doanh nghiệp thuộc diện xem xét giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản thì bàn giao hồ sơ, tài liệu có liên quan đến số lao động đang làm việc ở nước ngoài cho cơ quan quản lý doanh nghiệp để xử lý các vấn đề có liên quan đến người lao động theo quy định của Nghị định số._. 81/2003/ND-CP và các văn bản hướng dẫn kèm theo. Đối với những người lao động đã được doanh nghiệp tuyển chọn và làm xong thủ tục hồ sơ thì doanh nghiệp chủ động thoả thuận để chuyển hợp đồng cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động khác thực hiện hoặc báo cáo cơ quan quản lý doanh nghiệp xem xét quyết định. 1.4.5. Thanh lý hợp đồng lao động. Đây là nội dung cuối cùng của hoạt động xuất khẩu lao động, sau khi hết thời hạn lao động người lao động trở về nước, khi đó cần phải thanh lý hợp đồng. Doanh nghiệp xuất khẩu lao động có trách nhiệm thanh lý hợp đồng với người lao động. Nội dung thanh lý hợp đồng lao động bao gồm: lập biên bản thanh lý hợp đồng trong đó nêu rõ lý do về nước, các khoản thanh toán giữa doanh nghiệp và người lao động; thực hiện các chính sách, chế độ theo quy định của Nhà nước và các nội dung khác mà hai bên đã thoả thuận; trả sổ bảo hiểm (nếu có); làm thủ tục để người lao động về đơn vị cũ hoặc nơi cư trú trước khi đi. Việc thanh toán tiền đặt cọc khi thanh lý hợp đồng thực hiện theo hướng dẫn của Liên Bộ Tài Chính – Lao động – Thương binh và Xã hội. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân khi về nước có trách nhiệm báo cáo với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi đăng ký hợp đồng và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú trước khi đi. 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động Xuất khẩu lao động. 1.5.1. Các nhân tố khách quan. 1.5.1.1. Luật pháp của nước nhập khẩu lao động. Luật pháp thể hiện quyền lực của một Nhà nước. Mỗi nước đều có hệ thống pháp luật riêng của mình và luật pháp ở các nước khác nhau là khác nhau – nó là yếu tố nhạy cảm đối với người nhập cư. Do mới nhập cư nên người lao động vẫn chưa thể hiểu rõ được luật pháp của nước đó nên rất dễ mắc sai lầm. Chính vì vậy đơn vị đưa người đi xuất khẩu lao động phải đặc biệt quan tâm tìm hiểu và cung cấp cho người lao động các thông tin cần thiết về luật pháp của nước nhập khẩu lao động, để họ có thể tránh được những sai sót đáng tiếc. Đồng thời nên chú ý củng cố thêm lòng tin của nước xuất khẩu lao động đối với doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như người lao động. 1.5.1.2. Đối thủ cạnh tranh trên thị trường Xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động đang được coi là ngành đem lại lợi nhuận béo bở không chỉ cho người lao động tham gia xuất khẩu, mà còn đem lại khoản thu nhập đáng kể cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Chính vì vậy có rất nhiều doanh nghiệp thuộc các nước khác nhau tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Sự cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các công ty của các nước cung ứng lao động khác nhau. Nhiều doanh nghiệp đã cạnh tranh không lành mạnh: đưa thông tin thất thiệt, bịa đặt để đánh vào uy tín của lao động Việt Nam. Tuy nhiên, về cơ bản và lâu dài vẫn là sự cạnh tranh về chất lượng, thể hiện ở: Một là, đòi hỏi kỹ năng nghề, ngoại ngữ và tính kỷ luật của người lao động ngày càng cao. Doanh nghiệp nào, quốc gia nào có được người lao động chất lượng cao hơn sẽ có nhiều hợp đồng hơn, chi phí môi giới rẻ hơn và thu nhập của người lao động cao hơn. Hai là, tính chuyên nghiệp, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp với đối tác nước ngoài. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, tâm huyết, trách nhiệm cao của họ trong công việc đem lại chất lượng dịch vụ tốt của doanh nghiệp với đối tác nước ngoài. Cả hai yếu tố trên đều rất quan trọng và không thể thiếu. Chúng bổ sung cho nhau, và trên thực tế, đang là những thách thức từ thị trường ngoài nước đòi hỏi doanh nghiệp ta phải vượt qua. 1.5.1.3. Phong tục tập quán của nước nhập khẩu lao động. Phong tục tập quán là một trong những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống sinh hoạt, tâm sinh lý và công việc của người lao động khi làm việc ở nước ngoài. Mỗi một đất nước đều có một nền văn hoá đặc thù, là tinh hoa của đất nước, có những vấn đề ở nước mình thì nó là thói quen là bình thường nhưng ở nước ngoài thì điều đó là kiêng kị... Tuy nhiên, ‘‘nhập gia tuỳ tục’’, dù muốn hay không thì người lao động vẫn phải tuân theo. Nhưng không phải người nào cũng có thể hoà nhập được với phong tục tập quán của nước khác nên có thể dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong đời sống làm ảnh hưởng tới công việc và năng suất lao động của họ. Thực tế cho thấy, vì là lao động giản đơn, trình độ học vấn, trình độ văn hoá của người đi lao động nước ngoài thấp nên khó thích nghi với điều kiện văn hoá, xã hội nước ngoài. Không ít người thất vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở xứ người, và có nhiều trường hợp phạm pháp xảy ra, gây ra hình ảnh xấu cho nước xuất khẩu lao động. Từ đó, một yêu cầu cần thiết đối với người xuất khẩu lao động là cần phải tìm hiểu phong tục tập quán của nước nhập khẩu lao động, qua đó phổ biến cho người lao động để họ có thể chủ động hoà nhập cùng với những thói quen mới, tạo điều kiện cho họ có thể hoàn thành tốt công việc. 1.5.1.4. Thị trường xuất khẩu lao động. Khoa học công nghệ và kỹ thuật phát triển nhanh, dẫn đến sự chuyên môn hóa và phân công lao động trở nên rõ rệt không chỉ trong phạm vi khu vực mà còn trên phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy đã diễn ra sự mất cân đối cung cầu trên thị trường lao động quốc tế. Lao động Việt Nam có bản tính cần cù, chăm chỉ và sáng tạo đã được rất nhiều quốc gia trong khu vực cũng như thế giới tin tưởng. Tuy nhiên, phần lớn lao động của Việt Nam xuất khẩu sang các nước còn là lao động giản đơn, còn thiếu tay nghề, ngoại ngữ và thiếu tính kỷ luật. Trong khi đó thị trường xuất khẩu lao động lại cần các điều kiện trên, chính vì vậy để có thể mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, tạo niềm tin cho đối tác, Việt nam cần phải nâng cao chất lượng nguồn lao động. Hiện nay, các thị trường được coi là có tiềm năng, thu hút nhiều lao động Việt Nam sang làm việc là: thị trường Trung Đông, Nhật Bản, Hàn Quốc... Tuy có nhiều thuận lợi, thị trường Xuất khẩu lao động cũng gặp không ít những khó khăn. Theo đánh giá của các chuyên gia, một số thị trường nhận nhiều lao động đang gặp khó khăn, như: nhu cầu lao động của Malaysia giảm đi; Đài Loan vẫn tạm dừng nhận lao động Việt Nam làm việc trong các gia đình; Ca-ta giảm hẳn tốc độ tiếp nhận lao động từ giữa năm 2006 do tình trạng lao động Việt Nam vi phạm kỷ luật tăng lên. Ngoài ra các thị trường mới đang tiến hành thí điểm như Canađa, Hoa Kỳ chưa triển khai được do chưa giải quyết được vấn đề thủ tục nhập cảnh cho người lao động... 1.5.1.5. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước ta coi xuất khẩu lao động là một trong bốn ngành kinh tế mũi nhọn, và chủ trương tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và có hiệu quả cao: có sự quản lý chặt chẽ và giám sát người lao động, có sự bảo vệ lợi ích của người lao động và sử dụng lao động. Xuất phát từ định hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu lao động có nghề và trình độ cao, chủ trương của Nhà nước là tăng tỷ trọng xuất khẩu lao động lên 65% - 70% vào năm 2010 và cao hơn vào những năm tiếp theo. Đồng thời trước mắt cần đáp ứng nhu cầu cấp thời về lao động có nghề, ngoại ngữ trên cơ sở bổ túc, nâng cấp học sinh học nghề theo yêu cầu của hợp đồng ngoại. Chủ trương của Nhà nước ta là: Cùng với giải quyết việc làm trong nước là chính thì xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa; là một bộ phận của hợp tác quốc tế, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước. Xuất khẩu lao động và chuyên gia phải được mở rộng và đa dạng hoá hình thức, thị trường xuất khẩu lao động, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nước ngoài về số lượng, trình độ và ngành nghề. Xuất khẩu lao động và chuyên gia một mặt phải đảm bảo sức cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu có chất lượng cao trong tổng số lao động xuất khẩu và nâng cao trình độ quản lý của các đơn vị xuất khẩu lao động; mặt khác phải chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật của nước ta và nước mà người lao động sống và làm việc. Phát triển và khuyến khích đào tạo nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động, đào tạo ngoại ngữ, giáo dục ý thức pháp luật, làm rõ quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động về thực hiện hợp đồng, tôn trọng phong tục tập quán, văn hoá, hoà nhập với thị trường lao động quốc tế. Chủ trương, chính sách của Nhà nước đã tạo điều kiện và mở ra rất nhiều cơ hội cho những người muốn đi xuất khẩu lao động. Giúp giải quyết công ăn việc làm cho nhiều người lao động, giảm tệ nạn xã hội... 1.5.1.6. Người lao động. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đối với Việt Nam, người lao động chủ yếu là xuất thân từ nông thôn, đa số không nghề, không ngoại ngữ, không tác phong công nghiệp, mà chúng ta vẫn thường gọi là lao động “3 không”, điều đó rất bất lợi khi muốn ra nước ngoài làm việc. Thông thường, những lao động “3 không” bao giờ cũng rất khó được tuyển chọn và thu nhập thấp. Đối tượng lao động này cũng rất khó tiếp cận và học hỏi công việc cũng như phong tục tập quán, văn hóa của nước sở tại nếu được tuyển dụng. Thời gian kéo dài, sẽ dẫn đến tâm lý chán việc, tệ hơn là góp phần vào số lượng lao động bỏ trốn. Ngoài ra, thực trạng này còn ảnh hưởng rất lớn đến thương hiệu, uy tín lao động Việt Nam trên thị trường thế giới. Thực tế thì cho đến thời điểm này, thị trường lao động ngoài nước vẫn cần và chấp nhận một bộ phận lao động giản đơn, chưa qua đào tạo nghề hoặc trình độ nghề thấp. Tuy nhiên, ở hầu hết các thị trường, nhu cầu về lao động có tay nghề đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là những lao động có tay nghề cao. Vì vậy, điều cần thiết đặt ra đối với doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam là cần phải: dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động; tổ chức bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. 1.5.2. Các nhân tố chủ quan. Là các yếu tố vi mô, các yếu tố thuộc về doanh nghiệp xuất khẩu lao động, có ảnh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu lao động. Bao gồm: - Chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp xuất khẩu lao động đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu lao động. Một cán bộ có năng lực, có quan điểm tức thời, biết phân tích đánh giá, tổng hợp những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, khéo léo vượt qua mọi rủi ro... sẽ mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Để nâng cao chất lượng hoạt động, các doanh nghiệp nên có kế hoạch và cách làm thích hợp để bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ cán bộ của mình theo nhiều chuyên đề khác nhau, đặc biệt là: + Luật pháp liên quan đến hoạt động Xuất khẩu lao động, đặc biệt là luật và các văn bản mới ban hành hướng dẫn thực hiện luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. + Kỹ năng và kinh nghiệm đàm phán cho những cán bộ làm công tác thị trường; + Kỹ năng và kinh nghiệm tư vấn cho người lao động trong tuyền chọn lao động, trong quản lý lao động ở nước ngoài - Sự đại khái trong công tác tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng đã dẫn đến chất lượng tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động của doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu. Là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam còn thấp so với lao động của các nước khác, cũng như còn thấp so với yêu cầu của đối tác. Đây là tồn tại, là điểm yếu của một bộ phận doanh nghiệp, nhưng cũng là thách thức đối với tất cả các doanh nghiệp nếu muốn vượt qua chính mình để phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn. - Sự gắn kết và hợp tác chiến lược giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp xuất khẩu lao động chưa được chặt chẽ, khiến cho lao động Việt Nam rơi vào thực trạng ‘‘ba không’’: không nghề, không ngoại ngữ, không có tính kỷ luật. Thực tế, việc dạy ngoại ngữ trong các trường dạy nghề hầu hết chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội, học sinh ra trường không đủ trình độ ngoại ngữ để đi làm việc ở nước ngoài. Vì thế, từ trước đến nay, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đều tự tạo nguồn và tự đào tạo lấy lao động. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chủ yếu là đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng, còn doanh nghiệp nào có cơ sở dạy nghề thì chủ yếu dạy nghề ngắn hạn. Số doanh nghiệp xuất khẩu lao động có trường dạy nghề rất ít, và cũng không thể đào tạo được nhiều nghề để đáp ứng yêu cầu đa dạng về nghề của thị trường lao động quốc tế. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng lao động Việt Nam, làm giảm uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tuy có nhiều nhưng phần đông ở quy mô nhỏ, hoạt động thiếu tính chuyên nghiệp, hiệu quả kém. Trong số 141 doanh nghiệp thì có đến 89 doanh nghiệp thuộc loại nhỏ, bình quân hàng năm các doanh nghiệp này chỉ tiêu chỉ đưa đi được dưới 200 lao động đi nước ngoài. Họ không có đủ năng lực để đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo tiếp cận thị trường. Trong khi đó, chỉ có 18 doanh nghiệp hoạt động có tính chuyên doanh, có chức năng hoạt động xuất khẩu lao động là nhiệm vụ chính thì có hiệu quả cao. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI TRUNG TÂM XUẤT NHẬP KHẨU COMA-IMEX. Tổng quan về trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex. Quá trình hình thành và phát triển. Tổng công ty cơ khí xây dựng (viết tắt là COMA) là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo quyết định số 993/BXD- TCLD ngày 20/11/1995 của Bộ trưởng Bộ xây dựng, trên cơ sở liên hiệp các xí nghiệp cơ khí xây dựng được thành lập từ năm 1975. Từ khi thành lập tới nay, Tổng công ty đã hợp tác, liên doanh với nhiều công ty, tổ chức trong và ngoài nước để chuyển giao công nghệ, ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến. Trong những năm tới, Tổng công ty cơ khí xây dựng tiếp tục đầu tư năng lực mới để trở thành một Tổng công ty hàng đầu ở Việt Nam trong lĩnh vực chế tạo, lắp đặt các thiết bị phi tiêu chuẩn, kết cấu thép, thiết bị thi công ngành xây dựng trên thị trường thế giới. Để làm được điều này, Tổng công ty cơ khí xây dựng đã đề nghị lên Bộ xây dựng về việc tách Phòng xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng công ty để trở thành công ty con của mình. Và lấy tên là Trung tâm xuất nhập khẩu. Trung tâm Xuất nhập khẩu, là đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Cơ khí Xây dựng được thành lập theo quyết định số 1027/QĐ-BXD ngày 26/7/2000 của Bộ trưởng Bộ xây dựng. Tên giao dịch quốc tế là IMPORT EXPORT CENTRER, viết tắt là COMA-IMEX. Trung tâm đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 313597 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 05/9/2000, đăng ký thay đổi lần 3 ngày 12/8/2004. Trung tâm xuất nhập khẩu là đơn vị hạch toán trực thuộc, được sử dụng con dấu để giao dịch, được mở tài khoản tại ngân hàng thực hiện các nhiệm vụ do Tổng công ty cơ khí xây dựng giao, và hoạt động theo luật pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Khi mới thành lập, trụ sở của Trung tâm XNK đặt tại khuôn viên Công ty xây lắp và kinh doanh thiết bị ( km 7 quốc lộ 5) xã Gia Thụy, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Trong quá trình hoạt động, trung tâm XNK đã có một số lần chuyển trụ sở kinh doanh để giao dịch được thuận lợi và kinh doanh có hiệu quả hơn. Hiện nay Trung tâm đang hoạt động tại 125D Minh Khai, ngõ Hoà Bình 6, Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Coma-Imex. Chức năng của trung tâm: - Tổ chức hoạt động đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài được bộ xây dựng cho phép. - Trung tâm có chức năng nhập khẩu một số mặt hàng : vật tư, máy móc, thiết bị hàng hoá theo yêu cầu của thị trường, của các ngành xây dựng và của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. - Trung tâm còn thực hiện hoạt động cho thuê tài chính. Nhiệm vụ của trung tâm. - Tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ, công nhân và lao động làm việc ở nước ngoài; tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên phục vụ thi công các công trình ở nước ngoài. - Trung tâm có nhiệm vụ giao dịch đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thương và các hợp đồng kinh tế. - Thực hiện hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. - Tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch. - Tổ chức hoạt động liên quan đến cho thuê tài chính. 2.1.3. Tổ chức bộ máy của Coma-Imex. Trung tâm xuất nhập khẩu có cả một cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý. Cơ cấu này rất đơn giản, bao gồm một giám đốc, hai phó giám đốc, ba phòng chức năng, các văn phòng đại diện và cơ sở đào tạo. Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của Trung tâm xuất nhập khẩu COMA-IMEX . Giám đốc Phó giám đốc xuất khẩu lao động Phó giám đốc kinh doanh Phòng Kinh doanh xuất - nhập khẩu Phòng XK lao động Văn phòng đại diện Bộ phận quản lý khai thác Kế toán tài chính Văn phòng Cơ sở đào tạo số 1 Bộ phận kỹ thuật Cơ sở đào tạo số 2 Cơ sở đào tạo số 3 Cơ sở đào tạo số 4 Đứng đầu là Giám đốc Trung tâm điều hành mọi hoạt động của Trung tâm theo chế độ thủ trưởng và đại diện cho mọi quyền lợi, nghĩa vụ của Trung tâm trước pháp luật và trước cơ quan quản lý Nhà nước. Giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc điều hành trực tiếp phụ trách các đơn vị, các phòng ban chức năng. Có ba phòng ban chức năng có nhiệm vụ giúp việc và chịu sự quản lý của giám đốc, cung cấp thông tin thuộc chức năng của mình, tạo điều kiện cho ban lãnh đạo ra quyết định chỉ đạo kịp thời, đúng đắn. Phòng kế toán và tổ chức lao động: có nhiệm vụ tham mưu giúp việc giám đốc trong các lĩnh vực kế toán tài chính, đầu tư, kiểm toán nội bộ và thống kê ở Trung tâm; trong các lĩnh vực về quản lý, đổi mới doanh nghiệp, cán bộ và đào tạo nhân lực, lao động và tiền lương, tư vấn pháp luật, thanh tra, cử cán bộ đi học tập ở nước ngoài . Phòng kinh doanh: Tham mưu giúp việc giám đốc trong các lĩnh vực nghiên cứu thị trường, giá cả hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm, cân đối sản lượng và xuất nhập khẩu của Trung tâm. Phòng xuất khẩu lao động: Nghiên cứu thị trường lao động trong và ngoài nước để tổ chức đào tạo tuyển chọn, đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và thống kê ở Trung tâm trong các lĩnh vực về quản lý, đổi mới doanh nghiệp cán bộ và đào tạo nhân lực, lao động và tiền lương, tư vấn pháp luật, thanh tra, cử cán bộ đi công tác nước ngoài. Đặc điểm kinh doanh của Coma-Imex. Lĩnh vực và mặt hàng kinh doanh: - Đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; - Tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ, công nhân và lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức các khoá đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên phục vụ thi công các công trình ở nước ngoài. - Xuất nhập khẩu vật tư, hàng hoá thiết bị phụ tùng xe máy; - Tổ chức kinh doanh dịch vụ du lịch; - Mua bán ô tô và thiết bị, phụ tùng thay thế. Thị trường hoạt động của trung tâm: Thị trường của công ty rất rộng lớn bao gồm cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Hầu hết các thị trường mà Trung tâm XNK đặt quan hệ làm ăn đều là những thị trường quen thuộc và đáng tin cậy như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc. Nhất là thị trường Nhật Bản, đây là thị trường có nhiều tiềm năng và ở đây sẽ có nhiều cơ hội cho Trung tâm khai thác và đặt quan hệ bền vững lâu dài. Ngoài những thị trường quen thuộc, trung tâm còn mở rộng thị trường sang Đức, Anh, Italia… và các nước trong khu vực. Đầu ra của Trung tâm rất đa dạng bao gồm sản phẩm dịch vụ của hoạt động cho thuê tài chính, các công trình xây dựng, các vật tư, hàng hoá,sức lao động… Đầu vào chủ yếu là các máy móc thiết bị được nhập khẩu từ nước ngoài, nhập khẩu thép xây dựng chủ yếu từ Đài Loan, nhập khẩu hạt nhựa từ Anh… Hệ thống cơ sở phục vụ hoạt động kinh doanh Trung tâm có 1 trụ sở giao dịch duy nhất tại tầng 13 toà nhà COMA tại 125D Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà nội. Tình hình về vốn và lao động của Coma-Imex. Tuy mới được tách ra từ phòng xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng công ty nhưng Trung tâm XNK Coma-Imex cũng có đủ nguồn vốn để đáp ứng cho hoạt động kinh doanh Xuất khẩu lao động và chuyên gia. Bảng 2.1: Tình hình vốn và lao động của Coma-Imex trong thời gian gần đây: Chỉ tiêu Đơn vị tính 2004 2005 2006 2007 Vốn kinh doanh 1.000.000 VNĐ 3.705 2.719,5 4.060 4.782 Thu nhập bình quân/người/tháng 1.000 VNĐ 1.700 1.500 2.100 2.736,8 Số cán bộ, công nhân viên Người 22 25 26 29 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác các năm: 2004-2007) Phân tích: Dựa vào bảng trên ta thấy, vốn kinh doanh của Coma-Imex qua các năm có sự tăng, giảm không đồng đều. Vốn kinh doanh năm 2005 đã giảm so với năm 2004, tuy nhiên từ năm 2006 thì vốn kinh doanh của Coma-Imex lại tăng dần và cao hơn so với năm 2004. Nguyên nhân là do Coma-Imex đã gặp phải một số khó khăn trong tài chính, bị chiếm dụng vốn trong thanh toán hàng hoá, nên không thể tập trung vốn để kinh doanh. Do đó mức lương năm 2005 cũng giảm so với năm 2004. Tuy nhiên từ năm 2006 Coma-Imex dã thực hiện tốt công tác chỉ đạo kinh doanh: thực hiện tốt các hợp đồng xuất khẩu lớn nhỏ; ngoài việc đóng góp về doanh số, Trung tâm còn thực hiện tốt các hợp đồng nhập khẩu thép tấm, thép góc, hợp đồng cung cấp van vòi cho Vinahud...; đặc biệt là đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, đem lại nguồn doanh thu chủ yếu cho doanh nghiệp, nâng cao chất lượng công tác Marketing, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu. Mức lương của cán bộ công nhân viên của Trung tâm cũng được cải thiện đáng kể. Số lượng cán bộ công nhân viên cũng tăng dần qua các năm. Các cán bộ công nhân viên đều được đào tạo qua các trường lớp, có kinh nghiệm, có chuyên môn , phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của Trung tâm đặt ra, được phân bổ cho các phòng ban, đơn vị trực thuộc Trung tâm. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, đặc biệt là hiệu quả từ công tác xuất khẩu lao động. Trong thời gian tới Trung tâm cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, tổ chức đào tạo lao động có ngành nghề, biết ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp để nâng cao uy tín của mình trên thị trường, tạo nền tảng cho sự hợp tác lâu dài với các doanh nghiệp của các quốc gia trên thị trường quốc tế. Tình hình hoạt động kinh doanh của Coma-Imex. Kết thúc năm 2007, Coma-Imex thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong điều kiện vẫn còn khó khăn, tuy nhiên Coma-Imex đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu cơ bản so với kế hoạch đã đề ra. Bảng 2.2: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Coma-Imex trong những năm gần đây. (Đơn vị tính: Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 So sánh 2006/2005 ST Tỷ lệ (%) ST Tỷ lệ (%) Tổng doanh thu 21.337,22 5.274,99 11.990,99 -16.062,23 -75,28% 6.716 127,32% Tổng chi phí 21.141,66 4.946,42 11.945,45 -16.195,24 -76,6% 6.999,03 141,49% Tổng lợi nhuận 215,68 337,29 102,677 121,61 56,38% -234,61 -69,56% ( Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2004- 2006) Từ bảng so sánh trên ta thấy kết quả kinh doanh của các năm tăng giảm không đều, năm 2006 có xu hướng giảm so với các năm trước. Tổng doanh thu của năm 2006 có tăng so với năm 2005 là 127,32% nhưng lại thấp hơn so với năm 2004. Tổng doanh thu của năm 2005 giảm so với năm 2004 là 75,28%. Tổng chi phí của năm 2005 cũng giảm so với năm 2004 là 76,6%, tổng chi phí của năm 2006 tăng so với năm 2005 là 141,49%, tuy nhiên tổng chi phí của năm 2006 vẫn thấp hơn so với năm 2004. Qua các năm, Trung tâm XNK đã làm ăn có lãi nhưng tổng lợi nhuận tăng giảm không đồng đều qua các năm. Cụ thể là tổng lợi nhuận năm 2005 tăng 56,38% so với năm 2004, nhưng năm 2006 lại giảm 69,56% so với năm 2005 và cũng thấp hơn so với năm 2004. Theo báo cáo tổng kết cuối năm 2007 thì tổng doanh thu của năm 2007đạt 10.589.420.000 đồng đạt 132% kế hoạch ( theo kế hoạch là 8.000.000.000 đồng). Giảm 11,69% so với năm 2006. Tổng lợi nhuận năm 2007 đạt 432.000.000 đồng đạt 200% kế hoạch (theo kế hoạch là 214.800.000 đồng), tăng 420,74% so với năm 2006. Qua đây ta thấy tuy tổng doanh thu của năm 2007 giảm so với năm 2006 nhưng tổng lợi nhuận lại tăng so với năm 2006 rất nhiều. Như vậy hiệu quả kinh doanh tăng cao. Nhờ nắm bắt được tình hình và thời cơ kinh doanh nên có thể nói trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh của Trung tâm xuất nhập khẩu đã đạt được những kết quả nhất định mà ta đã thấy qua phân tích ở trên,msặc dù kết quả này tăng giảm thất thường và không ổn định. Do đó, để ổn định phát triển, Trung tâm XNK cần có biện pháp giải quyết kịp thời những khó khăn của mình. Nhất là cần có công tác nghiên cứu tìm hiểu thị trường để có thể nắm bắt kịp thời được những thách thức, cơ hội từ thị trường để có thể khắc phục được những điểm yếu và phát huy được những điểm mạnh của doanh nghiệp. * Riêng đối với hoạt động Xuất khẩu lao động, Coma-Imex đã đạt được kết quả như sau: Bảng 2.3: Kết quả hoạt động Xuất khẩu lao động trong một số năm. Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Doanh thu 1.650 1.580 3.412 2.800 Chi phí 1.010 920 2.815 1.950 Lợi nhuận 640 660 597 850 Qua bảng trên ta thấy doanh thu từ hoạt động Xuất khẩu lao động của Coma-Imex cũng không đồng đều qua các năm, điều đó là do ảnh hưởng của sự biến động về tình hình kinh tế, chính trị. Tuy nhiên Coma-Imex vẫn thu được một khoản lợi nhuận không nhỏ từ hoạt động này, góp phần mở rộng hoạt động kinh doanh của Trung tâm. Trong thời gian tới Coma-Imex tập trung vào hoạt động Xuất khẩu lao động, bởi đây là hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận lớn, và có khả năng phát triển cao. Thực trạng tình hình xuất khẩu lao động của trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex. 2.2.1. Thị trường Xuất khẩu lao động của Coma-Imex. Hoạt động Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế mang tính xã hội cao, nhận thức được điều đó, Coma-Imex đã đặc biệt quan tâm và coi Xuất khẩu lao động là hoạt động trọng tâm, chiến lược để thúc đẩy các lĩnh vực hoạt động khác phát triển. Tuy mới tham gia vào hoạt động Xuất khẩu lao động nhưng Coma-Imex đã tạo được mối quan hệ hợp tác lâu dài với một số thị trường lớn như: Đài Loan, Trung Đông, Malaysia. Bên cạnh các thị trường truyền thống, Coma-Imex tiến hành triển khai công tác nghiên cứu, tìm hiểu các thị trường mới như Ba Lan, Cộng hoà Séc, Singapore... một cách cẩn trọng, chi tiết và có hệ thống trước khi đưa người lao động Việt Nam sang nước ngoài làm việc nhằm đạt hiệu quả cao, phòng tránh rủi ro. Điều đặc biệt là năm 2007, Coma-Imex đã lần đầu đưa được tu nghiệp sinh Việt Nam đi tu nghiệp tại Nhật Bản, mở ra một cơ hội mới đầy triển vọng. Chương trình tu nghiệp sinh mới tại Nhật Bản do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam và Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản (IMM) hợp tác triển khai (gọi tắt là chương trình IMM). Chương trình được thí điểm từ năm 2006 và đến nay đã đưa được 210 người sang Nhật Bản. Đây là chương trình phi lợi nhuận. Người lao động chỉ chịu chi phí liên quan đến đi lại, học tiếng trước khi sơ tuyển, khám sức khỏe, làm hộ chiếu, visa, tiền ăn ở 4 tháng để học tiếng, kết hợp rèn luyện thể lực và giáo dục định hướng. 2.2.2. Các bước của quy trình Xuất khẩu lao động tại Coma-Imex . 2.2.2.1. Ký kết các hợp đồng liên quan đến việc đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài. Hợp đồng cung ứng lao động: là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp của Việt Nam với bên nước ngoài về điều kiện, nghĩa vụ của các bên trong việc cung ứng và tiếp nhận lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là công đoạn đầu tiên mà Coma-Imex phải làm sau khi nghiên cứu thị trường và quyết định hợp tác với đối tác. Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp với người lao động về quyền, nghĩa vụ của các bên trong việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Sau khi ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài, Coma-Imex tiến hành tìm nguồn lao động để cung ứng cho đối tác. Khi đã có nguồn lao động, Coma-Imex tiếp tục ký kết với người lao động các hợp đồng đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài. 2.2.2.2. Tuyển chọn lao động. Khi tuyển chọn lao động, Coma-Imex niêm yết công khai trụ sở chính các nội dung: số lượng người lao động cần tuyển, giới tính, độ tuổi, công việc mà người lao động sẽ đảm nhận, nơi làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện sức khỏe, tay nghề, ngoại ngữ, các khoản chi phí mà người lao động phải đóng góp để đi làm việc ở nước ngoài, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Khi tuyển chọn lao động ở địa phương, Coma-Imex phải xuất trình giấy phép và thông báo với Sở Lao động Thương binh và Xã hội, chính quyền cấp huyện, xã nơi Coma-Imex tuyển chọn lao động về kế hoạch và các điều kiện tuyển chọn lao động như trên. Coma-Imex phải cam kết với người lao động về thời gian chờ xuất cảnh sau khi người lao động trúng tuyển đi làm việc ở nước ngoài: Trong thời gian Coma-Imex đã cam kết, nếu người lao động không có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài nữa thì Coma-Imex sẽ trả lại hồ sơ cho người lao động và người lao động sẽ phải chịu các chi phí mà Coma-Imex đã chi (nếu có) để làm thủ tục cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, gồm: chi phí làm hồ sơ, chi phí khám sức khỏe, học phí bồi dưỡng kiến thức cần thiết... Nếu quá thời gian đã cam kết mà Coma-Imex vẫn chưa đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài thì Coma-Imex sẽ thông báo rõ lý do cho người lao động... 2.2.2.3. Dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động; tổ chức bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Coma-Imex có trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng kiến thức cần thiết, kiểm tra và cấp chứng chỉ cho người lao động trước khi đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nội dung bồi dưỡng kiến thức cần thiết bao gồm: Truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc. Những nội dung cơ bản liên quan về pháp luật lao động, hình sự, dân sự, hành chính của Việt Nam và của nước tiếp nhận người lao động. Nội dung hợp đồng ký giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, tổ chức cá nhân đầu tư ra nước ngoài với người lao động. Kỷ luật lao động, an toàn và._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11427.doc