Một số giải pháp để phát triển du lịch cuối tuần ở Hà Tây

Lời nói đầu Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước: du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển du lịch là một hướng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Toàn Đảng, toàn ngành du lịch đang phấn đấu xây dựng và phát triển du lịch, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế- xã hội với chủ đề trọng tâm:” Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỉ mới”. Hà Tây, tỉnh có tài nguyên đa dạng và phong phú lại nằm ở

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp để phát triển du lịch cuối tuần ở Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vùng lân cận trung tâm du lịch lớn của cả nước đó là thủ đô Hà Nội, đang có tiềm năng du lịch to lớn. Mở ra các loại hình du lịch mới và đặc trưng với chất lượng cao nhằm thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đến với Hà Tây. Là một địa phương tập trung nhiều danh lam thắng cảnh và di tích văn hoá lịch sử. Cho đến nay, Hà Tây có hơn 300 di tích đã được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng, có nhiều danh thắng nổi tiếng như: Ba Vì, Quan Sơn, Đồng Mô, Khoang Sanh - Suối Tiên....”. Hơn nữa, sinh hoạt văn hoá Hà Tây còn mang tính cộng đồng đậm đà bản sắc dân tộc thông qua các lễ hội truyền thống và các làng nghề cổ truyền nổi tiếng. Đó là những tài nguyên du lịch quý giá, là cơ sở để phát triển du lịch văn hoá và du lịch sinh thái đầy hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước. Từ cuối năm 1999, chính phủ đã ban hành chế độ làm việc 40 giờ/tuần. Đến nay, nhiều người lao động được nghỉ hai ngày cuối tuần. Như vậy, số thời gian rỗi tăng lên và người dân có nhiều thời gian cho du lịch cuối tuần. Chính điều này tạo tiền đề cho sự phát triển du lịch cuối tuần, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho dân cư địa phương, khuyến khích và bảo tồn và khai thác có hiệu quả các danh thắng và di tích văn hoá lịch sử, bảo vệ môi trường sinh thái và đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho địa phương về kinh tế, xã hội, văn hoà, nâng cao mức sống người dân. Nhìn từ góc độ lý luận, du lịch Hà Tây đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức. Vậy, muốn phát triển du lịch cuối tuần, ngành du lịch cùng các ngành các cấp phải làm gi?, làm như thế nào? Xuất phát từ thực tiễn trên, em chọn đề tài “Một số giải pháp để phát triển du lịch cuối tuần ở Hà Tây”. Đề tài này bao gồm 3 phần với kết cấu như sau: Chương I: Tiềm năng và lợi thế của Hà Tây trong việc phát triển du lịch cuối tuần. Chương II: Thực trạng phát triển du lịch cuối tuần ở Hà Tây. Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển du lịch cuối tuần tại Hà Tây. chương I: tiềm năng và lợi thế của Hà Tây trong việc phát triển du lịch cuối tuần 1. Điều kiện kinh tế xã hội, chính trị, văn hoá Nền kinh tế địa phương. Là một tỉnh nông nghiệp đất chật người đông, Hà Tây được đánh giá là một tỉnh nghèo. Tuy thời gian vừa qua toàn tỉnh có nhiều cố gắng trong phát triển kinh tế và đã đạt được một số thành tựu đáng chú ý nhưng những thách thức phía trước còn nhiều. Theo Báo cáo Tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng năm 1994 - 1999 của Hội đồng Nhân dân tỉnh khoá XII, ta có Bảng số liệu về Kinh tế Hà Tây thời kỳ 1994 - 1999 như sau: (Tính theo giá cố định năm 1994) Chỉ tiêu Đơn vị tính 1994 1999 Tốc độ tăng bình quân (%/năm) 1. GDP tỷ đồng 3207,3 4691 7,9 2. GDP bình quân đầu người đồng/người 1.332.000 2.572.000 14,2 3.Tổng thu Ngân sách tỷ đồng 169,7 292,5 15,3 4. Tổng chi ngân sách tỷ đồng 317,2 603 13,8 5. Tổng sản lượng lương thực quy thóc vạn tấn 68,1 94,52 6,8 6. Lương thực bình quân đầu người kg/người 300 395 31,67 7. Giá trị sản xuất công nghiệp 1.172,2 2.476,2 18,6 8. Giá trị sản xuất nông nghiệp tỷ đồng 2.030,9 3.003,5 8,1 9. Giá trị hàng xuất khẩu triệu USD 9,7 34,9 29,1 10. Giá trị hàng nhập khẩu triệu USD 2,3 47 83,1 Đầu tư nước ngoài đến hết năm 1999 có 35 dự án với tổng số vốn đăng ký 568 triệu USD. Một số dự án lớn như Nhà máy bia Đông Nam á, Công ty nước giải khát Cocacola - Ngọc Hồi... Về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp những năm gần đây đã có sự tăng trưởng bình quân đáng khích lệ như tốc độ tăng trưởng có nhiều sản phẩm được tạo ra không những đáp ứng đủ nhu cầu trong tỉnh mà còn xuất sang các tỉnh bạn và xuất khẩu bình quân sang các nước. Các sản phẩm công nghiệp cũng góp phần quang trọng cung cấp các vật tư cho du lịch, bảo đẩm sự đa dạng phong phú các sản phẩđược tạo điều kiện thuận lợi cho du khách và ngày càng bảo đảm tính hoàn thiện. Về nông lâm nghiệp củng có sự thay đổi cả về cơ cấu lẫn hiệu quả như tính từ năm 1993, cơ cấu nông nghiệp của tỉnh là 53,95% thì đến năm 1997 cơ cấu này là 40,4% giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng từ 2.597,3 tỉ đồng năm 1995 lên 2.800,5 tỉ đồng năm 1997. Sự đóng góp tích cực của các ngành kinh tế là điều kiện quyết định góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống người dân. Thu nhập bình quân của người dân Hà Tây đã dược tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Năm 1997 thu nhập bình quân ở mức 350.000 đồng/tháng thì năm 2000 đã là 550.000 đồng/tháng. Chính nhờ thu nhập bình quân tăng lên, đời sống dược nâng cao, nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng dược thoả mãn. Trong đó, nhu cầu du lịch cuối tuần cũng ngày càng tăng. Các điều kiện an toàn đối với du khách là yêu cầu tất yếu cho sự phát triển du lịch và được tỉnh, các đơn vị kinh doanh và nhân dân đảm bảo tốt. Toàn tỉnh không xảy ra các sự kiện lớn ảnh hưởng đến an toàn đối với du khách. Các tệ nạn xã hội như ăn cắp, ăn trộm, ăn xin, lừa đảo, hiện tượng đầu gấu, dân địa phương bắt chẹt khách du lịch...được ngăn ngừa xoá bỏ. Như vậy về cơ bản tình hình kinh tế của địa phương còn yếu kém chưa thể giúp đỡ, tạo cú hích cho du lịch phát triển nhưng với việc xác định đúng đắn vị thế của ngành du lịch - là ngành kinh tế mũi nhọn thì việc đầu tư, phát triển du lịch đang được các cấp chính quyền, ban ngành trong tỉnh quan tâm. 2. Điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch. Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển du lịch. Nó bảo đảm việc đi lại và các dịch vụ cần thiết khác cho du khách . a. Giao thông vận tải. Du lịch gắn liền với việc di chuyển của con người do vậy mạng lưới và phương tiện giao thông là vấn đề then chốt. Đặc biệt, đối với du lịch cuối tuần giao thông càng có có ý nghĩa quan trọng vì khách đi nghỉ sẽ tận dụng được nhiều thời gian cho vui chơi giải trí. Hà Tây có mạng lưới giao thông phát triển khá đồng đều, mật độ khá cao ( 1,39Km/km2). Cho đến nay, tỉnh đã và đang tu bổ, xây dựng các tuyến đường chiến lược góp phần phục vụ mục đích du lịch: Hà Nội-Hà Đông- Sơn Tây- Ba Vì - Đồng Mô Chiều dài toàn tuyến 55Km có thể đi bằng hai hướng: +Hà nội -Hà Đông-Xuân Mai-Sơn Tây- Suối Hai- Ao Vua-Đồng Mô - Hà Đông- Hà Nội. + Hà nội -Hà Đông-Xuân Mai-Sơn Tây- Suối Hai- Ao Vua-Ba Vì--Đồng Mô-Xuân Mai-Hà Đông-Hà nội. Tuýên Hà Nội-Hà Đông –Ba La-Vân Đình-Hương Sơn. Đây là tuyến du lịch hành hương và lễ hội chính của tỉnh với lượng khách chiếm tới 50% số du khách đến tỉnh đặc biệt trong mùa lễ hội. Về giao thông đường thuỷ, có tuyến sông Đà, sông Hồng và tuyến sông Đáy với cảng Hồng Vân, Sơn Tây và một vài cảng nhỏ Khi các sông Đà, sông Hồng được chỉnh tu ổn định, Hà Tây sẽ có thể khai thác các tuyến sông chính: Tuyến Phà Đen-Sơn Tây-Đá Chông( dọc sông Hồng và sông Đà) Tuyến du lịch sông Đáy tới chùa Hương và nối với Ninh Bình b. Thông tin liên lạc Ngành này đang phát triển từng bước để phục vụ cho các ngành kinh tế, quốc phòng và an ninh. Những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ nhất của bưu điện là đổi mới công nghệ, ngành sử dụng rất nnhiều và đồng bộ những tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Bao gồm những thành tựu của khoa học hệ thống đến các thành tựu khoa học sản xuất phần cứng và phần mềm với các chiến lược phát triển viễn thông nông thôn, chiến lược đi thẳng vào hiện đại và số hoá, đã tạo điều kiện cho việc kết nối trong và ngoài nước, phục vụ đắc lực cho phát triển du lịch. Năm 1991, ngành đã xây dựng các loại tổng đài điện tử tự động ở các tỉnh và huyện. Năm 1995 hoàn thành chiến lược số hoá, cơ bản xây dựng xong mạng viễn thống số (IDN), 100% số huyện có tổng đài điện tử số và truyền dẫn. Trong các dịch vụ bưu chính viễn thông của tỉnh có những dịch vụ: chuyển tiền nhanh, bưu phẩm chuyển phát nhanh EMS, PCN. Theo thống kê, số máy điện thoại của tỉnh năm 19856 có 0,18 máy trên 100 dân. Đến năm 1995-1 máy/100 dân. Đây là số liệu đáng phấn khởi cề mức sống và mức sử dụng thành tựu khoa học thông tin của người dân. ngoài khu vực thị xã và các cơ quan Nhà nước thì 100% số xã trong tỉnh có máy điện thoại. Tính đến hết năm 1998, toàn tỉnh đã lắp đặt khoảng 29000 máy điện thoại. c. Mạng lưới điện. Với địa hình núi non hiểm trở tại một số điểm du lịch nhưng ngành điện đã có nhiều cố gắng đáng ghi nhận như xây dựng đường dây vào chùa Thiên Mụ - Hương Sơn, đường đây 35kv lên đỉnh núi Ba Vì, ngành cũng đang đầu tư nâng cấp hệ thống lưới điện cũ tại các trung tâm, các điểm du lịch cuối tuần, giảm thiểu đến mức thấp nhất các sự cố về điện, giá bán được thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ. Ngoài ra tại các điểm du lịch xa trung tâm cũng đã chuẩn bị sẵn nhưng phương án dự phòng như mua sắm các máy phát điện, tự kéo đường dây lên các địa điểm cần thiết. Cơ sở vật chất của một số ngành khác như Y tế, Công an đều rất thuận lợi với yêu cầu hoàn thành tốt nhiệm vụ chung của ngành mình và phục vụ cho đòi hỏi của ngành du lịch. 3. Tài nguyên du lịch 3.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên. Hà Tây là một trong số ít tỉnh thành có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú và đa dạng. Đây chính là tiền đề cho việc phát triển các loại hình du lịch cuối tuần đáp ứng được những nhu càu khác nhau của du khách. a. Địa hình. Lãnh thổ Hà Tây với diện tích2147km2 là vùng chuyển tiếp giữa các núi dãy núi đồ sộ của vùng Tây Bắc và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nằm ở phía Tây Nam của thủ đô Hà Nội. Dải đất tự nhiên của tỉnh kéo dài theo hướng Tây- Tây Bắc, Đông- Đông Nam chủ yếu là đồng bằng. Địa hình núi chiếm một phần nhỏ ở phía Tây Bắc với đỉnh Ba Vì cao nhất - 1287 m. Phía Nam là các đồi đá đá vôi thấp giáp với đường 21A và các dãy núi đá vôi của Ninh Bình. Có thể nói địa hình của Hà Tây tương đối phức tạp với nhiều dạng khác nhau. Địa hình đồi chủ yếu lại ở phía tây chiếm 1/3 diện tích toàn tỉnh và được phân bố như sau: Địa hình núi từ 300m trở lên: 17000 ha Địa hình đồi: 54400 ha Địa hình đồng bằng ( 1,7 -11m) 144450ha Trong đó có các dạng địa hình có giá trị du lịch : Địa hình Karst: dạng địa hình này ở Chương Mỹ, Mỹ Đức..là dạng địa hình với hệ thống hố, phễu, máng, trũng tạo nên những khối đá vôi riêng biệt dạng tháp và tháp cụt cùng nhiều hang động đẹp ( động Hương Tích, Chùa Tiên ,Chảy Tuyết, Hin Đồng) mà tiêu biểu là phía tây huyện Mỹ Đức với hai dãy Hương Sơn và Lương Ngãi chạy theo hướng tây bắc- đông nam. Địa hình núi + Karst: là khu vực Ba Vì với núi đá phân bố thành cụm nhỏ trong khu vực Núi Che, Xóm Mít, Suối Ma. Nhìn chung địa hình Hà Tây là tương đối đa dạng. Đây thực sự là nguồn tài nguyên hết sức có giá trị tạo nên cảnh quan thiên nhiên độc đáo có thể diễn ra các hoạt động du lịch cuối tuần . b. Khí hậu Hà Tây nằm ở trung tâm đồng bằng bắc bộ do đó khí hậu mang đặc điểm nhiệt đới ẩm gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, khí hậu ẩm ướt nhiều mưa. Từ tháng 11 đến tháng 4 là mùa đông lạnh. Giữa 2 mùa là thời kì chuyển tiếp tạo cho tạo cho Hà Tây có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Xét theo chiều cao của địa hình Hà Tây có 3 tiểu vùng khí hậu: vùng đồng bằng (tương đối nóng ẩm hơn các vùng khác), vùng đồi (khí hậu lục địa) và vùng núi Ba Vì từ 700 m trở lên( mát mẻ). Khí hậu Hà Tây tương đối thuận lợi cho hoạt động du lịch. Đáng chú ý hơn cả là khí hậu ở khu vực Ba Vì rất phù hợp cho hoạt động du lịch cuối tuần. Do độ cao nên khí hậu nơi đây luôn mát mẻ, không khí trong lành nhiệt độ trung bình năm 18 độ C. Mưa là hiện tượng thời tiết gây trở ngại đối với hoạt động du lịch đặc biệt là du lịch cuối tuần vì hoạt động này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Chính vì vậy tại thời điểm du lịch mưa càng ít càng thuận lợi. Lượng mưa ở Hà Tây tập trung vào mùa hè. Tuy nhiên, mưa thường mưa rào, mưa dông trong thời gian ngắn do đó ít ảnh hưởng tới hoạt động du lịch cuối tuần. c. Tài nguyên nước. Mạng lưới sông ngòi Hà Tây có mật độ dầy, trung bình 0,66km/km2. gồm nhiều sông lớn như sông Hồng , sông Đà, sông Đáy, sông tích... lượng nước dồi dào180-200 tỉ M3/ năm, chia làm 2 mùa : mùa lũ ( 80% lượng nước) và mùa cạn(20% lượng nước). Các dòng suối từ các khối núi đổ ra có độ dốc lớn, nước chảy xiết, chảy giữa địa hình núi, khi thì lộ ra ngoài khi thì cắt qua khối đá tạo rlêng cảnh quan đẹp hấp dẫn du khách. Các hồ Hà Tây có giá trị hơn cả là hồ Đồng Mô và hồ Suối Hai. Theo kết quả điều tra và đánh giá của viện khí tượng thuỷ văn cũng như viện vệ sinh dịch tễ về chất lượng nước tại các hồ này đảm bảo về tiêu chuẩn vệ sinh phục vụ cho nhu cầu du lịch nhất là du lịch cuối tuần như tắm mát, chơi các môn thể thao nước trong hồ vì nước khá sạch, không mùi vị và có lượng oxi hoà tan cao, độ Ph xấp xỉ trung tính. Cùng với sự phong phú về nước mặt, hệ thống nước ngầm Hà Tây tương đối dồi dào, ở vùng đồng bằng lượng nước ngầm phong phú, ở vùng núi tuy chưa có đầy đủ tài nguyên nhưng qua khảo sát có thể thấy lượng nước ngầm tương đối nhiều. d. Sinh vật Đối với du lịch cuối tuần thảm thực vật và thế giới động vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó tạo nên môi trờng trong lành, làm tăng vẻ đẹp của thiên nhiên và tạo nên sức hấp dẫn đối với du khách. Thảm thực vật tự nhiên ở Hà Tây tương đối đa dạng và tập trung ở phía tây- tây nam của tỉnh. Trong rừng có nhiều loại động vât kể cả các loại động vật quý hiếm. Các khu vực có khả năng khai thác vào hoạt động du lịch gồm rừng quốc gia Ba Vì và khu vực Hương Sơn. Vườn quốc gia Ba Vì được coi là một phòng tiêu bản sống của nhiều loài động, thực vật. Về động vật, Ba Vì cũng rất đa dạng với chim( 144 loài thuộc 40 họ, 17 bộ trong đó có 6 loài quý hiếm), bò sát( 42 loài thuộc 12 họ, 3 bộ trong đó có 12 loài quý hiếm ), lưỡng cư ( 27 loài, 6 họ, 1 bộ), thú có 44 loài thuộc (23 họ,9 bộ,có 12 loài qúy hiếm)vv..vv. Khu vực Hương Sơn có hệ động vật khá phong phú. Ngoài thảm thực vật thuỷ sinh nên vùng núi đá vôi có tới 550 loài thuộc 190 họ. Về động vật hoang dã thống kê được 32 loài thú thuộc 17 họ, 7 bộ, 88 loài chim thuộc 37 họ, 15 bộ và 35 loài bò sát thuộc 16 họ,3 bộ. Các loài nằm trong sách đỏ Việt Nam, Ba Vì có 6 loài chim,12 loài bò sát, 12 loài thú. ở hơng sơn có 4 loài chim, 10 loài bò sát.Tính đang dạng sinh học của hệ sinh thái làm tăng vẻ đẹp và tính hoang sơ của cảnh núi rừng sông nước là nét quyến rũ lớn dối với du khách nhất là người dân thành phố. 4. Tài nguyên du lịch nhân văn. Trong quá trình lịch sử, Hà Tây vốn nổi tiếng là vùng đất văn hiến thường nằm vị trí tiếp giáp với các trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá quan trọng nhất của đất nước như Cổ Loa, Hoa lư, Thăng Long( Đông Đô- Hà Nội). Cùng với truyền thống của tỉnh, đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu và phát triển những tinh hoa dân tộc cho việc khôi phục các ngành nghề truyền thống..vv..vv. Đặc biệt các di tích lịch sử, kiến trúc thể hiện tài năng của ông cha ta từ xa để lại rất có giá trị đối với du lịch. a. Di tích lịch sử văn hoá. Tính đến tháng3/1999, Hà Tây có 326 di tích với mật độ cao 14 di tích/100km2 và được coi là một trong những tỉnh, thành phố có nhiều di tích của cả nước. Bảng số lượng và mật độ di tích của Hà Tây tính đến năm 1993 phân theo huyện, thị . STT Các huyện, thị Diện tích(Km2) Số lượng Mật độ(dt/Km2) 1 Ba Vì 410,28 10 2,4 2 Chương Mỹ 211,84 9 4,2 3 Đan Phượng 76,59 20 26,1 4 Hà Đông 16,47 10 60,7 5 Hoài Đức 124,19 39 31,4 6 Mỹ Đức 226,97 8 3,5 7 Phú Xuyên 170,89 5 2,9 8 Phúc Thọ 113,29 24 21,1 9 Quốc Oai 109,25 6 5,5 10 Sơn Tây 128,47 9 7,0 11 Thạch Thát 104,32 16 15,3 12 Thanh Oai 142,31 36 25,3 13 Thường Tín 130,29 15 11,5 14 Ưng Hoà 183,13 12 6,5 15 Toàn Tỉnh 2147,0 218 10,2 Nguồn:Cục bảo tồn bảo tàng. Về chất lượng di tích, mỗi di tích đều có sắc thái và dấu ấn lịch sử riêng biệt. Các di tích phần lớn là các công trình nghệ thuật đặc sắc với kiến trúc cổ mang đậm nét của vùng văn hoá sứ Đoài mà hiện nay vẫn được bảo tồn( chùa hương, chùa Thày, chùa Tây Phương...). Nói chung, phần lớn các di tích văn hoá đều được xây dựng tại các nơi có cảnh quan đặc sắc. Nên ở đây có thể kết hợp hoạt động du lich cuối tuần và các hoạt động vui chơi giải trí như ở chùa Thầy, chùa Hương, ... b. Lễ hội Hà Tây có nhiều lễ hội trong đó có những lễ hội lớn tiêu biểu cho lễ hội dân gian Việt Nam với một số nghi lễ cổ truyền được duy trì. Các lễ hội đều được diễn ra vào đầu năm mới đến hết tháng giêng. Đặc biệt là lễ hội chùa Hương diễn ra trong suốt 3 tháng đầu xuân từ 15/1-15/3 âm lịch, là lễ hội có sức thu hút rất lớn, hàng năm có tới nửa triệu người dân Việt Nam trên mọi miền đất nước và hàng vạn khách quốc tế về vãn cảnh. Có thể nói, Hương Sơn có giá trị to lớn về tài nguyên du lịch nhân văn và tự nhiên xứng danh là" Nam thiên đệ nhất động" và đã trở thành địa danh du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước. Ngoài ra, còn có các lễ hội khác như lễ hội chùa Thầy(7/3 âm lịch) là một công trình kiến trúc được xây dựng từ thế kỉ XVII ở Đầm Long Chiểu hay lễ hội Hát Môn Đền thuộc xã Hát Môn huyện Phúc Thọ thờ hai Bà Trưng và còn một số lễ hội khác như hội Đền Và, chùa Mía ( Sơn Tây), chùa Trầm( Chương Mỹ).... c. Các làng nghề Hà Tây là quê hương của các làng nghề thủ công nổi tiếng. Các làng nghề thường tập trung ở Hà Đông, Thường Tín, Thanh Oai. Thị xã Hà Đông là nơi quy tụ nhiều ngành nghề truyền thống. Ngoài các làng nghề tơ lụa, thuê ren, thảm trên đất Hà Tây còn có nhiều làng nghề truyền thống về khảm trai, trạm khắc , sơn... Nghề thủ công truyền thống có sức hấp dẫn lớn bởi họ có thể xem tận mắt các nghệ nhân chế tác và mua hàng lưu niệm nên có thể khai thác cho hoạt động du lịch cuối tuần. Chương II: Thực trạng phát triển du lịch cuối tuần tại Hà Tây. 1. Nguồn khách: Tổng số khách đến Hà Tây năm 2000 có 1.232.000 lượt khách trong đó khách quốc tế chỉ là 74.360 lượt như vậy thật quá ít ỏi. Nếu so với Hà Nội có 2.600.000 tổng số khách, 500.400 lượt khách quốc tế hoặc của toàn quốc là 11.500.000 tổng số khách, 2.130.000 lượt khách quốc tế thì là quá nhỏ bé. Trong khi đó chỉ riêng khu vực Chùa Hương đã chiếm tới 32,5% và tập trung phần lớn vào 3 tháng xuân. Nguồn khách có khả năng tham gia hoạt động du lịch cuối tuần của Hà Tây bao gồm các thành phần sau: a. Khách quốc tế : Chủ yếu là nguồn khách sống và làm việc tại thủ đô Hà Nội. Đây là nơi tập trung đông nhất các cơ quan đại sứ quán , các văn phòng đại diện nước ngoài, các tổ chức quốc tế , các cơ sở liên doanh liên kết đầu tư nước ngoài. Từ Hà Nội khách du lịch quốc tế có thể đi theo quốc lộ 6 nhất là đường cao tốc Láng -Hoà Lạc tới Hà Tây vì Hà Tây như chúng ta biết có nguồn tài nguyên du lịch phong phú lại cận kề với Thủ Đô. b. Khách nội địa : Khách nội địa có thể đến từ nhiều nguồn nhưng nguồn khách từ Hà Nội vẫn giữ vị trí quan trọng bởi Hà Nội là là nơi tập trung các cơ quan đầu não, các trường cao đẳng và đại học, các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề . Hà Nội là chặng dừng chân đầu tiên, chặng dừng cân quan trọng của nhiều du khách( kể cả khách công vụ) trước khi tới các địa danh khác. Những đoàn khách này khi có điều kiện cũng tham gia du lịch ở Hà Tây, tạo cho Hà Tây lượng khách tiềm năng đáng kể. Các đô thị, các khu công nghiệp khác- nơi tập trung đông cán bộ công nhân viên cũng thực hiện du lịch cuối tuần ở Hà Tây. Ngoài ra nguồn khách nội địa từ các thị xã, thị trấn trong tỉnh tuy không nhiều bằng nguồn từ Hà Nội song đây cũng là nguồn khách quan trọng bởi sự thuận tiện đi lại... Cũng phải kể đến nguồn khách từ các tỉnh lân cận như Vĩnh phúc, Hà Nam, Ninh Bình, Hoà Bình, Hưng Yên… Có thể nói với Hà Tây chỉ cần thu hút 5-10% số khách quốc tế và nội địa từ Hà Nội đến cùng với nguồn khách trong và ngoài tỉnh đi nghỉ cuối tuần là Hà Tây đã có một lượng khách khá lớn. Bảng cơ cấu khách du lịch: Chỉ tiêu Đơn vị tính 1994 1999 2000 9 tháng đầu năm 2001 1.Tổng lượt khách Lượt khách 602.100 1.1900 1.232.00 1.244.50 1.1 Khách nội địa nt 600.000 55.400 74.360 74.388 1.2 Khách quốc tế nt 2.100 1.134.30 1.157.44 1.170.12 (Nguồn: Sở du lịch Hà Tây ) 2. Thực trạng về công tác quản lý a. Quản lý kinh doanh. Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong địa bàn hiện nay được tổ chức theo một số loại hình quản lý doanh nghiệp: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần...Các doanh nghiệp đều hoạt động theo mô hình quản lý kinh doanh trực tiếp, giám đốc điều hành trực tiếp, chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp . Với mô hình quản lý này, các doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng kế hoạch và điều hành kinh doanh kịp thời phù hợp với nhu cầu phát sinh trong quá trình kinh doanh. Tuy nhiên, công tác quản lý còn nhiều hạn chế. Hầu hết cán bộ quản lý đều không được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ. Nhìn chung, công tác quản lý hiện nay chưa đạt được sự thống nhất chung của các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp chỉ tập trung vào việc thực hiện kế hoạch riêng của mình chưa thể hiện tính chuyên môn hoá cao, chưa quan tâm đến chính sách, chiến lược phát triển chung của vùng, của khu du lịch và chung của toàn tỉnh. b. Quản lý nhà nước Trong những năm gần đây, công tác quản lý nhà nước đã có những thay đổi, sự phân cấp và xác định chức năng của các cấp ngành đã được cụ thể hơn và dần đi vào nền nếp. Song trên thực tế, cũng còn có sự chồng chéo. Kinh doanh du lịch phải chịu nhiều sự quản lý của cơ quan chức năng như văn hoá thông tin, y tế, công an, thuế, tài chính... Giữa các cơ quan này chưa có sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ nên đôi khi gây chở ngại trong công việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Sở du lịch, cơ quan nhà nước quản lý trực tiếp các hoạt động kinh doanh du lịch của tỉnh, kể từ khi thành lập (7/1994) đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng các chương trình chiến lược phát triển chung của du lịch Hà Tây, chỉ đạo cụ thể nhiều hoạt động du lịch trong toàn tỉnh. Sở đã tham mưu và đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, đề án phát triển du lịch tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001-2010. Ngành chủ động hướng dẫn các đơn vị trong viêc thực hiện các văn bản pháp luật liên quan. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Sở luôn luôn đôn đốc , chỉ đạo các đơn vị, doanh nghiệp thực hiện các chương trình một cách tích cực, đa dạng về hình thức. Sở đã phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng ở trung ương và địa phương thường xuyên giới thiệu các điểm du lịch, các sản phẩm du lịch và những nét văn hoá địa phương với du khách, tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá, giới thiệu du lịch cuói tuần. Tóm lại, qua sự phân tích thực trạng kinh doanh và công tác quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch Hà Tây có thể thấy được hiệu quả kinh doanh du lịch chịu sự tác động của nhiều yếu tố thuộccác lĩnh vực quản lý kinh doanh và quản lý nhà nước. Để có thể cải thiện được tình hình kinh doanh theo hướng nâng cao hiệu quả cần có sự tham gia của nhiều cấp , nhiều ngành khác nhau từ tỉnh đến cơ sở. Trong đó, cơ quan nhà nước về lĩnh vực du lịch có vai trò quan trọng trong việc định hướng và tạo lập chính sách phát triển. Các doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc phát huy nội lực tìm ra các giải pháp cụ thể cho doanh nghiệp của mình tuỳ thuộc vào điều kiện kinh doanh của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên , mọi giải pháp đều cần nhằm mở rộng thị trường , giữ vững và nâng cao chất lượng dịch vụ thì mới có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, đồng thời mới đạt kết quả như mình muốn. 3. Cơ sở vật chất kĩ thuật ngành du lịch a. Cơ sở lưu trú. Hà Tây hiện có hơn 30 doanh nghiệp kinh doanh du lịch, không có các văn phòng đại diện của các doanh nghiệp du lịch lớn. Có 31 khách sạn, nhà nghỉ với 500 buồng phòng, 950 giường, 2050 chỗ ngồi phục vụ ăn uống và khoảng 2000 chỗ phục vụ hội nghị , hội thảo trong đó mới chỉ có duy nhất Khách sạn Sông Nhuệ được Tổng cục Du lịch xếp hạng 2 sao. Hệ thống cơ sở lưu trú là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch nói chung và du lịch cuối tuần nói riêng. Hầu hết tại các điểm du lịch chưa có nhà nghỉ cho khách , nếu có thì rất tồi, cơ sở thiết bị cũ kĩ, không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. bảng cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch Hà Tây Hạng mục Đơn vị 1990 1991 1992 1993 số phòng ngủ. a. Quốc tế b. Nội địa Phòng 141 150 172 190 Phòng 15 15 25 30 Phòng 126 135 147 160 Số phòng ngủ. a. Quốc tế b Nội địa Giường 480 500 532 590 Giường 30 30 32 40 Giường 450 470 500 550 phương tiện vận chuyển a. ôtô b. xuồng, ca nô. Cái 6 8 10 12 Cái 40 45 51 60 Phần lớn các khách sạn hiện có dưới dạng từ nhà khách, nhà nghỉ chuyển sang nên chưa đủ tiêu chuẩn của khách sạn du lịch. Nhìn chung, cơ sở lưu trú tại các điểm du lịch cuối tuần còn hạn chế về số lượng và chưa đủ tiêu chuẩn chất lượng. Cần xây dựng và nâng cấp các cơ sở lưu trú nhằm thu hút và lưu giữ khách. Tuy nhiên, cũng cần đa dạng hoá các loại hình lưu trú nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách. b. Cơ sở ăn uống. Hệ thống khách sạn, nhà hàng tại các điểm du lịch cuối tuần khá nhiều. Mặc dù hầu hết các điểm du lịch đều có cơ sở ăn uống. Nhưng cửa hàng của người địa phương là chủ yếu. Do vậy, các cơ sở ăn uống tại các điểm du lịch cuối tuần chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng và quan trọng hơn cả là vệ sinh an toàn thực phẩm. Tại các khách sạn nhà hàng đều có các nhà hàng và quầy Bar phục vụ khách du lịch, các khách sạn thường cung cấp cho khách thực đơn đầy đủ và phong phú các món ăn Âu, A. Ngoài ra còn cơ sở các nhà hàng ăn uống riêng biệt với các đặc sản của tỉnh nhà tạo cho du khách cảm giác đặc biệt. c. Cơ sở vui chơi giải trí . Các khu vực và hoạt động vui chơi giải trí tại các điểm du lịch tuy có đầu tư như trượt nước, biển nhân tạo tại Khoang Sanh, Ao Vua và có nâng cấp một số công viên, vườn hoa nhưng nhìn chung còn chưa phong phú. Bên cạnh đó , có sân Golf liên doanh với Thailand và Canada ở khu vực hồ Đồng Mô đã và đang trong bước được khai thác . Trong dự kiến, làng văn hoá các dân tộc Việt Nam xây dựng ở khu vực đồi Mỏ Vịt- Đồng Mô thì sẽ thêm hấp dẫn du khách. Du lịch cuối tuần là hình thức với nhiều hoạt động thể thao, giải trí ngoài trời do đó đối với hoạt động này cần được đầu tư phát triển mạnh thì mới đem lại hiệu quả cao. 4. Đầu tư: Từ năm 1996 đến năm 2000, ngành du lịch Hà Tây đã tập trung phối hợp, tham mưu, chỉ đạo xây dựng được 32 quy hoạch, dự án phát triển du lịch , trong đó có 20 dự án , quy hoạch đã được phê duyệt và triển khai hoạt động . Có một số dự án đật hiệu quả bước đầu như: dự án nâng cấp mở rộng sản phẩm du lịch tại Ao Vua, Khoang Xanh, sân golf Đồng Mô, dự án cải tạo khách sạn Sông Nhuệ, khách sạn Nhuệ Giang, dự án xây dựng khách sạn ASEAN( Hoà Lạc)... góp phần tạo lập hành lang pháp lý và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển của ngành. Toàn ngành đã có 31 khách sạn, nhà nghỉ với hơn 500 buồng , phòng, 950 giường, 2500 chỗ ngồi phục vụ ăn uống, 2000 chỗ phục vụ hội nghị, hội thảo. Vào những năm đầu của thập kỉ 90, sau khi hồ Đồng Mô- Ngải Sơn được đưa vào khai thác cho các hoạt động du lịch, nhiều công ty ở trong và ngoài nước đã tìm đến đây để thăm dò khả năng hợp tác đầu tư. Trong số những công ty này , công ty TNHH Thung Lũng Vua Thái Lan( King's Valley Corperation Thailand Ltd) đã được chọn làm đối tác với công ty du lịch Sơn Tây tỉnh Hà Tây để xây dựng dự án " sân Golf quốc tế và khu du lịch tổng hợp". Dự án này có tổng số vốn đầu tư theo giấy phép ban đầu cho dự án là $ 21.500.000 Chương trình phát triển nâng cấp các điểm du lịch cũng được chú trọng thực hiện. Các doanh nghiệp đã và đang tích cực đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng. Trong thời gian qua có nhiều sản phẩm mới được đưa và sử dụng như khu nhà nghỉ, bể bơi mới của Công ty cổ phần du lich Ao Vua, công viên nước của Công ty trách nhiêm hữu hạn Khoang Xanh - Suối Tiên, các dịch vụ vui chơi trên hồ của Công ty du lịch Sơn Tây , Công ty cổ phần du lịch Đồng Mô, sản phẩm du lịch câu cá cùng những sinh hoạt văn hoá dân gian tại Song Phương vườn. Các dự án này đã góp phần vào việc giải quyết việc làm đời sống ổ định cho hàng ngàn lao động, nâng cao dân trí của cư dân trong vùng, cải tạo môi trường sinh thái làm đẹp thêm cảnh quan trong vùng. 5. Nguồn nhân lực Đáp ứng tiêu chuẩn này theo thống kê của Sở Du lịch Hà Tây thì hiện nay du lịch cuối tuần có một đội ngũ khoảng 1200 người, trongđó 5% có trình độ đại học, cao đẳng, 54% có trình độ trung cấp, có trình độ tiếng Anh B, C và tiếng Trung Quốc, Nhật. Lao động phục vụ trong ngành du lịch chiếm 1/6 tổng lao động ở Hà Tây. Đội ngũ nhân viên du lịch cuối tuần có độ tuổi trung bình khá thấp (20-30 tuổi) trong đó 3-4% là cán bộ quản lý, 8-10% là các cán bộ giám sát, còn lại là đội ngũ nhân viên phục vụ trong tất cả các lĩnh vực còn lại của du lịch. Tóm lại, với đội ngũ lao động như vậy, Du lịch cuối tuần cũng đã đáp ứng được một phần nhu cầu của du khách nhưng chưa đạt được hiệu quả tối đa. Đào tạo và sử dụng đội ngũ lao động này phải có chính sách phù hợp tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch trước mắt và lâu dài. Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển du lịch cuối tuần tại Hà Tây 1. Định hướng phát triển Về định hướng trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2010, tập trung xây dựng các dự án, huy động nguồn vốn của các thành phần kinh tế đầu tư cho du lịch . Tổng bước hình thành các vùng du lịch trọng điểm đó là vùng Ba Vì, Sơn Tây, vùng Hương sơn- Quan Sơn, vùng Hà Đông và phụ cận với đặc điểm tự nhiên và xã hội của từng vùng tạo ra nhiều sản phẩm du lịch mới có tính đặc thù để thu hút được nhiều khách du lịch. Đặc biệt phải phát triển đa dạng hoá các loại hình như: du lịch sinh thái, du lịch lễ hội, du lịch tham quan các di tích lịch sử, văn hoá-cách mạng, đặc biệt là loại hình du lịch cuối tuần. Nhận thức rõ những lợi thế của mình, những năm qua tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đề ra những chủ trương, giải pháp để ngành du lịch phát triển. Du lịch cuối tuần luôn luôn được định hướng là một trong những loại hình du lịch quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch ở Hà Tây. Những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tạo đà cho việc phát triển những năm sau và từ dó rút ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ngành du lịch trong tỉnh. Tại đại hội đảng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35168.doc
Tài liệu liên quan