Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội

Tài liệu Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội: LỜI GIỚI THIỆU Lý do chọn đề tài - Có nhiều cách thức để nâng cao năng lực cạnh tranh nhưng cắt giảm chi phí là biện pháp phù hợp nhất với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội là một doanh nghiệp mới ra nhập thị trường, số vốn không lớn và kinh nghiệm chưa nhiều, do đó cắt giảm chi phí là chiến lược được lựa chọn trong giai đoạn hiện nay - Gần đây, chi phí sản xuất liên tục tăng do nhiều nguyên nhân đặc biệt là tình hình lạm phát. Vì vậy, em ... Ebook Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2055 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội ” là nội dung báo cáo thực tập của mình. Mục tiêu nghiên cứu - Báo cáo này tập trung nghiên cứu và đánh giá các loại chi phí sản xuất. - Báo cáo này nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao hiểu biết bằng cách dùng lý luận soi sáng những vấn đề thực tiễn. - Thấy được những nguyên nhân gây ra thiếu sót trong vấn đề cắt giảm chi phí hàng may mặc. Từ đó, đề ra một số giải pháp giúp công ty khắc phục những hạn chế và yếu kém đó. Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu các loại chi phí sản xuất trực tiếp và gián tiếp hình thành nên giá bán sản phẩm. - Không đề cập đến chi phí trong quá trình lưu thông và phân phối sản phẩm. Giả thiết - Đứng trên quan điểm của một nhà quản lý - Sản phẩm của hoạt động sản xuất là sản phẩm hữu hình, không phải dịch vụ. - Chỉ phân tích các yếu tố chi phí sản xuất cấu thành nên sản phẩm Phương pháp nghiên cứu - Phân tích, tổng hợp các thông tin dữ liệu sơ cấp và thứ cấp. - Điều tra (quan sát, phỏng vấn… ) - Sử dụng các mô hình kinh tế và những lý thuyết cơ bản về thị trường. Nội dung nghiên cứu: Gồm 3 chương - Chương I: Cơ sở lý luận về việc cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc - Chương II: Thực trạng cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương Mại Intimex Hà Nội - Chương III: Một số giải pháp nhằm cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CẮT GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT HÀNG MAY MẶC I. CHI PHÍ SẢN XUẤT Khái niệm và đặc điểm 1.1 Khái niệm Sản xuất gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của loài người. Quá trình sản xuất là sự kết hợp của 3 yếu tố cơ bản: đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động sống. Lao động là hoạt động một cách có ý thức của người lao động tác động một cách có mục đích lên đối tượng lao động và tư liệu lao động, qua quá trình biến đổi sẽ tạo ra sản phẩm, lao vụ. Đó chính là sự tiêu hao ba yếu tố trên. Trong xã hội tồn tại quan hệ hàng hóa - tiền tệ, hao phí yếu tố nguồn lực cho sản xuất, kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức giá trị, gọi là chi phí sản xuất, kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra, có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm) để thực hiện quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Thực chất, chi phí là sự dịch chuyển vốn, dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Chi phí về lao động sống là những chi phí về tiền lương, thưởng, phụ cấp và các khoản trích theo lương của người lao động. Chi phí lao động vật hóa là những chi phí về sử dụng các yếu tố tư liệu lao động, đối tượng lao động dưới các hình thái vật chất, phi vật chất, tài chính và phi tài chính. 1.2 Đặc điểm Chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản hao phí vật chất được tính bằng tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, có đặc điểm là luôn vận động mang tính đa đạng và phức tạp gắn liền với tính đa dạng, phức tạp của ngành nghề sản xuất, qui trình sản xuất. Quá trình sản xuất hàng hóa là quá trình kết hợp và tiêu hao của 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan. Ở đây, chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí được tập hợp để tạo nên giá trị và giá thành sản phẩm. Nó khác với các chi phí của doanh nghiệp bởi - Chi phí là toàn bộ số tiền hay những giá trị vật chất và thời gian hao phí cho hoạt động của một tổ chức, một doanh nghiệp. Nó không chỉ là những giá trị hình thành nên giá cả của một loại sản phẩm, dịch vụ nào đó mà còn bao gồm những chi phí phi vật chất và toàn bộ chi phí nằm ngoài giá cả. Đó là chi phí thuế quan, những chi phí tài chính cho việc huy động vốn từ ngân hàng và những chi phí khác nữa. -Việc tính toán chi phí sản xuất là phương pháp xác định giá trị và giá cả của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Đây là căn cứ khoa học để hình thành nên giá bán - Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, chi phí của doanh nghiệp còn bao gồm những chi phí liên quan đến quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá. Đó là các chi phí thủ tục hải quan, những chi phí vận chuyển hàng bằng tầu biển, chi phí bảo hiểm hàng hoá (nếu có) … Những chi phí này hình thành nên giá bán sản phẩm theo đơn giá của hàng xuất khẩu. - Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ đã phát sinh ra chúng. - Chi phí phát sinh trong doanh nghiệp được phân thành các yếu tố chi phí, có cùng một nội dung kinh tế, chúng không nói rõ địa điểm và mục đích bỏ ra chi phí. - Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm còn đang dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Các yếu tố hình thành chi phí sản xuất Phần này tham khảo từ: Nathan S.lavin - Kế toán chi phí – Nhà xuất bản Thống kê – năm 1994, tr. 16-18. Xuất phát từ đặc điểm của chi phí và quá trình hình thành chi phí, chi phí sản xuất được tạo nên từ một số thành tố cơ bản sau: Nguyên vật liệu trực tiếp Lao động trực tiếp Sản xuất chung Với nhiệm vụ là định nghĩa và nhận biết ba yếu tố chi phí cơ bản chiếm tỷ trọng trong sản phẩm. Chúng được gọi là chi phí sản phẩm Nguyên vật liệu trực tiếp Nguyên vật liệu trực tiếp là những yếu tố vật chất tạo nên thành phần chính của sản phẩm. Nguyên liệu trực tiếp được nhận diện một cách dễ dàng trong sản phẩm vì nó tượng trưng cho đặc tính dễ thấy nhất của sản phẩm được sản xuất ra. Nguyên vật liệu sản xuất may là vải vóc, tơ tằm, …Phần lớn sản phẩm thường gồm nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau. Tuy nhiên việc sản xuất ra sản phẩm cũng bao gồm những loại chi phí nằm ngoài chi phí sản xuất trực tiếp. Đó là các chi phí gián tiếp cấu thành nên sản phẩm. Lao động trực tiếp Là toàn bộ người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp. Họ trực tiếp biến đổi nguyên vật liệu thành sản phẩm hữu dụng. Thông thường những lao động này trực tiếp xử lý nguyên vật liệu bằng tay hoặc sử dụng công cụ máy móc thiết bị phục vụ cho việc sản xuất sản phẩm. Lao động trực tiếp ở các xưởng may là những công nhân đứng máy may hay là những công nhân trực tiếp cắt vải bằng tay với dụng cụ hỗ trợ là các loại kéo và nguyên liệu là phấn kẻ đường. Sản xuất chung Là toàn bộ những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm, sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đó là chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp và chi phí phân xưởng khác. - Nguyên vật liệu gián tiếp: Là những yếu tố vật chất không tạo nên thành phẩm chính của sản phẩm, hoặc nếu có thì chúng cũng không phải là những yếu tố quan trọng và chủ yếu tạo nên sản phẩm. Thí dụ: nhiên liệu dùng trong chạy máy móc sản xuất của các xưởng may. Một thí dụ khác là chỉ dùng để kết nối các bộ phận cấu thành nên một sản phẩm cũng là chi phí sản xuất chung bởi chi phí của chúng nhỏ hơn rất nhiều chi phí nguyên vật liệu chính (vải). - Lao động gián tiếp: Là các chi phí tiền lương của tất cả các lao động không trực tiếp tham gia sản xuất sản phẩm. Lao động gián tiếp bao gồm giám sát viên, nhân viên bảo vệ phân xưởng, thợ sửa chữa và bảo trì máy. Tóm lại, lao động gián tiếp có nhiệm vụ hỗ trợ cho việc vận hành sản xuất của lao động trực tiếp. Lực lượng này bao gồm toàn bộ nhân viên làm việc trong các phòng ban của một công ty sản xuất: phòng tổ chức hành chính, phòng kế toán, phòng kinh doanh, bộ phận kỹ thuật…. - Các chi phí phân xưởng khác: Nhóm này bao gồm những chi phí cần thiết khác để vận hành phân xưởng. Chí phí này bao gồm chi phí thuê phân xưởng, chi phí khấu hao máy móc thiết bị, chi phí điện nước, chi phí động lực, chi phí bảo hiểm chống cháy và chống trộm. 3. Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm Có nhiều cách phân loại chi phí sản xuất như: phân loại theo mối quan hệ với sản phẩm, phân loại chi phí theo quá trình mô tả các hoạt động sản xuất, theo hoạt động chức năng. Tuy nhiên để xem xét vấn để dựa trên quan điểm của một nhà quản lý chi phí, em phân loại theo các khoản mục chi phí. Cách phân loại này thuận tiện cho việc tính giá thành sản phẩm, cung cấp thông tin về các khoản mục chi phí cho các nhà quản trị để từ đó có thể đưa ra những quyết định quản lý như giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm hay giá bán thành phẩm. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất bao gồm 5 khoản mục chi phí. Đó là: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào sản xuất, chế tạo ra sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí này bao gồm lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn Chi phí sản xuất chung Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất( trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp). Chi phí bán hàng Là khoản chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Chi phí bán hàng gồm các khoản mục chi phí sau: tiền lương,các khoản phụ cấp lương phải tra cho nhân viên bán hàng, bảo hiểm, kinh phí công đoàn,hoa hông đại lý, hao hông môi giới, tiếp thị, đóng gói, vận chuyển, bảo quản , khấu hao tài sản cố định, chi phí mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác của bộ phận bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Là các khoản chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan đến toàn bộ doanh nghiệp. Chi phí này bao gồm các khoản mục chi phí sau: tiền lương và các khoản phụ cấp phải trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý, bảo hiểm, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định tính trên tiền lương của nhân viên quản lý, chi phí vật liệu, đồ dùng văn phòng, khấu hao tài sản cố định dùng chung cho toàn bộ doanh nghiệp và các chi phí khác bằng tiền dung chung cho toàn bộ doanh nghiệp như chi phí tiếp tân, khánh tiết. Như vậy, chỉ tiêu chi phí sản xuất là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng, qua chỉ tiêu này ta có các thông tin về tình hính dụng lao động, tư liệu sản xuất, nguồn vốn doanh nghiệp. Khi chi phí sản xuất được quản lý chặt chẽ cũng đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả sử dụng của các yếu tố đầu vào. Điều này động nghĩa với việc doanh nghiệp đã giảm được chi phí, giảm giá thành sản phẩm và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Mặt khác, việc hạch toán chi phí sản xuất kịp thời chi phí sản xuất kịp thời, trung thực và hợp lý sẽ giúp cho nhà quản trị có những quyết định sáng suốt trong sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, yêu cầu quản lý chi phí sản xuất là một yếu tố mang tính khách quan và rất quan trọng. Nó là một trong số những yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. II. CẮT GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT 1. Khái niệm và nội dung 1.1 Khái niệm Cắt giảm chi phí là cách thức mà một doanh nghiệp tiến hành nhằm giảm thiểu những giá trị đầu vào trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường cùng ngành. Việc cắt giảm chi phí là một quá trình diễn ra lâu dài và rất phức tạp. Chi phí phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố chủ quan và những yếu tố khách quan mà bản thân mỗi doanh nghiệp không thể khống chế được bởi tính biến động không ngừng của nó. Chi phí luôn ở trạng thái “động”. Do đó, doanh nghiệp muốn thành công trong hoạt động này cần phải có tiềm lực mạnh với quyết tâm cao, đồng thời phải không ngừng nắm bắt kịp thời các thông tin mới nhất trên thị trường để có những quyết sách phù hợp với điều kiện thực tiễn. Cắt giảm chi phí là một hoạt động vô cùng cần thiết và hữu ích cho mỗi doanh nghiệp nếu muốn tồn tại trên thị trường và giữ được chỗ đứng. Cắt giảm chi phí làm hạ giá bán sản phẩm trên thị trường và tiến tới nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh sản phẩm cao sẽ hứa hẹn đem lại khoản doanh thu và lợi nhuận kếch xù thông qua cạnh tranh về giá bán. Tuy nhiên không phải công ty nào cung có thể làm tốt công tác này. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, mỗi một doanh nghiệp lại có những chiến lược kinh doanh khác nhau. Do vậy, tuỳ thuộc vào các yếu tố cạnh tranh và đặc biệt là những yêu cầu của thị trường mà doanh nghiệp có những cách ứng xử phù hợp để đưa ra những chiến lược phù hợp cho từng giai đoạn phát triển nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh. Việc cắt giảm chi phí là luôn phải gắn liền với hiệu quả kinh tế tài chính của công ty và phải nằm trong khuôn khổ luật pháp. Có thể nói rằng: cắt giảm chi phí là con dao hai lưỡi. Một mặt, hoạt động này là tăng năng lực cạnh tranh giúp tăng lợi nhuận cho công ty và có thể phục vụ tốt nhất cho lợi ích của cán bộ công nhân viên nhằm tạo động lực cho sản xuất và tăng năng suất lao động chung trong mỗi doanh nghiệp. Công ty có thể cắt giảm các chi phí không cần thiết như chi phí điện nước hay chi phí nguyên vật liệu bằng cách tìm nhà cung cấp mới có giá rẻ hơn, sử dụng nguyên liệu tái chế nhưng vẫn phải đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng. Một mặt, bằng cách này hay cách khác công ty có thể bất chấp thủ đoạn để trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước, thiếu trách nhiệm, thực hiện các hành vi bất hợp pháp thông qua việc trốn thuế, mua những nguyên vật liệu lậu để giảm chi phí sản xuất một cách đáng kể. Hành động này cần được lên án để ngăn chặn kịp thời. Nội dung của việc cắt giảm chi phí sản xuất. Hoạt động sản xuất luôn diễn ra một liên tục để đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu thị trường theo đúng tiến độ. Cắt giảm chi phí cũng phải được tiến hành song song. Việc cắt giảm chi phí phải được thực hiện một cách nghiêm túc và chặt chẽ để đảm bảo tránh thất thoát và đạt hiệu quả cao. Chi phí sản xuất là tập hợp của nhiều yếu tố chi phí, vịêc cắt giảm chi phí cũng phải tiến hành trên các khoản mục sau: Cắt giảm chi phí nguyên vật liệu Nguyên vật liệu là yếu tố vật chất đầu vào trong mọi quá trình sản xuất. Nó là thành phần chính của sản phẩm. Sản phẩm của ngành sản xuất hàng may mặc là quần, áo, váy, đầm, mũ…. Những sản phẩm này có thể được tạo nên từ chất liệu như: vải, sợi, len, da, lông thú…. Ngoài ra còn có chỉ, cúc, khoá…. Đây là những nguyên liệu chính cấu thành nên dáng hình sản phẩm. Nếu không có chúng thì quá trình sản xuất không thể xảy ra. Do đó, nguyên vật liệu có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hính thành nên sản phẩm . Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí hình thành nên giá cả thành phẩm. Bởi vậy, giảm chi phí nguyên vật liệu là một nội dung mà các doanh nghiệp quan tâm và tìm kiếm phương thức thực hiện hiệu quả. Cắt giảm chi phí nguyên vật liệu doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được một khoản tiền để chi trả cho những hoạt động cần thiết. Cắt giảm chi phí nhân công Đảng đã khẳng định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa. Tuy nhiên, từ ý tưởng trên đi tới đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện là cả một cuộc trường chinh gian khổ cho chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động. Hiện nay, khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần, doanh nghiệp đang đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ và nhờ cậy vào tài nguyên, môi trường sáng tạo ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người. Song doanh nghiệp đang vấp phải 3 trở lực lớn: chất lượng còn thấp về nguồn nhân lực, sự bất cập lớn của kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuât, năng lực quản lý hẫng hụt nhiều mặt. Vấn đề con người luôn được doanh nghiệp quan tâm. Do đó, để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì cần phải quan tâm đến đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm phát huy nội lực tối đa và giảm chi phí một cách lâu dài. Cắt giảm chi phí sản xuất chung Hoạt động sản xuất là hoạt động diễn ra thường xuyên và bao gồm rất nhiều yếu tố sản xuất. Đây là yếu tố phục vụ một cách đắc lực cho quá trình sản xuất sản phẩm có thể được thực hiện với tốc độ nhanh và mang tính khoa học. Nó kết hợp sức lao động của con người và sự sẵn có của nguyên vật liệu để trợ giúp cho hoạt động sản xuất của công ty. Toàn bộ chi phí mua máy móc và trang thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất đều được coi là những chi phí sản xuất chung. Việc cắt giảm chi phí sản xuất chung đòi hỏi các doanh nghiệp cần cân nhắc thật kỹ càng bởi nó có liên quan một cách mật thiết với năng suất lao động. Tuy nhiên tiết giảm chi phí này lại có thể nhanh chóng nâng cao sưc cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường và luôn có cơ hội để tìm kiếm một thị trường mới tiềm năng hơn. 1.2.4 Cắt giảm chi phí bán hàng Mục đích cuối cùng của mỗi doanh nghiệp là bán được hàng để đem lại doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Hoạt động bán hàng được triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu đưa sản phẩm hàng hoá đến tận tay của người tiêu dùng có nhu cầu sử dụng. Là khoản chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Là Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và thương mại, một trong nỗi bận tâm của chủ doanh nghiệp là làm sao quản lý sát sao tình hình kinh doanh với các số liệu về kho hàng (nhập, xuất, tồn kho) và tình hình công nợ của từng khách hàng. Nếu thực hiện việc quản lý trên bằng ghi sổ sách thủ công, sẽ làm mất rất nhiều thời gian và công sức, đôi khi còn bị thất thoát về mặt tài chính. Quản lý bán hàng trong các doanh nghiệp là công việc quan trọng, đòi hỏi bộ phận quản lý phải tiến hành nhiều nghiệp vụ phức tạp. Các nghiệp vụ càng phức tạp thì lượng chi phí bỏ ra ngày càng nhiều và khó dự báo. Giảm chi phí bán hàng là giảm thiểu cơ bản những tổn thất không đáng có trong các nghiệp vụ bán hàng nhằm tiết kiệm một khoản chi phí nhất định. Cắt giảm chi phí quản lý doanh nghiệp Là những khoản chi phí có tính nhạy cảm nhất và dễ tác động để hoàn thành chiến lược của công ty. Nó bao gồm toàn bộ chi phí của khối quản lý và điều hành doanh nghiệp. Đó là: Chi phí quảng cáo, khuyến mại, chi phí giao dịch, đối ngoại (không bao gồm: Chi phí nghiên cứu thị trường: thăm dò, khảo sát, phỏng vấn, thu thập, phân tích và đánh giá thông tin; chi phí phát triển và hỗ trợ nghiên cứu thị trường; chi phí thuê tư vấn thực hiện công việc nghiên cứu, phát triển và hỗ trợ nghiên cứu thị trường; Chi phí trưng bày, giới thiệu sản phẩm và tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại: chi phí mở phòng hoặc gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm; chi phí thuê không gian để trưng bày, giới thiệu sản phẩm; chi phí vật liệu, công cụ hỗ trợ trưng bày, giới thiệu sản phẩm; chi phí vận chuyển sản phẩm trưng bày, giới thiệu); Chi tiếp tân, khánh tiết, chi hoa hồng môi giới, chi phí hội nghị; Chi phí hỗ trợ tiếp thị, chi hỗ trợ chi phí, chi phí chiết khấu thanh toán (kể cả chi bằng tiền cho đại lý và người mua hàng hoá, dịch vụ với khối lượng lớn); Chi báo biếu, báo tặng của các cơ quan báo chí và các loại chi phí khác phần vượt quá 10% tổng số các khoản chi phí hợp lý. Đối với hoạt động kinh doanh thương mại chi phí hợp lý để xác định mức khống chế không bao gồm giá vốn của hàng hoá bán ra. Do vậy, doanh nghiệp phải có những chính sách thích hợp cắt giảm khoản mục chi phí này để đạt múc tiết kiệm chi cho các hoạt động cần thiết hơn. Sự cần thiết phải cắt giảm chi phí sản xuất 2.1 Chi phí sản xuất cao do lạm phát “Hiện tượng lạm phát là căn bệnh cố hữu của mọi nền kinh tế đang có tốc độ tăng trưởng dương, để khắc phục hiện tượng này, trước hết ta phải phân tích được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gây ra nó” . Bởi vì, lạm phát luôn luôn là kết quả của sự tác động tổng hợp của các yếu tố kinh tế khác nhau, và thường thì rất khó nhận ra đâu là nguyên nhân chủ yếu, nên việc chống lạm phát thường gặp nhiều khó khăn. Từ sự phân tích đúng đắn này, ta mới có thể đề ra các giải pháp quản lí, sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô (bao gồm: chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu nhập) phối hợp thực hiện một cách đồng bộ với nhau nhằm tạo ra một tác động tổng hợp kiềm chế lạm phát ở mức độ vừa phải, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển một cách bền vững. Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên nhân sau: do gia tăng tiền lương danh nghĩa, tăng giá nguyên-nhiên-vật liệu,… Do chi phí sản xuất tăng nên doanh nghiệp buộc phải tăng giá sản phẩm nhằm bảo đảm lợi nhuận. Ở Việt Nam, để tính lạm phát, người ta chỉ dùng " chỉ số giá tiêu dùng". Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng so sánh giữa năm sau và năm trước. (Năm trước tính là 100) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tốc độ tăng tỷ lệ lạm phát 100 103,9 103,1 107,8 108,3 107,5 126,3 (Nguồn: Tổng cục thống kê ) Giá tiêu dùng năm nay diễn biến phức tạp và có xu hướng tăng cao ở các tháng cuối năm. So với tháng 12 năm 2006, giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,63%, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 18,92%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 17,12%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng từ 1,69% đến 7,27%. Giá tiêu dùng bình quân năm 2007 so với năm 2006 tăng 8,3%, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 11,16%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 11,01%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác chỉ tăng 3,18-6,15%. Giá nguyên liệu sản xuất phôi thép trên thế giới năm nay tăng 65% so với năm trước; mỗi tấn thép tiêu hao khoảng 40 lít dầu. Điều này khiến cho hàng loạt nhà máy xí nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản do lượng hàng tiêu thụ giảm sút do giảm cầu tiêu dùng. Vấn để đặt ra cho các doanh nghiệp trong giai đoạn này là làm sao có thể bình ổn được giá cả sản phảm để nhanh chóng lấy lại thị trường tiêu thụ đã tuột khỏi tay với do sự tăng giá của hàng hoá xã hội nói chung và sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng. Bỏi vậy, các doanh nghiệp cần thạưc hiện các biện pháp cắt giảm chi phí để bù đắp cho tình trạng lạm phát hiện nay. 2.2. Yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh từ việc gia nhập WTO Gia nhập WTO, chúng ta sẽ được bình đẳng tham gia thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư và hàng hóa, dịch vụ sẽ không bị phân biệt đối xử, sẽ dỡ bỏ được nhiều rào cản và được hưởng những ưu đãi dành cho thành viên WTO. Các doanh nghiệp Việt Nam khá năng động và chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi. Vượt qua được thách thức của sự cạnh tranh, Việt Nam sẽ tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam sẽ dùng lương, dùng các chính sách ưu đãi để thu hút lao động, nhất là lao động có năng lực về làm việc cho mình. Thách thức này đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải có chiến lược đào tạo, có cơ chế phù hợp nhằm “chiêu hiền đãi sĩ”, để giữ lao động. Đồng thời, phải có những đổi mới trong cách quản lý. Xu thế hiện nay, Nhà nước tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách và kiểm tra việc thực hiện luật, chính sách đó; chuyển quyền quản lý trực tiếp cho các hiệp hội ngành hàng, tạo điều kiện bảo vệ được ngành hàng và hợp tác liên kết cùng phát triển. Bản thân việc gia nhập WTO không làm Việt Nam giàu lên hay nghèo đi mà chỉ là tạo cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội thì sẽ phát triển, vượt qua đựơc thách thức thì sẽ tạo thêm cơ hội mới. Bởi vậy, đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các bộ, ngành, các địa phương, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam, tạo sức mạnh nội lực lớn hơn để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Khả năng cạnh tranh chính là khả năng có thể huy động được các nguồn lực. Do đó, các doanh nghiệp cần tìm mọi cách để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nội địa nhanh chóng bắt kịp nhu cầu thị trường và tìm cách đáp ứng nhu cầu đó một cách tốt nhất. Khoa học và kinh nghiệm của các quốc gia đi trước đã chứng minh rằng có rất nhiều con đường đưa ta tới thành công nhưng con đường ngắn nhất và ít chông gai nhất lại là con đường khó tìm nhất. Tuy nhiên trước tình hình hiện nay, giảm chi phí sản xuất kinh doanh để tiến tới tăng sức cạnh tranh là phương pháp an toàn và phù hợp nhất cho những công ty và những doanh nghiệp có số vốn không lớn. 2.3. Vai trò của việc cắt giảm chi phí Chi phí kinh doanh là tổng số tiền tương đương với toàn bộ hao phí về các nguồn lực mà công ty đã bỏ ra trong một giai đoạn kinh doanh nhất định.. Quản lý chi phí là tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về việc sử dụng các nguồn vốn và chi phí, từ đó đưa ra những quyết định về các chi phí ngắn hạn cũng như dài hạn của công ty và cách thức cắt giảm chi phí hợp lý. Cắt giảm chi phí làm tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Điều này có thể rất dễ thấy vì có rất nhiều cách thức một doanh nghiệp lựa chọn để nâng cao sức cạnh tranh: bằng cách tác động vào các dịch vụ chăm sóc khách hang hay các chương trình khuyến mại ngắn hạn, tác động vào thị hiếu của người tiêu dung hay là tác động vào chính giá cả và chất lượng sản phẩm do chính công ty sản xuất. Cắt giảm chi phí sản xuất là biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc giảm giá bán sản phẩm. Một khi chi phí cho một đơn vị thành phẩm giảm dẫn tới việc giá bán sản phẩm cũng giảm theo và do đó các doanh nghiệp có nhiều khách hang hơn, thị trường tiêu thụ rộng hơn và có nhiều khách hang tiềm năng hơn. Do vậy, năng lực cạnh tranh cũng được củng cố. Hiện nay, tình trạng lạm phát diễn ra thường xuyên với biên độ ngày càng mạnh, cắt giảm chi phí sản xuất là hành động đúng đắn trước những biến động không thể dự báo trước từ thực tế lạm phát. Cắt giảm chi phí sẽ bù đắp cho sự tăng giá của đồng tiền và sự gia tăng đột biến của các chi phí đầu vào nhằm cải thiện tình hình sản xuất và bắt kịp xu hướng thị trường. “Tuy nhiên, việc cắt giảm chi phí đơn thuần chỉ dẫn tới những kết quả tạm thời, có thể giúp các công ty đạt được mục tiêu lợi nhuận, song hiếm khi đem lại kết quả cải thiện bền vững về vị thế cạnh tranh” . Có ba lý do giải thích việc này: Sáng kiến cắt giảm chi phí là cách thức tuyệt vời để đẩy mạnh lợi nhuận ngắn hạn, nhưng nó cũng có thể làm xói mòn những nỗ lực cải thiện cạnh tranh lâu bền hơn. Động cơ cho các chương trình cắt giảm chi phí là việc phải “thắt lưng buộc bụng” trong thời kỳ khó khăn hay là một phần của công cuộc cải tổ cơ cấu kinh doanh. Trong bất cứ trường hợp nào, các chương trình cắt giảm chi phí cũng là một phương pháp ngắn hạn và đơn giản để tạo ra các lợi thế cạnh tranh, chúng hiếm khi củng cố hay cải thiện thực sự sản phẩm/dịch vụ của công ty. Phần lớn các chương trình cắt giảm chi phí đều như những chiếc “máy cắt bánh”, đặt ra chỉ tiêu đơn giản và áp dụng xuyên suốt toàn bộ hoạt động kinh doanh mà không quan tâm tới đặc tính riêng biệt của từng bộ phận. Khi tiến tới việc quản lý chi phí, một trong những vấn đề thường gặp nhất là “vô tình loại bỏ những thứ quý giá trong đống lộn xộn cần phải quẳng đi”. Trong những nỗ lực cắt giảm chi phí để trở nên cạnh tranh hơn, một vài năng lực quan trọng sẽ mất đi, và kết quả thu được trở nên ngược lại với mong muốn. Thách thức chính là việc phân biệt giữa những “chi phí tốt” (góp phần quan trọng đem lại lợi nhuận) và những “chi phí xấu” (có thể loại bỏ mà không làm giảm lợi thế cạnh tranh). Tuỳ thuộc vào từng chiến lược, “chi phí xấu” có thể rất đa dạng về bản chất và mức độ trong tất cả các công ty. Cắt giảm chi phí được xem như những chương trình ngắn hạn chứ không phải lâu dài. Thậm chí, sau những chiến dịch cắt giảm chi phí thành công, nhiều công ty lại thấy rằng ở các khu vực khác chi phí lại gia tăng hoặc các đối thủ cạnh tranh đuổi kịp họ. Bất cứ lợi thế cạnh tranh nhất thời nào sẽ bị xói mòn dần cùng với thời gian. Cuối cùng, công ty lại phải đối mặt với những khó khăn khác phát sinh xuất phát từ việc cắt giảm chi phí. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại Công ty cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội 3.1 Nhóm các nhân tố khách quan 3.1.1 Yếu tố kinh tế - xã hội Các nhân tố kinh tế xã hội có ảnh hưởng một cách trực tiếp và mạnh mẽ đến việc cắt giảm chi phí của một công ty. Nó tác động đến cả quá trình sản xuất thông qua việc tác động vào giá cả các yếu tố đầu vào. Các nhân tố đó bao gồm: Tình hình tài chính quốc gia, tình hình giá cả, lạm phát, tình hình lao động việc làm, tình trạng thất nghiệp, dân số, tình trạng thất nghiệp, việc làm… Lạm phát làm biến động giá cả của tất cả các loại mặt hàng có mặt trên thị trường. Cắt giảm chi phí là một biện pháp nhằm giảm cung. Thực hiện phương pháp này tức là tìm mọi cách khả dĩ nhằm giảm chi phí bỏ ra cho các yếu tố đầu vào nhằm hạ giá thành sản phẩm. Ví dụ như: cắt giảm số lao động, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả nguyên nhiên vật liệu dùng trong sản xuất,… Giá cả thị trường giảm xuống sẽ kiềm chế có hiệu quả tình trạng lạm phát. Các yếu tố về khoa học công nghệ Công nghệ là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp, nó là động lực chính trong toàn cầu hoá. Thực trạng khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng như chính sách khoa học công nghệ là cơ sở rất quan trọng cho các doanh nghiệp trong kinh doanh. Các yếu tố trong nhóm này bao gồm: + Tiềm năng khoa học công nghệ ( trong đó có tiềm năng con người) + Các trang bị về kỹ thuật – máy móc thiết bị + Các quy trình công nghệ mới + Các loại nguyên vật liệu mới Các yếu tố về môi trường tác nghiệp Tham khảo từ: Môi trường tác nghiệp được đề cập dưới đây là môi trường chứa tất cả các tác nhân hướng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đó cũng là những người hay các tổ chức bên ngoài doanh nghiệp mà quyền lợi của họ gắn liền với các hoạt động kinh doanh của doanh của doanh nghiệp. Sơ đồ 1: Mô hình năm lực lượng của M.Chael Porter. Môi trường này bao gồm 5 yếu tố: nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ c._.ạnh tranh, sản phẩm thay thế và nội bộ ngành sản xuất. Sự thay đổi trong mỗi quyết định của đối tác cũng có thể gây ảnh hưởng ít nhiều đến doanh nghiệp. - Số lượng và quy mô nhà cung cấp: Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp. Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. - Khách hàng có thể gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đi kèm và chính họ là người điểu khiển cạnh tranh trong ngành thông qua quyết định mua hàng. - Theo M-Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai - Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành - Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Trong một ngành các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh trên các đối thủ 3.2 Nhóm các nhân tố chủ quan. 3.2.1 Cơ sở vật chất Hiện nay, công ty đang sở hữu diện tích mặt bằng hơn 6 ngàn m2 đất. Các nhà quản trị đã tìm mội cách để tận dụng một cách triệt để khuôn viên cho việc sản xuất may với sự sắp xếp một cách linh hoạt và hợp lý các tổ cắt, tổ may và tách riêng tổ thời trang nhằm khoanh vùng một cách có hiệu quả. Tuy nhiên trong những năm vừa qua, vào mùa mưa nẳm trong tình trạng ngập úng không có đường thoát nước gây khó khăn cho hoạt động sản xuất của công ty. Vả lại, công tác thông tin liên lạc còn thủ công và có nhiều bất cập trong khi hệ thống công nghệ thông tin ngày càng phát triển sâu rộng. Tình hình cơ sở vật chất gây mất hiệu quả và đẩy chi phí tăng cao. Bởi vây, bất kỳ một sự kồng kềnh và bất hợp lý trong công tác xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nào cũng có thể ngăn cản chiến lược giảm chi phí sản xuất của công ty. 3.2.2. Người lao động trong doanh nghiệp Đó là những người lao động trực tiếp trong doanh nghiệp. Họ là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp, làm việc chân tay hay lao động trí óc, là những người công nhân đứng máy hay những nhân viên văn phòng. Trình độ và kỹ năng cũng như khả năng phát triển của họ trong tương lai, tập quán phong thái và thái độ trong quá trình làm việc sẽ tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ngành may là ngành sử dụng nhiều lao động, với tổng số 243 lao động trong công ty nhưng chỉ số công nhân đứng máy công nghệ không nhiều khiến hoạt động sản xuất tỏ ra kém hiệu quả. Công ty chưa có sự tương xứng giữa số lượng công nhân và số lượng máy móc. Bởi vậy, ban lẫnh đạo công ty cần đầu tư trang thiết bị, mua them máy may để hoạt động sản xuất hoàn thành công tác giảm chi phí trong doanh nghiệp. 3.2.3. Ban lãnh đạo công ty Chủ doanh nghiệp là những người bỏ vốn vào kinh doanh. Các nhà quản trị là những người trực tiếp thực hiện các hoạ động quản trị của công ty. Trình độ và kỹ năng quản trị của những người này rất quan trọng. Nó chi phối toàn bộ hoạt động bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp, nhất là các yếu tố bên ngoài với diễn biến phức tạp và khó có thể kiểm soát được. Ban lãnh đạo có vai trò lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và có quyền quyết định những công việc lớn nhỏ trong công ty. Với một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, trình độ hiểu biết và sự quyết đoán trong công việc để kịp thời nắm bắt cơ hội là vô cùng quan trọng. Đó là chìa khoá đưa đến thành công trong kinh doanh. “ Ngoại lực là quan trọng, nội lực là quyết định”. Do đó, một công ty cần có đội ngũ lãnh đạo có trình độ và có sự sáng suốt trong quyết định, có khả năng xây dựng một cơ cấu quản lý linh hoạt để có thể phản ứng nhanh, dễ thích nghi với sự thay đổi của môi trường. Bởi đây chính là hạt giống cho cây lợi nhuận luôn đâm chồi nảy lộc. 4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cắt giảm chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc 4.1 Chi phí nguyên vật liêu trên một đơn vị thành phẩm Thành phẩm là giá trị hàng hoá được hoàn thành qua quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu/ 1 đơn vị thành phẩm là một chỉ tiêu kinh tế cho biết lượng nguyên vật liệu tổn hao và được kết tinh trong sản phẩm hàng hoá sau khi kết thúc chu kỳ chuyển hoá.. Chỉ tiêu này có ý nghĩa nhiều mặt: + Thứ nhất: cho biết sự tương quan về lượng giữa cái được và cái mất, giữa cái doanh nghiệp phải bỏ ra với những giá trị doanh nghiệp được thu về sau quá trình để có những biện pháp điều chỉnh phù hợp với thực tế sản xuất thông qua việc lập kế hoạch sản xuất cho kỳ kinh doanh tiếp theo và những chiến lược thị trường hiệu quả. + Thứ hai: Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả kinh doanh bằng việc tiết giảm chi phí. Chỉ số này càng thấp cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang trong giai đoạn phát triển.Trong tiến trình phát triển của doanh nghiệp, tổng chi phí có thể tăng lên do nhu cầu tiêu dùng sản phẩm ngày càng tăng, nhưng chi phí nguyên vật liệu/ 1 đơn vị sản xuất kinh doanh ngày càng giảm do số lượng thành phẩm gia tăng với tốc độ nhanh hơn nhiều. Bởi vậy, doanh nghiệp cần tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu để hạ thấp chỉ số này nhằm tăng sức cạnh tranh của thành phẩm thông qua cắt giảm chi phí này. 4.2. Chi phí tiền lương trên 1 đơn vị sản xuất kinh doanh. “Chi phí tiền lương trên 1 đơn vị sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế có ý nghĩa nhiều mặt. Chi phí tiền lương không chỉ được coi như là một khoản chi phí mà nó còn liên quan mật thiết đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, quan hệ lợi ích giữa các chủ thể cùng tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” PGS.TS Bùi Tiến Quý, PGS. Vũ Quang Thọ - Chi phí tiền lương của các doanh nghiệp Nhà Nước trong nền kinh tế thị trường – NXB Chính trị Quốc gia – 1997, Tr.126 . Nếu chỉ số này càng nhỏ thì hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp ngày càng cao và ngược lại. Năng xuất lao động tăng lên (do giảm chi phí lao động trên một đơn vị kết quả sản xuất kinh doanh) đã làm cho chi phí tiền lương giảm đi, góp phần tiết kiệm các chi phí sản xuất cho phép doanh nghiệp tăng lợi nhuận của mình. Thứ nhất: Tiết kiệm chi phí tiền lương và cải thiện thu nhập của người lao động trên cơ sở tăng lương về hình thức là 2 xu hướng mâu thuẫn với nhau, nhưng thực tế lại là quy luật tất yếu. Nội dung của quy luật này là tiết kiệm chi phí tiền lương trên cơ sở tăng năng suất lao động, giảm chi phí lao động cho mỗi đơn vị kết quả sản xuất kinh doanh, là điều kiện trực tiếp để tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tiết kiệm chi phí tiền lương như vậy, hoàn toàn không gạt bỏ mà là điều kiện cần thiết để tăng thu nhập cho người lao động. Thứ hai: Tiền lương và chi phí của người lao động được bù đắp ở tỷ lệ tiết kiệm chi phí sản xuất (trong đó có chi phí tiền lương) dưới hình thức tăng tiền công và tăng phần phân phối từ lợi nhuận để lạo trong doanh nghiệp dưới dạng tiền thưởng, phúc lợi tập thể, các tiền trả khác theo quy định của ngành và của Nhà nước. Như vậy, giảm chi phí tiền lương nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đảm bảo lợi nhuận doanh nghiệp tăng lên. “Tuy nhiên việc cắt giảm tiền lương là do năng suất lao động tăng lên và mức hao phí lao động trên một đơn vị kết quả sản xuất kinh doanh giảm đi lớn hơn là tăng tiền lương cho một đơn vị hao phí. Điều này cũng cho thấy rằng rằng tốc độ tăng của năng suất lao động đảm bảo nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân trong doanh nghiệp. Thứ ba: dưới tác động gián tiếp của việc tăng năng suất lao động và tiền lương bình quân, chi phí sản xuất nói chung và chi phí tiền lương nói riêng, phần thu của Nhà nước từ thuế cũng từ đó mà tăng lên. 4.3. Chi phí bán hàng trên một sản phẩm được tiêu thụ Đây là khoản chi cho hoạt động của bộ phận bán hàng ứng với việc tiêu thụ được một đơn vị sản phẩm hàng hoá và đã thực hiện thanh toán. Chỉ tiêu này có ý nghĩa cô cùng quan trọng trong việc ghi nhận những thành quả đã đạt được sau cả quá trình sản xuất sản phẩm. Thứ nhất: Cho biết năng lực tiêu thụ sản phẩm với chi phí nhất định. Khi quá trình sản xuất diễn ra đều đặn và liên tục tạo ra sản phẩm, nhưng không có thị trường tiêu thụ thì công ty sẽ dẫn đến phá sản do không đủ khả năng tài chính để chi trả cho cán bộ công nhân viên. Bán hàng là cầu nối sản phẩm hàng hoá đến tay người tiêu dùng và đem lại giá trị doanh thu cho doanh nghiệp. Thứ hai: cho biết hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau quá trình sản xuất sản phẩm. Cũng như hai loại chi phí đã nói trên, chỉ tiêu này có trị số càng nhỏ thì hiệu quả kinh doanh càng lớn. Thứ ba: Thông qua những con số trong hệ thống chỉ số này, các nhà quản lý có thể xây dụng được chiến lược sản xuất phù hợp cho doanh nghiệp trong giai đoạn tiếp theo. 4.4. Chi phí quản lý doanh nghiệp trên một đơn vị lợi nhuận Là khoản chi phí rất nhạy cảm với công việc quản lý, chi phí quản lý doanh nghiệp/ 1 đơn vị lợi nhuận toàn doanh nghiệp cho thấy giá trị mà bộ phận quản lý, các khối văn phòng tiêu tốn để hình thành nên một đơn vị lợi nhuận của toàn doanh nghiệp. Chi phí quản lý trên một đơn vị lợi nhuận càng nhỏ, doanh nghiệp càng làm ăn có hiệu quả trên cơ sở giảm chi phí quản lý. Chỉ số này còn cho thấy khả năng quản lý của ban lãnh đạo công ty để đưa ra sản phẩm giàu sức cạnh tranh nhất trên cơ sở giảm chi phí quản lý doanh nghiệp hay tăng lợi nhuận của chính doanh nghiệp đó CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CẮT GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT HÀNG MAY MẶC TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI INTIMEX HÀ NỘI I. Tổng quan về Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội. 1. Quá trình ra đời và phát triển 1. 1. Giới thiệu công ty: Công ty Cổ Phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội là Công ty chi nhánh trực thuộc Công ty Xuất Nhập Khẩu Intimex nguyên là Tổng công ty xuất nhập khẩu Nội  thương được thành lập năm 1979. Trải qua quá trình phát triển, sau một số lần thay đổi tổ chức và tên gọi, từ năm 2005 đến nay được đổi thành Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội.      Hoạt động với hình thức công ty cổ phần, Intimex Hà Nội ngày càng phát huy tính năng động trong nền kinh tế thị trường. Tuy mới cổ phần hoá, nhưng Intimex Hà Nội đã được thừa kế uy tín, kinh nghiệm gần 30 năm của công ty XNK Intimex-Danh hiệu sao vàng đất Việt. Với một đội ngũ nhân viên lành nghề, giàu kinh nghiệm, một mạng lưới bán hàng xuyên suốt Việt Nam với mối quan hệ bền vững và tốt đẹp, Intimex đã được chứng minh là một đối tác tin cậy của các bạn hàng Việt Nam và thế giới. Hiện nay EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Intimex Hà Nội. 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển Quyết định số 349 IN/TCCB, ngày 12/5/1998 về việc thành lập và quy định chức năng nhiệm vụ quyền hạn Xí nghiệp May xuất khẩu trực thuộc Cty XNK-Dịch vụ thương mại (Intimex) với vai trò sản xuất và cung cấp một lượng lớn hàng may mặc cho công ty XNK Intimex. Quyết định số 1044 INT/TCCB, ngày 14/8/2001 về việc hợp nhất Xí nghiệp Lắp ráp xe máy Intimex và Xí nghiệp May Intimex thành Xí nghiệp Xe máy trực thuộc công ty XNK Intimex nhằm mở rộng quy mô theo chiều rộng để đáp ứng nhu cầu thị trường Quyết định số 255 INT/TCCB, ngày 23/9/2002 về việc thành lập Xí nghiệp May Intimex trực thuộc Công ty XNK Intimex trên cơ sở tách Xưởng May thuộc Xí nghiệp Xe máy Intimex từ việc nắm bắt thị hiếu và những đòi hỏi từ người tiêu dùng về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm. Ngày 30/12/2005 Bộ Thương Mại có Quyết định số 3197/QĐ-BTM phê duyệt phương án cổ phần hoá trên cơ sở chuyển Xí nghiệp May, Xí nghiệp Xe máy Intimex thành Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội - Ngày 08/4/2006, Đại hội cổ đông thành lập đã thông qua Điều lệ của Công ty, bầu HĐQT và BKS của Công ty; - Ngày 15/4/2007, Đại hội cổ đông thường niên lần thứ nhất. Quyết định số: 3197/QĐ-BTM ngày 30/12/2005 của Bộ Thương Mại, đã phê duyệt phương án cổ phần hoá và thành lập Công ty cổ phần sản xuất và thương mại Intimex Hà Nội. + Tên giao dịch bằng tiếng Anh: Intimex Ha Noi production and trade joint-stock company. + Tên viết tắt: Intimex HA NOI + Địa chỉ: Tổ 17, Khu Ga Văn Điển, Thị trấn Văn Điển, Thanh Trì, Hà Nội. + Vốn điều lệ: Đã thực hiện điều chỉnh vốn điều lệ lên: 4.800.000.000 + Đăng ký kinh doanh số: 010301189 do sở kế hoạch Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 20/04/2006. 2. Chức năng nhiệm vụ 2.1. Nhận định chung: Công ty Cổ phần sản xuất và thương mại Intimex là một trong những công ty thuộc Bộ thương mại, công ty có chức năng chính là kinh doanh thương mại, bao gồm cả xuất nhập khẩu và bán buôn, bán lẻ hàng hóa trên thị trường nội địa, nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản, chế biến nông sản...Ngoài ra công ty còn được phép tổ chức sản xuất, gia công lắp ráp, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để sản xuất hàng hóa phục vụ xuất nhập khẩu. Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, đặc biệt là chất lượng hàng nông sản một trong những chiến lược hàng đầu của Công ty xuất nhập khẩu Intimex nhằm chuyển hướng xuất khẩu nguyên liệu thô sang hàng hoá nông sản tinh chế có chất lượng và giá trị cao. Công ty đã thiết lập quan hệ thương mại với rất nhiều quốc gia trên thế giới và là Công ty có tiềm năng trong việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản như cà phê, hạt tiêu, cao su... Ngoài ra, Công ty còn được biết đến như một đơn vị xuất khẩu mạnh các mặt hàng thủy sản và các sản phẩm chế biến khác. Với bề dầy kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty xuất nhập khẩu Intimex là một đối tác đáng tin cậy cho bạn hàng trong nước và quốc tế. 2.2. Các hoạt động của công ty: Một là: Kinh doanh xuất nhập khẩu Tại đại hội cổ đông lần thứ nhất đã xác định hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là mảng kinh doanh quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Nó bao trùm toàn bộ hoạt động kinh doanh. Đây là hoạt động có tính quyết định giúp cho công ty hoàn thành các chỉ tiêu tài chính của mình trong năm 2007 - Về xuất khẩu: + Xuất khẩu hàng Nông sản: Cà phê, hạt tiêu, chè, hoa hồi, quế… + Lương thực, thực phẩm, rượu bia; + Hàng tiêu dùng, điện, điện tử; + Hàng thủ công mỹ nghệ: hàng mây tre đan, hàng thêu ren, các sản phẩm thủ công khác + Nguyên liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng; + Vật tư thiết bị ngành xi măng; + Trang thiết bị y tế, thiết bị khoa học; + Giống vật nuôi, cây trồng; Tuy nhiên cà phê, hạt tiêu vẫn là mặt hàng chủ lực đóng góp kim ngạch và hiệu quả chính cho Công ty, đây cũng là mặt hàng xuất khẩu chính của các công ty trong tập đoàn Intimex. Ngoài ra, Công ty cũng mở rộng mặt hàng XK khác nhưng kim ngạch không lớn. Về nhập khẩu: Chủ yếu tập trung vào 2 ngành hang là bánh kẹo, điện máy và nguyên liệu cho sản xuất (nhôm, đồng). Gần đây, Công ty khai thác thêm một số hang nhập khẩu khác như thiết bị ô tô, thiết bị y tế. Hầu hết các doanh vụ đều được nhập khẩu dưới dạng uỷ thác. Do vậy, tính hiệu quả và bền vững không cao. Hai là: Sản xuất và kinh doanh may Với nhiệm vụ chính là: Tổ chức sản xuất, gia công hàng may mặc để xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, ngành may nói chung luôn phải tự cạnh tranh nhau trên thị trường về đơn giá gia công, sức hút lao động cũng như là thị trường tiêu thụ. Ba là: Lắp giáp và kinh doanh xe máy + Liên doanh, liên kết và tổ chức lắp ráp xe máy và sản xuất phụ tùng xe máy để tiêu dùng trong nước; + Kinh doanh dịch vụ: Sửa chữa, bảo hành ôtô, xe máy; Công ty Cổ phần sản xuất và thương mại Intimex là một trong những nhà xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, may mặc, bột giặt... Công ty chúng tôi đã thiết lập quan hệ thương mại với rất nhiều đối tác trên thế giới và rất nổi tiếng về các sản phẩm với chủng loại đa dạng, hình thức phong phú và có chất lượng cao. 3. Cơ cấu tổ chức 3.1 Sơ đồ tổ chức Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Hà Nội là công ty có quy mô vừa và nhỏ. Do vậy, Intimex Hà Nội được tổ chức theo mô hình cơ cấu chức năng là rất phù hợp. Với mô hình này, các hệ thống trực tuyến không có quyền ra lệnh cho cấp dưới mà chỉ giúp cho người quản lý ra quyết định trong phạm vi chuyên môn của mình. Để thấy rõ mối quan hệ giữa các cấp quản lý và các bộ phận sản xuất kinh doanh, ta có thể theo dõi sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty như sau: Tæng gi¸m ®èc P.TGĐ KD & XE MÁY P.TGĐ KiNH DOANH ®¹i héi ®ång cỔ ®«ng phßng kinh doanh 1 Phßng kinh doanh 2 héi ®ång qu¶n trÞ Ban kiÓm so¸t phßng TCHC phßng tckt xÝ nghiÖp may x­ëng xe m¸y phßng kd néi ®Þa v¨n phßng x­ëng phßng xnk & kh phßng kü thuËt tæ may 1 tæ may 2 tæ may 3 tæ may 5 tæ may 4 tæ may 6 tæ may 7 TỔ CẮT tæ HOAN THiỆN Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức của công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội Đứng đầu công ty là Đại Hội Đồng Cổ Đông (ĐHĐCĐ). ĐHĐCĐ tiếp tục bầu ra Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) và Ban Kiểm Soát (BKS). Sau đó, HĐQT quyết định bổ nhiệm Tổng Giám đốc (TGĐ). BKS có nhiệm vụ thanh tra những thành viên trong HĐQT- cơ quan quản lý công ty, nhân danh công ty để giải quyết những việc lớn nhỏ trong nội bộ hay ở ngoài công ty. BKS cũng được ĐHĐCĐ trao cho quyền được giám sát TGĐ về mọi lĩnh vực, đặc biệt là vấn đề công khai các tài chính, đảm bảo sự minh bạch trong các khoản thu chi. Yêu cầu công việc ngày càng phức tạp, TGĐ ủy quyền cho hai Phó TGĐ phụ trách về hai mảng công việc khác nhau để hỗ trợ TGĐ trong việc lãnh đạo và điều hành. TGĐ phụ trách trực tiếp 3 phòng ban: P. kinh doanh 1, P. Tổ Chức Hành Chính, P. Tài Chính Kế Toán và 1 Xí nghiệp may. Trước kia, XN May chỉ là Xưởng may nhưng do yêu cầu phát triển để mở rộng quy mô sản xuất cũng như hoàn thiện lại hệ thống hạ tầng kỹ thuật, Xưởng may nay đổi thành Xí nghiệp May. Các P. kinh doanh 1 và 2 có nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng nông sản, thủy hải sản, đồ điện tử, đồ gia dụng. P.KD1 chịu sự lãnh đạo trực tiếp của TGĐ và nằm tại trụ sở chính của công ty (96 Trần Hưng Đạo), P.KD2 do PTGĐ kinh doanh điều hành ngay tại công ty. Các phòng ban này chịu sự giám sát của TGĐ và chịu trách nhiệm trước TGĐ. 3.2 Đánh giá những ưu nhược điểm của sơ đồ tổ chức công ty Với quy mô đủ lớn, XN May cũng được tổ chức thành 4 phòng trong đó Văn phòng xưởng có vai trò chỉ đạo các tổ hoạt động trong XN. Các phòng ban được phân quyền rõ ràng đảm bảo việc hoàn thành nhiệm vụ. Ban quản lý cũng có sự uỷ quyền nhất định không xảy ra việc chồng chéo chức năng. Tuy nhiên với quy mô sản xuất may không lớn, bộ máy công ty tỏ rõ sự chồng chéo về chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. Vả lại các tỏ may có sự khác nhau về số lượng và mức lương do khoán sản phẩm khiến không thể khuyến khích công nhân làm việc một cách hiệu quả và gắn bó lâu dài. Ban kiếm soát do HĐQT bầu ra từ chính những người thuộc HĐQT, điều này thể hiện sự không công bằng trong hoạt động kiểm tra giám sát đặc biệt là giám sát tài chính của ban lãnh đạo công ty. II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN VIỆC CẮT GIẢM CHI PHÍ HÀNG MAY MẶC TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI INTIMEX HÀ NỘI 1. Tình hình chung về việc cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc tại các doanh nghiệp dệt may trong nước 1.1 Thực trạng dệt may Việt Nam Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thế giới, ngành công nghiệp may Việt Nam phải có một Quy mô và năng lực sản xuất đủ lớn mới có thể đứng vững trên thị trường trước sự cạnh tranh khốc liệt này. Trong 15 năm trở lại đây, ngành dệt may Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí hàng đầu trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực với con số 2.1 tỷ USD (2001) 3.2 tỷ USD (2002) và tăng lên khoảng 7.2 tỷ USD vào năm 2007. Trong đó ngành may có những đóng góp không nhỏ. Tuy nhiên so với các nước trên thế giới thì thực lực của ngành may còn khá khiếm tốn. Theo nhận định chung của các nhà kinh tế và thống kê học cho thấy: ngành may Việt Nam có quy mô nhỏ và năng lực sản xuất yếu. Tính đến cuối năm 2002, cả nước có gần 1.000 doanh nghiệp may (không kể những doanh nghiệp có sử dụng công nghệ may) hoạt động trong tất cả các thành phần kinh tế. Trong đó doanh nghiệp quốc doanh hiện có khoảng 400 doanh nghiệp và còn lại là doanh nghiệp ngoài quốc doanh ( gồm cả tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Với một lượng các doanh nghiệp như vậy, năng lực sản xuất của ngành may đã có những khởi sắc. Tính đến 2007, toàn ngành đã sản xuất được khoảng 15000 triệu sản phẩm. Các mặt hàng bao gồm rất nhiều chủng loại trong đó số sản phẩm áo sơ mi và áo Jacket, quần áo thể thao chiếm tỷ trọng cao nhất. “Tuy vậy, theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành may Việt Nam và thế giới, ngoài các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng một số ít các doanh nghiệp tư nhân do có tiềm lực về vốn đã tiến hành đổi mới trang thiết bị, còn lại đa số năng lực sản xuất của một số vẫn còn hạn chế” Dệt may việt nam, Cơ hội và thách thức- trang 79 . Vì thế khi so sánh với các nước trong khu vực cho thấy, ngành may Việt Nam nhỏ bé về quy mô và năng lực sản xuất thấp. Bảng 2: Sản lượng may của Việt Nam so với các nước STT Tên nước Tổng số sản phẩm may (triệu ) 1 Trung Quốc 50000 2 Thái Lan 23000 3 Indonexia 12000 4 Việt Nam 1500 (Nguồn: Bộ Công Thương) Do năng lực sản xuất kém hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp có cùng lợi thế nên sức cạnh tranh của mặt hàng may mặc Việt Nam có rất nhiều hạn chế. Điều này thể hiện rõ qua thị trường cạnh tranh phi tự do (phi hạn ngạch) như Nhật Bản, các nước Bắc Âu, Canada. Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may các nước năm 2007 STT Tên nước Kim ngạch xuất nhập khẩu (triệu USD) 1 Trung Quốc 225.000 2 Ấn Độ 70.000 3 Băngladet 20.000 4 Thái Lan 35.000 5 Indonexia 40.000 6 Việt Nam 7.200 ( Nguồn: Bộ Công Thương) Tính trung bình mỗi năm Việt Nam thu về được 2 tỷ rưỡi USD trong việc xuất khẩu vải, tơ sợi và hàng may mặc sang 100 quốc gia khác trên thế giới, trong đó có Âu Châu, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trong nhiều lý do dẫn đến sự yếu kém trong ngành may về năng lực sản xuất của ngành May Việt Nam, công nghệ là tác nhân chủ yếu. Lượng máy móc được phân bổ phần lớn ở các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong khi đó với số lượng lớn toàn bộ doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì số máy may lại không nhiều. Nhận thức được sự tất yếu phải đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. Trong thời gian qua, ngành may đã có nhiều cố gắng để thay đổi thực trạng này. Tuy vậy, khả năng tự động hoá trong quá trình sản xuất chit đạt được mức trung bình, công nghệ cắt may còn lạc hậu. Công nghệ phục vụ và các công đoạn phụ trọ bao gồm: khâu giặt còn nhiều bất cập, công tác thiết kế tạo mẫu vẫn đang trong giai đoạn triển khai đã làm hạn chế chất lương, mẫu mã và chủng loại sản phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự tăng trưởng cao trong nhiều năm qua như hàng dệt may cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu. Nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên vật liệu chiếm trên 40% giá thành sản phẩm. Việc nhập khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ động của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới giá thành do phụ thuộc vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá hối đoái... Ngoài ra, việc phải nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước cũng sẽ làm. phát sinh thêm nhiều khoản chi phí khác như, chi phí vận chuyển, chi phí các thủ tục hải quan, chi phí cảng, chi phí bảo hiểm.... Tất cả các khoản chi phí này đều có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm cũng như doanh nghiệp. 1.2 Thực trạng cắt giảm chi phí sản xuất hàng may mặc Việt Nam 1.2.1 Nguyên vật liệu Năm vừa qua nhiều doanh nghiệp đã gặp khó khăn bởi giá nguyên liệu đầu vào tăng cao. Trong khi đó, ở thị trường trong nước giá dầu, than và giá điện vẫn chưa hoàn toàn theo giá thị trường. Trên thị trường thế giới, giá dầu rất khó dự đoán. Điều này buộc doanh nghiệp phải tiếp tục có biện pháp tiết giảm chi phí sản xuất để ổn định giá thành. Nếu năm nay giá dầu tiếp tục tăng thì phải thay đổi cả quy trình sản xuất. Nhiều công ty sản xuất vải và hàng may mặc của Việt Nam đang bị thua lỗ vì chi phí sản xuất và tiền lời ngân hàng gia tăng. So với cùng kỳ năm ngoái, chi phí sản xuất trong ngành may mặc gia tăng từ 5 đến 10% vì giá dầu hỏa, vật tư và thiết bị trên thị trường thế giới đều tăng cao. Cùng với sự gia tăng của giá cả các mặt hàng, lãi suất ngân hàng trong nước cũng tăng từ 8% năm ngoái lên tới 9,3% hiện giờ. “Theo các chuyên gia kinh tế, chưa bao giờ các doanh nghiệp bị “đánh” từ nhiều phía như hiện nay. Do ảnh hưởng của cơn sốt thiếu hụt nguyên – nhiên liệu trên thế giới, giá hầu hết các nguyên liệu đều tăng trên 20% so với năm 2007. Lãi suất cho vay của các ngân hàng tăng cao... Ngay sau đó, giá xăng dầu tăng thêm 10% - 30%, như một cú đánh bồi vào các doanh nghiệp. Việt Nam cần có một chiến lược sử dụng nguyên vật liệu sao cho thật hợp lý để có thể phát huy tối đa tiềm lực trong nước” Dệt may việt nam, Cơ hội và thách thức- trang 48 . Bảng 4: Nhu cầu sử dụng nguyên phụ liêu đến năm 2005 và năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị tính 2005 2010 1. Bông xơ 1.000 Tấn 30 95 2. Xơ sợi tổng hợp 1.000 Tấn 100 130 3. Sợi 1.000 Tấn 150 300 4. Vải lụa Triệu m2 800 1.200 Tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm may % 50 75 ( Nguồn: Bộ công thương ) Nguyên vật liệu là đầu vào của mọi quá trình sản xuất sản phẩm. Do đó giảm chi phí nguyên vật liệu bằng cách khai thác thị trường nguyên vật liệu tiềm năng hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu từ các đối tác tin cậy với sự hợp lý về giá cả và chất lượng cũng như chế độ chăm sóc khách hàng của các nhà cung cấp. Từ đó công ty đã giảm được một khoản phí tổn nhất định cho việc mua nguyên vật liệu. Giữa muôn trùng vòng vây của giá xăng dầu, nguyên vật liệu, lãi suất vốn vay ngân hàng..., việc điều tiết chi phí sản xuất, bảo đảm lợi nhuận... đang là thách thức sống còn đối với nhiều doanh nghiệp Trước tình hình đó, các công ty đã từng bước đi tìm giải pháp cắt giảm chi phí. Bởi đây là con đường nhanh nhất để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Hiện nay, tình trạng giá cả leo thang rất đáng báo động. Việt Nam không thể khống chế được giá cả do giá dầu trên thế giới tăng mạnh với mức tăng chưa từng có từ trước đến nay. Việt Nam đang trong giai đoạn tiền WTO, hàng hoá sản phẩm và dịch vụ luôn phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu thị trường đặc biệt là phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng. Do đó, các công ty và các tập đoàn trong nước đã không ngừng cải tiến, tìm tòi phương cách để làm sao có thể nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thông qua việc cắt giảm chi phí sản xuất và các chi phí phát sinh trong quá trình phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng. Bảng 5: Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp (Năm trước = 100) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Sản phẩm dệt 100,9 107,6 96,2 105,8 106,3 107,6 106,4 Trang phục, thuộc da 110,8 111,4 113,2 80,1 101,8 100,5 105,9 Thuộc da sơ chế, vali, túi 95,4 98,2 106,7 98,6 104,7 104,7 104,4 ( Nguồn:Tổng cục thống kê ) 1.2.2 Nhân lực Tại nhiều doanh nghiệp, ngân sách dành cho nguồn nhân lực đôi khi chiếm đến 30% tổng chi phí. Và ngân sách này cứ càng ngày càng “phình” ra theo thời gian. Làm thế nào để quản lý được ngân sách này đồng thời giảm thiểu chi phí nhân sự nhằm tăng hiệu quả kinh doanh? Các doanh nghiệp cũng phải tính toán thêm khoản chi phí lương do lương cơ bản đã tăng. Chi phí nhân sự thường được chia ra thành hai loại: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Khi cần tiết kiệm ngân sách, biện pháp đơn giản nhất mà các ông chủ vẫn thường áp dụng – đó là tinh giản biên chế, sắp xếp lại cơ cấu nhân sự. Song, đây chỉ là một trong những biện pháp “chữa cháy” theo kiểu “giật gấu vá vai” của những doanh nghiệp “cò con” mà hiệu quả thu được lại chẳng như mong đợi. Bởi vậy mà phương pháp này không được coi là lựa chọn khôn ngoan, khi mà thị trường nguồn nhân lực luôn nằm trong tình trạng mất cân bằng về cung cầu. Điều luôn ám ảnh các ông chủ doanh nghiệp vẫn là việc làm sao để tìm ra các giải pháp cắt giảm chi phí nhân sự một cách khôn ngoan và hiệu quả. Ngành may là một trong những ngành sử dụng nhiều lao động. Trong hoàn cảnh hiện nay, các doanh nghiệp cần chăm lo chu đáo đời sống cho người lao động như vậy mới có thể nhanh chóng vượt qua những khó khăn. Doanh nghiệp cắt giảm chi phí nhân sự bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực thông qua các biện pháp đào tạo cán bộ công nhân viên và thực hiện việc trả lương khoa học và hợp lý. Việc làm này nhằm kích thích sự sáng tạo và niềm đam mê gắn bó với công việc. Kết quả thật bất ngờ khi thực tế cho thấy, các doanh nghiệp sử dụng biện pháp này hay biện pháp khác nhằm cắt giảm chi phí nguồn nhân lực dựa trên sự đóng góp của cán bộ công nhân viên với mức thu nhâp mà họ được hưởng đều tỏ ra có hiệu quả. 1.2.3 Cơ sở hạ tầng trang thiết bị Doanh nghiệp cũng có thể cắt giảm chi phí thông qua việc nâng cao sửa chữa lớn cơ sở vật chất tạo hạ tầng vững chắc. Làm được việc này đòi hỏi các công ty phải có sự tính toán rất kỹ càng về những cái được và cái mất, tính lâu dài và tính tạm thời của dự án. Công ty phải trích ra một khoản tài chính để chi phí chi việc đầu tư cải tiến trang thiết bị hoặc sửa chữa và củng cố lại mặt bằng sản xuất. Việc đầu tư sửa chữa lớn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong hoàn cảnh lạm phát tăng nhanh. Nó đặt ra một yêu cầu tất yếu cho các doanh nghiệp sản xuất. Đó là việc tính toán làm sao cho việc đầu tư này là hiệu quả và hữu ích, tránh tình trạng đầu tư vào những hạ tầng không cần thiết gây lãng phí tài sản của doanh nghiệp và không thiết thực cho sản xuất. Ở một số công ty, ban giám đốc công ty quyết định đầu tư vào việc xây d._.ẢN XUẤT HÀNG MAY MẶC TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI INTIMEX HÀ NỘI. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP Trước yêu cầu của thị trường ngày càng cao, Intimex Hà Nội đã quan tâm đến yếu tố chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản phẩm của công ty có đặc điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chất lượng sản phẩm chưa thực sự có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp, tính độc đáo của sản phẩm không cao. Bước vào thực hiện kế hoạch năm 2008 trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp rất khó lường chắc chắn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến công ty. Tình hình này buộc ban lãnh đạo phải có những giải pháp cụ thể, hữu hiệu nhất và hết sức linh hoạt để có thể duy trì được sự phát triển và tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong những năm tới, Công ty sẽ không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ công nhân viên, từng bước chuyển đổi và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để tiến tới phát triển Intimex Hà Nội thực sự lớn mạnh và nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. Công ty phấn đấu luôn đạt và đạt vượt mức những chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội sẽ luôn kề vai sát cánh, là trợ thủ đắc lực cho Công ty Xuất Nhập Khẩu Intimex. Khi bắt tay vào xây dựng các chiến lược sản xuất kinh doanh có một điều vô cùng quan trọng mà không một công ty nào được phép bỏ qua là phải tính đến việc các chi phí sẽ được quản lý và sử dụng như thế nào, xem các đồng vốn bỏ ra hiệu quả đến đâu, có đem lại lợi nhuận và hiệu quả như mong muốn ban đầu hay không? Có thể nói, tri thức quản lý chi phí là một yếu tố thiết yếu trong đầu tư và kinh doanh. Nếu không có kiến thức cơ bản về quản lý chi phí, thì không thể nào nhận biết được tình hình thực tế của những dự án đầu tư, các kế hoạch kinh doanh cũng như thực trạng hoạt động của công ty. Trong từng lĩnh vực kinh doanh: Về sản xuất: Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, tạo ra những sản phẩm may có giá trị cao trên thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế, đáp ứng được cả những yêu cầu về số lượng và chất lượng một cách kịp thời. Khuyến khích tăng lượng hàng may mặc trên thị trường quốc tế đặc biệt là các quốc gia cần lượng tiêu thụ mạnh như các quốc gia Tây Âu và Đông Nam Á và đặc biệt là thị trường Mỹ. Hoạt động sản xuất luôn đáp ứng đủ nhu cầu hàng trong nước và tăng cường xuất khẩu ra nước ngoài. Trong những năm sắp tới, do tình hình lạm phát có nhiều biến động, Intimex luôn phải có những chính sách cắt giảm chi phí sản xuất và tăng hiệu quả hoạt động về lâu dài, luôn chủ động trong mọi hoàn cảnh để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường về số lượng cũng như chất lượng mặt hàng mà công ty cung cấp. Công ty luôn phấn đấu trở thành cánh tay phải cho công ty Xuất Nhập Khẩu Intimex trong lĩnh vực sản xuất hàng may mặc. Từng bước phấn đấu để trở thành công ty có thương hiệu mạnh là tâm niệm của ban lãnh đạo công ty trong những năm tới. Bởi vậy, không những tiến hành giảm chi phí để xúc tiến giảm giá bán, tăng sức cạnh tranh thông qua giá cả mà công ty còn phải xây dựng thương hiệu mạnh cho mình khởi nguồn từ uy tín. Về kinh doanh xuất nhập khẩu: Công ty luôn tìm cách đẩy mạnh kim ngạch xuất nhập khẩu các mặt hàng, trong đó nông sản là mặt hàng chủ đạo, đặc biệt là cà phê và hạt tiêu. Đây là 2 loại nông sản đã có chỗ đứng trên thị trường Việt Nam. Hiện nay, nhu cầu về mặt hàng này là rất lớn và có rất nhiều tiềm năng phát triển. Do vậy, thúc đẩy việc xuất nhập khẩu 2 mặt hàng này là sự lựa chọn sáng suốt của lãnh đạo công ty. Để làm được điều này, các bộ phận chức năng phải không ngừng nắm bắt thông tin trên thị trường, phát triển ngày càng lớn mạnh thị trường 2 loại nông sản này. Do đó, Intimex Hà Nội đã đưa ra một số chỉ tiêu cho năm tới như sau: Bảng 23: các chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 Các chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch năm 2008 1. Kim ngạch XNK USD 31.400.000 - Xuất khẩu USD 23.000.000 - Nhập khẩu USD 7.700.000 - Xuất khẩu may USD 700.000 2. Doanh thu 1.000 VNĐ 650.000.000 a. XK hàng hoá 1.000 VNĐ 368.000.000 b. NK hàng hoá 1.000 VNĐ 150.000.000 c. Xe máy 1.000 VNĐ 2.000.000 d. SX may và doanh thu khác, Trong đó: 1.000 VNĐ 130.000.000 DT XK và gia công may 1.000 VNĐ 14.000.000 e. DT dịch vụ 3. Lợi nhuận a. Trước thuế 1.000 VNĐ 3.000.000 b. Sau thuế, chưa trích quỹ 1.000 VNĐ 2.160.000 4. Cổ tức 17% 5. Trích lập các quỹ - Đầu tư và phát triển 5% - Thi đua, khen thưởng 5% - Phúc lợi 5% - Dự phòng tài chính 5% ( Nguồn: Công ty Cổ phần sản xuất và thương mại Intimex Hà Nội ) Mỗi một doanh nghiệp muốn bán được sản phẩm trên thị trường được nhanh và nhiều thì sản phẩm đó phải có sức cạnh tranh vượt trội về một thế mạnh nào đó. Giảm chi phí là một biện pháp nhằm tăng sức cạnh tranh qua việc giảm giá hàng bán. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể chiếm được thị trường lớn hơn bằng cách hạ giá xuống thấp một chút, nhưng họ vẫn dành được lợi nhuận cao hơn các đối thủ cạnh tranh bởi chi phí sản xuất thấp hơn các doanh nghiệp trong cùng ngành. Như vậy, nếu một doanh nghiệp liên tục cải tiến sản xuất, áp dụng công nghệ mới, hợp lý hoá sản xuất thì sẽ chiếm được tỷ lệ lợi nhuận cao so với các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành. Tuy nhiên, giá trị lợi nhuận siêu ngạch này chỉ tồn tại trong thời gian doanh nghiệp độc quyền về phương pháp sản xuất đó. Một khi, phương pháp này đã được sử dụng rộng rãi cho các doanh nghiệp thì sự chênh lệch giữa các giá trị cá biệt này cũng dần biến mất. Chính vì thế, nền kinh tế thị trường luôn thôi thúc các nhà doanh nghiệp tìm kiếm phương pháp sản xuất mới nhằm hạ thấp chi phí sản xuất để hàng hoá của mình được bán trên thị trường vời mức giá rẻ hơn mức giá chung. Từ đó, đem lại lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp. Đó là con đương cạnh tranh có hiệu quả cho những nhà doanh nghiệp muốn khẳng định sức mạnh của mình trên thương trường. Các doanh nghiệp may đưa ra giải pháp cần tính toán, tiết kiệm chi phí đầu vào và chia sẻ công việc cũng như liên kết với nhau để sản xuất. Thay vì “ôm” hết hàng, các doanh nghiệp nên thực hiện giao cho các đơn vị khác gia công, như vậy sẽ giảm bớt chi phí sản xuất nhưng vẫn đảm bảo sản lượng. II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN VIỆC CẮT GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT HÀNG MAY MẶC TẠI CÔNG TY CỔ PHẨN SẢN XUẤT VẰ THƯƠNG MẠI INTIMEX HÀ NỘI Tham khảo từ: Trần Xuân Kiên – Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam – NXB Thống kê, 1998 – Tr. 220 - 221 1 – Rút ngắn thời gian lao động cần thiết, quay vòng nhiều ca kíp, máy móc và sức lao động của công nhân Thời gian lao động sản xuất của cải vật chất cần thiết để duy trì đời sống của bản thân người lao động và gia đình họ. Lao động hao phí trong thời gian đó là lao động cần thiết. Bộ phận thời gian đó bằng thời gian người lao động tái sản xuất ra giá trị sức lao động của mình. Rút ngắn thời gian lao động cần thiết bằng cách thực hiện chuyên môn hoá một cách động bộ trên phạm vi hoạt động lớn sẽ giúp tăng năng suất lao động và gia tăng giá trị lợi nhuận cho toàn doanh nghiệp. Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu các đơn đặt hàng cho kịp tiến độ, các xưởng may đã phải làm việc không ngừng nghỉ 8h/ ngày thậm chí 10h/ ngày để kịp thời gian giao hàng. Tuy nhiên với mức thời gian này, đại đa số công nhân may đã hoàn thành vượt mức sản lượng và có thêm thời gian để chuẩn bị cho lượng sản xuất vào ngày hôm sau. Điều này cho thấy, thời gian lao động cần thiết để đạt mức sản lương trung bình của công nhân là thấp hơn so với mức thời gian quy định trong bộ luật lao động. Tiết kiệm thời gian bằng cách phân bố lịch làm việc hợp lý, được khá nhiều doanh nghiệp sản xuất chọn lựa trong đó có Công ty cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội. Với cách làm này, Intimex vừa tận dụng được sức hoạt động của máy móc lại vừa sử dụng liên tục công nhân đứng máy, đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý giảm thiểu chi phí. 2- Giảm các chi phí nguyên vật liệu Intimex Hà Nội là công ty chuyên nhận gia công các sản phẩm may mặc theo hợp đồng gia công từ các quốc gia trên thế giới và một phần phục vụ cho việc tiêu dùng trong nước. Để đảm bảo giá thành sản phẩm và ổn định giá bán nhằm nâng cao sức cạnh tranh cũng như hiệu quả sản xuất của Intimex đòi hỏi công ty phải thực hiện một loạt các giải pháp đồng bộ nhằm tiết kiệm chi phí ở tất cả các khâu, tất cả các công đoạn trong quá trình sản xuất của mình như: + Nâng cao hiệu quả giảm chi phí trong cung ứng nguyên vật liệu thông qua việc dự báo chính xác nhu cầu để xây dựng phương án dự trữ nhằm giảm số lần nhập khẩu nguyên liệu, thực hiên liên kết để nhập khẩu nguyên liệu với số lượng lớn, giảm bớt khâu trung gian trong việc nhập khẩu tiến tới giảm chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu, giảm lượng tồn kho bán thành phẩm Tham khảo từ: Lê Anh Cường, Bùi Minh Nguyệt- Tổ chức quản lý sản xuất – NXB Lao động Xã hội – 2004 – Tr. 164 + Sáng tạo ra những sản phẩm mới để tận dụng những nguyên vật liệu còn dư thừa, không dùng đến trong quá trình sản xuất để bán hoặc dùng trong nội bộ công ty nhằm giảm chi phí mua vào. 3- Giảm các chi phí văn phòng phẩm. Điều phức tạp nhất đối với các ông chủ doanh nghiệp – đó là việc huấn luyện nhân viên của mình biết tiết kiệm, dù là những chi phí nhỏ nhất. Không ít doanh nghiệp đã kêu gọi nhân viên của mình tiết kiệm chi phí văn phòng phẩm bằng cách sử dụng giấy in loại rẻ tiền hoặc sử dụng giấy đã in một mặt. Thậm chí, các vị lãnh đạo doanh nghiệp còn tự nêu gương cho nhân viên của mình bằng cách này hay cách khác. 4- Giảm các chi phí chè chén, hội họp. Một phương pháp tiết kiệm khác mà hiệu quả của nó có thể nhìn thấy ngay – đó là việc từ chối các dịch vụ không cần thiết đối với hoạt động của doanh nghiệp. Việc này không những làm mất thời gian quý báu mà còn gây lãng phí không cần thiết. Công ty có thể tiến hành các hoạt động ngoại khoá để hướng dẫn các cán bộ công nhân viên thực hành tiết kiệm nhằm khơi dậy ý thức nguồn lao động trong công ty. Phân tích những cái được và cái mất cho người lao động trong việc thực hiện cắt giảm chi phí sản xuất cũng như các chi phí khác liên quan. 5- Thuê lao động với giá rẻ ở các vùng khác đến làm việc và có chế độ đãi ngộ thích hợp. Bằng cách thay đổi hệ thống lương thưởng và chế độ đãi ngộ lao động, các doanh nghiệp đã đạt hiệu quả tiết kiệm từ 20-30% tổng chi phí nhân sự. Đồng thời việc tuyển chọn đúng người, đúng việc cũng đạt hiệu quả tiết kiệm tới 20% tổng chi phí nhân sự. Đầu tư vào các nước có giá nguyên liệu thấp, nhân công rẻ và thị trường có nhiều tiềm năng. Để tiết kiệm chi phí nhân sự, công ty có thể tuyển dụng các sinh viên vừa mới tốt nghiệp ra trường đang mòn mỏi kiếm công ăn việc làm để tồn tại với mức thù lao tượng trưng hoặc cũng có thể là những ứng viên không có bằng cấp, kiến thức cơ bản, song có chút ít kinh nghiệm làm việc. Tiết kiệm nhân lực mà không cắt giảm trực tiếp chi phí lương bổng – đó là nhiệm vụ hết sức nặng nề và phức tạp đối với các ông chủ doanh nghiệp. Giải pháp đãi ngộ có thể giúp bạn thực hiện việc này một cách dễ dàng. Nhiều doanh nghiệp sử dụng hình thức trả lương “đặc biệt” nhằm giảm thiểu áp lực từ các cơ quan thuế vụ đối với quỹ lương. Phương án khác – thay đổi hệ thống lương thưởng nhằm tạo ra sự phụ thuộc tối đa giữa mức thu nhập của nhân viên với kết quả làm việc của họ. Nói chung, mục đích trước hết của các ông chủ khi sử dụng phương pháp này – đó là giảm thiểu “phần mềm” đồng thời tăng “phần cứng” cho nhân viên, vừa tiết kiệm được ngân sách cho doanh nghiệp, vừa tạo ra động lực làm việc cho người lao động. Một phương pháp khác được coi là khá hiệu quả - đó là việc chọn ra các chế độ đãi ngộ, tưởng thưởng có lợi cho doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định nào đó. Một công ty chuyên về kinh doanh thiết bị nhà bếp đã đặt kế hoạch phát triển hệ thống khách hàng mới. Và để thực hiện nhiệm vụ này, Ban giám đốc đã quyết định áp dụng chính sách đãi ngộ mới thay cho chính sách cũ đã không còn đủ sức hấp dẫn các nhân viên kinh doanh trong thời buổi cạnh tranh. Và với chính sách mới này, nhân viên vừa có thể đóng góp cho công ty vừa có cơ hội có thêm nguồn thu nhập chính đáng. 6- Sắp xếp hợp lý các phòng ban. Hoạt động này tiết kiệm tới 40% tổng chi phí nhân sự trong doanh nghiệp. Bộ máy nhân sự cồng kềnh, chức năng nhiệm vụ chồng chéo…chính là yếu tố gây lãng phí cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, khác với giải pháp hành chính, giải pháp tổ chức đòi hỏi nhiều công sức và nỗ lực từ lãnh đạo doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng phương pháp đánh giá chức năng nhiệm vụ của nhân viên. Quy trình đánh giá này bao gồm nhiều giai đoạn. Đầu tiên, cần phải phân tích kỹ lưỡng tất cả các hoạt động của nhân viên, đương nhiên là với sự tham gia, tư vấn của các trưởng bộ phận, trên cơ sở đó đưa ra các đánh giá về vai trò của nhân viên. Bước tiếp theo là loại trừ những hoạt động kém hiệu quả của nhân viên, nếu chúng thực sự không mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp hoặc hiệu quả của chúng không tương xứng với chi phí mà doanh nghiệp đã đầu tư cho cá nhân đó. Tất cả các bước này đều có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng cũng như chi phí quản lý nhân sự của doanh nghiệp: càng đánh giá đúng chức năng nhiệm vụ của nhân viên, bạn càng có cơ sở để lập ngân sách lương thưởng một cách hợp lý. III. NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM CẮT GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT HÀNG MAY MẶC Với doanh nghiệp Với mục đích hoạt động hiệu quả hơn sau những đợt kinh doanh suy thoái trên thị trường gần đây, Công ty đang tìm kiếm những cách thức khác nhau để đẩy mạnh doanh số bán hàng và tăng lợi nhuận. Công ty tiến hành chỉnh sửa các mục tiêu cắt giảm chi phí cho phù hợp với thực tế chi phí hiện tại và các chiến lược kinh doanh cụ thể. Hoạt động quản lý chi phí cần phải trở thành một bộ phận không tách rời của những chiến lược tăng trưởng kinh doanh then chốt. Công ty cần có một chiến lược cắt giảm chi phí phù hợp thông qua việc tác động vào các yếu tố sản xuất. Thu hút cán bộ có trình độ Dùng mọi biện pháp để thu hút được cán bộ có chuyên môn, cán bộ quản lý giỏi, có kinh nghiệm bổ xung, hoàn thiện bộ máy lãnh đạo các cấp để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xí nghiệp may. Năng lực cán bộ có vai trò quan trọng trong các công việc chuyên môn của công ty. Với mục tiêu phấn đấu Công ty có đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn giỏi để hoàn thành tốt các chỉ tiêu đề ra đặc biệt là các chỉ tiêu cho việc cắt giảm chi phí tăng sức cạnh tranh trên thị trường, Ban lãnh đạo Công ty cần xem xét có hướng đào tạo bồi dưỡng theo những hình thức khác nhau cho những lao động có tâm huyết với công việc và sự phát triển của Công ty. Trong năm tới, Công ty nên trích và sử dụng tốt một phần của quỹ đầu tư và phát triển cho công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ sao cho có hiệu quả để thực hiện những mục tiêu chiến lược của Công ty. 1.2. Tăng hiệu quả trong hoạt động đầu tư theo chiều rộng nhằm tiết kiệm chi phí Tận dụng mặt bằng sản xuất để nâng cao năng lực sản xuất hiện có bằng cách tăng thêm một chuyền may để đáp ứng nhu cầu khách hàng về số lượng cũng như chủng loại sản phẩm. Hiện nay, diện tích sử dụng cho xây dựng công trình trên tồng diện tích đất sở hữu của Công ty còn chưa hiệu quả, Ban giám đốc có thể thiết kế thêm một tổ sản xuất để tăng tiềm lực hoạt động. Hoạt động này nhằm nâng cao năng lực sản xuất hàng may mặc của Công ty trên diện tích đất sử dụng chưa hiệu quả để thực hiện tăng năng lực cạnh tranh trên cơ sở cắt giảm chi phí sản xuất. Công ty cũng có thể đầu tư theo chiều rộng bằng cách thu hút một số cơ sở kinh doanh may mặc nhỏ làm về tinh cho mình dựa trên thương hiệu Intimex. Đây là hình thức tăng năng lực sản xuất mà không cần đầu tư. Hiện nay, việc làm này cũng được khá nhiều công ty để ý xem xét và có những hướng đi phù hợp. Intimex là một thương hiệu chưa thực sự lớn mạnh nhưng đã từng bước khẳng định được chỗ đứng trên thị trường may mặc với sự vượt trội về chất lượng sản phẩm và kiểu mẫut thiết kế. Bởi vậy, việc làm này không những đemlại cho Công ty những lợi ích trông thấy trong tương lai mà còn có thể tiết kiệm được một khoản chi phí đáng kể. Tiến hành tìm kiếm địa điểm mới đế có thể chuyển xí nghiệp may khi địa điểm hiện tại có thể sử dụng vào mục đích khác có hiệu quả hơn. Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội nằm tại khu ga Văn Điển và nằm sâu bên trong cách mặt đường khoảng 300m, nằm tại địa thế không thuận lợi bởi nằm xa trung tâm thành phố nên mọi hoạt động diễn ra chậm chạp. Bởi vậy, Ban lãnh đạo Công ty cần tìm kiếm một mặt bằng để di chuyển cơ sở sản xuất may cho phù hợp với tình hình và yêu cầu công việc. Vì vậy, ban quản trị cấp cao cần công bố những mục tiêu cơ bản và mang tính thách thức cao nhất để toàn thể công ty hiểu rõ nhu cầu cần áp dụng một phương thức cắt giảm chi phí mới. Các công ty sẽ chỉ có thể đạt được mức tăng trưởng lợi nhuận như mong muốn bằng việc cắt giảm chi phí nhưng đồng thời vẫn gia tăng doanh số bán hàng, qua đó tạo ra một mối liên kết giữa hai nhiệm vụ quan trọng này. 1.3 Xây dựng lộ trình cắt giảm chi phí và thực hiện nó một cách nghiên túc. Xây dựng hệ thống báo cáo tài chính có trọng điểm, qua đó cung cấp các chi tiết về những khu vực chi phí cụ thể trong từng bộ phận kinh doanh. Ban quản lý giới thiệu các phương pháp mới để giám sát hoạt động của các chi phí cùng những giải pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa việc chi tiêu không đúng chỗ. Công ty lên danh sách nhóm “các chi phí trung tâm” dưới sự quản lý trực tiếp của ban quản trị cấp cao. Nhóm các chi phí này bao gồm cả các chi phí cho hoạt động chức năng chủ chốt lẫn các hoạt động kinh doanh quan trọng. Nghệ thuật quản lý chi phí nằm ở việc cân đối giữa các mục tiêu cắt giảm chi phí với sự tăng trưởng doanh thu. Đó chính là thách thức làm thế nào để cắt giảm chi phí theo những phương thức hợp lý nhất mà không làm mất đi các năng lực thiết yếu hay giảm thiểu tính cạnh tranh của công ty. “Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất để hoạt động quản lý chi phí đạt hiệu quả cao chính là sự cân đối hài hòa giữa tiết kiệm chi phí với các yếu tố tăng trưởng kinh doanh, đảm bảo việc cắt giảm chi phí đóng một vai trò thích hợp và rõ ràng trong lịch trình tăng trưởng kinh doanh của công ty. Trong đó cần chú trọng cơ chế quản lý nguồn vốn của công ty theo hướng điều chỉnh cơ cấu thu chi phù hợp với việc cắt giảm các chi phí. Bên cạnh đó, hoạt động quản lý chi phí hướng tới việc chi tiêu hợp lý, hiệu quả, đảm bảo kiểm soát được bội chi, tiến tới cân bằng vốn và doanh thu” . 2. Với Nhà nước Với năng lực sản xuất như hiện nay, các doanh nghiệp may không thể đáp ứng được nhu cầu thị trường những yêu cầu về số lượng cũng như về chất lượng sản phẩm bởi các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu với số lượng lớn và những yêu cầu rất khắt khe. Song để giảm chi phí sản xuất cho các doanh nghiệp ngành may Việt Nam quả là không đơn giản, nhất là trong tình trạng lạm phát biến động thường xuyên như hiện nay, liệu mong muốn đó có trở thành hiện thực? Để tìm lời giải cho câu hỏi này, Chính phủ đã ban hành những chính sách ưu đãi nhằm quyết những khó khăn. Trong đó tập trung vào các vấn đề sau: 2.1. Đáp ứng tốt nguồn nguyên phụ liệu cho ngành dệt may Để chủ động cung ứng nguồn nguyên liệu chính cho ngành dệt với giá cạnh tranh, dự kiến đến năm 2010, diện tích đất trồng bông vải đạt 150.000 ha, với sản lượng bông xơ 95.000 tấn, đáp ứng 70% nhu cầu ngành dệt. Để thực hiện mục tiêu này, kính đề nghị các cơ quan chức năng và các bộ ngành liên quan thực hiện các chính sách phát triển cây bông và một số chủ chương chính sách. Cần đẩy mạnh hơn nữa cho công tác đầu tư cho các vùng chuyên canh với các giống cho năng suất cao và chất lượng ổn định Phát triển hài hoà ngành kéo sợi, dệt vải, dệt kim, ngành in hoa, nhuộm và hoàn tất, đầu tư phát triển các ngành dệt công nghiệp và các loại vải đặc thù. Cụ thể: ngành sẽ đầu tư 2 nhà máy sản xuất tơ sợi tổng hợp với công suất dự kiến là 30.000 tấn/ năm, đáp ứng 65% nhu cầu vào năm 2010, đầu tư 10 cụm công nghiệp dệt, đầu tư cụm công nghiệp sản xuất phụ liệu may, phát triển cơ khí dệt may đảm bảo đủ năng lực cho ngành, tiến tới lắp rắp một số máy ngành dệt. Đây là những bước đi thể hiện sự ưu tiên đặc biệt cho ngành dệt may và tạo điềukiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành may trong tương lai Cuối cùng, nhà nước cần nhanh chóng hình thành trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu dệt may giúp các doanh nghiệp có đủ thông tin về giá cả và các loại nguyên phụ liệu để khi có đơn đặt hang thì có thể có những biện pháp chào hang trong thời gian ngắn nhất. Miễn giảm những chi phí không cần thiết và có chính sách ưu đãi hợp lý Trong tình hình kinh tế đất nước như hiện nay, một chính sách thuế hợp lý, nuôi dưỡng đầu tư và định hướng khuyến khích sự đầu tư phát triển của một ngành sử dụng nhiều lao động có tiềm năng xuất khẩu như ngành dệt may là hết sức cần thiết. Trên quan diểm đó, các đơn vị chức năng cần nghiên cứu và thực thi một số chính sách thuế va cơ chế tài chính phù hợp. Cần áp dụng thuế suất VAT 5% cho ngành kéo sợi, dệt và hoàn tất vải để giúp ngành tăng khả năng tích luỹ, tạo nguồn vốn đầu tư. Miễn thuế VAT đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất (vì sẽ được khấu trừ sau này), áp dụng thuế suất 0% đối với vải sản xuất cho nhà máy may xuất khẩu. Áp dụng thuế suất 0% đối với các hình thức uỷ thác và gia công xuất khẩu, kể cả công đoạn gia công phục vụ xuất khẩu để tăng sức cạnh tranh giá xuất khẩu Giảm tối đa thuế nhập khẩu đối với vật liệu chưa sản xuất trong nước, áp dụng mã thuế một cách nhất quán đối với vật liệu phụ ngành dệt Khuyến khích việc sản xuất vải cung ứng cho thị trường ngành may xuất khẩu nhằm tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu bằng việc áp dụng thuế suất VAT 0% đối với phần vải sản xuất trong nước nằm trong sản phẩm may xuất khẩu Hiện nay các doanh nghiệp trong ngành dệt may đặc biệt là trong khu vực tư nhân, phần lớn đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thiếu điều kiện tiếp thị thông tin thị trường và hoạt động xúc tiến xuất nhập khẩu. Các biện pháp hỗ trợ của chính phủ để giúp doanh nghiệp hội nhập xuất khẩu, tăng năng lực tiếp thị là hết sức cấp bách, nhằm tăng hiệu quả và giảm thiều một số chi phí không cần thiết, cụ thể là: Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến thị trường mới. Chính phủ tổ chức các phòng trưng bày giới thiệu sản phẩm xuất khẩu miễn phí cho các doanh nghiệp tại các thị trường lớn Ngành hải quan cho phép doanh nghiệp sản xuất vải được tổ chức kho ngoại quan để giao nhận vải, cung ứng cho doanh nghiệp may xuất khẩu dưới sự giám sát của hải quan được kể như vải xuất khẩu Giảm cước phí vận chuyển giao nhận bằng đường hàng không để có thể xuất khẩu hàng thời trang công nghiệp lô hàng nhỏ. Trong thời điểm hàng dệt may Việt Nam vẫn phải chịu mức thuế nhập khẩu vào Mỹ khá cao, Chính phủ cần khẩn trương khuyến khích các doanh nghiệp lập kênh tiêu thụ xuất khẩu vào Mỹ cho đến khi được hưởng chế độ thương mại bình thường 2.3 Ưu đãi đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp Đây là vấn đề có tính quyết định quan trọng đến việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ nhằm tăng chất lượng và sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Để làm tốt công tác này, các doanh nghiệp rất mong Chính phủ nên: Cho phép các doanh nghiệp sử dụng vốn ngân sách cho các dự án quy hoạch tổng thể các vùng nguyên liệu hay các vùng công nghiệp dệt, cho xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp dệt mới, đầu tư cho các hoạt động của các viện, các trung tâm nghiên cứu chuyên ngành. Có cơ chế vay vốn đầu tư ưu đãi với lãi suất hợp lý và thời hại dài (khoảng 10- 15 năm) vì ngành dêt may đỏi hỏi vốn lớn và khó hoàn trả trong một vài năm. Cho phép sử dụng vốn ODA không thêm điều kiện vay lại và một phần vốn ứng đặc biệt ưu đãi cho các chương trình phát triển cây bông, trồng dâu nuôi tằm, đầu tư cho các công trình xử lý nước thải. Phát triển cây bông nhằm đáp ứng nguồn nguyên liệu tại chỗ cho ngành dệt may để chủ động cung ứng nguyên liệu cho ngành dệt may với giá cạnh tranh. Những chính sách ưu đãi của chính phủ trong thời gian qua cũng như trong thời gian tới sẽ là “bà đỡ” giúp cho các doanh nghiệp dệt may không ngừng nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp cho thị trường những sản phẩm tốt nhất, hợp với thị hiếu, giá phải chăng. Đó chính là những yếu tố căn bản để giúp các doanh nghiệp dệt may thành công khi tham gia cạnh tranh và hội nhập với thị trường khu vực và thế giới KẾT LUẬN Chúng ta không thê phủ nhận kinh tế thị trường là một con đường để Việt Nam nỗ lực cố gắng không ngừng. Việt Nam phải đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục triển khai chiến lược đi tắt đón đầu, tận dụng các cơ hội và các nguồn lực sẵn có phục vụ cho quá trình trấn hưng đất nước. Cạnh tranh là một yếu tố thị trường ma các quốc gia trên thế giới đang theo đuổi và cắt giảm chi phí là một trong những phương thức nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường. Có thể nói, trong kinh doanh ngày nay, các khoản chi phí luôn phát sinh hàng ngày, thị trường vốn biến động liên tục và luôn đỏi hỏi một kế hoạch quản lý chi phí hiệu quả nhất. Thêm nữa, tình hình tài chính kinh doanh lành mạnh là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo mọi hoạt động của công ty diễn ra một cách nhịp nhàng, đồng bộ, đạt hiệu quả cao. Và sự lành mạnh đó có được hay không phụ thuộc phần lớn vào khả năng quản lý chi phí của công ty. Hiện nay, giảm chi phí là biện pháp được nhiều công ty áp dụng để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản phẩm. Tuy nhiên, cắt giảm chi phí là một lộ trình lâu dài và không hề giản đơn. Việc cắt giảm chi phí một cách sai lầm có thể gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng, và không thể kiểm soát được. Bởi vây, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Cỏ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội nói riêng cần đưa ra cho mình một chiến lược lâu dài nhằm giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích của người lao động và quyền lợi hợp pháp của các cổ đông. Để hoàn thành báo cáo này, trước hết em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Khoa học Quản lý Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân đã trang bị kiến thức cho em trong suốt quá trinh học tập. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn của mình đến TS.Nguyễn Thị Hồng Thủy cùng Quý công ty đã hướng dẫn em hoàn thành báo cáo này với tất cả tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt thành! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền, PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, Giáo trình Khoa học quản lý II – NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2007 2. Lê Anh Cường, Bùi Minh Nguyệt- Tổ chức quản lý sản xuất – NXB Lao động Xã hội – 2004 3. Bùi Xuân Thu, Đào Duy Quát, Phạm Thúc Huỳnh - Dệt may Việt Nam, Cơ hội và thách thức - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội, 2003 4. Jean Guiony - Cạnh tranh bằng giảm giá tối đa các phí tổn thương mại – NXB TP.HCM, 1995 5. Nathan S.lavin - Kế toán chi phí – NXB Thống kê - Hà Nội, 1994 6. Nguyễn Văn Nghiên - Quản lý Sản xuất – NXB Thống Kê - 1998 7. Trần Xuân Kiên – Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam – NXB Thống kê, 1998 8. Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số106, Tháng 4/2006 - Thị trường hàng may mặc của EU và khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam – 9. Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 102, Tháng 12/2005 – Kinh nghiệm của Srilanca về nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc trên thị trường EU và bài học rút ra cho Việt Nam 10. Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 86, Tháng 08/2004 - Một số giải pháp giảm giá bán hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Trung Quốc trong cạnh tranh và vận dụng tại Việt Nam 11. Tạp chí Kinh tế và phát triển - Số 85, Tháng 07/2004 - Một số ý kiến đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 12. 13. 14. 15. 16. LỜI CAM ĐOAN Họ tên sinh viên : Nguyễn Thị Hiền Lương Mã sinh viên : CQ461669 Khoa : Khoa học quản lý Lớp : Quản lý kinh tế A Khoá : 46 Hệ : Chính quy Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này do em tự nghiên cứu và tự viết. Em xin cam đoan là toàn bộ đoạn trích dẫn nguyên văn và không nguyên văn trong chuyên đề thực tập này đều đã được liệt kê đầy đủ tên tài liệu trích dẫn. Nếu sai, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Khoa Khoa học Quản lý và pháp luật hiện hành. Hà nội, ngày……..tháng……..năm 2008 Sinh viên MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Mô hình năm lực lượng của M.Chael Porter. 19 Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức của công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại Intimex Hà Nội 31 Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng so sánh giữa năm sau và năm trước. 14 Bảng 2: Sản lượng may của Việt Nam so với các nước 34 Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may các nước năm 2007 34 Bảng 4: Nhu cầu sử dụng nguyên phụ liêu đến năm 2005 và năm 2010 37 Bảng 5: Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp 38 Bảng 6: Lượng sản phẩm may mặc 42 Bảng 7: Bảng số lượng sản phẩm đem gia công ngoài 43 Bảng 8: Lượng nguyên vật liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất may theo từng quý năm 2007( VNĐ) 48 Bảng 9: Biểu tiền lương bình quân của công nhân viên ( VNĐ) 49 Bảng 10: Số lượng lao động trong công ty năm 2007 49 Bảng 11: Cơ cấu tài sản cố định ngày 31/12/2007 50 Bảng 12: Chi phí bán sản phẩm 51 Bảng 13: Chi phí quản lý doanh nghiệp sau 2 năm hoạt động 52 Bảng 14: Chi phí nguyên vật liệu trên số lượng thành phẩm (đồng) 53 Bảng 15: Kết quả sản xuất kinh doanh sau 2 năm hoạt động 53 Bảng 16: Một số chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh tính trên một đồng tiền lương 54 Bảng 17: Chi phí bán hàng /sản phẩm tiêu thụ 55 Bảng 18: Chi phí quản lý /1 đơn vị lợi nhuận toàn doanh nghiệp 56 Bảng 19: Giá trị các loại hình phân phối sản phẩm 57 Bảng 20 : Báo cáo Kết quả kinh doanh 57 Bảng 21: Tình hình trích lập và sử dụng các quỹ 58 Bảng 22: Thanh toán nợ vớí các công ty đối tác 59 Bảng 23: Các chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 66 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12179.doc
Tài liệu liên quan