Một số giải pháp & hướng hoàn thiện việc tập hợp chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 2

Lời nói đầu Hiện nay, nhiều nhà sản xuất dược phẩm nước ngoài đã tạo ra một áp lực rất lớn đối với sản xuất trong nước. Trước tình hình đó, Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 phải tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm để đứng vững trên thị trường. Muốn làm được như vậy, một mặt xí nghiêp phải thay đổi công nghệ, nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới mặt khác phải thiết lập một hệ thống thông tin về chi phí, giá thành chính xác phù hợp. Do đó việc tổ chức và hoàn thiện công tác tập hợ

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1091 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp & hướng hoàn thiện việc tập hợp chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một điều quan trọng. Trước bối cảnh đó em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Dược phẩm TW 2” để báo cáo trong đợt kiến tập này. Dựa trên những lý luận về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, đồng thời căn cứ vào điều kiện thực tế của xí nghiệp, em đã chọn đề tài này nhằm đưa ra một số kiến nghị nâng cao chất lượng trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 phục vụ cho mục đích cuối cùng là tạo lợi nhuận lớn hơn. Chính vì vậy, trong báo cáo thực tập tổng hợp này ngoài phần lời nói đầu và kết luận, em xin trình bày ba phần chủ yếu sau: Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Phần này nêu lên lý luận chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm để làm căn cứ cho việc đưa ra những giải pháp, để làm căn cứ cho việc đưa ra những giải pháp, đề xuất về mặt lý luận . Phần 2: Thực trạng của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá tại xí nghiệp. Thông qua tìm hiểu, phần này em xin nêu lên những đặc điểm chung về xí nghiệp như lịch sử hình thành và phát triển, công tác tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh và khái quát công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong đơn vị . Phần 3: Phương pháp và giải pháp hoàn thiện Dựa trên lý luận và thực tiễn, phần này sẽ đưa ra những nhận định chung nhất về yêu cầu phải hoàn thiện phần hành kế toán này và một số kiến nghị đề xuất . Trong báo cáo này, việc trình bày được giới hạn trong những sản phẩm chủ yếu được xí nghiệp sản xuất ra tại các phân xưởng chính. Số liệu cung cấp cho việc nghiên cứu này được lấy từ tài liệu liên quan của tháng 3 năm 2002. Theo em, số liệu cá biệt của một tháng cũng có thể làm cơ sở đưa ra những nhận định tổng quát bởi mặt hàng của xí nghiệp ít có biến động lớn. Khi nghiên cứu bất kì một vấn đề gì, xác định đúng phương pháp là một phần tạo nên sự thành công. Nhận thức được điều đó, trong quá trình nghiên cứu bên cạnh việc vận dụng những phương pháp duy vật biện chứng, lôgic học em còn sử dụng biện pháp toán học, trình bảng biểu sơ đồ để đưa ra những vấn đề mang tính bản chất cần thiết. Trong một thời gian nghiên cứu tương đối ngắn với khả năng của mình em xin trình bày những vấn đề mang tính thực tiễn và lý luận. Việc trình bày trong báo cáo này còn nhiều sai sót em mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để có được những báo cáo tốt hơn ở giai đoạn sau. Em xin chân thành cảm ơn! Phần I Những vấn đề lý luận chung I-Những vấn đề lý luận về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm: I.1- Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất: Quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là quá trình đầu tư các yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm lao vụ và dịch vụ cần thiết phù hợp với mục tiêu đặt ra . Dù tồn tại dưới nhiều hình thức, nhưng tựu chung lại đầu vào cho sản xuất bao gồm: Chi phí về nguyên vật liệu, chi phí về nhân công chi phí về khấu hao tài sản cố định và các chi phí khác. Các loại chi phí này phát sinh và vận động liên tục trong mỗi giai đoạn sản xuất . Để hiểu rõ về các loại chi phí này ta cần phân biệt đâu là chi phí bỏ ra để tạo nên một giá trị sử dụng nào đó, cũng như đâu là chi phí để thực hiện giá trị của giá trị sử dụng này và chi phí nào không liên quan đến việc tạo ra giá trị sử dụng. Hay nói cách khác ta phải hiểu được thế nào là chi phí và thế nào là chi tiêu. . Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một thời kỳ nhất định. Còn chi tiêu chỉ đơn thuần là sự giảm đi về mặt giá trị của tài sản trong doanh nghiệp bất kể nó phục vụ cho mục đích gì. Nhưng chi tiêu và chi phí lại có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Nhưng có khi những khoản chi tiêu kỳ này lại không được tính vào chi phí và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa phát sinh. Như vậy ta có thể đưa ra được một cách hiểu về chi phí sản xuất như sau: Chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm và đạt được mục đích là tạo ra được sản phẩm dưới dạng có thể có. Chi phí sản xuất được hình thành do có sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào sản phẩm và được thể hiện trên hai mặt Về mặt định tính, đó là bản thân các yếu tố vật chất phát sinh tiêu hao trong quá trình sản xuất để tạo nên sản phẩm Về mặt lượng, đó là mức tiêu hao của các yếu tố thể hiện dưới nhiều thước đo khác nhau chủ yếu là thước đo tiền tệ. Hai mặt định tính và định lượng của chi phí sản xuất chịu sự chi phối của quá trình tái sản xuất và đặc điểm của sản phẩm. Như vậy các yếu tố này tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng chúng có đặc điểm chung đó là giá trị của chúng được chuyển vào giá trị sản phẩm trong quá trình sản xuất. Việc phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Với ý nghĩa đó việc phân loại chi phí sản xuất được tiến hành theo nhiều cách dựa trên những tiêu chí, cơ sở khác nhau. Mỗi cách đều phục vụ cho một mục đích cụ thể. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu được sử dụng. Phân theo yếu tố chi phí: về thực chất khi phân theo yếu tố thì chi phí có ba loại chủ yếu là chi phí lao động sống, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động. Tuy nhiên trong qua trình quản lý tuỳ vào điều kiện và yêu cầu mà việc phân chia theo yếu tố có thể chi tiết hơn nhưng cơ bản vẫn là ba yếu tố trên. Phân theo khoản mục chi phí trong gia thành sản phẩm: Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Nói tóm lại chi phí sản xuất là những hao phí mà doanh nghiệp bỏ ra phục vụ cho việc sản xuất sản phẩm. Trong quản lý và tổ chức sản xuất, chúng ta cần phải hiểu rõ chi phí về mặt bản chất cũng như hình thức biểu hiện. Từ đó đưa ra được cách phân loại phù hợp để tránh tình trạng tính sai chi phí, hoặc dùng chỉ tiêu chi phí như là một công cụ để thực hiện những hành vi phạm pháp. I.2- Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm: Trong sản xuất kinh doanh một nguyên tắc cơ bản đặt ra đó là sự bù đắp đối với những chi phí bỏ ra để có được giá trị sử dụng cung cấp cho Xã hội. Do vậy, việc sản xuất ra một sản phẩm nằm trong một giới hạn - giới hạn bù đắp. Nếu vượt qua giới hạn này doanh nghiệp tất yếu sẽ bị thua lỗ và phá sản. Xuất phát từ điều đó, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn quan tâm đến những chi phí bỏ ra để sản xuất sản phẩm, thực hiện giá trị sản phẩm từ đó có những giải pháp điều chỉnh cụ thể. Những thông tin đó đều có thể được cung cấp từ một chỉ tiêu đó là giá thành sản phẩm. Giá thành đầy đủ đơn vị sản phẩm Giá thành đơn vị sản phẩm Chi phí sản xuất của khối lượng sản phẩm hoàn thành Khối lượng sản phẩm hoàn thành Chi phí sản xuất của khối lượng sản phẩm hoàn thành Chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ khối lượng sản phẩm thực hiện Chi phí quản lý doanh nghiệp Khối lượng sản phẩm hoàn thành Giá thành đầy đủ đơn vị sản phẩm Giá thành sản phẩm được xác định như sau: Như vậy giá thành sẩn phẩm phụ thuộc vào hai yếu tố đó là chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ đã được đầu tư và lượng giá trị sử dụng biều hiện thành khối lượng sản phẩm. Đề cập tới vấn đề giá thành sản phẩm ta phải xem xét tới hai mặt vốn chứa đựng bên trong bản thân nó, đó là: Chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ là nội dung cơ bản Khối lượng sản phẩm là hình thức biểu hiện của các yếu tố vật chất mang trong nó lượng chi phí đã tiêu hao để cấu tạo nên giá thành Hình thức biểu hiện và nội dung cấu thành là hai mặt thống nhất mang tính bản chất của giá thành. Như vậy giá thành phải chăng là sự biểu hiện về mặt giá trị của một giá trị sử dụng nhất định, hay giá thành là căn cứ đánh giá cho một quá trình sản xuất cụ thể…Để giải quyết những vấn đề lý luận về giá thành, ta cần xem xét các quan điểm từ trước tới nay thông qua mặt bản chất của giá thành. Khi xét về mặt bản chất của giá thành tức là nói tới nội dung kinh tế chứa đựng bên trong chỉ tiêu này. Đã có nhiều quan điểm được trình bày. Quan điểm thứ nhất cho rằng giá thành là hao phí lao động sống và hao phí lao động vật hoá được dùng dể sản xuất và tiêu thụ một đơn vị hoặc một khối lượng sản phẩm nhất định. Theo quan điểm này, giá thành sản phẩm bao gồm hai bộ phận đầu của giá trị sản phẩm. Giá trị tư liệu sản xuất đã hao phí để sản xuất sản phẩm và giá trị sáng tạo ra cho bản thân người lao động. Như vậy quan điểm này đã cho thấy được yếu tố vật chất bên trong cấu thành nên sản phẩm và thực hiện giá trị của nó. Đồng thời cũng cho thấy chi phí sản xuất là nội dung cơ bản của giá thành sản phẩm và hạ thấp chi phí sản xuất sẽ làm giảm giá thành. Nó cũng đặt ra yêu cầu dối với quá trình sản xuất đó là tăng năng suất đồng nghĩa với hạ thấp giá thành sản phẩm.Tuy nhiên phương pháp này cũng bộc lộ những hạn chế . Nó quan niệm giá thành như một chỉnh thể thống nhất về hao phí vật chất bao gồm hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp cần bù đắp trong khi đó lượng hao phí cần bù đắp là toàn bộ các đầu vào có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tạo nên và thực hiện giá trị các đầu ra tương ứng. Nó cũng làm người ta nghĩ rằng cứ sản xuất nhiều sản phẩm thì giá thành hạ, lợi nhuận tăng. Trong khi đó, vấn đề quan trọng của sản xuất là liệu giá thành của sản phẩm tăng thêm đó có được bù đắp bởi việc thực hiện giá trị trên thị trường hay không. Quan điểm thứ hai cho rằng giá thành là toàn bộ các khoản chi phí được bù đắp bằng thu nhập bán hàng Theo quan điểm này, trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh có những loại không biến đổi và có loại lại biến đổi cùng với sự tăng giảm của lượng sản phẩm sản xuất ra. Do đó, chi phí bao gồm định phí và biến phí. Nhìn chung quan điểm này đã thể hiện đầy đủ các yếu tố vật chất tạo nên sản phẩm mà doanh nghiệp phải bù đắp. Nó cho thấy một điều là trong quá trình sản xuất, nhà quản lý phải tính toán cẩn thận các yếu tố đầu vào để sản phẩm sản xuất ra phải phù hợp với yêu cầu và giá trị có khả năng được thực hiện. Ngoài ra quan điểm này cũng chỉ ra rằng, giá thành sản phẩm không hẳn là toàn bộ các yếu tố vật chất mà có khi đó chỉ là sự đầu tư thêm chi phí khả biến để tạo ra được một lượng doanh thu tăng thêm. Nhưng quan điểm này không đi sâu vào bản chất mà chỉ chú trọng tới mặt lượng của giá thành. Đây là điểm hạn chế. Nếu chỉ tính đến mặt lượng thì ta coi giá thành như một chiếc túi đựng chi phí. Nhiều khi các khoản chi có thể không phải là yếu tố vật chất để tạo và thực hiện giá trị sản phẩm. Điều này dẫn tới tình trạng khó kiểm soát được chi phí và khó ngăn ngừa được các khoản chi tiêu bất hợp lý và thiếu lành mạnh. Quan điểm thứ ba cho rằng giá thành là biểu hiện tương quan giữa một bên là chi phí sản xuất và một bên kết quả đạt được Quan điểm này nhấn mạnh sự tương quan giữa kết quả và chi phí nên có ưu điểm là cho phép người quản lý luôn chủ độngtrong việc xác định giá thành của từng giai đoạn sản xuất nhất định. Ngoài ra quan điểm này còn hình thành một cách chi tiết, cụ thể trình tự và phương pháp hạch toán chi phí, tính giá thành. Tuy nhiên quan điểm này không thể hiện được mặt định chất dẫn đến chỗ xác định các nội dung cấu thành giá thành chưa gắn chặt với toàn bộ các yếu tố đầu vào liên quan, từ đó dẫn đến giá thành mang nặng tính chủ quan không thể hiện được bản chất vốn có của giá thành. Từ phân tích ở trên ta có thể rút ra một số nhận định về bản chất của giá thành như sau Giá thành sản phẩm là biểu hiện của sự chuyển dịch giá trị những yếu tố vật chất để hình thành và tiêu thụ sản phẩm. Để đáp ứng yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được phân chia theo nhiều góc độ khác nhau. Phân loại giá thành theo thời điểm tính và nguồn số liệu thì giá thành được chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế. Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ. Có thể nói giá thành là một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng trong công tác quản lý điều hành doanh nghiệp bởi vì : đây là một chỉ tiêu chất lượng tức là qua giá thành ta thấy được trình độ sản xuất kinh doanh và sự tiết kiệm trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào. Đồng thời đây cũng là một chỉ tiêu tổng hợp vì thông qua nó người ta có thể dánh giá trình độ tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Chính vì đặc điểm đó mà yêu cầu chính xác, tính đúng, tính đủ đối với chỉ tiêu giá thành là vô cùng quan trọng. Nếu như yêu cầu trên bị vi phạm thì giá thành sẽ không thể hiện được những chức năng cơ bản của mình: chức năng bù đắp, chức nănglập giá, chức năng đòn bẩy kinh tế Như vậy chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành là hai khái niệm riêng biệt. Chi phí sản xuất luôn gắn liền với thời kỳ phát sinh chi phí còn giá thành gắn với khối lượng công việc, lao vụ hoàn thành; Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến sản phẩm hoàn thành trong kỳ mà còn liên quan tới sản phẩm dở dang, sản phẩm hỏng, trong khi đó giá thành chỉ liên quan tới sản phẩm hoàn thành; Chi phí sản xuất là những chi phí mà thực tế doanh nghiệp phải bỏ ra trong một giai đoạn sản xuất nhất định. Nó không bao gồm chi phí chi ra của kỳ trước phân bổ cho kỳ này và chi phí phải trả của kỳ này kỳ sau mới phát sinh. Nhưng nó lại bao gồm chi phí trả trước của kỳ này phân bổ cho kỳ sau và chi phí phải trả của kỳ trước kỳ này mới phát sinh. Ngược lại giá thành chỉ liên quan đến chi phí phải trả trong kỳ và chi phí trả trước được phân bổ trong kỳ. Tuy nhiên chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chúng đều phản ánh những hao phí bằng tiền để hình thành nên sản phẩm. Việc thiết lập nên giá thành phải căn cứ vào cơ sở của nó là chi phí sản xuất. Nói tóm lại, từ những quan điểm và sự phân tích ở trên em xin đưa ra kết luận như sau. Chi phí sản xuất là toàn bộ những hao phí bỏ ra để hình thành nên sản phẩm hàng hoá. Chi phí sản xuất được hình thành trên cơ sở sự chuyển dịch giá trị của của các yếu tố vật chất vào sản phẩm thông qua quá trình sản xuất và tiêu thụ. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu thể hiện toàn bộ khoản hao phí có liên quan đến khối lượng sản phẩm hoàn thành. Dường như giá thành là một “công cụ” để bù đắp chi phí hợp lý hình thành nên không chỉ sản phẩm đó mà còn của sản phẩm. Chính vì vậy phân loại chi phí và giá thành một cách hợp lý là một điều mang tính bản chất của quá trình quản lý. Đồng thời việc đặt ra yêu cầu về tính chính xác trong tập hợp chi phí và tính giá thành là một yêu cầu tất yếu. Nhưng để thực hiện được những điều đó mỗi doanh nghiệp phải có một trình tự hay phương pháp hạch toán thích hợp dựa trên những cơ sở lý luận khoa học. II-Những vấn đề lý luận về phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: II.1 Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính xác, kịp thời, đòi hỏi công việc đầu tiên các nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, phân xưởng…và giai đoạn tính giá thành chi tiết từng sản phẩm hoàn thành. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý, kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có thể nói, việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất và sản phẩm hoàn thành cần tính giá cho một đơn vị. Như vậy xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần dựa vào các cơ sở sau: Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Với sản xuất giản đơn : đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất hoặc có thể là nhóm sản phẩm. Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng. Với sản xuất phức tạp: đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm… Còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm. Loại hình sản xuất: đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ : đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn vị. Đối với sản xuất hàng loạt có khối lượng lớn: phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ sản phẩm…Còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm. Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Như vậy, việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm II.2- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: Do có sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa hai phương pháp hạch toán chi phí và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm…Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chi phí ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của phương pháp này biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau, phương pháp hạch toán và tính nhập chi phí vào giá thành sản phẩm cũng khác nhau. Khi phát sinh, trước hết chi phí sản xuất được biểu hiện theo yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản mục giá thành sản phẩm. Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời được. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm của từng nghành nghề, từng doanh nghiệp, vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán… Tuy nhiên, có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau: Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng. Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các nghành SX – KD cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ giá thành đơn vị lao vụ. Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi chí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan. Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tỉnha tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà nội dung, cách thức hạch toán chi phí sản xuất có những điểm khác nhau. Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Về cơ bản, phương pháp tính giá thành bao gồm phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp tỷ lệ…Việc tính giá thành sản phẩm trong từng doanh nghiệp cụ thể, tuỳ thuộc vào đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành mà có thể áp dụng một trong các phương pháp nói trên hoặc áp dụng kết hợp một số phương pháp với nhau. Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn): Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác (quặng, than, gỗ…). Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính bằng cách trực tiếp lấy tổng số chi phí sản xuất cộng (+) hoặc trừ (-) số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ so với cuối kỳ chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành. Phương pháp tổng cộng chi phí: áp dụng với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí xuất các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm. Phương pháp hệ số: Phương pháp hệ số được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết, kế toán căn cứ vào hệ số quy đổi để quy các sản phẩm về sản phẩm gốc, từ đó, dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm. Phương pháp tỷ lệ: Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo (dụng cụ, phụ tùng),… để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch (hoặc định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng loại. Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được các sản phẩm phụ (các doanh nghiệp chế biến đường, rượu, bia, mỳ ăn liền…), để tính giá trị sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như giá có thể sử dụng, giá trị ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu… Phương pháp liên hợp: Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, như các doanh nghiệp sản xuất hóa chất, dệt kim , đóng giầy, may mặc… Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp phương pháp thực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ… Phần II Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 I – Những đặc điểm chung về Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 I.1- Lịch sử hình thành và phát triển của Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 XN Dược phẩm TW 2 tiền thân là Xưởng Dược Quân đội 6-1. Nhiệm vụ chính của Xưởng là sản xuất thuốc phục vụ quân đội. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của đất nước, đồng thời chấp hành chủ chương của Đảng, Bộ Quốc phòng đã ban hành Quyết định ngày 07/01/1960 bàn giao Xưởng Dược Quân đội 6-1 sang Bộ Y tế và đổi tên thành Xí nghiệp Dược phẩm 6-1. Ngày 30/12/1960, Xí nghiệp đổi tên thành Xí nghiệp Dược phẩm số 2 thuộc Tổng công ty Dược Việt Nam. Với những thành tích trong sản xuất cũng như trong chiến đấu, ngày 29 tháng 9 năm 1985, Xí nghiệp Dược phẩm số 2 đã vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lao động. Cũng trong thời gian này, Xí nghiệp được đổi tên thành Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 với tên giao dịch là DOPHAMAR. Theo Quyết định số 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 7/5/1992 Xí nghiệp được công nhận là doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tự bù đắp thu chi và tuân theo những nguyên tắc của chế độ hạch toán kế toán. Với đặc thù sản xuất trong lĩnh vực sản phẩm thuốc, quy trình chế biến đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu cụ thể về chất lượng, thành phần, tỷ lệ, bảo quản… Xí nghiệp không ngừng trang bị về máy móc thiết bị, nâng cao trình độ tay nghề của cán bộ công nhân viên. Chính vì những nỗ lực đó sản phẩm của Xí nghiệp liên tục được đánh giá là hàng Việt Nam chất lượng cao, thị trường của Xí nghiệp ngày càng được mở rộng. Hiện nay sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp là các loại thuốc tiêm, thuốc viên, dịch chuyền, cao xoa, hoá chất và một số thuốc gây nghiện, có độc tính cao được quản lý sản xuất theo chương trình của Nhà nước. Sản lượng tiêu thụ hàng năm của Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 chiếm 20% tổng sản lượng của 20 thành viên trực thuộc Tổng Công ty Dược, xứng đáng là một trong những đơn vị đầu ngành của ngành Dược Việt Nam. Xí nghiệp luôn phấn đấu kết hợp hài hoà ba lợi ích: Lợi ích xã hội, lợi ích Xí nghiệp và lợi ích của cán bộ công nhân viên, đồng thời đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, nộp ngân sách đầy đủ, sản xuất kinh doanh có lãi, có tích luỹ nội bộ, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của anh chị em công nhân viên. Kết quả tổng hợp thực tế của Xí nghiệp được thể hiện dưới biểu sau: Biểu số 1: Kết quả sản xuất kinh doanh trong ba năm 1999,2000,2001 Đơn vị: 1000 đồng Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Doanh thu 77.500.000 70.500.000 80.200.000 Chi phí 76.808.000 69.588.000 79.185.000 Lãi thuần 692.000 912.000 1.015.000 Nộp ngân sách 2.100.000 1.300.000 1.185000 Số lao động 550 510 510 Thu nhập bình quân 750 850 950 Tổng vốn kinh doanh 18.125.000 18.125.000 18.125.000 Qua bảng tổng hợp trên, ta nhận thấy doanh thu năm 2000 giảm so với năm 1999. Nguyên nhân là vì từ năm 98-99 Nhà nước có chủ chương lấy lại 1258m2 đất trong khu vực Xí nghiệp đang sản xuất. Vì vậy, trong năm 2000 Xí nghiệp phải có phương án hoàn thiện như : xây dựng lại kho tàng, nhà xưởng ..., đồng thời phải ngừng sản xuất một thời gian. Do đó, đã làm ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Tuy nhiên, giá cả trên thị trường biến đổi theo hướng có lợi cho Xí nghiệp chính vì thế lợi nhuận năm 2000 cao hơn năm trước. Chính vì kết quả kinh doanh đó, thu nhập bình quân đầu người của cán bộ công nhân viên trong toàn Xí nghiệp đã có những bước tăng đáng kể theo từng năm. Nguyên nhân của tình hình giảm số phải nộp Ngân sách là ở chỗ, từ năm 2000 Xí nghiệp được Nhà nước tính toán lại số tiền thuê đất bằng cách giảm tỷ lệ thuế suất. Nhờ thế Xí nghiệp đã giảm mỗi năm trên dưới 200 triệu đồng tiền thuế. Với truyền thống của một đơn vị Anh hùng, Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 đảng sức phấn đấu thi đua để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, từ đó góp phần nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, tăng nguồn thu cho Ngân sách. I.2- Đặc điểm quy trình công nghệ và tổ chức kinh doanh: Xí nghiệp Dược phẩm TW 2 có 4 phân xưởng, trong đó có ba phân xưởng sản xuất chính và một phân xưởng sản xuất phụ. Phân xưởng thuốc tiêm: Bao gồm hai quy trình sản xuất chính: ống rỗng Cắt ống ủ ống Kiểm tra đóng gói Pha chế Rửa ống Nguyên vật liệu Đóng gói Hàn soi in ống Giao nhận Đóng gói, hộp Sơ đồ số 1: Quy trình sản xuất thuốc tiêm ống 1ml Sơ đồ số 2: Quy trình sản xuất thuốc tiêm ống 2ml, 250ml, 500ml Đóng gói ống rỗng Rửa ống Pha chế Đóng gói hộp Giao nhận Kiểm tra đóng gói Hàn soi in ống Qua hai sơ đồ trên ta có thể khái quát trình tự sản xuất ở phân xưởng thuốc tiêm như sau: Ban đầu từ các loại ống rỗng được Xí nghiệp đặt hàng từ Nhà máy thuỷ tinh Phả Lại Tổ cắt sẽ định dạng ống tiêm cho phù hợp với yêu cầu hàm lượng thuốc tương ứng. Tiếp theo Tổ rửa ống thực hiện việc rửa, hấp, làm sạch ống trước khi đóng thuốc. Để kiểm tra độ bền của lọ đựng thuốc Tổ ủ ống tiêm tiến hành khử ứng lực ống tiêm nhằm loại bỏ những vỏ không đạt yêu cầu. Sau khi pha chế thuốc theo đúng hàm lượng, tỷ lệ yêu cầu Tổ pha chế đưa vào các ống, lọ theo từng đợt sản xuất, lô sản xuất. Sản phẩm sau đó được chuyển qua Tổ soi in để tiến hành soi các ống thuốc tiêm nhằm loại bỏ các ống không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng trước khi in nhãn mác. Quá trình được tiếp tục khi Tổ kiểm tra đóng gói thực hiện việc đóng gói thuốc vào từng lô, hộp riêng. Tổ giao nhận sẽ tiến hành kiểm nhận các lô hành từ khâu trước chuyển đến, cho vào kho hoặc chuyển sang khâu tiếp theo. Cuối cùng, Tổ đóng gói thành phẩm sẽ đóng bao bì bên ngoài các kiện lớn. Với hai quy trình sản xuất trên Phân xưởng thuốc tiêm đã sản xuất các loại thuốc tiêm, dịch truyền. Như: Vitamin, thuốc kháng sinh, thuốc bổ, giảm đau, Glucoza 30%, … Phân xưởng thuốc viên: Giống như phân xưởng thuốc tiêm, phân xưởng này cũng bao gồm hai quy trình sản xuất chính sau: Sơ đồ số 3: Quy trình sản xuất thuốc viên nén Nguyên vật liệu Xay rây Pha chế Dập Đóng gói Kiểm tra Giao nhận Đóng gói sản phẩm Đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0475.doc
Tài liệu liên quan