Một số biện pháp về việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty BVJH

Một số biện pháp về việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bvjh Mở đầu Trong cơ chế thị trường, kinh doanh luôn gắn liền với cạnh tranh. Đã từ lâu người Anh có phương châm “Business is Business“ - Kinh doanh là kinh doanh: trong kinh doanh không có chỗ dành cho tình cảm, kinh doanh là cạnh tranh gay gắt, không khoan nhượng... Phương châm đó đã từng lột tả hết tính chất quyết liệt của cạnh tranh trên thương trường. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế đều phải tự

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp về việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty BVJH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mình vận động để thích nghi với cơ chế này. Doanh nghiệp nào không thích nghi sẽ phải “gặt hái” sự thất bại, phá sản và theo quy luật đào thải thì nó sẽ bị loại ra khỏi thị trường chính vì thế, chúng ta hoàn toàn đễ hiểu khi một doanh nghiệp hôm nay đang rất hưng thịnh nhưng ngày mai lại phải tuyên bố phá sản. Những điều đáng mừng là trong những năm qua khi nền kinh tế ở nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhiều doanh nghiệp đã và đang tự khẳng định khả năng, vị trí của mình, đứng vững trong cơ chế mới và bắt đầu vươn lên. Hòa đồng với xu hướng chung này, Công ty Bánh kẹo Hải Châu , từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã thu được rất nhiều thắng lợi bằng nhiều biện pháp khác nhau, Công ty đã từng bước tạo lập và dần nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường, sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng chấp nhận. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Công ty đã có thể tự hài lòng với thắng lợi của mình, vì trong tương lai thắng lợi đó luôn luôn bị de dọa. Các đơn vị sản xuất bánh kẹo cả trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách để cạnh tranh với Hải Châu và mức độ cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt hơn. Do đó việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu là một tất yếu. Qua thời gian thực tập tìm hiểu và nghiên cứu về thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty. Em chọn đề tài về: “Một số biện pháp về việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty”, với hy vọng có đóng góp phần nào vào sự phát triển của Công ty trong thời gian tới. Bản chuyên đề gồm 3 phần: Phần I. - ý nghĩa của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần II. - Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty. Phần III. - Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. I / ý nghĩa việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 1- Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Như chúng ta đã biết, đặc trưng cơ bản của thị trường là cạnh tranh. thị trường là lĩnh vực trao đổi mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để giành những phần có lợi cho mình. Người ta còn nói rằng thị trường là vũ đài cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ. Vậy , cạnh tranh là gì ? 1.1. Khái niệm: - Theo Mác, “Cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm gành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuân siêu ngạch “. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa Tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ xuất lợi nhuận bình quân, và qua đó đã hình thành lên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị và chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hóa dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. - Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và yếu tố kích thích kinh doanh, là môi trường động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất phát triển, tăng năng suất lao động và sự phát triển của xã hội nói chung. Như vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa, là nội dung cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả cạnh tranh sẽ là một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi một số doanh nghiệp khác thì tồn tại và phát triển hơn nữa. Nhờ sự phát triển của cuộc xung đột trong quá trình cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội, yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. Tóm lại, cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa chủ thể hoạt động trên thị trường với nhau, nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và nơi tiêu thụ hàng hóa dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. 1.2. Các loại hình cạnh tranh: Dựa trên các tiêu thức phân loại khác nhau mà người ta chia thành các loại hình cạnh tranh khác nhau. a) Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường người ta chia ra thành 3 loại: - Cạnh tranh hoàn hảo. - Cạnh tranh không hoàn hảo. - Canh tranh độc quyền. a.1. Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức canh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán và không có người nào có ưu thế cung ứng một số lượng sản phẩm quan trọng khả dĩ ảnh hưởng đến giá cả. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem xét là đồng nhất, tức là nó rất ít khác nhau về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Những người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá, bởi vì cung và cầu thị trường được tự do hình thành, giá cả được ấn định ở mức mà số cầu của một sản phẩm đủ thu hút tất cả số cung có thể cung ứng. Người kinh doanh tham gia trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí và sản xuất một số lượng sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên. Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ không có những hạn chế giả tạo được gây ra trên số cầu, số cung giá cả các hàng hóa và tài nguyên. Giá cả tự do thay đổi theo điều kiện thay đổi của cung và cầu, không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính Nhà nước. Vì vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo giá cả thị trường sẽ dần tới mức chi phí sản xuất. a.2. Cạnh tranh không hoàn hảo: Là cạnh tranh trên thị trường không đồng nhất với nhau . Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau, mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Chẳng hạn như các loại thuốc lá, dầu nhờn, nước giải khát, bánh kẹo... thậm chí cùng loại nhưng lại có nhãn hiệu khác nhau. Mỗi lại nhãn hiệu lại có uy tín, hình ảnh khác nhau. Mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Các điều kiện mua, bán hàng rất khác nhau. Người bán có thể có uy tín độc đáo khác nhau đối với người mua do nhiều lý do khác nhau, như khách hàng quen, gây dược lòng tin,... Người bán lôi kéo khách về phía mình bằng nhiều cách: quảng cáo, khuyến mại, phương thức bán hàng, cung cấp dịch vụ, tín dụng, có nhiều khâu ưu đãI trong giá cả,... loại cạnh tranh không hoàn hảo này rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay. a.3. Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không đồng nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra thị trường. Thị trường này có pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh, được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. ở đây xảy ra cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện gia nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền về bí quyết công nghệ. Thị trường này không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn hoà hơn tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của từng sản phẩm, cốt sao cuối họ thu được lợi nhuận tối đa. Những nhà doanh nghiệp nhỏ tham gia thị trường này phải chấp nhận bán hàng theo giá cả của nhà độc quyền. Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền gây trở ngại cho phát triển sản xuất và làm phương hại đến người tiêu dùng. Vì vậy, ở một số nước có luật chống độc quyền nhằm chống lại sự liên minh độc quyền giữa các nhà kinh doanh. b) Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, người ta chia cạnh tranh làm 3 loại: - Cạnh tranh giữa người bán và người mua. - Cạnh tranh giữa những người mua với nhau. - Cạnh tranh giữa những người bán với nhau. * Cạnh tranh giữa người bán vói người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo “ luật mua rẻ - bán đất “. Trên thị trường, những người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, nhưng người mua lại muốn mua hàng hoá với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán với người mua với người mua sau quá trình “ mặc cả “ với nhau. * Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh dựa trên sự tranh mua. Khi cung nhỏ hỏn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua trở nên quyết liệt hơn, giá cả hàng hoá dịch vụ sẽ tăng lên. Do hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên người mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được những hàng hoá mà họ cần. Vì số người mua đông nên người bán tiếp tục nâng giá hàng lên và người mua tiếp tục phải chấp nhận giá đó. Đây là cuộc cạnh tranh giữa những người mua tự làm hại chính mình. * Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau , thủ tiêu lẫn nhau để tranh giành khách hàng và thị trường. Khi ấy giá cả hàng hoá giảm và người mua được lợi. Đây là cuộc cạnh tranh có ý nghĩa quyết định sống còn của doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều muốn giành giật lấy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần của đối thủ. Kết quả để đánh giá doanh nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này là việc tăng doanh số tiêu thụ, tăng tỉ lệ thị phần. Cùng với nó là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. Các doanh nghiệp bước chân vào thị trường mà ở đó đã, đang và sẽ có các doanh nghiệp khác tham gia thì phải chấp nhận cạnh tranh. Không những thế doanh nghiệp đó phải sẵn sàng có những biện pháp cạnh tranh phù hợp với từng thời điểm khác nhau. Khi sản xuất hàng hóa càng phát triển, số người bán hàng, những nhà sản xuất ngày càng tăng lên thì cuộc cạnh tranh này ngày càng trở nên gay gắt hơn. Các nhà kinh tế nhận xét rằng: kinh doanh là chiến trường. Trong cuộc chiến này, một mặt sản xuất hàng hóa với quy luật cạnh tranh sẽ gạt khỏi thị trường những doanh nghiệp không có những biện pháp cạnh tranh hữu hiệu. Nhưng mặt khác, thị trường lại mở đường cho các doanh nghiệp nắm chắc được công cụ cạnh tranh và dám mạo hiểm trong kinh doanh. c) Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế, người ta chia cạnh tranh thành cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. * Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa, nhằm mục đích tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật nâng cao năng xuất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của cuộc cạnh tranh là kỹ thuật sản xuất phát triển, điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành thay đổi, giá trị trường ( 1 ) (giá trị xã hội ) của hàng hóa được xác định lại, tỷ xuất lợi nhuận giảm xuống. Do tác động của quan hệ cung cầu, giá cả của hàng hóa có thể cao hơn hoặc hoặc thấp hơn giá trị thị trường của nó, nhưng các doanh nghiệp vẫn có thể thu được lợi nhuận nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí sản xuất. “X(1): Một mặt được hiểu là giá trị trung bình của hàng hóa được sản xuất trong một kĩnh vực, mặt khác là giá trị cá biệt của hàng hóa được sản xuất trong điều kiện trung bình của một lĩnh vực và chiếm khối lượng lớn sản phẩm của lĩnh vực đó.” * Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp hay đồng minh, giữa các nhà doanh nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình cạnh tranh, các nhà doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành có lợi nhuận cao. Sự điều chỉnh tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận sau một quá trình nhất định, sau một thời gian nhất định sẽ hình thành nên sự phân phối hợp lý vốn giữa các nhà sản xuất để rồi các doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau, tức là hình thành tỷ xuất lợi nhuận bình quân cho tất cả các ngành. Đặc trưng cơ bản của thị trường đã nêu trên được thể hiện ở Bảng 1. Bảng 1: Tóm tắt cơ cấu thị trường Cơ cấu Số lượng người sản xuất sản phẩm giống nhau Sản phẩm đặc trưng của thị trường Mức độ kiểm soát Phương pháp cạnh tranh Cạnh tranh hoàn hảo Nhiều người sản xuất sản phẩm giống hệt nhau Sản phẩm nông nghiệp (gạo, ngô...) Không Trao đổi trên thị trường Cạnh tranh không hoàn hảo Nhiều người sản xuất, nhiều sự khác biệt thực sự Đồ dùng sinh hoạt, lương thực... buôn bán lẻ ở mức độ nhất định Quảng cáo và cạnh tranh chất lượng Cạnh tranh không hoàn hảo ít người sản xuất, có một số khác biệt trong sản phẩm Ô tô, dầu mỡ nhờn,.. ở mức độ nhất định Quảng cáo và cạnh tranh chất lượng Cạnh tranh độc quyền Một số người bán một sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không đồng nhất Máy bay, vũ khí... điện, nước... Rất lớn nhưng có quy định Quảng cáo và phát triển dịch vụ 1.3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp: Sáng tạo, khai thác các thế mạnh cạnh tranh về phía mình, các doanh nghiệp bao giờ cũng phải lựa chọn “công cụ” nào để cạnh tranh? Làm thế nào để sử dụng các công cụ ấy và giành thắng lợi trước các đối thủ cạnh tranh. Cuộc cạnh tranh gay gắt nhất bao giờ cũng là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành hàng, tức là cùng sản xuất cung cấp một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó ra thị tường. Vì vậy, các công cụ cạnh tranh ở đây chỉ xem xét theo các doanh nghiệp cạnh tranh cùng một ngành hàng. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp: Là tập hợp các yếu tố, các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách các hành động mà doanh nghiệp sử dụng nhằm vượt lên trên đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng để thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng, từ đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu được lợi nhuận cao. Mỗi công cụ cạnh tranh không nên sử dụng độc lập mà nên có sự kết hợp hay hỗ trợ của các công cụ khác, các điều kiện khác. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu: a- Công cụ cạnh tranh là sản phẩm và chất lượng sản phẩm. Nếu lựa chọn sản phẩm là công cụ cạnh tranh thì phải tập trung giải quyết toàn bộ chiến lược về sản phẩm, làm cho sản phẩm thích ứng nhanh chóng với thị trường. Nội dung cơ bản của chiến lược sản phẩm: * Tính chất chiến lược về sản phẩm được thể hiện: + Duy trì, củng cố thị trường sản phẩm hiện có, giữ vững uy tín của sản phẩm trên thị trường đối với những sản có thế mạnh. + Hoàn thiện những sản phẩm cũ, cho thích ứng với nhu cầu thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã. + Đưa ra sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu thị trường hoặc đón trước nhu cầu thị trường. + Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. * Phát triển sản phẩm mới: Nhu cầu thị trường luôn thay đổi. Do đó để đáp ứng được những thay đổi này doanh nghiệp cần có sản phẩm mới. Hơn nữa sản phẩm mới được đưa ra có thể còn để định hướng cho tiêu dùng. Sản phẩm mới ra đời là tất yếu để doanh nghiệp luôn đứng vững ở vị trí nhất định trên thị trường, bảo đảm sự sống còn trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Sản phẩm được coi là mối xét trên các góc độ sau: - Trên góc độ quá trình sản xuất để xem xét sản phẩm mới được coi là sản phẩm hoàn thiện, cải tiến ở một giai đoạn nào đó của quá trình sản xuất. - Trên góc độ doanh nghiệp sản phẩm mới là sản phẩm doanh nghiệp chưa đưa ra sản xuất bao giờ . - Trên góc độ thị trường để xem xét, ở một thị trường cụ thể, sản phẩm mới là sản phẩm từ trước đến nay chưa có và đến bây giờ mới có. Yêu cầu phát triển sản phẩm mới: Sản phẩm mới phải thoả mãn những yêu cầu về thị hiếu mới của người tiêu dùng. Đưa sản phẩm mới ở lĩnh vực mà chưa ai đáp ứng, chưa có ai chiếm lĩnh hoặc đáp ứng chưa đủ. Sản phẩm mới có khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Sản phẩm mới tốt hơn, rẻ hơn, tiện lợi hơn. Sản phẩm mới đáp ứng được mục tiêu, mục đích và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nhà doanh nghiệp mỗi khi hoàn hay cho ra đời một sản phẩm mới phải xét đến tính khả thi của sản phẩm mới. Việc phân tích thường dựa vào những yếu tố sau: Vòng đời của sản phẩm. Vòng đời của sản phẩm ngắn hay dài có tác động đến kế hoạch chuẩn bị sản phẩm mới. Chu kì lỗi thời của công nghệ . Ngày nay, khoa học kĩ thuật tiến bộ nhanh chóng, nhiều quy trình cong nghệ mới ra đời. Doanh nghiệp phải kịp thời đón lấy công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm mới tốt hơn, rẻ hơn. Nguồn nguyên liệu cần thiết, khả năng đáp ứng như thế nào sự lựa chọn ra sao cho phù hợp. Tay nghề công nhân, kĩ năng, kĩ xảo của họ có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm làm ra, cần phải đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân. Sự thay đổi của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Sức mua của dân cư và trình độ tiêu dùng của người dân ra sao. Nếu sức mua lớn, trình độ têu dùng cao thì việc đưa thị trường những sản phẩm mới sẽ có được những điều kiện thuận lợi và có tính khả thi cao. Khả năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Nếu khả năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp mà yếu thì việc đưa sản phẩm mới ra sẽ gặp rất nhiều khó khăn và có thể sẽ thất bại. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp. * Đa dạng hoá sản phẩm: Thực chất của đa dạng hoá sản phẩm là quá trình mở rộng hợp lý doanh mục sản phẩm, tạo nên một cơ cấu sản phẩm , tạo nên một cơ cấu sản phẩm có hiệu quả của doanh nghiệp. Đa dạng hoá sản phẩm là một sự cần thiết khách quan đối với mỗi doanh nghiệp . Vì: - Ngày nay, nhờ những thành tựu của khoa học công nghệ mà chu kì sống của sản phẩm được rút ngắn, doanh nghiệp cần có nhiều sản phẩm để thay thế, hỗ trợ lẫn nhau. - Mặt khác, nhu cầu của thị trường rất đa dạng, phong phú và phức tạp, doanh nghiệp đa dạng hoá sản phẩm nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của thị trường và như vậy doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn. - Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt thì đa dạng hoá sản phẩm nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh. - Đa dạng hoá sản phẩm tạo cơ hội khai thác và sử dụng tối đa năng lực hiện có của doanh nghiệp về: nguyên vật liệu, phế liệu, máy móc thiết bị nhà xưởng, tiềm năng sức lao động của công nhân, qua đó góp phần tăng doanh số và lợi nhuận cho doanh nghiệp. b> Nội dung của phương án sản phẩm: - Công dụng, lợi ích của sản phẩm. - Chất lượng sản phẩm. - Bao bì, mẫu mã sản phẩm. - Nhãn hiệu sản phẩm và từ đó tạo uy tín cho sản phẩm. Như chúng ta đã biết, không một ai lại đi mua sản phẩm hàng hóa mà lại không có lợi ích gì, hay nói cách khác không thoả mãn một nhu cầu nào. Do vậy, doanh nghiệp cần quan tâm đến công dụng, lợi ích của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều kiện nhất định về kinh tế, kĩ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau, tính chất có có lý hóa đúng như các chỉ tiêu quy định, hình dáng mầu sắc hấp dẫn. Với mỗi loại sản phẩm khác nhau thì chỉ tiêu chất lượng là khác nhau, tuy nhiên vấn đề chính là chất lượng sản phẩm cùng loại với các doanh nghiệp khác phải luôn được giữ vững và nâng cao hơn. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khi thiết kế sản phẩm cho đến khi sản xuất được sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm. Có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng sản phẩm: khâu thiết kế sản phẩm, chấtlượng nguyên vật liệu, chất lượng hoạt động của máy móc thiết bị, tình trạng ổn định của công nghệ chế tạo chế tạo và đặc biệt là chất lượng lao động. Muốn đảm bảo về chất lượng thì một mặt phải thường xuyên chú ý tất cả các khâu của quá trình sản xuất, mặt khác phải có chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm do các nhân viên kiểm tra chất lượng thực hiện. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khi thiết kế sản phẩm cho đến khi sản xuất được sản phẩm phải được đào tạo chuyên môn và có phẩm chất trung thực, khách quan. Chất lượng sản phẩm không những được bảo đảm trước khi bán mà còn phải được đảm bảo ngay cả sau khi bán hàng bằng các dịch vụ bảo hành. Việc kiểm tra chất lượng là cần thiết. Tuy nhiên doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp kiểm tra ít tốn kém nhưng hiệu quả. Để các chuyên viên kiểm tra chất lượng sản phẩm có căn cứ để đánh giá chất lượng, doanh nghiệp phải xác định tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: chỉ tiêu về hình dáng, màu sắc, kích thước, trọng lượng, tính chất cơ lý, hoá, độ bền, độ an toàn, tính thời trang và các chỉ tiêu khác. Có thể thấy được các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm qua sơ đồ xương cá (Hình 1). ĐKCLL Thiết kế Bảo Chất Nghiên cứu quản lượng Quản lý NVL LĐ Nâng cao Công nghệ MMTB Tiền lương CLSP Tay nghề Hình 1: Sơ đồ quản lý CLSP của Nhật Bản Thực tế cho thấy, tất cả các doanh nghiệp thành đạt trong kinh doanh thắng thế trong cạnh tranh đều là các doanh nghiệp có thái độ giống nhau đối với chất lượng sản phẩm. Nguyên tắc chung của họ là chất lượng sản phẩm tuyệt đối với độ tin cậy cao khi sử dụng và lòng trung thực trong quan hệ mua bán. Đặc biệt các doanh nghiệp Nhật luôn coi việc nâng cao chất lượng là một chiến lược cạnh tranh thị trường có phạm vi toàn cầu. Chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Khi chất lượng không được đảm bảo, không thoả mãn nhu cầu khách hàng thì ngay lập tức khách hàng sẽ rời bỏ doanh nghiệp. Do đó để tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tăng khả năng cạnh tranh, thể hiện trên nhiều giác độ: - Chất lượng sản phẩm tăng lên nhờ đó thu hút khách hàng tăng khối lượng hàng hoá bán ra, tăng được uy tín của sản phẩm, mở rộng được thị trường. - Nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao hiệu quả sản xuất. b) Công cụ cạnh tranh là giá bán sản phẩm Giá cả có thể được hiểu là số tiền mà người mua trả cho người bán về việc cung ứng một số hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Hay giá cả sản phẩm là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp dự tính có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao đổi sản phẩm đó trên thị trường. Giá cả của sản phẩm phụ thuộc vào những yếu tố sau: + Các yếu tố kiểm soát được: Chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng và chi phí lưu thông, chi phí yểm trợ xúc tiến bán hàng. + Các nhân tố không thể kiểm soát được: quan hệ cung cầu trên thị trường, sự cạnh tranh trên thị trường, sự điều tiết của Nhà nước. Giá cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua chính sách định giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường và có sự kết hợp với một số điều kiện khác. Định giá là việc ấn định có hệ thống giá cả cho đúng với hàng hoá hay dịch vụ bán cho khách hàng. Việc định giá căn cứ vào các mặt sau: - Lượng cầu đối với sản phẩm. Doanh nghiệp cần tính toán nhiều phương án giá. ứng với mỗi loại giá là một lượng cầu, từ đó chọn ra phương án có nhiều lợi nhuận nhất dựa trên tính quy luật: giá cao thì ít người mua và ngược lại. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng với loại hàng hoá có nhu cầu co dãn. - Chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm. Giá bán là tổng giá thành và lợi nhuận mục tiêu. Tuy nhiên, không phải bao giờ giá bán cũng cao hơn giá thành, nhất là trong điều kiện cạnh tranh thị trường. - Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh và từ đó ta có cách định giá cho mỗi loại thị trường. Từ những nhận định trên, doanh nghiệp có thể có ba chính sách định giá: * Chính sách định giá thấp: Là chính sách định giá thấp hơn giá thị trường để thu hút người tiêu dùng về phía mình. Chính sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực lớn về vốn, phải tính toán chắc chắn và đầy đủ mọi tình huống rủi ro. Chính sách này giúp doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường mới, bán được khối lượng sản phẩm lớn. * Chính sách định giá ngang giá thị trường: Đây là cách định giá phổ biến, tức là định giá với giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá bán trên thị trường. Với chính sách này doanh nghiệp phải tăng cường công tác tiếp thị, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để đứng vững trên thị trường. * Chính sách định giá cao: Là chính sách giá bán sản phẩm cao hơn giá thống trị trên thị trường, cao hơn giá trị. Chính sách này áp dụng cho doanh nghiệp có sản phẩm hay dịch vụ độc quyền, không bị cạnh tranh. * Chính sách giá phân biệt: Nếu các đối thủ cạnh tranh chưa có chính sách giá phân biệt thì đây cũng là một thứ vũ khí cạnh tranh không kém phần lợi hại của doanh nghiệp. Chính sách giá phân biệt của doanh nghiệp được thể hiện là với cùng một loại sản phẩm nhưng có nhiều mức giá khác nhau và các mức giá đó được phân biệt theo nhiều tiêu thức khác nhau: - Phân biệt theo lượng mua: Người mua nhiều phải được ưu đãi giá hơn so với người mua ít. - Phân biệt theo chất lượng: Chất lượng loại 1, chất lượng loại 2,... - Phân theo phương thức thanh toán: Mức giá với người thanh toán ngay phải ưu đãi hơn so với người trả chậm. - Phân biệt theo thời gian: Giá tại thời điểm này khác so với giá tại thời điểm khác. * Chính sách bán phá giá: Giá bán thấp hơn hẳn so với giá thị trường, thậm chí còn thấp hơn giá thành: Doanh nghiệp sử dụng vũ khí giá cả làm công cụ cạnh tranh để đánh bại đối thủ, loại đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường. Nhưng bên cạnh vũ khí này, doanh nghiệp phải có thế mạnh về tiềm lực tài chính, tiềm lực về khoa học công nghệ và uy tín sản phẩm trên thị trường. Việc bán phá giá chỉ nên thực hiện trong một thời gian nhất định và có thể loại bỏ được một số đối thủ nhỏ mà khó có thể đánh bại được những đối thủ lớn. Tuy nhiên doanh nghiệp không nên bán phá giá với mục đích tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. Có thể hôm nay doanh nghiệp tiêu diệt được đối thủ của mình, nhưng đâu phải là chiến thắng vĩnh cửu. Vì rất có thể ngày mai, doanh nghiệp lại bị đối thủ khác tiêu diệt và cũng bằng chính sách bán phá giá. Ngoài ra một số nước còn áp dụng chính sách chống bán phá giá. Khi giá cả có những tác động tích cực tới cạnh tranh như trình bày trên thì việc cạnh tranh bằng giá cả là một biện pháp quan trọng nhưng không phải là biện pháp quan trọng nhất. Sở dĩ như vậy, bởi vì qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nền sản xuất hàng hoá thì tầm quan trọng của các công cụ cạnh tranh cũng thay đổi. Khi nhu cầu người tiêu dùng chưa được thoả mãn thì việc xuất hiện sản phẩm và giá cả của nó là quan trọng, nhưng sau đó đã được thoả mãn về giá cả thì lại xuất hiện những nhu cầu về chất lượng sản phẩm, phương thức cung ứng... Cạnh tranh về giá thường được sử dụng khi doanh nghiệp tùng một sản phẩm mới ra thị trường hoặc khi muốn thâm nhập vào một thị trường mới hoặc muốn tiêu diệt một đối thủ cạnh tranh khác. Cạnh tranh bằng giá cả sẽ có ưu thế hơn đối với các doanh nghiệp có vốn và sản lượng lớn hơn nhiều so với các đối thủ khác. c) Công cụ cạnh tranh là nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm Trước hết, để tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần lựa chọn các kênh phân phối, lựa chọn thị trường, nghiên cứu thị trường... Từ đó chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. chính sách phân phối sản phẩm phải đạt được các mục tiêu giải phóng nhanh chóng nguồn hàng, tăng lượng tiêu thụ, tăng vòng quay vốn, thúc đẩy sản xuất, và nhờ vậy tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông thường, kênh tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được chia làm 4 loại sau: (a) Môi giới Người sản (b) Môi giới Người bán M.g Người xuất lẻ tiêu (DNCN) Mg Đại Mg Người bán M.g dùng lý (c) lẻ (d) Mg Người đại Mg Người bán Mg Người bán Mg lý buôn lẻ (a) Kênh trực tiếp ngắn (kênh cấp không) (b) Kênh trực tiếp dài (kênh cấp 1) (c) Kênh gián tiếp ngắn (kênh 2 cấp) (d) Kênh gián tiếp dài (kênh 3 cấp Tuỳ theo sự biến động của thị trường, tuỳ theo nhu cầu của người mua và người bán, tuỳ theo tính chất của hàng hoá và tuỳ theo các kênh mà có thể sử dụng thêm vai trò của người môi giới. Bên cạnh việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp cần đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán hàng để thu hút khách hàng. Hoạt động tiếp thị bao gồm các hoạt động chiêu thị và hội chợ. Chiêu thị bao gồm chào hàng, quảng cáo và chiêu hàng. - Chào hàng là một phương pháp chiêu thị qua các nhân viên của các doanh nghiệp để tìm khách hàng và bán hàng. Qua việc chào hàng cần nêu rõ được ưu điểm của sản phẩm so với sản phẩm cạnh tranh, tìm hiểu sở thích và nhu cầu của khách hàng để thoả mãn nhu cầu đó. - Quảng cáo là nghệ thuật sử dụng các phương tiện truyền tin về hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp đến người tiêu dùng, nhằm làm cho khách hàng chú ý tới sự có mặt của doanh nghiệp hoặc sản phẩm và dịch vụ sẽ cung cấp ra thị trường. Phương tiện và hình thức quảng cáo rất phong phú: qua đài, báo, truyền hình, phim ảnh... Tuy nhiên doanh nghiệp phải chọn cách quảng cáo gây ấn tượng làm khách hàng ngạc nhiên vui thích, tạo sự ham muốn sản phẩm. Quảng cáo phải gây ra tác động và tâm lý người tiêu dùng, hình ảnh sản phẩm phải lưu lại trong trí óc họ. - Chiêu hàng là biện pháp được các doanh nghiệp sử dụng để khuyến khích tiêu thụ sản phẩm. Phương pháp chiêu hàng thường dùng như: tặng phẩm cho khách hàng, trưng bày hàng hoá để khách hàng nhìn thấy và có điều kiện tìm hiểu về hàng hoá đó. Ngoài ra còn có thể sử dụng hình thức gửi mẫu hàng, bán với giá đặc biệt... Bên cạnh các công tác chiêu thị thì hoạt động tham gia hội chợ cũng rất quan trọng. Hội chợ là nơi để doanh nghiệp có thể trưng bày, giới thiệu các sản phẩm của mình, gặp gỡ các bạn hàng, tìm hiểu về các đối thủ cạnh tranh... Khi chọn phương pháp tiếp thị bằng việc tham gia hội chợ, doanh nghiệp phải cân nhắc lựa chọn để tham gia đúng hội chợ cần tham gia. Các yếu tố cần lựa chọn là: thị trường cần thâm nhập, địa điểm và uy tín của hội chợ, các doanh nghiệp tham gia, chủng loại sản phẩm, các lệ phí tham gia... Việc tham gia hội chợ phải giúp doanh nghiệp mở rộng mạng lưới tiêu thụ ở trong và ngoài nước. Nghệ thuật tổ chức tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng đến cạnh tranh của doanh nghiệp rất lớn, nhất là trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, chất lượng sản phẩm ngày càng hoàn thiện và phổ biến, chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú... Nghệ thuật tổ chức tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng đến cạnh tranh do các yếu tố tác động sau: + Tổ chức tiêu thụ tốt giúp doanh nghiệp thu hút khách hàng tăng sản lượng tiêu thụ, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh. + Tổ chức tiêu thụ tốt sẽ tạo uy tín của sản phẩm trên thị trường, làm cho nhiều khách hàng biết đến và hiểu rõ tí._.nh năng công dụng của nó. + Tổ chức tiêu thụ tốt giúp doanh nghiệp tìm được nhiều bạn hàng mới khai thác được trên thị trường. d) Các công cụ cạnh tranh khác + Dịch vụ sau bán hàng: Hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp không dừng lại sau lúc giao hàng, thu tiền của khách hàng. Để nâng cao uy tín và thể hiện trách nhiệm đến cùng đối với người tiêu dùng về sản phẩm của mình doanh nghiệp phải làm tốt các dịch vụ sau bán hàng. Dịch vụ sau bán hàng thường đòi hỏi đối với các trường hợp sau - Sản phẩm mang tính kỹ thuật cao. - Đơn giá sản phẩm cao. - Sản phẩm được bán đơn chiếc - Người mua không am hiểu tính năng, cách sử dụng sản phẩm. - Sản phẩm chưa chiếm lĩnh thị trường nhiều. Nội dung hoạt động dịch vụ sau bán hàng gồm: - Hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm và lắp đặt tại gia đình người tiêu dùng... - Cam kết thu lại sản phẩm và hoàn trả tiền cho khách hoặc đổi hàng cho khách nếu sản phẩm không làm khách thoả mãn. - Cam kết bảo hành trong thời gian nhất định. - Bảo đảm phụ kiện, phụ tùng thay thế cho khách hàng. Như vậy, qua dịch vụ sau bán hàng doanh nghiệp sẽ nắm bắt được sản phẩm của mình có đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng không... + Phương thức thanh toán: Phương thức thanh toán cũng là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh nghiệp sử dụng. Phương thức thanh toán gọn nhẹ, hay rườm ra, trả nhanh hay trả chậm sẽ ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ và do đó tới cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các doanh nghiệp có thể áp dụng phương pháp gọn nhẹ như đối với các khách hàng ở xa có thể trả tiền qua ngân hàng, vừa nhanh, vừa đảm bảo an toàn cho cả khách hàng, cho cả doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp có vốn lớn có thể cho khách hàng trả chậm sau một thời gian nhất định. Các doanh nghiệp có thể áp dụng chế độ thưởng đối với các khách hàng trả tiền ngay hay mua với khối lượng lớn. Tất cả những việc làm trên đều có tác dụng kích thích đối với khách hàng, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ và do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. + Yếu tố thời gian: Những thay đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học, công nghệ đã làm thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, cách làm việc của con người, tạo thời cơ cho mỗi con người, mỗi đất nước tiến nhanh về phía trước. Đối với các doanh nghiệp, yếu tố quyết định trong chiến lược kinh doanh hiện đại là tốc độ chứ không phải là các yếu tố cổ truyền như nguyên vật liệu, lao động... Những thay đổi nhanh chóng của tiến bộ khoa học, công nghệ cũng làm cho cuộc cạnh tranh kinh tế trở nên gay go hơn, quyết liệt hơn, ngày càng trở thành cuộc chạy đua về tri thức. Muốn chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp phải biết tổ chức nắm thông tin thị trường, nhanh chóng chớp thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu, triển khai sản xuất kinh doanh, nhanh chóng tiêu thụ, thu hồi vốn nhanh, trước khi chu kỳ sản phẩm kết thúc. ở các nước phát triển hiện nay thì cạnh tranh bằng thời gian là một loại cạnh tranh rất quan trọng, "sống còn cho ai nhanh nhất", một quy luật nghiệt ngã không thể tránh được đối với doanh nghiệp cũng như đối với mỗi quốc gia. Trong việc cạnh tranh bằng thời gian các doanh nghiệp cần chú ý: - Thời gian cần thiết cho việc ra quyết định, nhất là quyết định về đầu tư - Tốc độ đề xuất các phát minh, sáng kiến triển khai vào sản xuất. - Tốc độ giao dịch và giao hàng. - Tốc độ lưu thông tiền vốn 2. Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh và chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh 2.1 Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh Hiện nay, ở nước ta các doanh nghiệp đều rất quan tâm đến khả năng cạnh tranh. Thực chất, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là lợi thế về tất cả các mặt: giá cả, giá trị sử dụng, uy tín, công nghệ, tiềm lực tài chính... so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn đến mức tốt nhất các đòi hỏi của thị trường. Như vậy, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là thay đổi mối tương quan về thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Mà cạnh tranh về kinh tế khác hẳn so với cạnh tranh để đạt giải thưởng nào đó. Nó là một cuộc chạy đua không đơn cuộc, không phải một lần thôi mà là một quá trình liên tục. Đó là một cuộc "Maratông kinh tế" không có đích cuối cùng. Ai cảm nhận thấy đích, người đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vương lên phía trước. Chạy đua kinh tế phải luôn luôn ở phía trước để tránh những trận đòn của người chạy phía sau. Hơn nữa, chạy đua về mặt kinh tế không phải chỉ để thắng một trận tuyến mà là để thắng trên hai trận tuyến. Một trận tuyến diễn ra giữa hai phe của hệ thống thị trường, còn trận tuyến kia diễn ra giữa hai phe của cùng một phía. Nói cách khác, đây là cạnh tranh giữa người mua với người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau. Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh, vì như vậy là cầm chắc sự phá sản, phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng, linh hoạt sử dụng công cụ cạnh tranh để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nói tóm lại, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. 2.2 Một số chỉ tiêu thể hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể dựa vào 1 số chỉ tiêu sau: 2.2.1 Thị phần: Là một chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá. Khi xem xét người ta thường xem xét các loại thị phần sau: - Thị phần của Công ty so với toàn bộ thị trường: Đó chính là tỷ lệ % giữa các doanh số của Công ty so với doanh số của toàn ngành. - Thị phần của Công ty so với phân khúc mà nó phục vụ: Đó là tỷ lệ % giữa doanh số của Công ty so với doanh số của toàn phân khúc. - Thị phần tương đối: Đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của Công ty với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào ? Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang đứng ở vị trí nào, và cần phải vạch ra chiến lược hành động như thế nào. Tuy nhiên phương pháp này khó đảm bảo tính chính xác. 2.2.2. Doanh thu / doanh thu của các đối thủ mạnh nhất. Nếu sử dụng chỉ tiêu này người ta có thể chọn từ 2 đến 5 doanh nghiệp mạnh nhất tùy thao lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà chọn khác nhau. - Chỉ tiêu này có ưu điểm: Đơn giản, dễ tính. - Nhược điểm: Chưa chính xác, khó lựa chọn các doanh nghiệp mạnh nhất vì trong mỗi lĩnh vực có doanh nghiệp đứng đầu khác nhau. 2.2.3. Tỷ suất lợi nhuận: Một trong các chỉ tiêu thể hiện tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp là: Tỷ suất Lợi nhuận / Doanh thu. ay: Chênh lệch: (Giá bán - Giá thành ) Giá bán 2.2.4. Một số chỉ tiêu khác: - Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm cạnh tranh. - Tỷ lệ chi phí Max / Tổng doanh thu. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có phạm vi rất rộng. Nếu xem xét theo cấp độ tác động thì các yếu tố tác động này bao gồm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp (các yếu tố khách quan), các yếu tố bên trong doanh nghiệp (yếu tố chủ quan). Môi trường kinh doanh tổng thể Chính trị pháp lý Sản phẩm thay thế Địa lý Cạnh tranh khu vực Hiện tạI Tiềm lực tài chính Canh Kinh tế tranh tiềm tàng Người KN CĐ mua CT TMH Cung ứng Kinh tế Môi tài trường Kỹ chính ngành Sản thuật thị suất công trường nghệ Nhà cung ứng Văn hóa- -Xã hội phong tục tập quán Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3.1. Các nhân tố khách quan a) Môi trường kinh tế quốc dân. a.1 Các nhân tố về mặt kinh tế: Các nhân tố này tác động đến khả ăng cạnh tranh của doanh nghiệp theo các hướng: + Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã...) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên, khi mức sống được nâng cao cũng có nghĩa là chi phí về tiền lương của các doanh nghiệp tăng lên sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh đối với sản phẩm sản xuất ở nước có chi phí tiền lương thấp. Khi nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao thì hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là cao, khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn, họ sẽ đầu tư và phát triển sản xuất với tốc độ cao, như vậy nhu cầu về tư liệu sản xuất lại tăng lên. Các doanh nghiệp lại có cơ hội kinh doanh và có khả năng cạnh tranh cao. + Tỉ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác dụng nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh trah ở thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên thị trường trong nước và thị trường ngoài nước, vì khi đó giá bán của các doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất. + Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí của các doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn hơn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn. a.2 Các nhân tố về chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về xuất nhập khẩu, về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước so với hàng hoá nước ngoài sản xuất. a.3 Trình độ về khoa học công nghệ: Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh. Trình độ khoa học công nghệ tác động một cách quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học và công nghệ cao. - Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây là tiêu đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. - Trình độ khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin. Ngày nay, thông tin cần được xử lý, truyền đạt một cách nhanh chóng, chính xác bằng những phương tiện hiện đại. Đó là một yêu cầu bức bách để bảo đảm cho các doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. - Trình độ khoa học công nghệ tác động đến việc tạo ra các thế hệ kỹ thuật mới, vừa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa bảo vệ môi trường sinh thái và như vậy trong cạnh tranh chắc chắn chúng sẽ có lợi thế hơn so với những công nghệ cũ lạc hậu. a.4 Các nhân tố về văn hoá xã hội: Phong tục tập quán, lối sống, thị hiếu, thói quen tiêu dùng, tín ngưỡng, tôn giáo... ảnh hưởng đến cơ cấu của nhu cầu thị trường, và do đó đến điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau với thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng khác nhau, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm và tiêu thụ khác nhau. Chẳng hạn, đối với những khu vực theo tín ngưỡng, tôn giáo mà họ không tiêu dùng một mặt hàng nào đó thì doanh nghiệp sản xuất mặt hàng đó không thể thâm nhập vào được. a.5 Các nhân tố tự nhiên: Nhóm này bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước, vị trí địa lý và việc phân bổ địa lý của các tổ chức kinh doanh. Các nhân tố này tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu cho quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp (thậm chí cho sự phát triển kinh tế của đất nước). Nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí (do tiết kiệm được nguyên vật liệu chi phí vận chuyển hàng hoá...) và do đó tăng khả năng cạnh tranh. Hơn nữa, vị trí địa lý thuận lợi cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp khuyếch trương sản phẩm mở rộng thị trường... Ngược lại, những nhân tố tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh yếu hơn. b) Môi trường ngành: b.1. Theo Michael Porter, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố chủ yếu mà ông gọi là 5 lực lượng cạnh tranh trên thị trường ngành. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới trước khi có những quyết định lựa chọn phương hướng, nhiệm vụ phát triển của mình. 5 lực lượng đó là. Sơ đồ môi trường ngành Sức ép của những doanh nghiệp mới Sức ép của những các nhà cung ứng Sức ép của những DN hiện tại Sức ép của người tiêu dùng Sức ép của các sản phẩm thay thế b.1. Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lực lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung của ngành. b.2. Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ nhảy vào thị trường ngành. Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất và quy mô cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất trong ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn, thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủe yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ xung những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ... Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhâp thị trường ngành phụ thuộc chặt chẽ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị trường đó. b.3. Sức ép của nhà cung ứng: Những người cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều cách khác nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của ngành. Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường họp sau: - Nguồn cung cấp doanh nghiệp chỉ cần có một học vài công ty độc quyền cung cấp. - Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống màng lưới phân phối hoặc màng lưới bán lẻ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng. b.4. Sức ép của khách hàng: Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng cao mua với khối lượng lớn, tính tập chung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành, sản xuất sẽ tăng lên. b.5. Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế: Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nêm sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành. Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trong ngành. Khi giá của một sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiết đến khae năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận của các doanh nghiệp. 4. Một số kinh nghiệm của các doanh nghiệp nổi tiếng trong quá trình cạnh tranh. Trong xu thế cạnh tranh ngày nay, các doanh nghiệp thường nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tăng cường các dịch vụ để thu hút khách hàng. - Công ty May Tag chuyên sản xuất máy giặt gia đình đã đề ra tiêu chuẩn về chất lượng máy giặt "mười năm không bị trục trặc". Nhờ trung thành với yêu cầu chất lượng đó mà hãng có thể tăng giá lên 15% mà vẫn giữ được tỉ lệ hàng bán ra lớn nhất trên thị trường, mặc dù sự cạnh tranh gay gắt giữa các hãng ngày càng tăng. - Đối với Công ty Máy tính điện tử HewleH - Packard, việc đảm bảo chất lượng sản phẩm được thực hiện bắt đầu từ cấp lãnh đạo. Giám đốc bộ phận sản xuất cứ tuần lễ thứ 4 trong tháng là đến kiểm tra trực tiếp chất lượng tại nơi sản xuất. Ông còn lợi dụng ngay cả lúc uống cà phê chú ý đến chương trình chất lượng nâng cao của công nhân. Nét cạnh tranh chất lượng độc đáo của Công ty này là hầu như Công ty không phải là nơi đầu tiên đưa sản phẩm mới ra thị trường. Công ty thường chỉ hành động sau khi các Công ty Xerox và IBM bán ra thị trường sản phẩm mới. Chiến lược cạnh tranh của Công ty là đưa các kỹ sư ra thị trường nghiên cứu sản phẩm mới của các hãng cạnh tranh. Họ phỏng vấn khách hàng thích hay không thích điểm nào của sản phẩm mới và theo khách hàng thì cần phải có thêm những đặc tính, công dụng nào nữa. Chẳng bao lâu, Công ty đã có ngay sản phẩm cùng loại để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng với chất lượng hoàn hảo hơn... - Một ví dụ điển hình cho việc lôi kéo thêm khách hàng mới của mình một cách thành công là sản phẩm dầu gội đầu Johnson & Johnson (J & J) của Mỹ - một hãng trước đây chủ yếu sản xuất dầu hội đầu cho trẻ con. Khi tỉ lệ sinh đẻ ở Mỹ giảm xuống thì hãng bắt đầu lo lắng cho tương lại sản phẩm của mình và trị trí đứng đầu của hãng. Các nhà nghiên cứu thị trường của J & J đã phát hiện thấy rằng, ở nhiều gia đình, người lớn cũng ưa dùng dầu gội đầu của trẻ con. Từ những thông tin đó, hãng quyết định mở chiến dịch quảng cáo dầu gội đầu J & J cho mọi lứa tuổi. Chỉ sau một thời gian ngắn, nó đã đứng vị trí đầu bảng trong các dầu gội đầu trên thị trường. - Công ty sữa Việt Nam với sản phẩm sữa Vinamilk trong suốt mấy năm qua đã được người tiêu dùng lựa chọn vào TOPTE hàng tiêu dùng Việt Nam. Năm 1996, chiếm 80% thị phần toàn quốc. Sở dĩ sản phẩm của Công ty luôn giữ được vị trí xứng đáng trên thị trường là do Công ty đã giữ vững và nâng cao chất lượng sản phẩm, không ngừng mở rộng thị trường. lời nói đầu Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp phải chấp nhận, tuân thủ và biết cách khai thác, tận dụng các quy luật kinh tế. Cạnh tranh là một quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường. Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội, thuộc Tổng Công ty Kinh doanh và Chế biến than miền Bắc - là một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường vì vậy Công ty cũng đang đứng trước những thử thách gay gắt, Công ty chấp nhận bước lên vũ đài cạnh tranh với các công ty khác. Trong những năm qua với sự nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên Công ty, sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía Tổng Công ty Kinh doanh và Chế biến than miền Bắc, Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội đã đứng vững được trên thị trường và đang chiếm một tỷ trọng thị phần lớn trên địa bàn kinh doanh. Song Công ty không tự hài lòng với kết quả, mà phải biết những đe doạ trước mắt trên lĩnh vực kinh doanh đối với Công ty trong thời gian tới. Qua thời gian thực tập, tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh ở Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội. Em chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội”. Kết cấu của bài luận văn như sau: Chương I: Lý luận chung về nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh trên thị trường của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội. Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Kinh doanh và Chế biến than Hà Nội. Chương I Lý luận chung về nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp I - Khái niệm và vai trò của năng lực cạnh tranh 1. Khái niệm: Thuật ngữ “Cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng Latinh với nghĩa chủ yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua của các đối tượng cùng phẩm chất, cùng loại đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, và mục tiêu xác định. Theo Các Mác: “Cạnh tranh Tư bản Chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà Tư bản nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu hút được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hoá Tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa, Các Mác đã phát hiện ra quy luật của cạnh tranh TBCN là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch của giá cả, chi phí sản xuất và khả năng có thể bán được hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Ngày nay khi sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng gay gắt và khốc liệt. Trong quá trình ấy, một mặt sản xuất hàng hoá với quy luật cạnh tranh sẽ lần lượt gạt khỏi thị trường những doanh nghiệp không có chiến lược cạnh tranh thích hợp. Nhưng mặt khác, những ai biết nắm lấy vũ khí cạnh tranh, dám chấp nhận luật chơi phát triển thì sẽ chiến thắng. Như vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là cơ chế vận động của kinh tế thị trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh là việc nâng cao khả năng, năng lực vị thế của mình trên thị trường nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn các đối thủ cạnh tranh. 2. Phân loại Cạnh tranh trên thị trường có thể phân ra nhiều loại khác nhau, tuỳ thuộc vào các tiêu thức phân loại mà ta có thể chia các loại cạnh tranh như sau: Theo “sách giáo khoa” về phân tích kinh tế xác định nhiều “kiểu lí tưởng” của cấu trúc thị trường có thể phân thành các loại sau: + Cạnh tranh hoàn hảo +Độc quyền. +Độc quyền tập đoàn. + Cạnh tranh độc quyền. - Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, người ta chia cạnh tranh làm 3 loại sau: + Cạnh tranh giữa người bán và người mua. + Cạnh tranh giữa người mua với người mua. + Cạnh tranh giữa người bán với người bán. Trong đó: Cạnh tranh giữa người bán với nhau hay là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Đây là cuộc cạnh tranh gay go, quyết liệt. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thủ tiêu lẫn nhau để giành lấy khách hàng và thị trường. Trong cuộc chiến này doanh nghiệp nào thắng lợi thì sẽ tạo được đà phát triển còn doanh nghiệp nào thất bại thì sẽ bị gạt khỏi thị trường. Vì vậy đây là cuộc cạnh tranh mang tính sống còn của doanh nghiệp. - Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế. + Cạnh tranh nội bộ ngành Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá, sản phẩm nhằm thu được lợi hơn so với đối thủ khác để đạt được lợi nhuận siêu ngạch. + Cạnh tranh giữa các ngành Là cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp hay đồng minh, giữa các nhà doanh nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình cạnh tranh, các nhà doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành có lợi nhuận cao. 3. Tính tất yếu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường cung - cầu được ví như “trung tâm”, giá cả được coi như “hạt nhân” thì cạnh tranh là “linh hồn” của nền kinh tế. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có nghĩa doanh nghiệp chấp nhận bước lên vũ đài cạnh tranh mà “thương trường là chiến trường”, “cạnh tranh là chiến tranh”. Mà “Chiến tranh là việc quốc gia đại sự, là mảnh đất sinh tử, là con đường tồn vong, không thể không nghiên cứu kỹ”. Đối với doanh nghiệp cũng vậy cạnh tranh được coi là việc lớn quan trọng, là mảnh đất sinh tử, là con đường tồn vong và phát triển. Vì vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết. Mặt khác, sự vật hiện tượng tồn tại không phải là bất di, bất dịch mà luôn luôn vận động không ngừng tuân theo quy luật đào thải và phát triển. Cạnh tranh trên thị trường cũng thế, không phải một doanh nghiệp nào trên thị trường với vị thế nhất định mà nó thường xuyên biến động đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đảm bảo và duy trì sức mạnh trên thị trường. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải nhận thức được rằng: hiện tại mình có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác không ? Về lâu dài hoạt động bán hàng đó có mang lại nhiều lợi nhuận cho mình không. Doanh nghiệp phải chủ động thường xuyên xem xét những yếu tố hình thành chất cạnh tranh, tìm ra được những lợi thế cạnh tranh, những gì mà doanh nghiệp có thể làm tốt hơn so với các đối thủ khác. Mục tiêu phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào, một mặt phải đảm bảo tính lâu dài mặt khác phải lấy chỉ số tổng hợp về thị phần chiếm lĩnh và qua đó thu được lợi nhuận cao, làm chủ đích cần đạt được. Những năm qua, nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, điều đó càng thúc đẩy một cách mạnh mẽ, tích cực việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp, đặc biệt trong xu thế hội nhập hoá nền kinh tế. Chính sách mở cửa, hướng mạnh vào xuất khẩu, tham gia AFTA, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết,...đang mở ra cho các doanh nghiệp nước ta những thời cơ và thách thức rất lớn. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh được các doanh nghiệp đang hết sức quan tâm. Bởi các doanh nghiệp nước ta không còn sự trợ giúp của Nhà nước bằng việc đánh thếu quan vào các mặt hàng nhập khẩu như trước đây nữa. Không những thế mà doanh nghiệp nước ta còn phải biết tận dụng cơ hội đem sản phẩm của mình xâm nhập vào thị trường thế giới trong xu thế hội nhập hoá nền kinh tế toàn cầu. Một vấn đề hiện nay đang được quan tâm, cũng là nỗi băn khoăn của bao nhà quản lý, đó là sự yếu kém, chậm chạm, ỷ lại của các doanh nghiệp nhà nước. Dưới chiếc ô doanh nghiệp Nhà nước một số doanh nghiệp đã làm cho nền kinh tế mất đi tính năng động đích thực vốn có của nó. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng thực hiện một cách triệt để có hiệu qủa việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Tiến trình hội nhập AFTA đã cận kề, việc nâng cao năng lực cạnh tranh hiện nay của các doanh nghiệp là rất cần thiết, tất yếu, là tiền đề thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. 4. Vai trò của cạnh tranh và việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Cạnh tranh như chúng ta đả biết là “linh hồn” của nền kinh tế là cái “sàng” để lựa chọn và đào thải những doanh nghiệp. Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh trong các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với nền kinh tế. 4.1. Đối với doanh nghiệp - Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh được coi như mảnh đất sinh tử đối với mỗi doanh nghiệp, mà doanh nghiệp nào cũng muốn tồn tại và phát triển. Vì vậy cạnh tranh tác động đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. - Cạnh tranh là động lực của sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm tòi đến những cái mới, đổi mới trang thiết bị máy móc, công nghệ quản lý,... - Cạnh tranh đem lại cho các doanh nghiệp vị thế, danh tiếng thông qua những gì họ thể hiện được trong quá trình cạnh tranh. Cạnh tranh tạo dựng một môi trường làm việc đoàn kết, hữu nghị,.. Năng cao năng lực cạnh tranh giúp cho công ty tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. -Năng cao năng lực cạnh tranh giúp cho công ty chóng đỡ lại những đòn tấn công từ các đối thủ cạnh tranh và có khả năng để tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh nhằm mở rộng thị trường. -Năng cao năng lực cạnh tranh cũng có nghĩa công ty năng cao năng lực của một số bộ phận của công ty như: Tài chính, Nhân lực... 4.2. Đối với người tiêu dùng: - Cạnh tranh đem lại cho người tiêu dùng những hàng hoá dịch vụ tốt hơn, rẻ hơn, đẹp hơn. - Cạnh tranh mang lại hàng hoá đa dạng, phong phú, đáp ứng những nhu cầu của người mua. 4.3. Đối với nền kinh tế quốc dân: - Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. - Cạnh tranh giúp cho các doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Cạnh tranh là “cái nôi” sản sinh ra những nhà kinh doanh đại tài. Năng cao năng lực cạnh tranh làm cho nền kinh tế quốc dân vững mạnh, các doanh nghiệp trong nền kinh tế không chỉ phục vụ tốt cung cấp hàng hoá-dịch vụ trong nước mà còn có khả năng vươn ra thị trường nước ngoài. Năng cao năng lực cạnh tranh còn giúp cho nền ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34521.doc
Tài liệu liên quan