Một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Mục lục Trang Lời nói đầu. 3 Chương I - Một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 6 I- Khái niệm, phân loại đầu tư nước ngoài và đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 1. Khái niệm về đầu tư nước ngoài 6 2. Nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài 7 3. Phân loại đầu tư nước ngoài 7 4. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 8 II- Vai trò của FDI nói chung và đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng 14 1. Vai trò của FDI đối với chủ đầu tư 14

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1092 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2. Vai trò của FDI đối với nước tiếp nhận đầu tư 15 3. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế Việt Nam. 16 III- Những xu hướng vận động chủ yếu của FDI trên thế giới hiện nay 18 1. Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển 18 2. Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài đã bùng nổ trong những năm gần đây, trở thành chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) 19 3. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới 20 4. Các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật chi phối dòng vận động chính của vốn FDI trên thế giới. 21 5. Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò rất quan trọng và đang đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 23 6. Dòng vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á 24 Chương II - Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua 26 I- Tình hình triển khai thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 26 1. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 26 2. Tình hình triển khai các dự án đã được cấp giấy phép 30 3. Nhịp độ đầu tư 1997 -1998, nguyên nhân và triển vọng. 33 II- Đánh giá những ưu và nhược điểm trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 36 1. Ưu điểm 36 2. Nhược điểm III- Một số bài học kinh nghiệm 42 1. Về nguyên nhân thất bại của các dự án 43 2. Bài học về vận động và thu hút vốn FDI 44 3. Về khâu thẩm định và cấp giấy phép 45 4. Về công tác quản lý các dự án đã dược cấp giấy phép 46 Chương III - Một số giải pháp chủ yếu để mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 48 I- Hệ quan điểm và dự báo nhu cầu, mục tiêu thu hút FDI vào Việt Nam. 48 1. Hệ quan điểm 48 2. Dự báo nhu cầu và mục tiêu thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới 48 3. Xem xét khả năng của Việt Nam trong việc thu hút FDI trong thời gian tới 50 II- Những giải pháp chủ yếu nhằm thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam 56 1. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư 56 2. Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư, phối hợp tối ưu giữa đầu tư trong nước với FDI, giữa ODA và FDI 62 3. Lập chương trình, quy hoạch thu hút FDI 65 4. Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư kết hợp với lựa chọn thẩm tra đối tác nước ngoài 67 5. Tăng cường quản lý các dự án FDI trong quá trình thẩm định triển khai dự án 69 6. Một số biện pháp cụ thể để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời gian tới 73 Kết luận 76 Tài liệu tham khảo 77 Lời nói đầu Đ ầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI) là một hình thức của đầu tư quốc tế. Nó ra đời và phát triển là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế và quá trình phân công lao động quốc tế theo chiều sâu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được xem như chiếc chìa khóa của sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Thông qua đó cho phép các nước sở tại thu hút được các công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến... nhằm khai thác lợi thế so sánh của đất nước mình, thúc đẩy xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh, điều chỉnh và dịch chuyển cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi thị trường khu vực và thế giới. Ngày nay, việc thu hút vốn FDI không chỉ diễn ra ở các nước chậm và đang phát triển mà nó còn thể hiện ở các nước có trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu... Do vậy, đã diễn ra một cuộc cạnh tranh khốc liệt để tìm kiếm nguồn vốn FDI. Quốc gia nào có sức hấp dẫn hơn, có môi trường đầu tư thông thoáng hơn và thuận tiện hơn, có khả năng sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn thì quốc gia đó sẽ giành được nhiều thuận lợi hơn trong cuộc cạnh tranh này. Rõ ràng là thu hút FDI mang tính quy luật chung đối với tất cả các nước. Quy luật này càng trở nên bức thiết đối với các nước chậm và đang phát triển trong đó có cả Việt Nam. Với xuất phát điểm kinh tế, trình độ khoa học công nghệ và quản lý còn thấp, để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, chúng ta không còn con đường nào khác là phải tăng cường thu hút FDI để phát triển kinh tế. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà mục tiêu tổng quát là tăng thu nhập quốc dân lên gấp hai lần trong khoảng từ năm 1991 đến năm 2000, vấn đề đầu tư nói chung, vấn đề vốn nước ngoài nói riêng đang nổi lên như là một phương thức quan trong nhất. Triển vọng tăng trưởng nhanh của đất nước là tốt đẹp, song cũng có không ít những trở ngại đặt ra. Nếu không có giải pháp khắc phục kịp thời thì không những không đạt được mục tiêu đề ra, mà ngay cả những thành tựu đã đạt được trước kia cũng có nguy cơ bị huỷ hoại. Về chiến lược và giải pháp tạo vốn, chúng ta có thể thấy rõ có ba mô hình cơ bản là: Chiến lược và biện pháp tạo vốn "hướng nội", chiến lược và biện pháp tạo vốn "hướng ngoại", chiến lược và biện pháp tạo vốn kết hợp nguồn vốn trong nước và ngoài nước. Xét cả ba mô hình trong bối cảnh kinh tế -chính trị thế giới vừa thuận lợi vừa khó khăn hiện nay, mô hình thích hợp cho chiến lược tạo vốn của Việt Nam là thu hút vốn nước ngoài kết hợp với việc huy động mọi nguồn vốn trong nước. Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước ta, ta có lợi thế "tự lực cánh sinh" chậm mà chắc đó là nguồn tiềm ẩn tương đối lớn. Tuy nhiên yếu tố thời gian không cho phép chúng ta chậm trễ, bởi vì khoảng cách lạc hậu giữa các quốc gia theo tỷ lệ thuận, càng chậm bao nhiêu càng tụt hậu đến đó. Nguồn vốn bên ngoài nếu được thu hút và sử dụng không có hiệu quả sẽ tạo nên gánh nặng tài chính cho quốc gia và những thế hệ sau phải gánh chịu hậu quả nợ nần đó (trường hợp Argentina, Brazil là một thí dụ điển hình, sau một thời kỳ tăng trưởng rực rỡ, khi đã bị rơi vào tình trạng bất ổn và suy thoái nghiêm trọng - thậm chí còn tụt xuống thấp hơn mức xuất phát như Nigeria). Do vậy, để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển - xã hội đến năm 2000, chúng ta cần phải có một lượng vốn lớn. Trong khi nguồn vốn trong nước chỉ mới đáp ứng được 50%, chúng ta phải nhờ tới đầu tư nước ngoài mà chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhằm bù đắp sự thiếu hụt về vốn thường xuất hiện ban đầu. ở nước ta, qua một thời gian thực hiện luật đầu tư nước ngoài, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn nhiều tồn tại và vấn đề mới nảy sinh... gây trở ngại cho việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Xuất phát từ lý luận và yêu cầu thực tiễn khách quan qua vấn đề tạo nguồn vốn đầu tư để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu "Một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp. 1. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tổng luận, phân tích tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua, kết quả thành công và những hạn chế đạt được. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp cơ bản để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. 2. Nhiệm vụ của đề tài: - Đi vào nghiên cứu cơ sở lý luận, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ ra yêu cầu thực tiễn khách quan trong qúa trình thực hiện đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Từ đó tìm ra những nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất một số biện pháp cơ bản để thu hút đầu tư trực tiếp vào Việt Nam có hiệu quả. 3. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm quá trình triển khai, những ưu nhược điểm, những vấn đề đặt ra cần giải quyết, định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. 4. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn chia làm 3 chương: Chương I - Một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương II - Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời kỳ qua. Chương III - Những giải pháp cơ bản mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian trên. Chương I Một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài I - khái niệm, phân loại Đầu tư nước ngoài và đầu tư trực tiếp nước ngoài 1. Khái niệm về đầu tư nước ngoài Trong luật pháp của các quốc gia, do có những đặc tính riêng phức tạp và do sự vận động phong phú của thực tiễn mà khái niệm đầu tư nước ngoài được hiểu và nhìn nhận khác nhau và được quy định khác nhau. Năm 1966, Hội thảo của Hiệp hội Luật Quốc tế đã đưa ra định nghĩa: "Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ". Một số quốc gia khác lại đưa ra định nghĩa: "Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn đầu tư nước ngoài của người đầu tư sang nước của người sử dụng, nhưng không phải là tiền đề để thu mua hàng tiêu dùng của nước này, hoặc dùng để chi phí có đặc tính kinh tế-xã hội". ở Việt Nam, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua và ban hành năm 1987 cũng như qua 2 lần sửa đổi bổ sung, thì khái niệm đầu tư nước ngoài được định nghĩa như sau: "Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này". Qua những vấn đề đã trình bày ở trên, có thể rút ra một định nghĩa chung như sau: "Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thái gía trị nào vào nước trực tiếp nhận để đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt các hiệu quả xã hội". 2. Nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài. Do trình độ phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các quốc gia đã làm hình thành lợi thế so sánh giữa các quốc gia, sự khác nhau về giá cả các yếu tố sản xuất, trình độ khoa học kỹ thuật, vị trí địa lý và tài nguyên... đã dẫn đến sự khác nhau giữa nhu cầu và khả năng tích luỹ về vốn ở các nước. Do xu thế mậu dịch ngày càng tăng, nhất là các quốc gia đang phát triển nên đầu tư ra nước ngoài là biện pháp hữu hiệu nhất để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. ở các nước tư bản phát triển, cuộc cách mạng kinh tế ngày càng trở nên khốc liệt đã làm cho tỷ suất, lợi nhuận ngày càng giảm, cùng với hiện tượng thừa tương đối tư bản trong nước, đã làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của mình. Hầu hết các nước đang phát triển đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá nên rất cần vốn đầu tư. Chính vì vậy mà các nước này ra sức đề ra các chính sách thích hợp và cải thiện môi trường đầu tư trong nước nhằm tăng cường sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Những lý do trên luôn thôi thúc các quốc gia tìm cách đầu tư nước ngoài, cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào đất nước mình. 3. Phân loại đầu tư nước ngoài Đầu tư có nhiều loại, để tiện quản lý, trong thực tiễn kinh doanh người ta phân loại theo các tiêu thức sau: 3.1. Phân loại theo nội dung kinh tế: - Đầu tư vào lực lượng lao động: nhằm mục đích tăng về lượng và chất yếu tố quan trọng nhất của quá trình kinh doanh đó là sức lao động thông qua việc tuyển dụng, thuê mướn và đào tạo chuyên gia, cán bộ quản lý và công nhân. - Đầu tư xây dựng cơ bản: Tạo ra hoặc nâng cao mức độ hiện đại của tài sản cố định của doanh nghiệp qua việc xây dựng mới nhà xưởng, các công trình hạ tầng và vốn đầu tư cho thiết bị máy móc, công nghệ, bằng phát minh, mua bán bản quyền, bí quyết. - Đầu tư vào tư liệu sản xuất: Nhằm đảm bảo sự hoạt động liên tục, nhịp nhàng của quá trình kinh doanh, đó là tư liệu sản xuất nhỏ (giá trị), nguyên nhiên vật liệu, tiền tệ để phục vụ cho quá trình kinh doanh. - Đầu tư vào khâu tiêu thụ sản phẩm: Mục đích tránh ách tắc ở đầu ra của quá trình sản xuất. Có thể đầu tư vào hoạt động nghiên cứu tiếp thị và hoạt động cạnh tranh mở rộng thị trường hay nghiên cứu đối thủ cạnh tranh. 3.2. Phân loại theo mục tiêu đầu tư. - Đầu tư mới: Là hình thức đưa toàn bộ vốn đầu tư để thành lập một đơn vị sản xuất kinh doanh mới có tư cách pháp nhân riêng. - Đầu tư mua sắm trang thiết bị, máy móc: Nhằm thay thế những máy móc cũ năng suất thấp bằng những thiết bị máy móc hiện đại có năng suất cao. - Đầu tư có tính chất chiến lược: Nhằm tạo ra những thay đổi cơ bản đối với quá trình sản xuất kinh doanh như thay đổi, cải tiến sản phẩm, tạo ra sản phẩm xuất khẩu. - Đầu tư ra bên ngoài: Bằng hình thức mua cổ phần, cổ phiếu hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế. 3.3. Phân loại theo mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư vào đối tượng bỏ vốn. Đầu tư gián tiếp: Là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người chủ sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: chúng ta sẽ xem xét kỹ về loại hình này ở phần dưới đây. 4. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI). 4.1. Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những hình thức của đầu tư quốc tế, đặc trưng bởi quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia trên thế giới. Mặc dù có nhiều khác biệt về quan niệm nhưng nhìn chung ở tất cả các nước thì đầu tư trực tiếp của nước ngoài được hiểu như một hoạt động kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt ở tầm vĩ mô trong việc sử dụng vốn và quản lý đầu tư. Điều đó có nghĩa là nếu xét về mặt chủ thể thì đầu tư trực tiếp của nước ngoài bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài ở đây không chỉ là sự khác biệt về quốc tịch hay lãnh thổ sinh sống, mà còn xác định tư bản di chuyển trong đầu tư trực tiếp của các nước ngoài bắt buộc phải vượt ra ngoài tầm kiểm soát của một quốc gia. Nội dung kinh tế của đầu tư trực tiếp nước ngoài được phản ánh ở trong luật đầu tư. ở đó, người ta đã cố gắng tạo ra những hình thức pháp lý thoả mãn hai đặc trưng cơ bản nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là: - Có sự di chuyển tư bản trên phạm vi quốc tế. - Chủ đầu tư (một bên hoặc cả hai bên) trực tiếp hoặc cùng thống nhất với nhau tham gia vào việc sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thì có thể hiểu đầu tư trực tiếp của nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới góc độ kinh tế quốc tế có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp là loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu đồng thời là trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Về thực chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây chính là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. 4.2. Các đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: - Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số tối thiểu theo quy luật đầu tư của từng nước quy định. Ví dụ: Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án. Mỹ quy định 10%. - Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành quản lý. - Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có). - Đầu tư trực tiếp được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau. Với những đặc điểm nêu trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số ưu điểm và hạn chế sau đây: Ưu điểm: Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư: - Vì chủ đầu tư nước ngoài được tham dự vào điều hành quá trình kinh doanh của xí nghiệp theo mức độ góp vốn nên họ trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất của họ. Điều đó, đảm bảo hệ quả của vốn đầu tư được sử dụng nói chung là cao. - Giúp chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại. - Cho phép các chủ đầu tư nước ngoài có thể hạ thấp chi phí sản phẩm do khai thác được nguồn lao động dồi dào với giá rẻ ở nước sở tại. Từ đó nâng cao được tỷ suất lợi nhuận. - Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại vì thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các chủ đầu tư xây dựng được các doanh nghiệp nằm "trong lòng" các nước thi hành chính sách bảo hộ. Đối với tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài (nước sở tại): - Loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài không quy định mức góp vốn tối đa, chỉ quy định mức tối thiểu, do vậy cho phép các nước sở tại tăng cường khai thác được nhiều vốn bên ngoài. - Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể tiếp thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của bên ngoài. - Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. - Giúp cho nước sở tại nâng cao hiệu quả sử dụng phần vốn đóng góp của mình, mở rộng tích luỹ và góp phần vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong nước. Những hạn chế: Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những hạn chế sau: - Nếu môi trường kinh tế và chính trị của nước sở tại không ổn định sẽ hạn chế nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học sẽ dẫn tới đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. - Nước sở tại phải đương đầu với các chủ đầu tư giầu kinh nghiệm, sành sỏi trong kinh doanh nên trong nhiều trường hợp dễ bị thua thiệt. - Nước sở tại không hoàn toàn chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ. Cũng không ít trường hợp việc nhận đầu tư đi liền với sự du nhập của những công nghệ thứ yếu, công nghệ đem theo chất thải ô nhiễm. 4.3. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài : Có 5 hình thức đầu tư trực tiếp: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh có một số đặc điểm như: + Là một hình thức đầu tư trực tiếp, chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư, do vậy nó khác với các hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh tế về trao đổi mua bán thông thường (các hợp đồng này không bị luật đầu tư điều chỉnh). + Không hình thành một pháp nhân mới. + Các bên hợp doanh vẫn giữ nguyên sở hữu riêng đối với tài sản góp vào hợp doanh. + Kết quả hoạt động phụ thuộc vào sự tồn tại và thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên hợp doanh. Nội dung hoạt động kinh doanh, các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, cách thức xác định và phân chia kết quả, thời hạn hợp đồng, cách giải quyết tranh chấp... được xác định cụ thể trong hợp đồng. Hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài này phải được xét duyệt và cấp giấy phép kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Xí nghiệp liên doanh: Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước ngoài, hoặc trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, nhằm hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. - Xí nghiệp liên doanh là pháp nhân Việt Nam và được thành lập theo hình thức công ty TNHH, mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với xí nghiệp liên doanh và bên thứ ba trong phạm vi phần vốn của mình vào vốn pháp định. - Xí nghiệp liên doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính trên cơ sở hợp đồng liên doanh, phù hợp với giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam. - Xí nghiệp liên doanh có tài sản riêng do các bên liên doanh đóng góp và là sở hữu chung của các bên liên doanh. Các bên liên doanh chịu rủi ro, lỗ, lãi, theo tỷ lệ đóng góp vào xí nghiệp liên doanh. - Xí nghiệp liên doanh được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký Điều lệ xí nghiệp. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài: Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài xí nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài, do họ thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh. Cơ sở pháp lý để thành lập và hoạt động của xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và là Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, giấy phép đầu tư, điều lệ xí nghiệp và pháp luật Việt Nam. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty TNHH là pháp nhân Việt Nam. Tài sản của xí nghiệp 100% vốn nước ngoài thuộc tổ chức, cá nhân nước ngoài nên họ có quyền quyết định bộ máy quản lý, điều hành xí nghiệp. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký Điều lệ xí nghiệp. Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T.): Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T.) là văn bản ký kết giữa chủ đầu tư nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài) với cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ tầng, tiến hành khai thác và kinh doanh trong một thời hạn nhất định và khi hết thời hạn thì chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Vốn để thực hiện hợp đồng này có thể là 100% vốn nước ngoài cộng với vốn của Chính phủ Việt Nam, hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam. Các chủ đầu tư có toàn quyền tổ chức xây dựng, khai thác, kinh doanh công trình trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao có hiệu lực khi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư. Khu chế xuất, xí nghiệp chế xuất: Ngày nay, khu chế xuất đang nổi lên như là một phương thức thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả nhất để phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Mục đích của việc xây dựng khu chế xuất là thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là của công ty đa quốc gia vào các hoạt động kinh tế trong nước. Đây là một khu vực nhằm dành cho xuất khẩu để đóng góp vào nguồn thu ngân sách một lượng lớn ngoại tệ. Khu chế xuất là một hình thức đặc biệt bao gồm hoạt động: vừa có hợp tác đầu tư quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ lại vừa có các hoạt động thương mại khác như xuất nhập khẩu và giao thông vận tải. Nó là một địa bàn hoạt động đặc biệt với hai hàng rào hữu hình và vô hình. Hàng rào vô hình là một loạt những quy chế đặc biệt về thuế quan cho khu vực này với một nội dung khá thông thoáng. Trong khu vực này Chính phủ đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để thu hút các doanh nghiệp nước ngoài bỏ vốn thành lập xí nghiệp, sử dụng nguồn lao động sẵn có cũng như nguồn nguyên liệu của địa phương cho sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất là một khu chuyên chế biến hàng xuất khẩu, nó đóng vai trò là "vùng đệm" tạo nên những phản xạ hai chiều với thị trường trong nước và thị trường quốc tế, là nhịp cầu giao lưu giữa nền kinh tế trong nước và nền kinh tế thế giới. Có thể nói khu chế xuất là khu vực có mật độ sản xuất lớn nhất và là phòng thí nghiệm cho phát triển kinh tế quốc dân. Khi xây dựng một khu chế xuất cần phải đạt được một số yêu cầu. Trước hết phải tạo điều kiện thu hút một lượng vốn đầu tư nước ngoài và những kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật công nghệ hiện đại phát huy tiềm năng sẵn có của địa phương về lao động cũng như về tài nguyên thiên nhiên đảm bảo sử dụng hợp lý các nguồn lực ấy nhằm tăng lượng hàng xuất khẩu và phát triển các dịch vụ có liên quan, tăng nguồn thu ngoại tệ cho Nhà nước thông qua các dịch vụ và qua việc cho thuê đất đai, nhà xưởng. Đồng thời phải tạo điều kiện cho thị trường trong nước phản ứng nhanh nhậy hơn trước những biến động đang diễn ra trên thị trường thế giới, tạo khả năng cho nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên toàn thế giới. II - Vai trò của FDI nói chung và đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng 1. Vai trò của FDI đối với chủ đầu tư - Sử dụng có hiệu quả nguồn tư bản vốn đã dư thừa trong nước, do lợi dụng được lợi thế so sánh của nước bản địa về: sức lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. - Thiết lập thị trường cung cấp nguyên vật liệu ổn định với giá cả phải chăng. Ví dụ: Mỹ nhờ có đầu tư ra nước ngoài mà nhập khẩu ổn định toàn bộ khối lượng phốt phát, đồng, thiếc, quặng sắt... - Cạnh tranh, chiếm lĩnh, mở rộng thị trường đồng thời tránh được xu thế bảo hộ mậu dịch ở các nước tiếp nhận đầu tư. Ví dụ: Nhật qua việc xây dựng các nhà máy lắp ráp ô tô trên nước Mỹ mà các nhà sản xuất ô tô của Nhật đã chiếm một tỷ trọng lớn trong thị trường ô tô của Mỹ. - Có điều kiện để phát triển trình độ khoa học - công nghệ do chuyển giao công nghệ bị coi là "lạc hậu" sang các nước chậm và đang phát triển. 2. Vai trò của FDI đối với nước tiếp nhận đầu tư FDI có vai trò quan trọng trong việc góp phần tăng trưởng kinh tế. Hiện nay dòng chảy của tư bản quốc tế vào hai khu vực chính: Các nước tư bản phát triển, các nước chậm và đang phát triển. Đối với các nước tư bản phát triển như Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, việc các nước này đầu tư vào nhau có ý nghĩa quan trọng: - Giúp giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế - xã hội trong nước như: Thất nghiệp, lạm phát... Việc mua lại những công ty, xí nghiệp có nguy cơ phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động, tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế đã cải thiện tình hình bội chi ngân sách. - Tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp ở trong nước. - Có điều kiện để học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đối với những nước chậm và đang phát triển, đầu tư nước ngoài giúp các nước này: - Phá vỡ "vòng luẩn quẩn" của nền kinh tế trong nước (năng suất lao động thấp - thu nhập thấp - tích luỹ thấp - đầu tư thấp - năng suất lao động thấp nữa), đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, cho phép rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. - Tạo ra các xí nghiệp mới hoặc tăng quy mô của các đơn vị kinh tế, thu hút thêm lao động giải quyết phần nào nạn thất nghiệp. - Giúp các nước chậm phát triển giảm phần nợ nước ngoài, cải thiện cán cân thanh toán. - Có điều kiện tiếp nhận kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước ngoài. Như vậy, FDI là một nhu cầu không thể thiếu đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển cũng như các nước phát triển. Hơn nữa, nó còn là hiện tượng phổ biến, mang tính quy luật của kinh tế thế giới hiện đại do sự hội nhập và phụ thuộc ngày càng gia tăng lẫn nhau giữa các quốc gia, do quy luật vận động của tiền tệ, của giá trị thặng dư, cũng như quy luật lợi thế so sánh và quy luật cung cầu trên thị trường vốn thế giới. 3. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế Việt Nam Xuất phát từ những nhu cầu về vốn, về khoa học kỹ thuật và công nghệ của nước ta còn thiếu chưa đủ sức khai thác những tiềm năng về tài nguyên và sức lao động của mình. Do vậy Nhà nước chủ trương mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Hiện nay vẫn còn nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về đầu tư nước ngoài ở nước ta trong 10 năm qua, nhưng có một thực tế không thể phủ nhận đó là ảnh hưởng tích cực của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế nước ta ngày càng rõ nét. Đầu tư nước ngoài bước đầu đã góp phần đáng kể trong đầu tư vốn của toàn xã hội, trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và giải quyết việc làm. Nhiều công trình quan trọng đã đi vào hoạt động, nhiều công nghệ khá hiện đại đang được chuyển giao, đã tạo ra năng lực mới cho nền kinh tế. Cho tới nay các công ty nước ngoài đã tham gia đầu tư vào nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam như dầu khí, xi măng, sắt thép, điện tử... Cùng với việc nâng cao năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần hình thành một số ngành công nghiệp mới có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dấn như: Công nghiệp dầu khí, công nghiệp sản xuất - lắp ráp ô tô, xe máy... Nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã tạo ra các sản phẩm xuất khẩu mới góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam. Trong năm 1996, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 800 triệu USD so với kim ngạch xuất khẩu là 7 tỷ USD (chiếm 11,2%). Về nghĩa vụ tài chính các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp vào ngân sách Nhà nước 300 triệu USD (chưa kể liên doanh dầu khí Việt Sô Petro). Bằng việc hợp tác với nước ngoài, Việt Nam đã tiếp nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong một số ngành kinh tế như thông tin viễn thông, sản xuất - lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất (dầu nhờn, sơn...). Ngoài ra Việt Nam cũng đã tiếp nhận được một số phương pháp quản lý tiến bộ và một số kinh nghiệm về tổ chức kinh doanh, sản xuất. Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế cũng đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đến giữa năm 1998, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tạo ra việc làm cho khoảng 300.000 lao động là người Việt Nam. Trong số đó các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, thu hút 95.000 lao động, doanh nghiệp liên doanh với thành phần kinh tế Nhà nước thu hút gần 165.000 người; doanh nghiệp liên doanh với thành phần kinh tế tư nhân thu hút gần 16.000 người; doanh nghiệp liên doanh với thành phần kinh tế hỗn hợp 15.000 người, các đơ._.n vị hợp tác kinh doanh gần 6.500 người. Bên cạnh đó khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tạo ra việc làm gián tiếp cho hàng trăm nghìn người làm nghề xây dựng cơ bản và dịch vụ... Trong những năm tới, cụ thể là từ nay đến năm 2.000, để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi tăng trưởng kinh tế 9% - 10% mỗi năm, chúng ta cần khoảng 42 tỷ USD. Trong đó dự kiến phải tranh thủ khoảng 15 - 17 tỷ USD vốn FDI. Cũng theo ước tính sơ bộ với mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, góp phần chống "nguy cơ tụt hậu", thì trong 10 năm đầu của thế kỷ 21 đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư không dưới 300 tỷ USD. Dự kiến những lĩnh vực chủ chốt có thể thu hút được nhiều vốn FDI là: Tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí; xây dựng nhà máy lọc dầu; sản xuất xi măng; luyện cán thép; điện tử, ô tô, xe máy, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm hạ tầng cơ sở, nông-lâm-ngư nghiệp... Những phân tích trên cho thấy, FDI không phải chỉ cần thiết đối với nền kinh tế trong giai đoạn trước mắt, mà còn có vai trò quan trọng trong suốt quá trình công nghiệp hoá đất nước. Vì vậy trong thời gian tới cần có những biện pháp, chính sách để góp phần thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn vốn FDI. Iii- Những xu hướng vận động chủ yếu của FDI trên thế giới hiện nay. 1. Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển Trong những năm đầu thập kỷ 90, quy mô vốn FDI trên thế giới bình quân hằng năm khoảng 190 tỷ USD, nhưng đến năm 1995 đã đạt khoảng 315 tỷ USD, các nước công nghiệp phát triển đóng vai trò chủ yếu trong dòng vân động của vốn FDI. Từ đầu những năm 90 trở về trước, nguồn vốn FDI có quê hương từ những nước công nghiệp phát triển chiếm trên 93% và hiện nay cũng chiếm khoảng 85% tổng vốn FDI của thế giới. Đồng thời, các nước công nghiệp phát triển cũng thu hút đến 3/4 vốn FDI của thế giới. Tính riêng trong năm 1995, các nước công nghiệp phát triển đầu tư ra nước ngoài tới 270 tỷ USD (tăng 42% so với năm 1994) và cũng thu hút tới 203 tỷ USD (tăng 53% so với năm 1994). Bảng 1 - Tình hình xuất khẩu và tiếp nhận vốn FDI trên thế giới (1983 - 1995) Đơn vị tính: tỷ USD Năm Các nước phát triển Các nước đang phát triển Toàn bộ các nước Tiếp nhận X.khẩu Tiếp nhận X.khẩu Tiếp nhận X.khẩu 1983-1987 58,7 72,6 18,3 4,2 77,1 76,8 1988-1992 139,1 193,3 36,8 15,2 177,3 208,5 1990 169,8 222,5 33,7 17,8 203,8 204,3 1991 114 201,9 41,3 8,9 157,8 210,8 1992 114 181,4 50,4 21 168,1 203,1 1993 129,3 192,4 73,1 33 207,9 225,5 1994 132,8 190,9 87 38,6 225,7 230 1995 203,2 270,5 99,7 47 314,9 317,8 Nguồn: MOFTEC. Tổng cục thuế Trung Quốc UNCTAD. Báo cáo đầu tư thế giới 1996 và Số liệu DRS Ngân hàng thế giới. Các dòng vốn đầu tư tập trung vào một số ít nước. Chỉ tính riêng 10 quốc gia thu hút vốn FDI lớn nhất đã chiếm tới 2/3 vốn FDI của năm 1995 trong khi 100 nước nhận đầu tư từ FDI ít nhất chỉ chiếm có 1% vốn FDI trên thế giới. Dòng đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển là xu hướng vận động chủ đạo của đầu tư quốc tế và là nhân tố chính thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Tính đến năm 1995, nguồn vốn FDI từ 39.000 công ty mẹ đầu tư qua 270.000 chi nhánh ở nước ngoài đã đạt mức 2.700 tỷ USD, góp phần tạo ra 6% GDP của thế giới. 2. Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài đã bùng nổ trong những năm gần đây, trở thành chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Sự phát triển gần đây của dòng vốn FDI đã phản ánh sự gia tăng của các công ty có vốn FDI, làm cho hoạt động FDI có tính toàn cầu để phản ứng lại áp lực cạnh tranh. Việc hợp nhất, mua lại các công ty để thành lập chi nhánh sản xuất ở nước ngoài giúp các TNCs bảo vệ, củng cố và phát huy thế mạnh của mình trong quá trình cạnh tranh quốc tế. Đặc biệt là hình thức đầu tư này giúp sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng và hệ thống phân phối sẵn có để phục vụ tốt hơn cho khách hàng toàn cầu, mở rộng thị phần, tăng năng lực cạnh tranh và nguồn thu lợi nhuận. Giá trị của các giao dịch hợp nhất, mua bán cổ phần hợp vốn các công ty nước ngoài trong năm 1995 đạt 229 tỷ USD, gấp đôi năm 1988 (kể cả đầu tư gián tiếp), trong đó chủ yếu các giao dịch mua bán trị giá trên 1 triệu USD. Những ngành công nghiệp diễn ra những hoạt động hợp nhất, mua bán hợp vốn nước ngoài nhộn nhịp nhất là viễn thông, dược phẩm, cung cấp năng lượng và dịch vụ tài chính. Chỉ tính trong năm 1995, các nước Tây Âu đã dành 66 tỷ USD để mua cổ phần hợp nhất, hoặc hợp vốn công ty và bán ra cũng đạt tới 50 tỷ USD. Hoạt động mua bán này chủ yếu diễn ra trong nội bộ của Liên minh Châu Âu. Mỹ đã dành 38 tỷ USD đầu tư dưới hình thức hợp nhất hoặc hợp vốn với các công ty nước ngoài, chiếm tới 90% nguồn vốn FDI của quốc gia này; đồng thời cũng bán ra cho các TNCs nước ngoài tới 49 tỷ USD. Nhật Bản hiện nay không chiếm tỷ trọng lớn trong hình thức mua hợp nhất các công ty. Trong năm 1995 các công ty TNCs của Nhật Bản chỉ mua 4,5 tỷ USD chỉ bằng 1/10 quy mô đầu tư theo hình thức này của Mỹ hoặc Tây Âu. Biểu đồ 1 - Dòng FDI và đầu tư hợp nhất, hợp vốn trên thế giới (1987 - 1995). 3. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới Mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư là lợi nhuận. Do đó, động cơ truyền thống của FDI những năm đầu thập kỷ 60 là chạy theo lao động rẻ để thu lợi nhuận và những ngành sản xuất truyền thống thu hút nhiều lao động là khai khoáng, chế biến nông sản của công nghiệp chế tạo. Năm 1964, trong tổng vốn FDI xuất khẩu của các TNCs, Mỹ, lĩnh vực khai khoáng và dầu khí chiếm 40,5%, ngành chế tạo chiếm 30%, ngành dịch vụ chiếm 12,8%. Bảng 2 - Cơ cấu đầu tư FDI của TNCs nước ngoài vào một số nước tư bản phát triển chủ yếu thời kỳ 1980-1990 Đơn vị tính: 100 triệu USD Cơ cấu ngành trong nhóm nước phát triển Lượng tư bản đầu tư trực tiếp của nước ngoài Tỷ trọng 1980 1985 1990 1980 1985 1990 Ngành Sx thứ nhất 880 1150 1600 18,4 18,1 9,1 Ngành Sx thứ hai 2100 2510 5740 44 39,6 39,3 Ngành Sx thứ ba (dịch vụ) 1790 2680 7260 37,5 42,3 49,7 Cộng 4770 6340 14600 100,0 100,0 100,0 Nguồn: MOFTEC. Tổng cục thuế Trung Quốc UNCTAD. Báo cáo đầu tư thế giới 1996 và Số liệu DRS Ngân hàng thế giới. (Các nước này gồm: Mỹ, Ôxtrâylia, Canađa, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản, Hà Lan, Thuỵ Điển, Anh và Bắc Aizơlen). Bảng 3 - Cơ cấu đầu tư FDI của TNCs nước ngoài vào 16 nước đang phát triển chủ yếu thời kỳ 1980 - 1990. Đơn vị tính: 100 triệu USD Cơ cấu ngành trong nhóm nước phát triển Lượng tư bản đầu tư trực tiếp của nước ngoài Tỷ trọng Năm 1980 1985 1990 1980 1985 1990 Ngành Sx thứ nhất 170 310 460 22,7 24,0 21,9 Ngành Sx thứ hai 410 640 1020 54,7 49,6 48,6 Ngành Sx thứ ba (dịch vụ) 170 340 620 22,6 26,4 29,5 Cộng 750 1290 2100 100,0 100,0 100,0 Nguồn: MOFTEC. Tổng cục thuế Trung Quốc UNCTAD. Báo cáo đầu tư thế giới 1996 và số liệu DRS Ngân hàng thế giới. Vài ba năm lại đây đã xuất hiện xu hướng mới là đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng gia tăng nhanh, nhất là các ngành viễn thông, điện tử, giao thông vận tải, thủy lợi ... Nguyên nhân là vì các nước, nhất là các nuớc đang phát triển có nhu cầu phát triển cam kết mạnh mẽ không quốc hữu hóa, các nước đã dành chính sách ưu đãi để thu hút vốn FDI vào cơ sở hạ tầng nhằm khắc phục sự hạn hẹp của ngân sách. Đến nay vốn FDI dành đầu tư cho cơ sở hạ tầng bình quân hàng năm là 7 tỷ USD và tăng bình quân là 5%/năm. Mỹ và Nhật có tới 7 - 8% vốn FDI hướng vào cơ sở hạ tầng. Đây là khả năng mới cho các nước tiếp nhận đầu tư. 4. Các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật chi phối dòng vận động chính của vốn FDI trên thế giới. Trong nửa đầu thập kỷ 80, Mỹ và Anh, là hai quốc gia đứng đầu thế giới trong xuất khẩu vốn FDI. Từ năm 1986 đến năm 1991, Nhật Bản là nước đứng đầu trong xuất khẩu vốn với mức kỷ lục là 45 tỷ USD riêng trong năm 1991, nhưng quy mô sản xuất vốn FDI giảm dần trong những năm gần đây, chỉ ở mức một nửa năm 1991. Từ năm 1992 trở lại đây Mỹ gia tăng nhanh trong xuất khẩu và nhập khẩu vốn FDI. Anh là nước hiện đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu vốn FDI với quy mô từ 25 đến 30 tỷ USD hàng năm. Trong năm 1995, vốn FDI từ Anh là 38 tỷ USD, Đức là 36 tỷ USD và Pháp là 18 tỷ USD. Tính chung ba nước này chiếm gần 30% tổng vốn FDI thế giới. Đầu tư các nước này chủ yếu hướng vào Mỹ và trong cộng đồng châu Âu. Nhật Bản những năm gần đây đứng vị trí thứ tư trong các nước xuất khẩu FDI với quy mô bình quân khoảng 25 tỷ USD/năm. Đầu tư của Nhật Bản chủ yếu hướng vào Mỹ, Tây Âu, Đông và Đông Nam châu á. Tóm lại, từ thập kỷ 80 trở lại đây, 5 quốc gia tư bản hàng đầu này luôn chiếm bình quân tới 65% tổng vốn FDI của thế giới và chiếm gần 80% tổng vốn xuất khẩu FDI của các nước phát triển. Biểu đồ 2 - Đầu tư ra nước ngoài của một số nước tư bản phát triển trong thời kỳ 1980-1995 Nguồn: MOFTEC. Tổng cục thuế Trung Quốc UNCTAD. báo cáo đầu tư thế giới 1996 và số liệu DRS Ngân hàng thế giới. 5. Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài. Hiện nay, các TNCs đang chi phối, kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh doanh trên thế giới. Khi nghiên cứu 100 TNCs lớn nhất trên thế giới mà tất cả đều thuộc các nước công nghiệp phát triển có thể thấy các TNCs này chiếm tới 1/3 toàn bộ nguồn FDI của thế giới và tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới 1400 tỷ USD, sử dụng tới 72 triệu lao động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm tới 16%. Thời kỳ 90 - 95, tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNCs Mỹ là 42%, của các TNCs Nhật là 48% và của các TNCs châu Âu là 59%. Tính bình quân chiếm một nửa tổng vốn đầu tư. Dự báo thời kỳ 1996 - 2000, các TNCs sẽ tăng mạnh mẽ đầu tư ra nước ngoài. Bảng 4 - Tỷ trọng đầu tư của các TNCs ra nước ngoài từ năm 1990 đến 2000 (đơn vị tính: %). Nguồn đầu tư Địa điểm đầu tư Châu Âu Bắc Mỹ Nhật Bản 1990 - 1995 1996 - 2000 1990 - 1995 1996 - 2000 1990 - 1995 1996 - 2000 Châu Âu 19 18 26 22 2 3 Bắc Mỹ 26 24 - - 12 14 Châu á 6 10 9 16 28 38 Mỹ Latinh và Caribê 4 6 5 12 4 6 Địa bàn khác 4 5 2 5 2 2 Tổng cộng đầu tư ở nước ngoài 59 63 42 55 48 63 Nguồn: UNTAD, trên cơ sở điều tra năm 1996 ở 100 tập đoàn lớn nhất thế giới Qua bảng trên có thể nhận thấy tỷ trọng đầu tư của các TNCs ra nước ngoài ở các địa bàn như châu Âu, Bắc Mỹ không biến động nhiều, nhưng đầu tư của Mỹ vào Mỹ - Latinh và Caribê tăng nhanh. Đặc biệt tất cả các TNCs đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực châu á. Tỷ trọng đầu tư vào châu á của các TNCs châu Âu tăng từ 6% lên 10%, của các TNCs Mỹ tăng từ 9% lên 16% và của các TNCs Nhật tăng từ 28% lên 38%. Châu á là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật, hàng thứ hai của Mỹ (sau châu Âu) và hàng thứ ba của các nước châu Âu (sau Bắc Mỹ và châu Âu). 6. Dòng vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển ở châu á. Nguồn vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển gia tăng cả về quy mô lẫn tốc độ dẫn đến tỷ trọng thu hút vốn FDI của các nước này tăng nhanh. Bảng 2 cho thấy năm 1990, các nước đang phát triển tiếp nhận được 33,7 tỷ USD thì năm 1995 đã tiếp nhận được 99,7 tỷ USD gấp gần 3 lần năm 1990, chiếm 32% tổng vốn FDI của thế giới. Từ năm 1990 trở lại đây, các nước đang phát triển thu hút tới 1/3 tổng số vốn FDI thế giới, riêng năm 1994 chiếm tới 37%. Bảng 5- Mười nền kinh tế đang phát triển tiếp nhận vốn FDI lớn nhất năm 1995 Đơn vị tính: triệu USD Các nền kinh tế Vốn FDI tiếp nhận năm 1995 Tổng vốn FDI tính đến năm 1995 Trung Quốc 27.515 57.172 Singapore 6.829 50.802 Achentina 6.305 44.146 Mexico 4.901 40.371 Malayxia 5.206 41.912 Indonexia 2.004 26.936 Thái Lan 1.715 22.463 Hồng Kông 1.667 21.701 Côlômbia 950 17.669 Đài Loan 917 13.824 Tổng cộng 10 nền kinh tế 58.009 336.997 Tất cả các nước đang phát triển 73.351 500.896 Nguồn: MOFTEC. Tổng cục thuế Trung Quốc UNCTAD. Báo cáo đầu tư thế giới 1996 và số liệu DRS Ngân hàng thế giới. Tuy nhiên, vốn FDI phân bố rất không đều giữa các nước đang phát triển, mà chủ yếu tập trung vào một số nước và khu vực. Chỉ tính riêng 10 nước mà nền kinh tế thuộc các nền kinh tế đang phát triển đã thu hút từ 60 tới 80% tổng nguồn vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển liên tục từ thập kỷ 80 trở lại đây. So với các nước đang phát triển, các nước và nền kinh tế trong khu vực Đông và Đông Nam á thu hút vốn FDI mạnh nhất, tạo nên sự bùng nổ về thu hút vốn FDI những năm qua, đặc biệt là từ cuối thập kỷ 80 trở lại đây, trong đó đặc biệt là Trung Quốc, các nước NICs châu á, các nước ASEAN. ] ] ] Chương II Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam thời gian qua I- Tình hình triển khai thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. 1. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đến hết ngày 30/4/1998 đã có 2379 dự án được cấp giấy phép đầu tư, với số vốn đăng ký đạt 32.295,5 triệu USD, được phân theo các năm như sau: Bảng 6 - Tình hình cấp giấy phép đầu tư từ 1988 đến nay Chỉ tiêu 1988 -1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 4 tháng đầu 1998 Tổng Số dự án đầu tư 219 149 197 277 367 408 367 336 59 2379 Vốn ĐK (triệu USD) 1.582 1.294 2.036 2.652 4.071 6.616 8.528 4.453 1.063,5 32295,5 Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Cũng trong thời gian trên đã có 555 dự án mở rộng quy mô với số vốn tăng thêm là 3830 triệu USD, nâng tổng số vốn cấp mới và bổ sung đạt 36125,5 triệu USD. Trong số các dự án đã được cấp giấy phép, trừ 26 dự án đã kết thúc hoạt động với số vốn là 141,1 triệu USD và 374 dự án bị rút giấy phép đầu tư với tổng số vốn là 2869 triệu USD, hiện còn 1979 dự án có hiệu lực với tổng vốn đăng ký (cả cấp mới và bổ sung) là 33115,4 triệu USD. Một số nhận xét khái quát: a, Nhịp độ thu hút vốn FDI vào Việt Nam tăng nhanh so với các nước trong khu vực, nhất là thời kỳ 1991-1996. Quy mô vốn đầu tư cấp giấy phép năm 1996 bằng hơn 23 lần năm 1988 và bằng 6,6 lần năm 1991 là năm đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu ổn định và phát triển. Nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam gia tăng vì Việt Nam là thị trường đầu tư mới có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và đang xúc tiến quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư, các quy định của Luật đầu tư nước ngoài hấp dẫn và tự do, lợi thế chi phí có tính cạnh tranh cao. Tuy nhiên tương tự Trung Quốc và các nước ASEAN khác, vốn FDI vào Việt Nam từ năm 1997 đến nay chững lại và giảm sút do ảnh hưởng của cạnh tranh quốc tế và khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê. Biểu - Số dự án và số vốn FDI được cấp giấy phép qua các năm 1988-1998 Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư. b, Cơ cấu thu hút vốn FDI thay đổi theo chiều hướng phù hợp hơn với yêu cầu dịch chuyển cơ cấu kinh tế của đất nước. - Những năm đầu, vốn FDI tập trung phần lớn vào thăm dò, khai thác dầu khí và xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê, nhưng những năm gần đây, đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất (nhất là vào công nghiệp) đã gia tăng nhanh chóng, hiện chiếm tới 76,5% số dự án và 53,5% vốn đầu tư. Trong đó, 2/3 số dự án là đầu tư chiều sâu để nâng cấp, mở rộng các cơ sở kinh tế hiện có. Cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh hợp lý hơn, hướng mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây ựng kết cấu hạ tầng và cơ sở sản xuất công nghiệp, chế biến nông, lâm, thủy sản, sử dụng có hiệu quả tài nguyên và sử dụng nhiều lao động; ứng dụng công nghệ cao và kỹ thuật hiện đại... Tuy nhiên, vốn FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn rất hạn chế, hiện mới có 297 dự án (chiếm 12,5%) với tổng vốn đăng ký là 1287 triệu USD (chiếm gần 4% tổng vốn FDI). Tỷ trọng đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ khá cao (chiếm 46,5%) tuy số dự án không nhiều (chiếm 23,5%), trong đó, riêng lĩnh vực khách san - du lịch và văn phòng, căn hộ cho thuê chiếm tới 34,74% số vốn đăng ký, tuy số dự án chỉ chiếm 12,3%. Ưu tiên ngành của FDI còn tùy thuộc vào các nhà đầu tư của các nước. Các công ty đa quốc gia của các nước công nghiệp như Nhật, Tây Âu, Mỹ hướng vào các dự án khai thác dầu khí lớn, công nghiệp sản xuất ô tô, viễn thông, hóa chất... Ngược lại, các nhà đầu tư từ các nước NICs Đông á, ASEAN lại tập trung nhiều hơn vào các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến lương thực, thực phẩm, xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê,v.v... Bảng 7 - Tình hình cấp giấy phép đầu tư theo khu vực kinh tế (từ 1988 đến 30/4/1998) Khu vực kinh tế Số dự án cấp giấy phép Vốn đăng ký Dự án Tỷ trọng (%) Vốn (triệu USD) Tỷ trọng (%) Công nghiệp và xây dựng 1.480 62,26 15.833,8 49,48 Nông, lâm, ngư nghiệp 297 12,49 1.286,8 4,02 Dịch vụ Trong đó: khách sạn, du lịch, văn phòng, căn hộ cho thuê 600 293 25,25 12,33 14.0874,4 11.113,7 46,49 34,74 Tổng cộng 2.377 100 31.995 100 Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư. - Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ có chuyển biến. Những năm đầu, vốn FDI chủ yếu tập trung vào khu vực phía Nam, các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm khoảng 25% số dự án và 20% tổng số vốn đăng ký, đến nay tỷ lệ này đã tăng lên là 28,5% và 39%. Tuy nhiên, trừ việc thăm dò dầu khí ở thềm lục địa thì có tới 81,7% số dự án và 85,9% số vốn đăng ký tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm, là nơi có nhiều thuận lợi về kết cấu hạ tầng, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lực lượng lao động có kỹ năng, có vị trí chiến lược quan trọng và lợi thế tự nhiên. Riêng địa bàn trọng điểm phía Nam đã chiếm 56,9% dự án và trên 51% vốn FDI, trong đó thành phố Hồ Chí Minh chiếm 35% số dự án và 30,6% vốn FDI của cả nước. Địa bàn trọng điểm phía Bắc cũng chiếm tới 21,5% số dự án và 30,2% vốn FDI, trong đó Hà Nội chiếm 15% số dự án và 21,7% vốn FDI của cả nước. Như vậy, chỉ tính riêng hai thành phố lớn nhất nước ta, thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 50% số dự án và 52,3% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. c, Đối tác hợp tác đầu tư nước ngoài với Việt Nam ngày càng mở rộng, trong đó nguồn vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu từ các nước trong khu vực. Hiện đã có hàng ngàn công ty nước ngoài thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có dự án FDI ở Việt Nam, trong đó ngày càng xuất hiện nhiều tập đoàn, công ty xuyên quốc gia lớn, có năng lực về tài chính và công nghệ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng chú trọng thu hút FDI của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài vì đó là các doanh nghiệp năng dộng, thích ứng nhanh với biến động của thương trường, phù hợp với đối tác Việt Nam về khả năng góp vốn, năng lực tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý, có điều kiện tạo nhiều việc làm mới. Tuy nhiên, khoảng 68% vốn FDI là từ các nước trong khu vực như các nước NICs Đông á, ASEAN và Nhật Bản, chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư. Các nước ASEAN chiếm 24,8% vốn FDI, riêng Singapore chiếm 17,14%; các nước ASEAN còn lại chỉ chiếm 7,67% vốn FDI vào Việt Nam. Nhóm G7 đã có 24,4% số dự án và 22,1% vốn FDI đăng ký ở Việt Nam, riêng Nhật Bản chiếm 12% dự án và 10,2% vốn FDI; các nước G7 còn lại chỉ chiếm 12,4% dự án và 11,9% vốn FDI. Trong giai đoạn đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu bao gồm các dự án vừa và nhỏ của Đài Loan, Hồng Kông, nhưng sau đó dần dần chuyển sang các dự án có quy mô lớn hơn của các công ty đa quốc gia Singapore, Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, Tây Âu... d, Các hình thức đầu tư ngày càng đa dạng hơn. Việc khuyến khích đầu tư theo hình thức BOT và đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất đã mở rộng khả năng thu hút các nguồn vốn FDI mới. - Hình thức đầu tư chủ yếu hiện nay là doanh nghiệp liên doanh, chiếm 61% số dự án và 70% vốn đầu tư. Do chính sách của Việt Nam đối xử công bằng giữa doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh, do tin tưởng vào môi trường đầu tư ở Việt Nam, nên những năm gần đây, đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài tăng lên, hiện đã chiếm 30% số dự án và 20% vốn đầu tư. - Để khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 87/CP ngày 23/11/1993 về Quy chế đầu tư theo hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT). Đến nay, đã có 4 dự án đầu tư theo hình thức BOT với tổng số vốn đăng lý gần 900 triệu USD được cấp giấy phép đầu tư. Đó là: dự án nhà máy nước Bình An (vốn đăng ký 300 triệu USD); dự án nhà máy xử lý nước Thủ Đức (vốn đăng ký 120 triệu USD); dự án nhà máy điện Wartsila - Bà Rịa Vũng Tàu (vốn đăng ký 120 triệu USD). Xu hướng đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng theo các hình thức BOT có chiều hướng tăng lên. - Đến nay đã có 53 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập với tổng diện tích đất giai đoạn đầu 8.323 ha. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất này đạt khoảng 1,5 tỷ USD. Hiện đã có 419 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn 5.614 triệu USD, chiếm 17,4% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước; vốn thực hiện đạt 2.228 triệu USD, chiếm 18% tổng vốn FDI thực hiện. Tuy nhiên, hệ số cho thuê đất mới đạt khoảng 20% và vốn thực hiện mới đạt 15% so với nhu cầu "lấp đầy" các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện có. 2. Tình hình triển khai các dự án đã được cấp giấy phép Vốn đầu tư thực hiện tính đến hết 30/4/1998 ước đạt 12.328 triệu USD, so với vốn đăng ký đạt 38% (nếu tính cả liên doanh dầu khí Việt-Xô, ước đạt 13.528 triệu USD). Tình hình thực hiện theo các năm như sau. Bảng 8 - Tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với vốn đăng ký 1988 - 1998 Chỉ tiêu 1988 -1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 4 tháng đầu 1998 Tổng Vốn ĐK (triệuUSD) 1.582 1.294 2.036 2.652 4.071 6.616 8.528 4.453 1.063,5 32.295,5 Vốn thực hiện (triệu USD) - 206 380 1.107 1.932 2.669 2.523 2.950 550,0 12.328,0 Tỷ lệ thực hiện (%) - 16 19 42 47 40 30 66 52 38 Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Nguồn vốn thực hiện do các bên góp vốn pháp định đạt 7.274 triệu USD, chiếm 59% vốn thực hiện; còn lại nguồn vốn vay cho các dự án FDI là 5.055 triệu USD, chiếm 41% vốn thực hiện. Một số nhận xét khái quát: Tình hình triển khai các dự án đầu tư còn chậm vì số dự án chưa bắt đầu xây dựng cơ bản còn chiếm tỷ lệ lớn do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân do thủ tục cấp đất, đền bù giải phóng mặt bằng còn chậm, chi phí đền bù cao, có dự án mất 2-3 năm mới hoàn thành thủ tục. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực nên từ giữa năm 1997 đến nay, việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bị chững lại, các dự án xin dừng hoặc giãn tiến độ triển khai tăng lên. Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký đạt khoảng 38%, là mức trung bình trong khu vực, vì bình quân một dự án cần từ 4 đến 5 năm mới thực hiện đủ vốn đăng ký, đối với những dự án có quy mô lớn thì thời gian này còn kéo dài hơn, mà phần nhiều các dự án được cấp giấy phép từ năm 1995 trở lại đây. Mặt khác, chính sách về kinh doanh bất động sản của Việt Nam chưa rõ ràng cùng với ảnh hưởng của khủng hoảng trong khu vực đã làm cho các chủ đầu tư không triển khai nhanh các dự án đã được cấp giấy phép. Phần vốn góp pháp định của các nhà đầu tư nước ngoài đạt 5.548 triệu USD, chiếm 45% tổng số vốn FDI thực hiện và 76,3% vốn pháp định thực tế đã góp. Nguồn vốn này cùng với nguồn vốn vay nước ngoài là 5.055 triệu USD, chiếm 41% tổng vốn FDI thực hiện đã tạo nên luồng "FDI ròng" vào Việt Nam là 10.063 triệu USD trong những năm vừa qua, chiếm 86% vốn FDI thực hiện. Trên thực tế, luồng "FDI ròng" này mới chỉ bằng 32,83%, nghĩa là khoảng 1/3 vốn đăng ký. Tuy nhiên, luồng "FDI ròng" này còn rất nhỏ so với các nền kinh tế châu á khác, chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng số ước tính trên 500 tỷ USD vốn FDI đổ vào Đông á và khu vực châu á - Thái Bình Dương từ năm 1988 đến nay. Phần góp vốn pháp định của Việt Nam còn thấp, mới đạt 1.726 triệu USD, chiếm 14% vốn thực hiện và 23,7% vốn pháp định thực tế. Trong đó, đối tác Việt Nam chủ yếu góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất (chiếm khoảng 90%), còn lại là góp vốn bằng tài sản ngoài đất đai, thiết bị (chiếm 8%) và góp bằng tiền mặt cùng các phương tiện thanh toán khác (khoảng 2%). Nguồn vốn vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 5.055 triệu USD, chiếm 41% vốn thực hiện, trong đó phần lớn là vay từ các công ty mẹ (4.510 triệu USD), còn lại là vay từ các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính quốc tế (515 triệu USD). Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến cuối năm 1997, Ngân hàng đã xác nhận điều kiện vay trả cho 274 khoản vay dài hạn của các doanh nghiệp có vốn FDI với kim ngạch vay là 3.340 triệu USD. Trong số đó, có khoảng 60% khoản vay có điều kiện ưu đãi thuận lợi, còn 40% khoản vay có những ràng buộc khắt khe như lãi suất vay cao, yêu cầu phải có cầm cố, thế chấp nên ngân hàng đã yêu cầu các doanh nghiệp có vốn FDI phải thương lượng lại về việc này. Phần lớn các khoản vay được của ngân hàng nước ngoài được giải ngân đúng hạn, trừ một số khoản vay của IMF và một số ngân hàng nước ngoài khác do vướng mắc về điều kiện bảo lãnh thế chấp... Số dự án đầu tư bị thu hồi giấy phép trước thời hạn tính đến hết tháng 4/1998 là 374 dự án (chiếm 15,8% tổng số dự án) với số vốn đăng ký là 2.869 triệu USD (chiếm 9% vốn đăng ký). Trên 75% số dự án này được cấp giấy phép trong thời kỳ đầu thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (1988-1992) và phần lớn có quy mô nhỏ, 80% số này có vốn đăng ký dưới 10 triệu USD. Những nước và vùng lãnh thổ có dự án bị rút giấy phép nhiều hất là Hồng Kông (27% số dự án và 12% vốn đăng ký), Pháp và Australia (15% số dự án và 30% vốn đăng ký)... Nguyên nhân của việc các dự án bị rút giấy phép đầu tư là do đối tác nước ngoài không thực hiện đúng cam kết góp vốn, do biến động của thị trường giá cả làm đảo lộn tính toán của các nhà đầu tư, do bên đối tác nước ngoài phá sản ở các nơi khác làm họ không có khả năng thực hiện dự án ở Việt Nam, do biến động về thị trường và khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực nên các chủ đầu tư không dàn xếp được nguồn vốn cho dự án. Mặt khác, sự thiếu ổn định trong chính sách, những mâu thuẫn giữa đối tác nước ngoài với bên Việt Nam trong liên doanh cũng góp phần làm dự án không triển khai được. 3. Nhịp độ đầu tư 1997 -1998, nguyên nhân và triển vọng. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, năm 1997 các cơ quan chức năng chỉ cấp giấy phép cho 336 dự án, với tổng số vốn đăng ký 4.453 triệu USD. Thực ra, sự giảm sút về đầu tư nước ngoài đã xuất hiện từ năm trước. Nếu chúng ta còn nhớ rằng, vào những ngày cuối năm 1996, nếu hai dự án đô thị (Nam Thăng Long, Hà Nội và An Phú, thành phố Hồ Chí Minh) với số vốn trên 3 tỷ USD không được cấp giấy phép thì số vốn đầu tư nước ngoài của năm 1996 đã thua sút so với năm 1995. Điều đáng quan ngại hơn nữa, là tổng số vốn đầu tư đăng ký mới trong năm chỉ bằng 60,14% so với năm 1996. Không chỉ có thế, số nhà đầu tư nước ngoài vào kiếm cơ hội đầu tư cũng giảm. Bên cạnh chỉ tiêu phản ánh số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được đăng ký qua các giấy phép đầu tư đã được duyệt, còn cần phải thấy rõ tình hình là số vốn đầu tư đã đăng ký từ các năm trước được thực hiện trong năm 1997 vẫn tiếp tục tăng lên. Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong năm 1997 đạt 2,95 tỷ USD, tăng 34% so với năm trước. Đây không đơn thuần chỉ là kết quả của những dự án đã được duyệt và cấp giấy phép từ những năm trước đến nay mới có điều kiện để triển khai mà điều không kém phần quan trọng là những dự án đã triển khai và hoạt động có hiệu quả được mở rộng và tăng thêm vốn đăng ký. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư thì cũng trong năm 1997 có 143 dự án đăng ký tăng thêm số vốn trị giá là 1.095 triệu USD. Điều này chứng tỏ là có một số đáng kể các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được triển khai có hiệu quả và tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư. Tuy vậy, tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 1998 vẫn chưa có chiều hướng khả quan mà vẫn tiếp tục suy giảm. Điều đó thể hiện ở số vốn đầu tư đăng ký trong những dự án đã được cấp giấy phép trong năm 1998 mới đạt khoảng 2 tỷ USD. Điều này cho thấy việc suy giảm lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1997 đến nay không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, nhất thời, trái lại nó phản ánh một trạng thái tất yếu, gắn liền với những nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất định. Nguyên nhân của việc sút giảm FDI vào Việt Nam thời gian qua thể hiện ở những khía cạnh sau đây. Trước tiên, là các nhà đầu tư nước ngoài lâu nay vốn nhạy cảm với các sự kiện trong nước và có tâm lý chờ đợi những đổi thay trong chính sách đầu tư. Kỳ họp cuối của Quốc hội khoá IX, việc bầu cử Quốc hội khoá X vào tháng 7 này cùng những diễn biến bình thường hoá quan hệ thương mại Việt Mỹ là những sự kiện được các nhà đầu tư quan tâm. Chúng ta đã ban hành luật đầu tư sửa đổi trong đó việc cải tiến thủ tục đã tạo được sự tin tưởng cho các nhà đầu tư. Nhưng mặt khác, những biểu hiện thắt chặt tài chính xem xét lại việc miễn thuế nhập vật tư và ô tô mang vào sử dụng cũng như những thông tin khác liên quan đến việc không cân đối ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu năm 1998 đã phần nào làm họ lo ngại về một sự thay đổi chính sách. Điều này cần sớm làm sáng tỏ để luật đầu tư sửa đổi có tính thuyết phục cao hơn. Đã có một thời các nhà đầu tư than phiền về sự thiếu nhất quán trong luật lệ và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh theo hướng tích cực hơn, nhưng hiện nay ngay giữa các nhà đầu tư nước ngoài cũng còn có cự ly trong cách đánh giá tình hình này. Thứ hai, việc tăng giảm đầu tư tuỳ thuộc khá nhiều vào tình hình kinh tế của nước đang cần thu hút nguồn vốn nước ngoài. Dưới góc độ thị trường, chỉ số giá cả ở nước ta liên tục giảm trong nhiều tháng qua cho thấy có một tâm lý lo ngại về sự sút kém sức mua trong xã hội. Nhà đầu tư đi tìm lợi nhuận ở một nơi khác đều chú trọng đến việc thị trường nội địa tiêu thụ sản phẩm của họ làm ra. Điều này giải thích lý do tại sao họ không chọn lựa những nơi có lợi thế giá nhân công rẻ, dân số đông nhưng sức mua kém như Bangladesh chẳng hạn. Thứ ba, các nhà đầu tư nước ngoài cũng thường đánh giá khả năng của một hệ thống ngân hàng ở một nước sở tại có đảm nh._.Dĩ nhiên nói như vậy không có nghĩa là thả nổi tỷ giá mà không có điều tiết. Với tư cách là một bộ phận quan trọng của chính sách tiền tệ, vấn đề tỷ giá phải được xử lý trên cơ sở tín hiệu của thị trường với những điều chỉnh sao cho nó không phá vỡ các cân bằng trên thị trường tiền tệ, đồng thời phải kích thích tăng trưởng, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu. Ngoài ra còn phải đảm bảo một cơ chế tín dụng cởi mở và tương quan hợp lý của các loại lãi suất với những hình thức tín dụng khác nhau. ở đây, nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền có một ý nghĩa căn bản lâu dài, bởi vì chỉ trên cơ sở đó, khung lãi suất thu hút vốn qua các kênh tín dụng mới được mở rộng. Cơ chế tín dụng cởi mở sẽ đem lại cho các ngân hàng thương mại khả năng thu hút nhiều vốn hơn nữa để phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu vay vốn, kể cả các đối tác nước ngoài. Nếu không đáp ứng được nhu cầu này, tiến độ đầu tư và vận hành của các xí nghiệp sẽ bị hãm lại. Trong trường hợp đó sự sụt giảm hiệu quả toàn bộ sẽ đến từ hai phía. Một phía là từ khu vực đầu tư kinh doanh sản xuất ngoài ngân hàng, phía khác là từ chính sách ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu tạo vốn trung, dài hạn và định hướng đầu tư cần chuẩn bị xây dựng thị trường chứng khoán. Sự thiếu vắng thị trường này chứng tỏ tính không hoàn hảo của hệ thống thị trường tài chính. Không có thị trường chứng khoán cũng có nghĩa là thiếu một khâu then chốt của quá trình huy động các nguồn vốn trong, ngoài nước và thiếu một trung tâm điều tiết hoạt động đầu tư theo các tín hiệu thị trường. Đương nhiên, tạo dựng thị trường chứng khoán là cả một quá trình. Song, trong khuôn khổ mục tiêu tăng trưởng nhanh, cần có sự nỗ lực cho nó một cách thực tiễn càng sớm càng tốt. 2. Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư, phối hợp tối ưu giữa đầu tư trong nước với FDI, giữa ODA và FDI. 2.1. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư thông qua biện pháp thuế Hiện nay vẫn còn một số quan điểm trái ngược nhau về tác động của thuế đối với FDI. Một quan điểm cho rằng thuế ít tác động đến FDI vì nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam họ thường quan tâm đến mức độ an toàn vốn và sau đó mới nhìn đến thuế. Nhưng trong thời gian hiện nay vấn đề an toàn vốn không còn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn vào Việt Nam. Do đó, thuế có tác động lớn đến FDI. Thứ nhất, thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Khi một nhà đầu tư dự định đầu tư vào một dự án nào đó, họ sẽ quan tâm đến trước tiên là lợi nhuận. Thuế sẽ tác động đến lợi nhuận và do đó có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Thuế đóng vai trò bảo vệ sản xuất trong nước (thuế quan nhập khẩu) sẽ kích thích đầu tư nước ngoài vào trong nền kinh tế nội địa. Thông thường, khi một mặt hàng nào đó đánh thuế nhập khẩu cao (như ô tô du lịch, xe máy, điện tử...) thì các nhà đầu tư sẽ nghĩ ngay đến việc đầu tư sản xuất tại Việt Nam để tránh hàng rào thuế quan. Thông qua việc tác động đến giá cả hàng hóa và sức mua của người tiêu dùng, thuế sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu có hiệu lực, tức là ảnh hưởng tới dung lượng thị trường. Như vậy suy cho cùng, thế sẽ ảnh hưởng tới quyết định đầu tư. Thứ hai, thuế ảnh hưởng tới môi trường đầu tư. Thuế là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư và điều này được thể hiện: Là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, thuế có ảnh hưởng quyết định đến việc chi tiêu ngân sách. Nguồn vốn ngày càng tăng tạo điều kiện vật chất cho nhà nước đầu tư vào lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn dài như: cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục... và do đó tạo môi truờng cần thiết để hấp dẫn FDI. Thứ ba, thuế là biện pháp quan trọng trong chính sách ưu đãi đầu tư, hướng đầu tư vào các dự án thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc cải tiến hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng: Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế. Đảm bảo lợi ích quốc gia. Có tác dụng khuyến khích đầu tư. Phù hợp với thông lệ quốc tế. 2.2. Nguồn vốn FDI trong quy hoạch đầu tư phối hợp tối ưu với các nguồn vốn khác. Nguồn vốn bên ngoài trong bàn cơ cấu vốn thời kỳ 1996 - 2000 đạt khoảng 20 - 25 tỷ USD để đáp ứng 50% nhu cầu còn lại, bao gồm: Hỗ trợ phát triển chính thức - ODA khoảng 8-10 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI khoảng 10-12 tỷ USD. Phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế khoảng 2-4 tỷ USD. Ngoài ra, tín dụng thương mại là một nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu và xét theo một nghĩa nào đó cũng là hỗ trợ cho đầu tư. Các nguồn vốn vay này phải có một mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và theo một tỷ lệ hợp lý, tối ưu. Nếu chúng ta không vay được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng - xã hội thì khó có thể thu hút và hấp thụ một cách có hiệu quả nguồn vốn FDI. Ngược lại, nếu chỉ tập trung tìm kiếm các nguồn ODA, mà không thu hút các nguồn vốn FDI thì sẽ không đủ thu nhập để chính phủ trả nợ ODA. Hiện nay khó có thể đưa ra một tỷ lệ hợp lý, chính xác giữa các nguồn vốn, nhưng có một dấu hiệu cho thấy tỷ lệ hợp lý đó là nhịp độ tăng vốn FDI vào nước ta. Sự mất cân đối giữa các nguồn vốn là nguyên nhân quan trọng làm giảm dòng chảy FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên, đến một giai đoạn nhất định nguồn ODA và FDI sẽ giảm, nhường vị trí cho vốn trong nước. Biện pháp tích cực nhằm bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa các nguồn vốn cho phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay là: Đa dạng hóa các phương thức thu hút vốn nước ngoài từ các nguồn vốn khác nhau. Tạo niềm tin cho nhà đầu tư (chính sách đổi mới của Việt Nam tiếp tục sẽ phát triển cao; hệ thống pháp luật sẽ tạo một hành lang pháp lý an toàn cho vốn đầu tư của họ và tạo một sân chơi bằng phẳng cho mọi nhà đầu tư; một hệ thống cơ sở hạ tầng về tài chính tạo thuận lợi cho họ sẵn sàng chuyển dịch vốn đầu tư). Giá cả của quyền vốn phải do các lực lượng cung - cầu vốn quyết định. Giá cả của các quyền vốn chính là lãi suất. Đã đến lúc cần phải tính đến việc thả nổi lãi xuất theo tình hình cung - cầu vốn từng thời điểm. Phát triển thị trường vốn đi vào đời sống xã hội. Chỉ có như vậy quá trình huy động vốn đầu tư không chỉ mang lại sự tăng trưởng cho nền kinh tế mà còn mang lại sự phát triển đời sống của người dân với ý nghĩa thực sự của thuật ngữ phát triển. Hấp thụ và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Mục tiêu chiến lược của Nhà nước ta không phải là thu hút bao nhiêu dự án FDI, với tổng số vốn đầu tư là bao nhiêu, mà là làm thế nào để hấp thụ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó. Các định chế tài chính Việt Nam (cấp trung gian) phải vươn lên đóng vai trò là người mở đường, thâm nhập và khảo sát cơ hội đầu tư và sẽ là người thiết lập các dự án đầu tư, người tư vấn đầu tư, người vận động, thu hút các nguồn vốn và sau cùng là người tài trợ, cấp vốn và tham gia hùn vốn trở thành những cổ đông chủ chốt của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tham gia vào hoạt động hiện nay ở Việt Nam đã có 3 Ngân hàng liên doanh, 11 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và 55 văn phòng đại diện Ngân hàng Nhà nước của hơn 40 quốc gia. Thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam (TTCK). Mặc dù gần đây ở Việt Nam đã có các loại chứng khoán dưới các hình thức trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước, trái phiếu và cổ phần công ty, song cho đến nay Việt Nam mới chỉ có thị trường phát hành (thị trường sơ cấp) mà chưa có thị trường mua - bán trái phiếu và cổ phiếu giữa các nhà đầu tư (thị trường thứ cấp). Việc thành lập thị trường chứng khoán sẽ tác động tích cực trước hết là làm cho FDI có thêm hình thức mới, có thêm kênh mới thu hút nguồn vốn này. Mặt khác thị trường chứng khoán sẽ có tác động làm chuyển dịch tích cực nguồn vốn đã đầu tư trực tiếp ở các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh có điều kiện đổi mới cơ cấu vốn của mình, phân tán rủi ro và tranh thủ hình thành cơ cấu vốn theo mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả đồng vốn của mình. 3. Lập chương trình, quy hoạch thu hút FDI. 3.1. Nguồn vốn FDI phải được bố trí trên bàn cờ chiến lược chung của các nguồn vốn. Về mặt chiến lược và lâu dài, nguồn vốn trong nước là quyết định và là điều kiện để tiếp thụ nguồn vốn nước ngoài, nhưng trong những năm trước mắt, nguồn vốn bên ngoài là đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế đất nước. Trong nguồn vốn bên ngoài, vốn FDI có nhiều lợi thế hơn vốn vay vì đây là nguồn vốn tư nhân đầu tư vào Việt Nam trên cơ sở hai bên cùng có lợi, chủ đầu tư phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế đồng thời chính phủ không phải lo trả nợ và ít chịu ảnh hưởng của các quan hệ chính trị. Ngoài ra về lâu dài, các công trình FDI sẽ thuộc nước chủ nhà. Muốn tăng cường thu hút vốn FDI phải tạo ra nguồn vốn đối tượng trong nuớc để cải thiện cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường nội địa, phát triển nguồn nhân lực... Như vậy nguồn vốn đầu tư của chính phủ, nguồn vốn ODA là điều kiện để mở rộng nguồn vốn FDI. Mặt khác, ngay chính các công trình FDI cũng cần có nguồn vốn đóng góp từ các thành phần kinh tế trong nước. Cho nên, Chính phủ đã chủ trương khuyến khích huy động mọi nguồn vốn các thành phần kinh tế nhằm tăng cường đầu tư phat triển. 3.2. Hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Định hướng chiến lược thu hút vốn FDI tập trung vào các lĩnh vực sau: Xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp như dầu khí, điện, xi măng, sắt thép, hóa chất,... nhằm cải thiện hạ tầng cơ sở của sản xuất, thực hiện một phần thay thế nhập khẩu, ổn định sản xuất, giảm giá đầu vào... Ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn trong công nghệ và kỹ thuật như điện, vi điện tử, tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vâth liệu mới. Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gần với vùng nguyên liệu. Chú trọng đến các dự án thuộc các ngành công nghiệp dịch vụ có tỷ xuất sinh lời cao như du lịch, khách sạn, sửa chữa tầu biển, dịch vụ sân bay, cảng khẩu, kinh doanh bất động sản... Quan tâm tới các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên sẵn có của Việt Nam. Việc thu hút vồn FDI cần hướng vào một số vùng, địa phương, đặc biệt là các vùng, địa bàn trọng điểm quốc gia có điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư để tạo cơ hội phát triển kinh tế có sức tác động lan tỏa và lôi kéo các vùng khác cùng đi lê. Cần có chính sách ưu tiên đặc biệt để thu hút vốn FDI vào những vùng nông thôn miền núi có kfó khăn về hạ tầng cơ sở để khai thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng này (Điều 3 Luật đầu tư). Để tăng cường khả năng hòa nhập của Việt Nam vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới, tạo sự ổn định về kinh tế - xã hội làm cơ sở cho tăng trưởng kinh tế, cần phải có chính sách thích hợp đối với các nước lớn trên thế giới và các nước trong khu vực khi lựa chọn đối tác đầu tư. Tăng cường hợp tác đầu tư với các nước trong khu vực, đặc biệt các nước NICs và ASEAN vì ngoài lợi ích kinh tế còn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, dễ gặp gỡ nhau trên bình diện chính trị - xã hội. Đẩy mạnh việc thu hút vốn của các nước lớn, các trung tâm, phát triển từ đầu tư song phương sang đầu tư đa phương ở những ngành then chốt, tại các vùng xung yếu (trên biển, biên giới), tại các khu công nghiệp lớn... sẽ tạo lên lực kéo nhiều chiều đảm bảo an linh đất nước, tạo nên những đối trọng cần thiết trong quan hệ tranh chấp với quốc gia khác. 4. Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư kết hợp với lựa chọn thẩm tra đối tác nước ngoài. Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai đoạn đầu, các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như chiếc cầu nối lôi cuốn các công ty nước ngoài đến Việt Nam, như bà mối giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Khi hoạt động đầu tư đạt đến đỉnh cao bão hòa thì lúc đó vai trò xúc tiến đầu tư sẽ giảm đi, bởi vì, khi đó môi trường đầu tư trở nên quá quen thuộc đối với các chủ đầu tư, hoạt động xúc tiến đầu tư chuyển sang môt trạng thái khác. Có thể nói xúc tiến đầu tư tác động trực tiếp tới FDI, là công cụ để chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống các khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài. Đồng thời cần phải xúc tiến đầu tư vì có quá nhiều cơ hội đầu tư mới trên thế giới, sự lựa chọn của các nhà đầu tư là phải trên lượng thông tin kịp thời và chính xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lời và rủi ro. Cạnh tranh thu hút FDI cũng là cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến, vận động đầu tư. Hệ thống xúc tiến manh mún, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất và đã đến lúc phải tổ chức lại theo hướng: Hoạch định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được nhu cầu của mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Củng cố bộ phận xúc tiên đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh về trình độ năng lực, theo hướng tập trung hóa cao độ chứ không phân tán, manh mún như hiện nay. Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp các chương trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và sử lý các quan hệ với bên ngoài. Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư Quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật, vận động đầu tư. Tổ chức mạnh mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số nước, khu vực trọng yếu. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế như UNDP, UNIDO... và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu môi trường đầu tư ở Việt Nam. Sắp xếp lại các công ty, các trung tâm dịch vụ, tư vấn đầu tư, kiên quyết bãi bỏ và sử lý nghiêm khắc với các tổ chức yếu kém đang làm xấu môi trường đầu tư ở Việt Nam. Xem lại các công ty tư nhân, TNHH làm chức năng tư vấn trong lĩnh vực đầu tư. Mặc dù hiện nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp 38 Giấy phép dịch vụ tư vấn đầu tư cho một số công ty tư nhân, nhưng cần thiết phải thu hồi Giấy phép nếu các công ty này hoạt động không có hiệu quả. Hoạt động tư vấn đầu tư phải giúp các chủ đầu tư có cơ hội chọn đúng đối tác. Đặc biệt là công tác lựa chọn thẩm tra chính xác đối tác đầu tư nước ngoài. Đã đến lúc không phải bất cứ loại đối tác nào chúng ta cũng hoan nghênh như mấy năm đầu thực hiện đầu tư. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các tiêu chuẩn sau: Thiện chí làm ăn lâu dài với Việt Nam, kiên quyết phat hiện và loại trừ các đối tác có tư tưởng làm ăn chộp dật, mánh mung và thậm chí lừa đảo. Có những đối tác Việt Nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu xảo trong giao tiếp, tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng bằng những lời hoa mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc bằng những chuyến đi thăm quan nước ngoài để đạt được những ý đồ của họ. Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư. Có khả năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh cụ thể. Sẵn sàng chuyển giao công nghệ cần thiết vào Việt Nam. Cần sớm phát hiện và có biện pháp sử lý hữu hiệu với một số đối tác vào Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để làm được việc này cần có sự tham gia của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện chiến lược thu hút FDI chúng ta phải tự đặt mục tiêu "Hiệu quả kinh tế - xã hội" lên hàng đầu. Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam đã rất mong muốn được là bạn với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội. 5. Tăng cường quản lý các dự án FDI trong quá trình thẩm định triển khai dự án. 5.1. Định rõ mục tiêu của công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Dành được càng sớm càng tốt những cái ta đang thiếu và rất cần: vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý có chọn lọc của bên ngoài, vị trí trong phân công lao động quốc tế. Góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước như: lao động, tài nguyên. Thực hiện việc kết hợp tối ưu các lợi thế bên ngoài với lợi thế bên trong. Góp phần tăng tích lũy và cải thiện đời sống của nhân dân, từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Điều tiết lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo hộ sở hữu, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của người chủ đầu tư Đảm bảo hoạt động của FDI theo hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội nước ta (cơ cấu ngành, lãnh thổ, thành phần kinh tế, kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại). 5.2. Làm rõ nội dung quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở chiến lược, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế, xác định cơ cấu FDI theo ngành, theo lãnh thổ, theo thành phần kinh tế và theo thị trường (thay thế nhập khẩu hay hướng vào xuất khẩu) Quản lý chặt chẽ việc nhập thiết bị, chuyển giao công nghệ, tránh để nhập thiết bị, công nghệ đã hoặc sẽ nhanh lạc hậu. Nhìn chung có hai ý kiến trái ngược nhau: Loại ý kiến thứ nhất ( trường phái cứng rắn) cho rằng: "Các nhà đầu tư nước ngoài một khi đã có tiềm lực vốn, thì không có lý do gì lại cho phép họ góp vốn vào liên doanh bằng thiết bị cũ". Còn loại ý kiến thứ hai quan niệm "Việc không cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập thiết bị đã qua sử dụng là không hợp lý, không phù hợp với điều kiện trước mắt của Việt Nam". Trước tình hình như vậy, Nhà nước cần có những quy định rất cụ thể những lĩnh vực nào nhất thiết phải nhập thiết bị và công nghệ mới và những lĩnh vực nào có thể cho phép những công nghệ đã qua sử dụng, nhưng phải quy định rõ năm sản xuất chế tạo, chất lượng còn lại... để tránh nhập khẩu tràn lan các thiết bị quá cũ. Quản lý về tỷ lệ góp vốn của các bên tham gia liên doanh và chủ đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Đối với liên doanh, nói chung là tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam càng cao càng tốt, nhất là đối với các dự án qua trọng, tỷ suất lợi nhuận cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. - Hiện nay do hạn chế của ta về vốn nên tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam trong vốn pháp định khoảng 25 - 30%. ở đây chúng ta cần chú ý một số vấn đề liên quan: Thứ nhất, Nhà nước cần quy định tỷ lệ góp vốn của Bên Việt Nam tối thiểu là 50% vốn pháp định. Nếu các dự án quy mô quá lớn (như dự án xây dựng khu phức hợp đa năng có tên "Quảng trường Sài Gòn hạnh phúc" có tổng vốn đầu tư 486.427.000 USD) có thể cho phép tỷ lệ vốn pháp định bằng 25% tổng vốn đầu tư. Thứ hai, khuyến khích các công ty Việt Nam cùng góp vốn chung để có được cổ phần lớn trong các liên doanh. Thứ ba, Nhà nước cần có chính sách cụ thể trong việc huy động vốn trong nước cho những lĩnh vực thu lợi nhuận nhanh và lôi kéo các Ngân hàng của Việt Nam vào cuộc (thực sự góp vốn cùng đầu tư). Thứ tư, cần có biện pháp tính toán, kiểm soát chặt chẽ về giá cả máy móc, thiết bị công nghệ phía nước ngoài góp để tránh trường hợp họ nâng giá một cách vô lối gây thiệt thòi không chỉ Bên Việt Nam mà cho cả lợi ích Nhà nước Việt Nam. Thứ năm, việc nâng giá thiết bị nhập khẩu thuộc phần góp vốn của Bên nước ngoài gây thiệt hại trước hết cho Nhà nước Việt Nam, vì khi chi phí sản xuất được nâng lên thì lợi nhuận của Bên liên doanh giảm xuống và kéo theo sự giảm sút khoản thuế lợi tức phải nộp cho Nhà nước. Xét về lợi ích đối tác tham gia liên doanh, việc nâng giá gây thiệt hại cho Bên Việt Nam vì thông thường Bên nước ngoài góp vốn bằng thiết bị hoặc được liên doanh ủy quyền nhập khẩu máy móc thiết bị. Giá máy móc thiết bị bên nước ngoài khai vống lên kéo theo sự gia tăng giả tạo tỷ lệ góp vốn của Bên Việt Nam và đương nhiên lợi nhuận chia cũng giảm đi. Quản lý việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài không đòi hỏi phải chặt chẽ như đối với doanh nghiệp lên doanh. Nhưng cần có quy định các chỉ tiêu tối thiểu mà các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải thỏa mãn (chất lượng thiết bị, giá cả...). Quản lý lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp cóa vốn đầu tư nước ngoài. - Hiện nay mới có khoảng 12 vạn lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo dự báo đến năm 2000 sẽ có hàng chục vạn người trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cho nên vấn đề quản lý lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp FDI có ý nghĩa quan trọng. - Để quản lý có hiệu quả lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần có những biện pháp tình thế và những biện pháp lâu dài. Biện pháp tình thế gồm: Nghiên cứu và đưa ra được những phương thức hoạt động hữu hiệu của các tổ chức Đảng, Công đoàn... cho phù hợp với điều kiện hoạt động và đặc thù của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bồi dưỡng nâng cao năng lực và bố trí hợp lý các cán bộ Việt Nam tham gia Hội đông quản trị và các chức vụ chủ chốt trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ban hành các quy định chức năng cung ứng lao động đối với các đơn vị cung ứng lao động và chủ những đơn vị nào có đủ điều kiện và được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cấp chứng chỉ hành nghề thì mới được hoạt động cung ứng lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Biện pháp dài hạn (chiến lược) gồm: Nhà nước ban hành quy chế đảm bảo cho thị trường lao động Việt Nam tồn tại và phát triển một cách đầy đủ và đúng quy luật. Có như vậy mới đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng của các loại doanh nghiệp trên thị trường lao động và quyền lợi của người lao động. Nhà nước cần quy định và bắt buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chấp hành nghiêm chỉnh những chính sách chế độ về tuyển dụng lao động như chế độ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, bồi dưỡng nâng cao tay nghề và các quyền lợi chính đáng khác của người lao động. 5.3. Quản lý dự án FDI sau khi được cấp giấy phép đầu tư. Việc cải cách công tác thẩm định dự án FDI hiện nay theo hướng các cơ quan nhà nước, khi thẩm định không thể và không nên can thiệp quá sâu vào những tính toán kinh doanh của các chủ đầu tư mà cần trở lại đúng chức năng của mình là đảm bảo lợi ích Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Việc theo dõi các chủ đầu tư hoạt động có đúng quy định của giấy phép đầu tư hay không là vấn đề cấp bách và phức tạp nhất hiện nay. Công tác quản lý nhà nước dự án sau khi được cấp Giấy phép đầu tư và trong toàn bộ quá trình triển khai có tác động trực tiếp tới hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động hợp tác đầu tư. Đó là sự tham gia của dự án FDI vào việc tạo ra lực lượng sản xuất mới, tạo thêm ngành nghề mới và sản phẩm mới, áp dụng công nghệ tiên tiến và kiến thức quản lý kinh doanh hiện đại, mở rộng thị trường nội địa và thị trường thế giới, tạo thêm việc làm và đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách. Quản lý hàng chục tỷ USD với hàng ngàn doanh nghiệp trải rộng trên phạm vi cả nước với nhiều vụ việc thường xuyên phát sinh, đòi hỏi phải xây dựng một bộ máy Nhà nước thực sự vững mạnh, ổn định lâu dài vừa đủ sức quản lý FDI, vừa tạo niềm tin đối với các chủ đầu tư nước ngoài. 6. Một số biện pháp cụ thể để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời gian tới. Nhanh chóng xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch đầu tư phát triển chi tiết theo ngành nghề, địa bàn, đối tác, yêu cầu kỹ thuật, công nghệ,... theo hướng tập trung thành các cụm, khu công nghiệp và tập trung vào những ngành, nghề, đối tác có công nghệ tiên tiến, sản phẩm có tỷ lệ xuất khẩu cao và tập trung vào các Công ty, tập đoàn mạnh, có uy tín quốc tế để đảm bảo tính khả thi và ổn định trong quá trình triển khai dự án. Công bố công khai các danh mục dự án thu hút đầu tư nước ngoài, vùng, địa điểm cụ thể, yêu cầu quy hoạch, kiến trúc và khung giá cho thuê đất và các ưu đãi đầu tư để các doanh nghiệp trong và ngoài nước chủ động trong thu hút đầu tư và rút ngắn thời gian lập hồ sơ, xin Giấy phép đầu tư. Chủ động trong việc xúc tiến đầu tư, không chờ đợi; mở rộng quan hệ trực tiếp với các công ty, tập đoàn lớn đã đầu tư ở Việt Nam hoặc các công ty lớn đang có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Đẩy mạnh việc vận động, tạo điều kiện để các công ty, tập đoàn lớn đã có dự án đầu tư ở Việt Nam mở rộng quy mô, lĩnh vực hoạt động, tăng cường tái đầu tư. Chuẩn bị tốt mọi lực lượng, bộ máy, quy trình kỹ thuật cho việc xét duyệt cấp Giấy phép đầu tư khi được phân cấp. Đảm bảo việc cấp Giấy phép được tiến hành nhanh, thuận tiện, đúng thủ tục. Xây dựng và ban hành quy chế phối hợp giữa các ban, ngành có liên quan đến hoạt động thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước theo cơ chế “một đầu mối”, tập trung vào Bộ và các Sở Kế hoạch & Đầu tư. Huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức để cải tạo, nâng cấp, mở rộng, nâng cao chất lượng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội; đô thị theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung cao độ cho các dự án cải tạo, nâng cấp các cảng biển, sân bay, hệ thống đường giao thông, hệ thống cấp điện, cấp nước, .... Từng bước hình thành các tổ chức tư vấn, dịch vụ để cung cấp thông tin, dịch vụ cần thiết cho các nhà đầu tư trong quá trình xúc tiến, lập hồ sơ xin Giấy phép đầu tư cũng như trong quá trình triển khai dự án theo phương thức “dịch vụ một cửa”. Có chính sách, chế độ khuyến khích, khen thưởng vật chất, tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Tăng cường công tác quản lý dự án sau khi được cấp Giấy phép nhằm giải quyết nhanh, kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong quá trình triển khai dự án. Đẩy mạnh việc kiểm tra định kỳ, thường xuyên việc chấp hành pháp luật, thực hiện Giấy phép đầu tư, nghĩa vụ tài chính với các dự án đã hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư nước ngoài. Kiên quyết xử lý đối với các trường hợp vi phạm luật pháp, không thực hiện đúng quy định trong Giấy phép đầu tư, dây dưa kéo dài; kể cả biện pháp thu hồi Giấy phép. Tăng cường vai trò của các tổ chức chi bộ, công đoàn, thanh niên trong các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài. Khẩn trương khảo sát, xây dựng kế hoạch và tiến hành đào tạo cho cán bộ, công nhân viên chuẩn bị đủ điều kiện khi tham gia trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; đào tạo bổ xung, đào tạo lại; tổ chức câu lạc bộ giám đốc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để trao đổi, rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ cho bộ phận lãnh đạo các doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Có chương trình đào tạo đầy đủ, lâu dài với lực lượng trẻ để tiếp tục, kế cận cho các giai đoạn sau. Rà soát lại và hoàn chỉnh pháp nhân cho một số đối tác Việt Nam để tham gia liên doanh nhằm tăng cường sức mạnh, trách nhiệm và vai trò của đối tác Việt Nam trong quá trình triển khai dự án. Tạo các điều kiện cần thiết để từng bước tăng dần tỷ trọng góp vốn của phía Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh. Chủ động chuẩn bị các đối tác Việt Nam và cán bộ Việt Nam có đủ năng lực tham gia các dự án hợp tác đầu tư với nước ngoài. Kết luận Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu có nhiều nước, nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng cao trở nên bức thiết trong điều kiện của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học. Công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển đầu tư của nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển. Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về các điều kiện kinh tế, kỹ thuật... Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI”. Để đạt được mục tiêu nói trên phải thực hiện tổng hợp các biện pháp trong đó việc đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng hàng đầu, và đây cũng là vấn đề mới mẻ đối với nước ta, nó vừa được triển khai trong bối cảnh cạnh tranh công khai quyết liệt trên thị trường đầu tư giữa các nước trên thế giới và khu vực. Thực tế cho thấy rằng đầu tư nước ngoài mà chủ yếu đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là điều kiện cần thiết để bổ sung nguồn vốn phát triển kinh tế quốc dân. Bất cứ nơi nào, bất kỳ nơi nào, bất kỳ ngành nào cũng cần vốn đầu tư để phát triển. Vì vậy cần phải có các giải pháp nhằm thu hút nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và vốn FDI nói riêng sao cho có hiệu quả. Vần đề đặt ra nữa là tiếp nhận vốn đã khó song sử dụng vốn để có được hiệu quả lại càng khó hơn và chỉ khi nào sử dụng có hiệu quả thì việc thu hút đầu tư mới có ý nghĩa thiết thực. Tài liệu tham khảo 1. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2. Nghị định 12/CP, Nghị định 10/CP - Bộ Kế hoạch & Đầu tư. 3. Giáo trình Kinh tế học quốc tế - Chủ biên: GS.PTS. Tô Xuân Dân. NXB Giáo dục, 1995. 4. Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Chủ biên: GS.PTS. Tô Xuân Dân. NXB Thống kê, 1998. 5. Giáo trình Kinh doanh quốc tế - Chủ biên: PTS. Đỗ Đức Bình. NXB Giáo dục - 1997. 6. Giáo trình Đầu tư nước ngoài - Đại học Ngoại thương. Hà Nội. 7. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch & Đầu tư. 8. Báo cáo "Tình hình và phương hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam" - Bộ Kế hoạch & Đầu tư. 9. Kinh tế các nước Đông Nam á - NXB Giáo dục. Hà Nội /1997. 10. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam - Nguyễn Anh Tuấn - Phan Hữu Thắng - Hoàng Văn Huấn - Nhà xuất bản Thế giới 1994. 11. Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - 1996. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. 12. Đề tài khoa học "Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam" - PTS. Nguyễn Phúc Khanh; PTS. Vũ Chí Lộc. 13. Báo cáo đầu tư thế giới 1996 và Số liệu DRS Ngân hàng thế giới. 14. Thời báo Kinh tế Việt Nam. 15. Báo Việt Nam - Đầu tư nước ngoài. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0018.doc
Tài liệu liên quan