Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Công thương Ba Đình

Chương I Những vấn đề chung về Thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại I/ kháI niệm và vai trò của Hoạt động thanh toán quốc tế 1. Khái niệm Thanh toán quốc tế (TTQT) là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế Quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các Quốc gia khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài khoản tại Ngân hàng. Khác với thanh toán nội địa, TTQT thường gắn liền với việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Nội tệ với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán theo luật định trong phạm vi một nước sẽ không thể vượt qua giới hạn của nó nếu như 2 bên liên quan trong hợp đồng không có một thoả thuận nào cụ thể về vấn đề đó. Do vậy khi ký kết các hợp đồng thương mại, tín dụng... các bên thường đàm phán thống nhất về đồng tiền nào được sử dụng trong giao dịch, nó có thể là đồng tiền của nước người bán hay của nước người mua hay có thể là đồng tiền của một nước thứ 3. Các đồng tiền được sử dụng trong TTQT chủ yếu là các loại ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi tự do như USD, GBP... Những năm gần đây do sự mất giá của đồng USD so với một số đồng tiền khác nên vị trí của nó trên thị trường có phần giảm sút. Do đó một số đồng tiền của các quốc gia khác như DEM, FRF, JPY ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong TTQT. Mặc dù vậy đồng USD, GBP vẫn giữ được vai trò chủ đạo của nó trong TTQT, trong mua bán ngoại tệ bởi sự tiện lợi và nhanh chóng trong việc thực hiện các giao dịch. Hiện nay phần lớn việc chi trả trong TTQT được thực hiện thông qua điện tín, bưu điện, mạng SWIFT hoặc qua các uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các Ngân hàng. Do vậy tỷ lệ trả bằng tiền mặt trong TTQT chiếm một phần không đáng kể. TTQT có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt hoạt động kinh tế đối ngoại ở vị trí hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên được quy định thành những điều kiện TTQT. Các điều kiện đó là: + Điều kiện về địa điểm: phụ thuộc vào hợp đồng các bên ký kết, địa điểm đó có thể ở nước người xuất khẩu hoặc ở nước người nhập khẩu. + Điều kiện về tiền tệ: là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời quy định cách xử lý khi giá trị của đồng tiền đó biến động. + Điều kiện về thời gian: có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn phi lợi tức và có thể tránh được những rủi ro tổn thất do tỷ giá đồng tiền thanh toán biến động. Vì vậy xảy ra mâu thuẫn đó là người được thu tiền muốn thu tiền nhanh còn người phải trả tiền thì muốn trả chậm. Trong khi đàm phán ký kết hợp đồng, việc quy định thời hạn trả tiền còn phụ thuộc vào những yếu tố như tình hình thị trường, đối tượng hàng hoá, mối quan hệ giữa các bên liên quan. + Điều kiện về phương thức thanh toán: là cách thức nhận trả tiền hàng trong từng món giao dịch, mua bán giữa người mua và người bán. Trong quan hệ mua bán Quốc tế có nhiều phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền hoặc để trả tiền như: chuyển tiền, nhờ thu, thư tín dụng... TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT. Trong các điều kiện trên, phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất. Phương thức thanh toán là người bán dùng cách nào để thu tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong quan hệ mua bán, người ta có thể chọn nhiều phương thức khác nhau để thu tiền hoặc trả tiền, nhưng xét cho cùng việc lựa chọn phương thức thanh toán nào cũng xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền đầy đủ và đúng hạn, người mua là nhận hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn. Người ta phân loại thanh toán quốc tế như sau: *) Xét về mặt kinh tế + Thanh toán mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng hoá, dịch vụ thương mại kết hợp xuất nhập khẩu dựa trên giá cả Quốc tế. Trong thanh toán mậu dịch, các bên liên quan sẽ bị ràng buộc với nhau theo theo các hợp đồng đã ký kết hoặc cam kết thương mại. Nếu 2 bên không ký hợp đồng chỉ có đơn đặt hàng thì sẽ căn cứ vào các đại diện giao dịch. + Thanh toán phi mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến hàng hoá, không mang tính chất thương mại. Đó là chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước sở tại, các chi phí vận chuyển và đi lại của các đoàn khách, chính phủ, các tổ chức, cá nhân. *) Xét về mặt hình thức + Phương thức thanh toán chuyển tiền + Phương thức thanh toán nhờ thu + Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 2. Vai trò của TTQT đối với hoạt động kinh tế đối ngoại & hoạt động kinh doanh của ngân hàng 2.1. TTQT đối với hoạt động kinh tế đối ngoại + TTQT là khâu quan trọng trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có hoạt động TTQT thì không có hoạt động kinh tế đối ngoại. + TTQT là cầu nối giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi thiết lập mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại giữa các nước thì điều kiện quan trọng không thể thiếu được là phải thiết lập quan hệ TTQT. + TTQT hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của các bạn hàng cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng thanh toán của người mua, đồng thời trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động thì khả năng thanh toán của con nợ bấp bênh, và việc thực hiện hợp đồng TTQT ngày càng nhiều thì việc tổ chức tốt hoạt động TTQT sẽ giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế đối ngoại, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển hơn. 2.2. TTQT đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đối với hoạt động Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động TTQT có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà được coi là một mặt không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho những mặt hoạt động khác của ngân hàng. + Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút thêm được khách hàng có nhu cầu TTQT về giao dịch, trên cơ sở đó mà ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình. + Nhờ đẩy mạnh hoạt động TTQT mà ngân hàng đẩy mạnh được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời quản lý được nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ TTQT qua Ngân hàng. + Hoạt động TTQT giúp ngân hàng phát triển được các nghiệp vụ như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác. + Hoạt động TTQT giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng trên cơ sở đó nâng cao uy tín và tạo niềm tin cho khách hàng. + Hoạt động TTQT giúp ngân hàng nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế trên cơ sở đó mà có thể khai thác được nguồn vốn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. + Hoạt động TTQT giúp ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp hoạt động ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với cộng đồng ngân hàng thế giới. ii/ Nội dung của hoạt động TTQT 1. Đồng tiền sử dụng trong TTQT Trong TTQT, các bên phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của một nước nào đó, vì vậy trong các hiệp định và hợp đồng đều có qui định việc sử dụng đồng tiền nào để tính toán và thanh toán đồng thời cũng qui định cách xử lý khi giá trị đồng tiền đó biến động. Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương, trong hiệp định thương mại và trả tiền giữa các nước nói chung phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: Sự so sánh lực lượng của hai bên mua và bán; Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế; Tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới; Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới. Khi tiến hành thanh toán, bên nào cũng muốn dùng đồng tiền của nước mình vì có những điểm lợi sau đây: - Có thể nâng cao địa vị đồng tiền nước mình trên thị trường thế giới; Không phải dùng đến ngoại tệ để trả nợ nước ngoài; Có thể tránh được rủi ro do tỷ giá tiền tệ nước ngoài biến động gây ra; Có thể tạo điều kiện tăng thêm xuất khẩu hàng của nước mình. Địa vị của yên Nhật Bản, Mác Đức, trong những năm gần đây được nâng cao nhờ cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán vãng lai của họ thường dư thừa, nhưng các đồng tiền này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế như bảng Anh và đô la Mỹ, vì tỷ trọng xuất nhập khẩu trong mậu dịch quốc tế của các nước này chưa lớn lắm so với Anh , Mỹ và khối lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế của thị trường ngoại hối ở các nước này không nhiều bằng thị trường London và New York. Đồng phrăng Thuỵ Sĩ từ lâu nay được coi là đồng tiền tự do “cứng” trên thế giới, nhưng vì ngoại thương của nước này chiếm tỷ trọng nhỏ trong mậu dịch quốc tế, thị trường vốn của nước này bé nhỏ, nên phrăng Thuỵ Sĩ không được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. Trong thanh toán ngoại thương, có những mặt hàng phải thanh toán bằng một loại tiền tệ nhất định thường là những hàng nguyên liệu quan trọng đã bị một số nước khống chế từ lâu về sản xuất và tiêu thụ, các nước này đã biến việc dùng loại tiền tệ đó để thanh toán thành một “tập quán quốc tế”. Ví dụ mua cao su, thiếc và một số kim loại mầu khác thường thanh toán bằng bảng Anh, dầu hoả bằng đô la Mỹ v.v.. Phân loại Người ta phân loại tiền tệ thành 04 nhóm chính: + Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền tệ chia thành 03 loại tiền sau: Tiền tệ thế giới (World currency): Hiện nay chưa có một vật nào khác thay thế vàng thực hiện chức năng này. Tiền tệ quốc tế (International currency): là các đồng tiền hiệp định thuộc các khối kinh tế và tàI chính quốc tế như SDR, ECU... Tiền tệ quốc gia (National money): là đồng tiền riêng của từng nước. Sức mua của đồng tiền này biến đổi thường xuyên & liên tục phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế của quốc gia đó. + Căn cứ vào tính chất chuyển đổi của tiền tệ chia thành 03 loại tiền sau: Tiền tệ tự do chuyển đổi (Free convertible currency): là những đồngtiền quốc gia mà pháp luật nước đó cho phép nó được chuyển đổi tự do ra các đồng tiền của nước khác. Có 02 loại tiền tệ tự do chuyển đổi: tự do chuyển đổi toàn bộ và tự do chuyển đổi từng phần. Tiền tệ chuyển nhượng (Transferable currency): là tiền tệ được quyền chuyển nhượng từ người này qua người khác qua hệ thống tàI khoản mở tạI ngân hàng. Tiền tệ clearing (Clearing currency): là tiền tệ ghi trên tài khoản và không được chuyển dịch sang một tàI khoản khác. + Căn cứ vào hình thức tồn tại của tiền tệ chia thành 02 loại tiền tệ sau: Tiền mặt (Cash): là tiền giấy của từng quốc gia riêng biệt. Trong TTQT người ta rất ít khi sử dụng loại tiền này. Tiền tín dụng (Credit currency): là tiền tàI khoản, tiền ghi sổ. Hình thức tồn tạI là các phương tiện TTQT như hối phiếu, séc, T/T, M/T.. + Căn cứ vào mục đích sử dụng của tiền tệ chia thành 02 loại tiền tệ sau: Tiền tệ tính toán (Account currency): là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả và tính toán tổng giá trị hợp đồng. Tiền tệ thanh toán (Payment currency): là tiền tệ được dùng trong thanh toán nợ nần, thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại thương. 2. Các phương tiện thanh toán quốc tế 2.1. Séc (Cheque) Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trên tờ séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy, hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản. Séc là một phương tiện TTQT được sử dụng trong thanh toán nội địa và quốc tế về cả hàng hoá, dịch vụ và phi mậu dịch. Đặc điểm của séc: + Séc chỉ được phát hành 1 bản + Séc có giá trị thanh toán như tiền + Séc có tính chất thời hạn, tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hay thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết + Người ký phát séc là chủ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng + Người hưởng lợi là người có tên trên tờ séc Các loại séc *) Căn cứ vào tác dụng lưu chuyển + Séc đích danh: là loại séc mà trên đó ghi tên người hưởng lợi, loại séc này không thể chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu. + Séc vô danh: là loại séc mà trên đó không ghi tên người hưởng séc, người hưởng lợi là bất kì người nào cầm tờ séc. + Séc theo lệnh: là loại séc ghi rõ trả theo lệnh của người thụ hưởng, séc được chuyển nhượng theo thủ tục ký hậu. Trong TTQT loại séc này được sử dụng rộng rãi. *) Căn cứ vào đặc điểm sử dụng + Séc tiền mặt: là loại séc được ngân hàng thanh toán trả bằng tiền mặt. + Séc chuyển khoản: là loại séc mà khi ngân hàng nhận được sẽ trích tiền từ tài khoản của người ký phát sang tài khoản của người khác mà không được rút bằng tiền mặt. + Séc gạch chéo: là séc mà trên mặt phải của nó có 2 gạch chéo song song kể từ góc này sang góc kia. Loại séc này chỉ được thanh toán chuyển khoản mà không được rút bằng tiền mặt. + Séc xác nhận (séc bảo chi): là loại séc mà có ký xác nhận trả bằng tiền của ngân hàng nên khả năng chi trả của tờ séc được đảm bảo chắc chắn. + Séc du lịch: được sử dụng đối với khách du lịch có tiền tại ngân hàng phát séc, trên tờ séc phải có chữ ký của người hưởng lợi và khi lĩnh tiền phải ký tại chỗ để ngân hàng kiểm tra. Loại séc này do ngân hàng phát hành và được trả tiền ở các chi nhánh hay ở ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành séc, nơi khách du lịch đến. 2.2. Hối phiếu (Bill of Exchange) Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu ngân hàng này khi nhận được nó phải trả vào một ngày xác định trong tương lai một số tiền nhất định cho người nào đó. Hối phiếu là một phương tiện thanh toán được sử dụng rộng rãi trong TTQT, nhất là trong lĩnh vực thương mại. Đặc điểm của hối phiếu: + Tính trừu tượng: trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả tiền, không nói đến nguyên nhân phát sinh công nợ. Như vậy nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng. + Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu: người trả tiền ghi trên hối phiếu bắt buộc phải trả đủ số tiền của hối phiếu cho người thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn. Luật pháp không chấp nhận bất cứ một lý do nào gây nên sự chậm trễ hoặc từ chối trả tiền của hối phiếu. + Tính lưu thông của hối phiếu: trong khi hối phiếu còn thời hạn hiệu lực thì nó có thể chuyển nhượng từ người thụ hưởng này sang người thụ hưởng khác thông qua thủ tục ký hậu ở mặt sau hối phiếu (Endorsement). Các loại hối phiếu *) Căn cứ thời hạn trả tiền + Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhận được nó do người cầm hối phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ. + Hối phiếu có kì hạn: người trả tiền phải trả số tiền ghi trên tờ hối phiếu sau một thời gian nhất định kể từ ngày người đó ký chấp nhận trả tiền trên hối phiếu hoặc kể từ ngày phát hành nó. *) Căn cứ vào chứng từ đi kèm + Hối phiếu kèm chứng từ: loại hối phiếu này được chuyển đến cho người nhập khẩu có kèm theo bộ chứng từ hàng hoá. Loại này gồm: Hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay và Hối phiếu kèm chứng từ có chấp nhận. + Hối phiếu trơn: là hối phiếu được gửi đến người trả tiền mà không kèm chứng từ hàng hoá. Trong TTQT, loại này thường dùng để thu tiền phạt, tiền bồi thường, cước phí bảo hiểm, phí vận tải, lệ phí, thủ tục phí... *) Căn cứ vào chủ thể lập hối phiếu + Hối phiếu thương mại: loại này do người xuất khẩu lập để làm chứng từ đòi tiền người nhập khẩu trong các nghiệp vụ thanh toán về hàng xuất khẩu hay cung ứng dịch vụ. Hối phiếu thường đi kèm chứng từ hàng hoá trong các hình thức thanh toán bằng L/C hay uỷ thác thu. + Hối phiếu ngân hàng: loại này do ngân hàng phát hành để đòi tiền một người nào đó hoặc chỉ định một người nhất định trả số tiền ghi trên hối phiếu. *) Căn cứ vào sự chuyển nhượng + Hối phiếu đích danh: là hối phiếu ghi rõ tên người hưởng, không kèm theo điều khoản trả theo lệnh, không chuyển nhượng được. + Hối phiếu vô danh: là hối phiếu không ghi tên người hưởng lợi và khi chuyển nhượng không phải ký hậu. + Hối phiếu theo lệnh: trong hối phiếu này phải ghi rõ trả theo lệnh của người hưởng lợi và khi chuyển nhượng phải thực hiện bằng ký hậu. 2.3. Lệnh phiếu - Kì phiếu (Promissory Note) Lệnh phiếu là một tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi theo lệnh của người này trả cho người khác quy định trong lệnh phiếu đó. Đặc điểm cơ bản của lệnh phiếu hoàn toàn trái ngược với đặc điểm của hối phiếu. Vì đặc điểm thụ động này mà trong TTQT ít dùng lệnh phiếu hơn các phương tiện thanh toán khác. Ngoài ra lệnh phiếu còn có những đặc điểm riêng sau: + Kỳ hạn của lệnh phiếu được ghi rõ trên nó. + Lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết thanh toán cho một hay nhiều người hưởng lợi. + Lệnh phiếu nhiều khi cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán. + Lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ phát ra chuyển cho người hưởng lợi. 2.4. Các phương tiện khác Ngoài các phương tiện thanh toán quốc tế thông dụng như hối phiếu, kỳ phiếu, séc nói trên trong giao dịch thương mại quốc tế người ta còn sử dụng một số các phương tiện thanh toán quốc tế khác như: Thư chuyển tiền, Điện chuyển tiền, Thẻ tín dụng, Thư tín dụng ngân hàng.. Thẻ tín dụng (Credit Card) Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán hiện đại do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình sử dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ đã cung ứng. Thẻ tín dụng cho phép chủ thể sử dụng để thanh toán cho các hàng hoá, dịch vụ với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cho phép căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp của chủ thẻ. Thẻ tín dụng là một hình thức chi tiêu trước trả tiền sau với một thời hạn ưu đãi không thu lãi (khoảng từ 10 đến 45 ngày). Chủ thẻ có thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền đã chi tiêu vào cuối mỗi kỳ tín dụng theo sao kê hàng tháng (bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu của chủ thẻ). Thẻ tín dụng theo tên của nó đã là một hình thức tín dụng nhưng khi thanh toán nó không phải dùng tiền mặt. Tuy nhiên việc cấp phát tín dụng của ngân hàng có điểm đặc biệt ở chỗ không phải khách hàng sử dụng thẻ này mua hàng ở đâu cũng được mà chủ thẻ chỉ được sử dụng thẻ ở những nơi trực thuộc ngân hàng quản lý (Cơ sở chấp nhận thẻ, Ngân hàng đại lý). Nói tóm lại, ngày nay thẻ tín dụng là phương tiện chủ yếu phục vụ thanh toán cá nhân thay tiền mặt thông dụng trên thế giới, có thể dùng để thanh toán thay thế cho việc luân chuyển một phần tiền mặt từ nơi này sang nơi khác ở trong nước và ngoài nước. Điện chuyển tiền (Telegraphic Transfer) Điện chuyển tiền là tập tin chuyển tải những thông tin nhất định liên quan đến giao dịch thanh toán quốc tế giữa các ngân hàng được lập theo tiêu chuẩn của SWIFT và được truyền nhận trên mạng IBS và/ hoặc trên mạng SWIFT. Chuyển tiền bằng điện tốc độ nhanh những chi phí cao. Ngày nay khi tham gia mạng SWIFT thì hầu hết chuyển tiền đều thực hiện qua mạng. Thư tín dụng của ngân hàng ( Bank Letter of Credit) Thư tín dụng của ngân hàng là một cam kết thanh toán có điều kiện của Ngân hàng. Chi tiết hơn, nó là một cam kết bằng văn bản của ngân hàng giao cho người bán theo yêu cầu, và trên cơ sở các chỉ dẫn của người mua thanh toán hoặc vào một ngày tương lai xác định một tổng số tiền đã định, trong một giới hạn thời gian và trên cơ sở các chứng từ đã quy định. Thư tín dụng ngân hàng là một phương thức tiện và an toàn nhất cho thanh toán xuất khẩu trong các hình thức thanh toán hiện thời (nhờ thu, thanh toán trơn, thanh toán ứng trước, thanh toán bằng séc..) 3. Các phương thức thanh toán quốc tế 3.1. Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remittance) Đây là phương thức mà trong đó khách hàng (người chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi). Thanh toán chuyển tiền bao gồm các loại: + Chuyển tiền bằng điện + Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer - M/T): Chuyển tiền bằng thư chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện nhưng tốc độ chậm hơn. Trong hạch toán chuyển tiền, ngân hàng chỉ là trung gian thực hiện theo uỷ nhiệm để hưởng hoa hồng chứ không bị ràng buộc trách nhiệm nào. Thanh toán chuyển tiền trong ngoại thương có thể là thanh toán tiền ứng trước hay thanh toán sau. Trong trường hợp thanh toán ứng trước thì rủi ro thuộc về người mua, trường hợp thanh toán sau thì rủi ro thuộc về người bán vì việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí, sự chủ động và khả năng thanh toán của người mua trong khi quyền lợi của người bán khó bảo toàn. 3.2. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of Payment) Đây là phương thức mà người bán (người xuất khẩu) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho người mua (người nhập khẩu), uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài trên cơ sở hối phiếu do người xuất khẩu ký phát. Trong TTQT khi sử dụng hình thức này các nước thường vận dụng “Bản quy tắc thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại - ICC 522” do Phòng thương mại quốc tế Paris ban hành năm 1996. Trong thanh toán uỷ thác thu, nếu người xuất khẩu không thực hiện trọn vẹn đầy đủ các cam kết với người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán ngoại thương thì người nhập khẩu có quyền từ chối thanh toán (một phần hay toàn bộ) số tiền trên giấy đòi tiền của người xuất khẩu. Trong thanh toán uỷ thác thu người xuất khẩu thông qua ngân hàng chỉ khống chế được quyền định đoạt hàng hoá mà chưa khống chế được việc trả tiền của người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể bằng cách chưa nhận bộ chứng từ hàng hoá để kéo dài việc trả tiền hoặc có thể không trả tiền khi tình hình thị trường bất lợi cho họ. Thanh toán nhờ thu gồm các loại: + Nhờ thu không kèm chứng từ (nhờ thu phiếu trơn - Clean Collection): là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào thương phiếu trơn. Thương phiếu trơn gồm một hoặc nhiều hối phiếu đã được chấp nhận hay chưa được chấp nhận, kỳ phiếu, séc, biên lai hoặc các chứng từ tương tự khác để thu tiền mà không có hoá đơn, vận đơn, giấy chứng nhận sở hữu, hoặc bất kỳ chứng từ tương tự nào đính kèm. Loại này thường dùng trong thanh toán chi trả về dịch vụ cước phí bảo hiểm, tiền phạt, tiền bồi thường... + Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection): là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu thì mới trao chứng từ để nhận hàng. Điểm khác biệt cơ bản với phương thức nhờ thu phiếu trơn là người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ số tiền còn khống chế hàng hoá đối với người nhập khẩu. Phương thức nhờ thu kèm chứng từ có 2 loại: . Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents against Acceptance - D/A): người nhập khẩu phải ký tên chấp nhận trả tiền trên hối phiếu do người xuất khẩu ký phát thì mới được ngân hàng trao bộ chứng từ hàng hóa để đi nhận hàng. . Nhờ thu thanh toán đổi chứng từ (Documents against Payment - D/P): người nhập khẩu phải trả ngay số tiền theo tờ hối phiếu trả tiền ngay do người xuất khẩu lập thì mới được quyền lấy bộ chứng từ hàng hoá từ ngân hàng. 3.3. Phương thức thanh toán thư tín dụng (Letter of Credit) Thư tín dụng (L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó một ngân hàng (ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của người nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến cho chi nhánh hay đại lý của ngân hàng này ở nước ngoài (ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) 1 L/C cho người được hưởng (người xuất khẩu) một số tiền nhất định trong thời hạn quy định với điều kiện người được hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những nội dung, điều kiện ghi trong thư tín dụng. Trong TTQT nói chung và đặc biệt là trong thanh toán ngoại thương, hình thức thanh toán bằng L/C được sử dụng rất phổ biến. Khi vận dụng vào hình thức thanh toán này các nước dựa vào “Bản điều lệ và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ - UCP 500” do Phòng thương mại quốc tế Paris ban hành năm 1994 có hiệu lực 1/10/1995. Nét đặc thù trong thanh toán L/C là việc trả tiền của ngân hàng chỉ căn cứ vào sự phù hợp của chứng từ hàng hoá với những điều kiện đã nêu trong L/C mà không trực tiếp dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Do vậy ngân hàng không bị ràng buộc bởi những điều kiện trong nội dung của L/C và việc trả tiền chỉ dựa vào L/C khi nó đã được mở. Thanh toán bằng L/C tuy có phức tạp về mặt thủ tục song các nguyên tắc thanh toán rất chặt chẽ, rõ ràng nên việc nhận hàng và trả tiền luôn được đảm bảo. Vì vậy nó được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Các loại thư tín dụng gồm: + Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable L/C): với loại này sau khi L/C được mở thì nội dung của L/C có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào, không cần có sự đồng ý của người được hưởng. Như vậy thư tín dụng này chưa phải là một cam kết trả tiền thực sự, do vậy nó rất ít được sử dụng. + Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (Irrevocable L/C): khi loại L/C này được mở thì người yêu cầu mở L/C sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ những nội dung của nó nếu không có sự đồng ý của người hưởng L/C. Như vậy tính bảo đảm của L/C này rất cao nên nó được dùng khá phổ biến trong thanh toán thương mại quốc tế. . Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (Irrevocable Confirmed L/C) đây là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ đồng thời có sự xác nhận trả tiền của một ngân hàng. Vì vậy L/C này đảm bảo rất chắc chắn khả năng thu được tiền của người xuất khẩu. Đối với người nhập khẩu khi phải mở loại L/C này thì ngoài việc phải ký vốn tại ngân hàng, trả thủ tục phí mở L/C còn phải chịu thêm phí xác nhận L/C. Đó là bất lợi cho người nhập khẩu. . Thư tín dụng không thể huỷ bỏ miễn truy đòi (Irrevocable without Recourse L/C): khi sử dụng loại L/C này, người xuất khẩu (người hưởng L/C) phải phát hành một hối phiếu ghi “không được truy đòi của người phát phiếu”. Như vậy sau khi đã thanh toán cho người hưởng lợi, ngân hàng mở L/C mất quyền truy đòi lại số tiền của L/C bất kì trong trường hợp nào. Loại L/C này được dùng phổ biến trong các hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. . Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có thể chuyển nhượng được (Irrevocable Transferable L/C): đây là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định quyền của ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người khác theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. Loại L/C này chỉ được chuyển nhượng 1 lần, chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu. + Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): thông thường khi tiến hành mua bán qua trung gian thì người ta dùng loại thư tín dụng này, sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình thì người xuất khẩu dùng L/C này để mở 1 L/C khác cho người hưởng với nội dung gần giống như L/C gốc. Như vậy L/C sau gọi là L/C giáp lưng. + Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): loại L/C này thường được dùng trong phương thức mua bán quốc tế hàng đổi hàng hoặc trong gia công quốc tế. Thư tín dụng đối ứng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi 1 thư tín dụng đối ứng với nó đã được mở. + Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại thư tín dụng được dùng để trả tiền nhiều lần trong khuôn khổ thời hạn do hợp đồng mua bán ngoại thương quy định. Sau khi thư tín dụng trước đã được trả tiền xong thì thư tín dụng kế tiếp có hiệu lực. + Thư tín dụng dự phòng (Stand - by L/C): để đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu, ngân hàng của người nhập khẩu sẽ phát hành 1 L/C trong đó cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. L/C như thế được gọi là L/C dự phòng. Nó được áp dụng phổ biến ở Mỹ trong quan hệ một bên là người đặt hàng (người mua) và một bên là người sản xuất (người bán). 3.4. Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài (Escrow Account) Đây là phương thức thanh toán mà 2 nhà xuất khẩu và nhập khẩu thỏa thuận treo tài khoản ở nước người nhập khẩu để ghi có số tiền của nhà xuất khẩu bằng tiền của nước nhập khẩu hoặc bằng ngoại tệ tự do. Số tiền này dùng để mua lại hàng của người nhập khẩu. Với phương thức này, nhà nhập khẩu phải mở L/C để mua lại hàng bởi vì nhà xuất khẩu đã có sẵn tiền trên tài khoản Escrow Account tại nước người nhập khẩu. Phương thức thanh toán này thích hợp với phương thức mua bán đền bù (Compensation Trade). 3.5. Thư bảo đảm trả tiền (Letter of Guarantee - L/G) Dùng phương thức thanh toán này tức là ngân hàng bên mua theo yêu cầu của người mua viết thư bảo đảm trả tiền cho người bán, bảo đảm sau khi hàng của bên bán đã gửi đến địa điểm của bên mua quy định sẽ trả tiền hàng. Phương thức thư bảo đảm khác với phương thức thư tín dụng là phương thức này căn cứ vào hàng hoá để trả tiền chứ không căn cứ vào chứng từ để trả tiền. Thanh toán theo phương thức này có 3 loại: Hàng đến trả tiền hoặc kiểm nghiệm xong trả tiền hay hàng đến trả tiền một phần, phần còn lại trả sau khi có kết quả kiểm nghiệm. 3.6. Phương thức ghi sổ (Open Account) là phương thức người bán mở tài khoản để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành việc giao hàng hay dịch vụ, đến từng kì (tháng, quý, năm) người mua trả tiền cho người bán. Đặc điểm của phương thức này là không có sự tham gia của ngân hàng với chức năng người mở tài khoản và thực chi thanh toán, chỉ mở tài khoản đơn biên, chỉ có 2 bên tham gia là người bán và người mua. 4. Các nguồn luật điều chỉnh trong thanh toán quốc tế Những nguồn luật điều chỉnh hối phiếu: Để thống nhất sự giải thích về hối phiếu, trong phạm vi quốc tế có hai Công ước. Công ước quốc tế đầu tiên ký năm 1930 tạI Giơ-ne-vơ, trong đó có ban hành một luật điều chỉnh về hối phiếu gọi là “ Luật điều chỉnh về hối phiếu” (Uniform Law for Bill of Exchange, viết tắt là ULB 1930). ULB mang tính chất khu vực thuộc Châu Âu. Uỷ ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, kỳ họp thứ 15, Newyork, từ ngày 26 tháng 7 đến 06 tháng 8 năm 1982 cũng ban hành văn kiện số A/CN, 9/211 ngày 18/02/1982 về Kỳ phiếu và Hối phiếu quốc tế (International Bills of Exchange and Promissory notes, document No.A/CN, 9/211 18 February 198._.2). Văn kiện này mang tính chất toàn thế giới. Pháp tham gia Công ước Giơ-ne-vơ năm 1930, nhưng chính thức áp dụng luật ULB vào năm 1936. Việt nam là thuộc địa của Pháp, nên lúc đó cũng phảI áp dụng luật này từ năm 1937 trở đi theo nghị định của Toàn quyền Pháp ở Đông Dương. Đến 1962 ở Mỹ có Luật thương mại thống nhất (Uniform Từ sau ngày hoà bình lập lại năm 1954, trong quan hệ thanh toán với các nước tư bản chủ nghĩa, nước ta sử dụng hối phiếu trong khuôn khổ của ULB, mặc dù chúng ta không phải là thành viên của Công ước Giơ-ne-vơ năm 1930. Vì vậy, việc giải thích hối phiếu ở nước ta cũng chỉ nên dựa vào ULB hơn là các văn bản pháp lý khác, vì ULB được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Những văn bản khác thường gặp là: Luật hối phiếu 1882 của Anh (Bill of Exchange Act of 1882), đây là nguồn luật điều chỉnh hối phiếu ban hành sớm nhất trên thế giới và Luật thương mại thống nhất 1962 của Mỹ (Uniform Commercial Codes of 1962 - UCC). Hai văn bản này mang tính pháp lý quốc gia. Sự khác nhau chính trong các nhóm luật này là: Nhóm luật quốc tế (ULB 1930,Văn kiện về Hối phiếu và Kỳ phiếu quốc tế số A/CN, 9/211 ngày 18/2/1982) quy định các điều khoản mang tính chính xác cao hơn nhóm luật quốc gia Anh, Mỹ. Các điều khoản mang tính chất bắt buộc trong lưu thông hơn tuỳ ý. Các nguồn luật điều chỉnh về séc . Công ước Geneva về séc được ký vào năm 1931, được nhiều nước áp dụng trên thế giới. . Luật thương mại quốc tế về séc do Uỷ ban thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, kỳ họp thứ 15 ban hành ngày 18/2/1982 (số A/CN.9/212) Các nguồn luật áp dụng trong các phương thức thanh toán quốc tế Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của nhờ thu là “Quy tắc thống nhất về nhờ thu” số 522 của Phòng Thương mại Quốc tế, bản sửa đổi năm 1996 (Uniform Rules for the collection, 1996 Revision No. 522, ICC), có hiệu lực từ ngày 01/1/1997. Muốn sử dụng bản quy tắc này, hai bên mua bán phải thống nhất quy định trong hợp đồng. Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của tín dụng chứng từ là “Quy tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 500, bản sửa đổi năm 1994” của Phòng Thương mạI quốc tế (Uniform Customs and Practice for Documentary Credits ICC, 1994 Revision, No. 500). Bản quy tắc này mang tính chất pháp lý tuỳ ý, có nghĩa là khi áp dụng nó các bên đương sự phảI thoả thuận ghi vào L/C, đồng thời có thể thoả thuận khác, miễn là có dẫn chiếu. Những nội dung chính của bản quy tắc này bao gồm những vấn đề sau đây: Nguyên tắc chung và định nghĩa về tín dụng chứng từ; Hình thức và thông báo thư tín dụng; Trách nhiệm cuả ngân hàng; Chứng từ thanh toán; Những điều khỏan khác như: quy định về số lượng và số tiền, giao từng phần, ngày hết hiệu lực, cách bốc xếp hàng, xuất trình chứng từ thanh toán.. Hiện nay ở nước ta, các ngân hàng thương mại và các đơn vị kinh doanh ngoại thương đã thống nhất sử dụng bản Quy tắc này như một văn bản pháp lý điều các loại thư tín dụng được áp dụng trong thanh toán quốc tế giữa Việt Nam và các nước ngoài. Ngoài ra còn có các quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo tín dụng chứng từ (URR) của (ICC) (Uniform Rules for Bank to bank Reimbusement under Documentary Credits, N-525, 1996, ICC) Chương II Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại NHCT ba đình I/ vàI nét về NHct ba đình và Tình hình hoạt động kinh doanh của nó 1. Một số nét về NHCT Ba Đình NHCT Ba Đình được thành lập năm 1961 với tư cách là 1 chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quận Ba Đình. Vì vậy NH hoạt động với 2 chức năng là quản lý nhà nước và kinh doanh tiền tệ. Nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/03/1988 đã tạo tiền đề cho quá trình đổi mới hoạt động Ngân hàng Sau quyết định 402/CT của Chủ tịch HĐBT ngày 14/11/1991 về việc thành lập NHCT Việt Nam, Ngân hàng Ba Đình trở thành chi nhánh của NHCT Hà Nội. Theo quyết định số 93/NHCT-TCCB của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam (1/4/1994), NHCT Ba Đình hoạt động với tư cách là chi nhánh của NHCT Việt Nam, có trách nhiệm tiến hành các hoạt động kinh doanh theo các quyết định mà NHCT Việt Nam ban hành về việc áp dụng các hình thức huy động vốn, cho vay, thanh toán, áp dụng biểu lãi suất như đã quy định và tiến hành các dịch vụ Ngân hàng khác. Từ đó đến nay, hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình được ổn định và phát triển theo 4 định hướng lớn của ngành, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ, đưa lại hiệu quả kinh doanh cao hơn so với những năm trước. Theo quy định mới đây NHCT Ba Đình là một chi nhánh Ngân hàng phụ thuộc NHCT Việt Nam chứ không phải là trực thuộc. 2. Cơ cấu, tổ chức của NHCT Ba Đình Chi nhánh NHCT Ba Đình là chi nhánh khá lớn mạnh với số cán bộ, công nhân viên hơn 300 người, trong đó hơn 60% có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. Chi nhánh có Ban giám đốc gồm 5 người: - 1 giám đốc phụ trách chung và đồng thời trực tiếp chỉ đạo hoạt động tín dụng - 4 phó giám đốc phụ trách riêng từng phòng ban và những lĩnh vực cụ thể Chi nhánh có 7 phòng nghiệp vụ và 1 phòng giao dịch: ơ Phòng kinh doanh đối nội, gồm 3 nhóm: + nhóm tín dụng quốc doanh (tín dụng công nghiệp và tín dụng thương nghiệp) + nhóm tín dụng ngoài quốc doanh + nhóm thống kê tổng hợp Ngoài ra có các tổ cho vay đặt tại các phường trong quận. Hoạt động chủ yếu của phòng là cho vay, tiến hành các hoạt động tiếp thị, tổng hợp thông tin và báo cáo. ư Phòng kinh doanh đối ngoại thực hiện hoạt động thanh toán với nước ngoài như mở L/C, thông báo L/C, bảo lãnh.., dịch vụ kiều hối, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán thẻ tín dụng, kinh doanh vàng bạc đá quý và các dịch vụ khác. đ Phòng kế toán tài chính làm dịch vụ mở tài khoản, quản lý tài khoản, tiền gửi, thực hiện thanh toán giữa các tổ chức kinh tế, hạch toán chi nhánh. ¯ Phòng nguồn vốn làm nhiệm vụ khai thác, huy động các nguồn tiền gửi với 9 Quỹ tiết kiệm đặt rải rác ở các phường trong quận. ° Phòng ngân quỹ thực hiện hoạt động thu chi tiền mặt, ngân phiếu và các quỹ tiết kiệm, làm dịch vụ quản lý các chứng từ có giá. ± Phòng kiểm soát nội bộ làm nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động của chi nhánh về các mặt hoạt động của Ngân hàng, việc thực hiện các quy định, quy chế của nhà nước, của NHCT Việt Nam. ² Phòng tổ chức hành chính làm công tác điều động, thực hiện quản lý nhân sự, hành chính, mua sắm tài sản, trang thiết bị. ³ Phòng giao dịch Cầu Diễn thực hiện các nghiệp vụ kế toán, tín dụng, kho quỹ. 3. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình năm 2001 3.1 Về công tác huy động vốn *) Tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2001 đạt 1271 tỷ tăng 18,2% so cuối năm 2000. Trong đó: + Vốn huy động VND đạt 1088 tỷ tăng 21% so cuối năm 2000 + Vốn huy động ngoại tệ quy VND đạt 183 tỷ tăng 3% so cuối năm 2000 *) Tổng nguồn vốn huy động bình quân năm 2001 đạt 1149 tỷ tăng 18,17% so bình quân của năm 2000. Trong đó: + Vốn huy động bình quân VND đạt 975 tỷ tăng 18,17% + Vốn huy động bình quân ngoại tệ quy VND đạt 174 tỷ tăng 16% *) Về cơ cấu huy động vốn đến cuối năm 2001: + Tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt gần 454 tỷ chiếm 35,7% + Tiền gửi tiết kiệm của dân cư và huy động bằng kỳ phiếu đạt gần 817,6 tỷ chiếm 64,31%, trong đó kỳ phiếu đạt 73,32 tỷ chiếm 5,76% 3.2 Về công tác sử dụng vốn *) Tổng dư nợ và đầu tư kinh doanh bình quân của năm 2001 đạt 593 tỷ tăng 18,6% so với sử dụng vốn bình quân năm 2000. Trong đó: + Cho vay ngắn hạn bình quân đạt 472 tỷ tăng 19,54% + Cho vay trung dài hạn bình quân đạt 104 tỷ tăng 17,31% *) Tổng dư nợ cuối năm 2001 đạt 552 tỷ so với cuối năm 2000 giảm 4 tỷ. Trong đó: + Dư nợ ngắn hạn 444 tỷ giảm 12 tỷ + Dư nợ trung dài hạn 108 tỷ tăng 8 tỷ + Nợ quá hạn 15,286 tỷ, chiếm tỷ trọng 2,7% tổng dư nợ, giảm 0,6% so năm 2000 Nhìn chung năm 2001 tốc độ cho vay cả ngắn hạn và trung dài hạn đều tăng từ 17 đến xấp xỉ 20%, song dư nợ cuối năm giảm 0,72% so với dư nợ cuối năm 2000. Lý do là các doanh nghiệp bị tác động tâm lý về thuế giá trị gia tăng nên trong quý 4 năm 2001 tập trung tiêu thụ hàng tồn kho, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu và nguyên liệu ngoại nhập. II. Thực trạng của một số phương thức TTQT tại NHCT BaĐình Các phương thức thanh toán tại NHCT Ba Đình ngày càng đa dạng, tuy nhiên các phương thức chủ yếu được sử dụng ở Chi nhánh gồm: 1. Nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền Quy trình thanh toán chuyển tiền đi Quy trình thanh toán chuyển tiền đi ra ngoài hệ thống NHCT Việt Nam (áp dụng cho tất cả các chi nhánh) Người chuyển Người hưởng ơ N.H.C.T Việt Nam đ ư ưa ± Chi nhánh Ngân hàng người hưởng đa ¯a ¯ Ngân hàng đại lý loại A ° Ghi chú: ơ Người chuyển tiền, người hưởng có thoả thuận thanh toán ư Người chuyển tiền lệnh cho Chi nhánh trả tiền theo thoả thuận ưa Chi nhánh ghi nợ tài khoản khách hàng đ Chi nhánh lệnh cho NHCT Việt Nam thanh toán đa NHCT Việt Nam báo nợ Chi nhánh ¯ NHCT Việt Nam lệnh cho Ngân hàng đại lý thanh toán cho người hưởng ¯a Ngân hàng đại lý ghi nợ tài khoản NOSTRO của NHCT Việt Nam ° Ngân hàng đại lý A thanh toán cho Ngân hàng của người hưởng ± Ngân hàng người hưởng báo có cho người hưởng Tiếp nhận hồ sơ liên quan đến việc chuyển tiền bao gồm các chứng từ sau: + Hợp đồng mua bán ngoại thương + Bộ chứng từ gửi hàng của người xuất khẩu gửi đến + Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu Thanh toán viên kiểm tra thấy phù hợp thì vào tập tin MT100 để chuyển về Hội sở NHCT chuyển tiếp ra nước ngoài cho người hưởng. Khách hàng có nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ lập chứng từ gửi đến Chi nhánh (Ngân hàng khởi tạo lệnh thanh toán), Chi nhánh kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ, số dư tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng của Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng lập bảng kê ngoại tệ trên máy vi tính, kiểm soát và tính ký hiệu mật sau đó truyền bảng kê bằng Modem về phòng thông tin điện toán NHCT Việt Nam. Phòng thông tin điện toán NHCT Việt Nam chuyển tiếp tập tin bằng Modem về Phòng TTQT tại Hội sở NHCT Việt Nam, làm thủ tục kiểm tra ký hiệu mật, phục hồi chứng từ và kiểm soát số dư tài khoản điều chuyển vốn hoặc hạn mức tín dụng của Chi nhánh (theo từng loại ngoại tệ) - Nếu Ngân hàng nhận là Chi nhánh NHCT thì NHCT sẽ ghi nợ cho Ngân hàng khởi tạo và ghi có cho Ngân hàng nhận đồng thời lập chứng từ trên máy vi tính, kiểm soát tập tin và tính ký hiệu mật (đóng vai trò Ngân hàng khởi tạo) và chuyển tiếp tập tin về Phòng thông tin điện toán NHCT Việt Nam để chuyển tiếp cho Chi nhánh Ngân hàng nhận thanh toán qua Modem. Ngân hàng sau khi nhận được tập tin thanh toán ngoại tệ do Phòng thông tin điện toán NHCT Việt Nam chuyển đến tiến hành kiểm tra ký hiệu mật, phục hồi chứng từ và hạch toán. - Nếu Ngân hàng nhận thanh toán là Ngân hàng khác hệ thống trên lãnh thổ Việt Nam hoặc Ngân hàng nước ngoài thì Phòng TTQT hội sở kiểm tra ký hiệu mật, phục hồi chứng từ, dùng chứng từ đó làm căn cứ để lập lệnh thanh toán chuyển tiếp cho Ngân hàng nhận thông qua mạng SWIFT hay TELEX. Quy trình thanh toán chuyển tiền đến Quy trình thanh toán chuyển tiền đến trong hệ thống NHCT Việt Nam (áp dụng cho tất cả các chi nhánh) Người chuyển Người hưởng ơ N.H.C.T Việt Nam ư ưa ± Ngân hàng chuyển Chi nhánh ° Ngân hàng trung gian ¯ đa đ Ghi chú: ơ Người chuyển tiền, người hưởng có thoả thuận thanh toán ư Người chuyển tiền lệnh cho Ngân hàng của mình trả tiền theo thoả thuận ưa Ngân hàng chuyển tiền ghi nợ tài khoản khách hàng đ Ngân hàng chuyển tiền thanh toán qua Ngân hàng trung gian đa Ngân hàng trung gian ghi nợ Ngân hàng chuyển ¯ Ngân hàng trung gian chuyển tiền qua NHCT Việt Nam ° NHCT Việt Nam báo có cho Chi nhánh ± Chi nhánh thanh toán cho người hưởng Đối với nghiệp vụ này hiện nay NHCT Ba Đình đã hoàn toàn thực hiện qua mạng máy tính. Khi nhận được lệnh chuyển tiền đến từ các Ngân hàng nước ngoài hoặc các Ngân hàng khác hệ thống trên lãnh thổ Việt Nam cho người nhận có giao dịch với Chi nhánh NHCT thì Phòng TTQT hội sở chính căn cứ vào thanh toán chuyển tiền đến lập lệnh thanh toán, kiểm soát, tính ký hiệu mật và chuyển bằng Modem về Phòng thông tin điện toán NHCT Việt Nam để chuyển tiếp cho Chi nhánh nhận. Tại đây sau khi nhận được bức điện, tiến hành giải mã, kiểm soát, phục hồi chứng từ và hạch toán theo nội dung của bức điện. Chi nhánh không có trách nhiệm gì giữa các bên liên quan mà chỉ làm trung gian chuyển tiền và có trách nhiệm pháp lý với Ngân hàng phát lệnh chuyển tiền. Kết quả đạt được của nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền Biểu 3: Kết quả TTQT theo phương thức chuyển tiền tại NHCT Ba Đình Đơn vị: 1000 USD Năm Tổng kim ngạch chuyển tiền Tốc độ tăng hàng năm Tỷ trọng trong tổng phương thức thanh toán 1999 4.728 9,4% 2000 8.556 + 3.828 + 81% 16,4% 2001 19.695 + 11.139 + 130% 34% NSL: Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại năm 1999, 2000,2001 Ta thấy rằng kim ngạch thanh toán bằng phương thức chuyển tiền năm 2000 đạt 8.556.000 USD, tăng gấp 1,8 lần năm 1999 với tỷ lệ tăng tương đối là +81%. Đến năm 2001 kim ngạch thanh toán theo phương thức này đạt 19.695.000 USD, tăng trên 2 lần so với năm 2000 và tăng trên 4 lần so với năm 1999, với tỷ lệ tăng tương đối của năm 2001/2000 là +130%. Bảng số liệu cũng cho thấy tỷ trọng của phương thức chuyển tiền so với tổng phương thức thanh toán đều tăng qua các năm, nếu năm 1999 tỷ trọng này là 9,4%, năm 2000 là 16,4%, thì đến năm 2001 đã tăng đến 34%, tăng gần 4 lần so với năm 1999. Có được kết quả này là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là trong những năm trước đây thực hiện việc chuyển tiền trong thanh toán không chỉ có Ngân hàng mà còn có sự cạnh tranh của Bưu điện. Ngoài ra việc chuyển tiền còn diễn ra trong thị trường ngầm của nền kinh tế. Tuy nhiên càng ngày người ta càng nhận thấy rằng thực hiện việc chuyển tiền qua Ngân hàng thuận lợi, an toàn hơn rất nhiều so với những hình thức chuyển tiền khác. Đồng thời với việc tăng của phương thức chuyển tiền này là do khách hàng của Chi nhánh và các đối tác nước ngoài đã có bề dày quan hệ với nhau nên đã có sự tin tưởng lẫn nhau, do vậy mà có sự gia tăng mạnh của phương thức chuyển tiền. Mặt khác lúc này NHCT Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đại lý với trên 40 nước. Điều này giải thích vì sao tỷ trọng thanh toán theo phương thức chuyển tiền ngày càng tăng. Biểu 3.1: Kim ngạch thanh toán chuyển tiền đến ở NHCT Ba Đình Năm 1999 2000 2001 00/99 01/00 Số món 676 312 410 -54% +31% Số tiền (1000 USD) 500 1200 2100 +140% +75% Tỷ trọng trong phương thức chuyển tiền 10,6% 14% 10,7% NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1999,2000,2001 Bảng số liệu cho thấy năm 2000 có sự sụt giảm về số lượng chỉ còn 312 món (giảm -364 món) với tốc độ giảm -54%, tuy nhiên về doanh số thì có sự gia tăng mạnh gấp hơn 2 lần năm 1999 đạt 1.200.000 USD với tốc độ tăng +140%. Giải thích về nguyên nhân của sự gia tăng về doanh số và giảm về số lượng là do diễn biến không ổn định của tỷ giá trong năm 2000, cung cầu ngoại tệ trên thị trường không cân bằng, nhiều cá nhân và tổ chức có xu hướng giữ ngoại tệ trong khi đó hầu hết các món là do khách hàng ở nước ngoài chuyển về trong nước theo dạng kiều hối. Do đó mà số lượng khách hàng sử dụng phương thức chuyển tiền đến giảm qua đó số lượng cũng giảm theo. Nhưng cùng với việc phát triển bảo lãnh dự thầu mà các nhà thầu chuyển tiền qua Chi nhánh với những món tiền khá lớn, do đó mà doanh số chuyển tiền qua Ngân hàng tăng mạnh. Đến năm 2001 lại có sự gia tăng mạnh về số lượng và trị giá, số lượng đạt 410 món tăng +98 món với tốc độ tăng +31% so với năm 2000, trị giá của các món chuyển tiền đến đạt 2.100.000 USD gấp gần 2 lần năm 2000, với tốc độ tăng +75% chậm hơn so với năm 2000. Sỡ dĩ là vì Ngân hàng luôn là người bạn đáng tin cậy đối với khách hàng, uy tín của Ngân hàng dần được tạo lập. Khách hàng nhận ra rằng việc chuyển tiền qua Ngân hàng dễ dàng, an toàn và nhanh chóng cộng với sự nhiệt tình, ân cần của các thanh toán viên đã làm tăng nhanh doanh số chuyển tiền. Qua đó phí thu từ hoạt động TTQT tăng qua các năm và đã góp phần tăng thêm lợi nhuận cho Ngân hàng. Biểu 3.2: Kim ngạch thanh toán chuyển tiền đi ở NHCT Ba Đình Năm 1999 2000 2001 00/99 01/00 Số món 94 233 387 +148% +66% Số tiền (1000 USD) 4.228 7.356 17.595 +74% +139% Tỷ trọng trong phương thức chuyển tiền 89,4% 86% 89,3% NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1999,2000,2001 Ta thấy qua các năm 1999, 2000, 2001 số lượng và doanh số của kim ngạch thanh toán chuyển tiền đi đều có sự gia tăng mạnh. Năm 2000 số món là 233 món, tăng +94 món với tốc độ tăng +148%, và doanh số đạt 7.356.000 USD, tăng +3.128.000 USD với tốc độ tăng +74% so với năm 1999. Đến năm 2001 con số này tăng lên rất nhiều, số món đạt 387 món, tăng +154 món với tốc độ tăng +66% và trị giá của tổng các món đạt 17.595.000 USD, tăng +10.239.000 USD với tốc độ tăng +139% so với năm 2000. Như vậy qua 2 năm số lượng chuyển tiền đi đã tăng lên khoảng gần 2 lần và giá trị cũng tăng lên trên 2 lần. Giải thích cho sự gia tăng đó là vì chúng ta là nước nhập siêu, mặc dù mấy năm gần đây cũng đã có giảm nhưng vẫn ở trong tình trạng là một nước nhập siêu. Do đó việc chuyển tiền ra nước ngoài luôn chiếm tỷ lệ lớn, thêm vào đó là việc mở L/C nhập cũng kéo theo doanh số chuyển tiền đi tăng. Các doanh nghiệp nhập khẩu ngoài việc mở L/C nhập thì cũng thường sử dụng phương thức chuyển tiền để tạo thuận lợi trong việc quay vòng vốn nhanh, tránh tình trạng vốn bị đọng. ở phương thức thanh toán chuyển tiền đi ta thấy doanh số của nó bao giờ cũng cao hơn so với phương thức chuyển tiền đến. Điều này thể hiện ở tỷ trọng của phương thức chuyển tiền đi trong tổng thanh toán phương thức chuyển tiền năm 1999 chiếm 89,5%, năm 2000 chiếm 86%, năm 2001 chiếm 89,3%; còn chuyển tiền đến năm 1999: 10,6%, năm 2000: 14%, năm 2001: 10,7%. Phương thức chuyển tiền tỏ ra thuận lợi vì thủ tục đơn giản, không có các chứng từ phức tạp, người mua và người bán không phải gặp nhau để thanh toán. Nhưng nhược điểm lớn nhất là độ an toàn trong thanh toán mậu dịch, không bảo đảm quyền lợi cho người bán hàng vì việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Vì vậy phương thức này chủ yếu để thanh toán phi mậu dịch, thanh toán các chi phí liên quan đến xuất nhập khẩu, kiều hối, trả nợ... Nếu áp dụng trong thanh toán xuất nhập khẩu thì chủ yếu là với khách hàng quen biết có tín nhiệm cao. 2. Nghiệp vụ thanh toán nhờ thu 2.1 Quy trình thanh toán nhờ thu đi Quy trình Thanh toán nhờ thu đi trong hệ thống NHCT Việt Nam (áp dụng cho tất cả các chi nhánh) à Người mua Người bán ơ ư N.H.C.T Việt Nam đ ´ ± ° ³ ² Ngân hàng người mua Chi nhánh ¯ Ghi chú: ơ Người mua, người bán ký hợp đồng ngoại thương ư Người bán thực hiện dịch vụ hoặc giao hàng đ Người bán trình chứng từ nhờ thu qua Chi nhánh ¯ Chi nhánh gửi chứng từ nhờ thu (trực tiếp hoặc qua NHCT Việt Nam) ° Ngân hàng người mua thông báo nhờ thu cho người mua ± Người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán đổi chứng từ ² Ngân hàng người mua thanh toán cho Chi nhánh qua NHCT Việt Nam ³ NHCT Việt Nam báo có cho Chi nhánh ´ Chi nhánh thanh toán cho người bán à Người mua đi nhận hàng *) Tiếp nhận và xử lý chứng từ Chi nhánh được phép trực tiếp nhận chứng từ nhờ thu của khách hàng và trực tiếp gửi bộ chứng từ kèm chỉ dẫn thanh toán đến Ngân hàng của người trả tiền theo thông lệ Quốc tế, theo phương thức chuyển phát nhanh qua bưu điện. Chỉ dẫn đòi tiền phải chuyển vào tài khoản NOSTRO của NHCT Việt Nam tại nước ngoài. Hồ sơ nhờ thu của khách hàng gồm: + Giấy yêu cầu nhờ thu kèm bảng kê chứng từ + Các chứng từ liên quan đến nhờ thu Khi nhận được chứng từ của khách hàng, thanh toán viên cần kiểm tra đối chiếu số lượng và các loại chứng từ với phần bảng kê chứng từ của khách hàng, phải đảm bảo đúng đủ về mặt hình thức, không cần kiểm tra nội dung chứng từ. Các thông tin sau trong hồ sơ nhờ thu của khách hàng phải được chỉ rõ: . Nhờ thu thanh toán ngay hay nhấp nhận thanh toán . Số tiền và loại tiền thanh toán ngay hay chấp nhận . Giao chứng từ khi thanh toán toàn bộ hay thanh toán từng phần . Tên, địa chỉ đầy đủ của người trả tiền và Ngân hàng của người trả tiền Sau khi kiểm tra và xác định đầy đủ các yếu tố trên, Chi nhánh hoàn thiện chứng từ để gửi đi nhờ thu: - Ký hiệu các chứng từ tài chính liên quan - Lập lệnh nhờ thu (bảng kê chứng từ kèm chỉ dẫn hoàn tiền) Tất cả các lệnh nhờ thu của Ngân hàng trước khi gửi đi đều đánh số tham chiếu và thực hiện quy định thống nhất 9 kí tự: xxx.CL.xx.xxxx, trong đó 3 kí tự đầu là mã liên hàng của Chi nhánh, 2 kí tự tiếp thể hiện nghiệp vụ liên quan, 2 kí tự sau thể hiện năm phát sinh nghiệp vụ và 4 kí tự cuối thể hiện số thứ tự phát sinh trong năm. *) Gửi chứng từ và xử lý thông tin Ngay khi chứng từ hoàn thiện, thanh toán viên có trách nhiệm gửi ngay bộ chứng từ bằng phương thức chuyển phát nhanh qua bưu điện đến Ngân hàng nhận chứng từ theo đúng tên và địa chỉ quy định trong lệnh nhờ thu. Nếu Chi nhánh chưa chắc chắn với khả năng thực hiện nghiệp vụ của mình, trước khi gửi chứng từ đi có thể liên hệ với Phòng TTQT NHCT Việt Nam để nhờ chuyển tiếp đến Ngân hàng nhận thu hộ. Quá trình thanh toán nếu nhận được thông tin nào về tình trạng của bộ chứng từ thì phải xem xét kỹ các thông tin, đối chiếu với hồ sơ lưu, nếu cần phải có thông tin tra soát Ngân hàng nước ngoài qua TELEX, hay MT N99 hoặc nhờ NHCT Việt Nam chuyển tiếp đến Ngân hàng nhận chứng từ. Sau 15 ngày kể từ ngày gửi chứng từ nếu không nhận được báo có hoặc hồi âm từ Ngân hàng nhận chứng từ, Chi nhánh phải tra soát và nhắc nhở thanh toán của Ngân hàng này. 2.2 Quy trình thanh toán nhờ thu đến Quy trình Thanh toán nhờ thu đến trong hệ thống NHCT Việt Nam (áp dụng cho tất cả các chi nhánh) (11) Người mua Người bán ơ ư N.H.C.T Việt Nam đ à ¯ ° ² ± Chi nhánh Ngân hàng người bán ´ ³ Ngân hàng Khác ¯a °a Ghi chú: ơ Người mua, người bán ký hợp đồng ngoại thương ư Người bán giao hàng đ Ngân hàng người bán trình chứng từ nhờ thu cho Ngân hàng của mình ¯ Ngân hàng người bán gửi chứng từ cho Chi nhánh qua NHCT Việt Nam ¯a Ngân hàng người bán gửi chứng từ cho Chi nhánh qua Ngân hàng khác ° NHCT Việt Nam gửi chứng từ cho Chi nhánh °a Ngân hàng khác gửi chứng từ cho Chi nhánh ± Chi nhánh thông báo nhờ thu cho người mua ² Người mua thanh toán (chấp nhận) nhận chứng từ ³ Chi nhánh thanh toán cho Ngân hàng bán qua NHCT Việt Nam ´ NHCT Việt Nam thanh toán cho Ngân hàng bán à Ngân hàng người bán thanh toán cho Ngân hàng bán (11) Người mua đi nhận hàng *) Tiếp nhận và kiểm tra chứng từ Chi nhánh khi nhận được chứng từ nhờ thu (gồm cả nhờ thu trơn hoặc nhờ thu kèm chứng từ) do Ngân hàng hay các TCTD trong nước và nước ngoài gửi đến, có trách nhiệm là phải: + Kiểm tra lệnh nhờ thu của người gửi chứng từ, lệnh nhờ thu phải đảm bảo cung cấp các chỉ dẫn, hướng dẫn một cách chính xác, đầy đủ, toàn diện như: tên, địa chỉ của người thanh toán, người gửi chứng từ, người được uỷ thác (nếu có). + Chi nhánh chỉ được phép thực hiện theo đúng những chỉ dẫn được đưa ra trong lệnh nhờ thu. + Nếu chỉ dẫn không rõ ràng hoặc vì một lý do nào đó không thể thực hiện được các chỉ dẫn thì Chi nhánh phải tìm cách báo ngay cho bên gửi chứng từ. + Chi nhánh không có trách nhiệm phải kiểm tra nội dung của bất kì chứng từ nào liên quan đến nhờ thu, tuy nhiên trước khi thông báo hoặc gửi chứng từ cho người trả tiền, cán bộ thanh toán phải đối chiếu số lượng hoặc loại chứng từ thực tế nhận được với bảng liệt kê chứng từ của người lập lệnh nhờ thu. Nếu phát hiện thấy sự khác biệt hoặc thiếu mất chứng từ so với bản kê thì phải báo ngay cho bên gửi chứng từ cho Chi nhánh. *) Thông báo nhờ thu và xử lý chứng từ Sau khi nhận được và kiểm tra số lượng, loại chứng từ như quy định trên, Chi nhánh tiến hành lập thông báo nhờ thu gửi cho khách hàng, người có trách nhiệm thanh toán hay chấp nhận thanh toán như chỉ dẫn trong lệnh nhờ thu. + Đối với chứng từ nhờ thu thanh toán ngay (D/P) thì Chi nhánh chỉ giao chứng từ cho khách hàng khi nhận đủ số tiền phải thanh toán cho người hưởng theo chỉ dẫn trong lệnh đòi tiền và các khoản dịch vụ phí liên quan. Đối với nhờ thu phiếu trơn thanh toán từng phần được chấp nhận, Ngân hàng chỉ giao chứng từ cho khách hàng khi toàn bộ số tiền đã được thanh toán đủ + Đối với chứng từ nhờ thu chấp nhận (D/A) thì Chi nhánh chỉ giao chứng từ khi nhận được sự chấp nhận thanh toán của người trả tiền, thủ tục chấp nhận về hình thức phải hoàn hảo và chính xác theo thông lệ Quốc tế. Chi nhánh không phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn, chân thực hay thẩm quyền của bất kì ai chấp nhận thanh toán. + Xử lý các vướng mắc Quá trình nhận chứng từ thông báo và nhận tiền thanh toán từ người trả tiền nếu có vướng mắc cần trao đổi, Chi nhánh trực tiếp liên lạc với người gửi chứng từ cho mình (bằng thư, cable, hay qua bảng kê MT N99 trên mạng thanh toán nội bộ) tuỳ theo mức độ quan trọng và tính cấp thiết của nó. Nếu bộ chứng từ bị từ chối thanh toán, Chi nhánh có trách nhiệm thông báo ngay cho người gửi chứng từ kèm theo lý do từ chối, đồng thời chứng từ phải được giữ nguyên như khi nhận để xử lý tiếp như theo chỉ dẫn của người gửi chứng từ. + Thanh toán chấp nhận Sau khi nhận được tiền thanh toán của người trả tiền kể cả trường hợp thanh toán ngay hay thanh toán từng phần, sau khi trừ các khoản phí liên quan, số tiền còn lại phải thanh toán ngay cho người hưởng theo đúng chỉ dẫn của nhờ thu trên cơ sở trích tài khoản điều chuyển vốn ngoại tệ của Chi nhánh tại Hội sở thông qua bảng kê thanh toán MT100 theo quy định thanh toán chuyển tiền hiện hành. Ngay khi nhận được chấp nhận thanh toán của người chuyển tiền, Chi nhánh phải thông báo cho người gửi chứng từ sự chấp nhận trả tiền của người trả tiền thông qua TELEX hoặc qua tập tin MT N99 trong mạng TTQT nội bộ hoặc gửi hối phiếu đã được chấp nhận. Đến hạn thanh toán Chi nhánh có trách nhiệm nhắc nhở và đôn đốc khách hàng trả tiền đúng hạn và thực hiện thanh toán cho người hưởng như quy định. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về việc chậm thanh toán của khách hàng, chỉ có trách nhiệm thông báo những vướng mắc và thanh toán khi nhận được tiền theo chỉ dẫn như trong nhờ thu. 2.3 Kết quả đạt được của nghiệp vụ thanh toán nhờ thu Biểu 4: Kết quả TTQT theo phương thức nhờ thu tại NHCT Ba Đình Đơn vị: 1000 USD Năm Tổng kim ngạch nhờ thu Tốc độ tăng hàng năm Tỷ trọng trong tổng phương thức thanh toán 1999 1.391 2,7% 2000 1.940 + 549 + 39% 3,7% 2001 2.516 + 576 + 29% 4,4% NSL: Báo cáo kết quả kinh doanh đối ngoại năm 1999,2000,2001 Qua bảng số liệu ta thấy kim ngạch thanh toán theo phương thức nhờ thu đã có được những kết quả đáng khích lệ. Về trị giá thanh toán năm 2000 đạt 1.940.000 USD, tăng +549.000 USD với tốc độ tăng là +39% so với năm 1999, năm 2001 đạt 2.516.000 USD tăng +576.000 USD với tốc độ tăng +29% so với năm 2000. Tuy nhiên về tốc độ tăng tương đối năm 1999 lại giảm so với tốc độ tăng của năm 2000. Lý do giải thích cho sự giảm của tốc độ là những diễn biến bất thường của nền kinh tế và đặc biệt là do Chi nhánh mới tham gia vào hoạt động TTQT nên đang từng bước tạo dựng lòng tin trong các đối tác. Chính vì vậy mà tỷ trọng của phương thức nhờ thu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng thanh toán của các phương thức TTQT, năm 1999: 2,7%, năm 2000: 3,7%, năm 2001: 4,4%. Nhưng với sự gia tăng tỷ trọng qua các năm thì dự báo trong tương lai không xa sẽ có nhiều đối tác đến Ngân hàng để yêu cầu thực hiện nhờ thu. Và phương thức này sẽ đem lại nguồn phí không nhỏ cho Ngân hàng, đóng góp vào sự gia tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Biểu 4.1: Kim ngạch thanh toán nhờ thu đến ở NHCT Ba Đình Năm 1999 2000 2001 00/99 01/00 Số món 13 24 48 +85% +100% Số tiền (1000 USD) 321 774 1789 +141% +131% Tỷ trọng trong phương thức nhờ thu 23% 40% 71% NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1999,2000,2001 Ta thấy năm 1999 số món thanh toán nhờ thu là 13 món, trị giá 321.000 USD, đến năm 2000 số món là 24 món, tăng +11 món với tốc độ tăng +85%, trị giá đạt 774.000 USD, tăng +453.000 USD với tốc độ tăng +141%. Năm 2001 đều có sự gia tăng cả về số lượng và doanh số, số lượng đạt 48 món, tăng gấp 2 lần năm 2000 với tốc độ tăng +100%, doanh số đạt 1.789.000 USD tăng +1.015.000 USD với tốc độ tăng là +131% so với năm 2000. Đây có thể nói là thành tích của Ngân hàng, đóng góp không nhỏ trong hoạt động TTQT cũng như mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Biểu 4.2: Kim ngạch thanh toán nhờ thu đi ở NHCT Ba Đình Năm 1999 2000 2001 00/99 01/00 Số món 5 7 3 +40% -57% Số tiền (1000 USD) 1.070 1.166 727 +9% -38% Tỷ trọng trong phương thức nhờ thu 77% 60% 29% NSL: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 1999,2000,2001 Qua bảng số liệu ta thấy doanh số nhờ thu đi năm 2001 giảm so với các năm trước. Năm 1999 doanh số là 1.070.000 USD, năm 2000 là 1.166.000 USD, tăng +96.000 USD, tốc độ tăng +9% so với năm 1999. Nhưng đến năm 2001 doanh số giảm -439.000 USD còn 727.000 USD, tốc độ giảm -38% so với năm 2000. Sự gia tăng về số lượng và hình thức thanh toán chứng tỏ nghiệp vụ TTQT tại NHCT Ba Đình đang ngày càng đa dạng hoá và thu hút được nhiều khách hàng, tạo thêm thế mạnh cho Ngân hàng. Qua 2 bảng số liệu ta thấy nghiệp vụ nhờ thu đến tăng mạnh gấp trên 2 lần năm 2000, trong khi đó nghiệp vụ nhờ thu đến mới áp dụng ở Chi nhánh. Thế nhưng trị giá của mỗi món nhờ thu đi (trung bình 170.000 USD/món) lớn hơn rất nhiều trị giá của mỗi món nhờ thu đến (trung bình 27.000 USD/món). Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước thường là những doanh nghiệp lớn bán cho bạn hàng nước ngoài quen thuộc theo đơn đặt hàng có giá trị cao, còn các doanh nghiệp nhập khẩu trong nước thường nhập khẩu theo kiểu “đánh quả lẻ” từng đợt nhỏ hàng một, bán hết rồi mới nhập tiếp. Trong thực tế thanh toán Chi nhánh nhận thấy với phương thức nhờ thu không kèm chứng từ có ưu điểm là thanh toán tương đối nhanh, thực hiện đơn giản nhưng có rất nhiều nhược điểm vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người bán do quá trình thanh toán và nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời nhau. Cho nên nó phụ t._., Luật thống nhất về hối phiếu theo Công ước Geneva năm 1930, Luật hối phiếu nước Anh năm 1982, Công ước Geneva về séc năm 1931, Luật điều chỉnh hối phiếu và kỳ phiếu, Luật về séc quốc tế của Uỷ ban thương mại quốc tế thuộc Liên hợp quốc ban hành năm 1982, Quy tắc về nhờ thu chứng từ... Nói chung nhiều văn bản pháp lý mang tính chất thông lệ quốc tế được chúng ta sử dụng một cách tuỳ tiện. Bên cạnh văn bản pháp lý mang tính chất thông lệ quốc tế cần có những văn bản pháp lý mang tính chất tập quán quốc gia. Thời gian qua nước ta đã ban hành một số bộ luật như Luật dân sự, Luật thương mại... tuy nhiên chúng ta lại chưa có luật về hối phiếu, luật séc... Nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tế đối ngoại và hoạt động TTQT, để giải quyết những bất đồng giữa thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia đồng thời để tránh được những tranh chấp và những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương thì cần sớm nghiên cứu ban hành Luật hối phiếu, luật séc, và các văn bản pháp luật về hoạt động TTQT. 1.2 Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và cải thiện cán cân TTQT Thực tế cho thấy trong điều kiện hiện nay không thể phát triển kinh tế bằng cách xây dựng một nền kinh tế “khép kín”, tự cô lập trong một nước thậm chí trong một nhóm nước. Xu hướng chung trong thế kỷ tới là sự toàn cầu hoá nền kinh tế. Một quốc gia không những tìm cách tự tăng cường tiềm lực kinh tế của mình mà còn mở rộng buôn bán với thế giới. Mở cửa nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Trong nền kinh tế mở cửa, các nhà sản xuất có điều kiện và động lực đổi mới công nghệ, tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, kể cả bí quyết công nghệ mới. Trong môi trường có tính chất cạnh tranh cao, các công ty luôn tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành bằng cách tăng năng suất lao động. Việc tăng trưởng xuất khẩu sẽ làm tăng thu nhập thực tế, khả năng tiết kiệm tăng, đầu tư trang trải bằng nguồn tiết kiệm trong nước cũng sẽ tăng... Trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế nước ta cần chủ động tham gia vào thị trường khu vực và thế giới, chủ động tìm kiếm các bạn hàng, khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước đi đôi với việc tranh thủ công nghệ và thị trường bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, không ỷ lại trông chờ bên ngoài, đồng thời tìm mọi cách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việc Mỹ bỏ cấm vận và sự kiện Việt Nam tham gia vào Asean đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức trong việc phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta. Bên cạnh việc mở rộng kinh tế thì việc cải thiện cán cân TTQT cũng là việc làm hết sức cấp bách và cần thiết. Cán cân TTQT là công cụ tổng hợp và quan trọng để đánh giá, phân tích mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó thể hiện các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, hoạt động đầu tư và vay nợ, viện trợ nước ngoài. Tình trạng cán cân TTQT liên quan đến khả năng thanh toán của một quốc gia, của các ngân hàng và tác động đến tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại tệ của đất nước. Để cải thiện cán cân TTQT cần: ĩ Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu: Về định hướng xuất nhập khẩu như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2001 đã đề ra “Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đòi hỏi phải có sự đầu tư thoả đáng vào việc làm hàng xuất khẩu như nhập máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng dây chuyền sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng các khu chế xuất...”. Cơ cấu xuất nhập khẩu của nước ta trong những năm tới cần chuyển dịch theo hướng CNH - HĐH đất nước. Hiện nay hàng hoá của Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới, quan hệ thương mại của nước ta với các nước khác được mở rộng và có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên sản phẩm xuất khẩu của chúng ta còn nghèo nàn, chưa qua chế biến còn chiếm tỷ trọng lớn, định hướng phát triển nền kinh tế của chúng ta nhiều khi còn quá thiên về thay thế hàng nhập khẩu. Để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp sau: + Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thương mại với những thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối Asean, Trung Quốc, các nước EU..., từng bước tham gia tổ chức kinh tế thương mại Châu á Thái Bình Dương, tổ chức thương mại thế giới (WTO). + Cần phải khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động và đất đai, cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, tăng các mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô. Cần đầu tư thích đáng vào những sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế như gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản và lâm sản, các sản phẩm khai khoáng như dầu mỏ, khí đốt... + Hướng xuất khẩu phấn đấu từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu những sản phẩm đã qua chế biến. Vì vậy cần phải coi trọng việc phát triển công nghiệp chế biến, coi trọng các công nghệ từ khi thu hoạch đến khi chế biến. Mở rộng hợp tác và liên doanh với nước ngoài để nâng cao năng lực ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu. + Nhà nước phải có chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như thuế, lãi suất cho vay đối với các mặt hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu có điều kiện giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đối với các hàng nông sản nhà nước cần có chính sách trợ giá để giúp người nông dân tránh được những thiệt thòi do sự xáo trộn của thị trường nội địa, đồng thời cũng là biện pháp giúp họ yên tâm sản xuất và cải thiện đời sống người nông dân. + Cần tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường các nước để có những cải tiến các mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với từng thị trường cụ thể. Mở rộng các hình thức gia công sản phẩm cho nước ngoài bằng chính nguyên liệu của mình hoặc của người đặt hàng. + Bên cạnh các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, cần có giải pháp nhằm quản lý nhập khẩu, có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc cấp giấy phép nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được, tăng cường công tác chống buôn lậu... + Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp, tỷ giá phải luôn bảo đảm có lợi cho nhà xuất khẩu, đảm bảo sự kích thích xuất khẩu, giảm bớt thâm hụt cán cân vãng lai, giảm dần tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP. ĩ Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài, quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài: Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, Đảng ta khẳng định rằng “Nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng”. Tuy nguồn vốn nước ngoài không có ý nghĩa quyết định nhưng trong giai đoạn đầu khi mà thu nhập của chúng ta còn thấp, khả năng tích luỹ chưa cao, nền kinh tế thường xuyên đói vốn thì việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp càng cần thiết hơn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ mang lại cho chúng ta một nguồn vốn mới mà điều quan trọng là qua quá trình đầu tư chúng ta sẽ nắm bắt được kinh nghiệm quản lý, tiếp thu bí quyết công nghệ của các nước tiên tiến. Bên cạnh đó làm việc với chuyên gia nước ngoài sẽ là một môi trường lý tưởng để công nhân Việt Nam nâng cao tay nghề. Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và quản lý một cách hiệu quả thì trong việc cấp giấy phép đầu tư Nhà nước cần phải chú trọng chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hoạt động xuất khẩu thì phải cân đối ngoại tệ, không được mua ngoại tệ từ các Ngân hàng trong nước để nhập nguyên liệu, vật tư thiết bị và chuyển vốn ra nước ngoài mà phải thông qua hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ để phục vụ mình. Việc quản lý vay nợ viện trợ cần phải được hoàn thiện, phải đáp ứng 2 mục tiêu: một là nâng cao hiệu quả vốn vay, hai là giữ được mức nợ nước ngoài trong một tỷ lệ tương ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Phải có chiến lược vay nợ viện trợ và quy chế sử dụng vay nợ viện trợ. Việc quản lý vay nợ viện trợ phải bao quát tất cả các khoản vay nợ như vay nợ của Chính phủ, của các NHTM và các doanh nghiệp (kể cả vay thương mại). Phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý và sử dụng vay nợ viện trợ. 1.3 Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống ngân hàng Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống ngân hàng Việt Nam có vai trò quan trọng, một ngân hàng không thể thiếu được công nghệ thanh toán hiện đại, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế trong nước đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Thời gian qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có nhiều cố gắng nhằm hiện đại hoá công nghệ thanh toán của mình như trang bị máy tính, phát triển các phần mềm ứng dụng, hiện đại hoá công nghệ thanh toán trong nội bộ từng NHTM, nối mạng thanh toán viễn thông tài chính quốc tế (SWIFT). Tuy nhiên công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng Việt Nam vẫn còn manh mún, chưa đồng bộ, mức độ tự động hoá chưa cao, chưa được cập nhật tức thời. Vì vậy vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế với khối lượng thanh toán gia tăng nhanh chóng của nền kinh tế thương mại, công nghiệp... và dân cư, chưa đáp ứng được nhu cầu giao lưu với thị trường tài chính quốc tế. Nguyên nhân của vấn đề thì nhiều nhưng một nguyên nhân quan trọng là hiện đại hoá hệ thống ngân hàng phụ thuộc nhiều vào sự hỗ trợ phát triển của ngành bưu chính viễn thông đồng thời cần phải có sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ. Giai đoạn trước mắt, hệ thống Ngân hàng cần phải xây dựng cho được một Trung tâm thanh toán bù trừ quốc gia, hệ thống chuyển tiền liên Ngân hàng và Thanh toán bù trừ tỉnh, thành phố. Hệ thống thanh toán của NHTM có Trung tâm xử lý trung ương và mạng thanh toán xuống các NHTM cơ sở. Các NHTM phải xây dựng hệ thống thanh toán của mình với quy mô thích hợp để có đủ điều kiện tham gia hệ thống thanh toán bù trừ quốc gia. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng phải trên cơ sở tận dụng triệt để những cái mà ta đã có, đồng thời việc thiết kế hệ thống thanh toán và phần mềm ứng dụng phải tạo ra khả năng linh hoạt để có thể dễ cải tạo, kế thừa và phát triển không gây ra lãng phí. Hệ thống thanh toán mới cũng phải tạo khả năng dễ dàng cho việc mở rộng và hoà mạng quốc gia của các NHTM khi có điều kiện tham gia. Để có hệ thống thanh toán hiện đại như ngày nay các nước phát triển đã phải tự nghiên cứu và phát triển mất nhiều năm. Đối với nước ta là nước đi sau thì việc học hỏi kinh nghiệm và tận dụng sự giúp đỡ của các Ngân hàng đi trước là việc làm hết sức cần thiết nhằm nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. 1.4 Củng cố và phát triển quan hệ đại lý với các Ngân hàng nước ngoài Hệ thống Ngân hàng đại lý có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển hoạt động TTQT, phát triển Ngân hàng đại lý là nhiệm vụ hàng đầu mang tính chất mở cửa cho hoạt động Ngân hàng bước ra khỏi phạm vi quốc gia. Để phát triển hoạt động TTQT, NHCT Việt Nam cần tiếp tục phát triển hệ thống đại lý đặc biệt ở những nước có quan hệ thương mại lớn như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, các nước Asean, các nước EU... Thông qua hệ thống Ngân hàng đại lý mà tìm hiểu thông tin về các đối tác trong hợp đồng của khách hàng nhằm tránh rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng của khách hàng cũng như của hệ thống NHCT, khai thác nguồn vốn tài trợ của các Ngân hàng đại lý để bổ sung cho nguồn vốn ngoại tệ ít ỏi nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn ngoại tệ của khách hàng. Đồng thời tích cực tranh thủ sự trợ giúp của các Ngân hàng đại lý về đào tạo cán bộ, tổ chức hội thảo về nghiệp vụ TTQT và tranh thủ sự giúp đỡ để tiếp cận nhanh với công nghệ tiên tiến trên thế giới. 2. Các giải pháp vi mô 2.1 Chiến lược Marketing để thu hút khách hàng Cạnh tranh để tồn tại đã trở thành quy luật ngẫu nhiên đối với hoạt động Ngân hàng trong cơ chế thị trường hiện nay. Để có thể thắng lợi trong cuộc cạnh tranh, mỗi Ngân hàng phải đề ra một chiến lược cho riêng mình trong đó khai thác triệt để những thế mạnh sẵn có của Ngân hàng và hạn chế tối thiểu những điểm yếu của Ngân hàng đó. Một trong những chiến lược đó là chiến lược Marketing. Mục tiêu của chiến lược này để khách hàng biết đến Ngân hàng và nắm được các loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng, đem lại sự thuận tiện, an toàn và hiệu quả như đúng khẩu hiệu đã đề ra của NHCT Ba Đình. Để thực hiện được chiến lược này NHCT Ba Đình cần chú trọng vấn đề sau: & Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường để nắm bắt tập tính, thái độ, động cơ của khách hàng khi họ lựa chọn Ngân hàng, phân tích dự đoán sự phát triển của thị trường, dự đoán phản ứng của thị trường trước những ứng xử có tính chất đổi mới của Ngân hàng. Qua đó nhằm phát triển thị trường tức là làm tăng số lượng khách hàng. Thực tế đã chứng tỏ rằng sự lựa chọn Ngân hàng của khách hàng thường được so sánh trên các tiêu chuẩn như: chất lượng dịch vụ, quan hệ tín dụng, hình ảnh về sức mạnh và sự an toàn của Ngân hàng. Do khách hàng đến với Ngân hàng không đồng nhất nên Chi nhánh phải có những đối sách thích hợp, linh hoạt với từng khách hàng để đảm bảo lợi ích của cả 2 bên. & Các chính sách trong chiến lược Marketing: Chính sách sản phẩm: Sản phẩm của Ngân hàng là cung cấp các khoản tín dụng và các dịch vụ khác của Ngân hàng. Trong chính sách sản phẩm của mình, chi nhánh cần phải lưu ý vai trò của các dịch vụ bổ sung. Những dịch vụ này không phải hoạt động sinh lời của Ngân hàng nhưng chúng lại có tác động thu hút khách hàng, làm tăng sự trung thành của khách hàng. Chính sách giá cả: trong Marketing Ngân hàng, chính sách giá cả không phải là bộ phận quan trọng bởi giá sản phẩm Ngân hàng được quy định tương đối chặt chẽ và không có sự chênh lệch lớn giữa các Ngân hàng. Điều quan trọng trong chính sách giá của Ngân hàng là áp dụng mức giá cả sao cho hợp lý, phù hợp với từng khách hàng và với địa bàn mà chi nhánh phục vụ. Chính sách phân phối: là bộ phận quan trọng trong Marketing Ngân hàng. Điều này do đặc điểm quan hệ trực tiếp giữa Ngân hàng với khách hàng trong việc cung ứng dịch vụ Ngân hàng. Chính sách này bao gồm: địa điểm Ngân hàng và mạng lưới phục vụ. Do vậy chi nhánh cần mở rộng mạng lưới hoạt động để thu hút các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp tham gia vào các dịch vụ Ngân hàng, mở tài khoản tiền gửi, vay vốn một cách thuận lợi vì đó chính là một tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn Ngân hàng của khách hàng. Việc mở rộng mạng lưới sẽ nâng chi phí của Ngân hàng lên cao nhưng nếu đem so với khoản lợi ích mà Ngân hàng thu được thì cũng chỉ như muối bỏ biển. Chính sách giao tiếp: trong Marketing Ngân hàng chính sách giao tiếp ngày càng có vị trí quan trọng. Các Ngân hàng thường có xu hướng chỉ tập trung vào chính sách quảng cáo trong đó nêu bật tính an toàn, sử dụng có hiệu quả các khoản tiền gửi hay tiền vay trên các phương tiện truyền thông mà quên đi yếu tố chất lượng phục vụ của nhân viên Ngân hàng là cách quảng cáo gây ấn tượng và sức thu hút lớn nhất đối với khách hàng đồng thời cũng là phương thức quảng cáo có chi phí thấp nhất. Bởi vì trong mắt khách hàng, nhân viên là hình ảnh của Ngân hàng nên khi thực hiện nghiệp vụ họ cũng không biết chính mình đang làm Marketing. Do vậy nhân viên Ngân hàng phải thể hiện phong cách giao tiếp văn minh lịch sự trước khách hàng, giải quyết công việc nhanh gọn đúng thời gian, đúng quy trình nghiệp vụ, giúp đỡ và tư vấn khách hàng trong việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với những điều khoản và áp dụng phương thức thanh toán an toàn nhất và có lợi nhất. Chính sách khách hàng: Để lôi kéo và giữ được khách hàng, Ngân hàng cần xây dựng chiến lược khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng hợp lý, không phân biệt thành phần kinh tế, áp dụng một số ưu đãi hợp lý trong quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng, đáp ứng đến mức cao nhất các yêu cầu của khách hàng. Mục tiêu của việc xây dựng được một chính sách khách hàng hợp lý là xây dựng và củng cố uy tín của Ngân hàng đối với các khách hàng, Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách chắc chắn, tạo cho khách hàng yên tâm và tin cậy khi giao dịch và TTQT qua Chi nhánh. Ngân hàng phải là chỗ dựa lâu dài, nơi hậu thuẫn vững chắc cho khách hàng trong việc tư vấn để quản lý tài chính, đầu tư kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận. Chính sách khách hàng gắn liền hiệu quả kinh doanh của khách hàng với hiệu quả, an toàn của Ngân hàng. Yêu cầu củng cố thị trường, mở rộng có chọn lọc thêm khách hàng mới và thị trường mới, có bước đi vững chắc. Đối tượng khách hàng được ưu đãi: + Khách hàng có quan hệ truyền thống tốt, các bạn hàng có quan hệ lâu dài với Ngân hàng. + Các doanh nghiệp lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có vay trả sòng phẳng. + Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ có khả năng trở thành bạn hàng lâu dài. Chính sách khách hàng phải được cụ thể hoá bằng tiêu chuẩn xếp loại khách hàng và các hình thức ưu đãi. Việc rà soát lại khách hàng phải được tiến hành thường xuyên. Hình thức ưu đãi: - Ưu đãi về vốn vay và lãi suất khi vay vốn - Ưu đãi trong việc thế chấp tài sản khi vay vốn - Ưu đãi về tỷ lệ ký quỹ trong việc mở L/C - Ưu đãi về phí dịch vụ, trong đó có phí TTQT - Ưu đãi về giá mua bán ngoại tệ phục vụ TTQT Như vậy để có thể thành công trong hoạt động kinh doanh của mình, Chi nhánh phải đề ra chiến lược phát triển trong đó khai thác trên mọi khía cạnh tiềm năng lợi thế của bản thân Ngân hàng cũng như của đối thủ và có những kế sách linh hoạt đảm bảo sự thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này. 2.2 Đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh đối ngoại Để đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng cần nghiên cứu nhằm đa dạng hoá các sản phẩm, các dịch vụ Ngân hàng trên cơ sở đó củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng đồng thời nâng cao uy tín, quy mô hoạt động của Ngân hàng. ý Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh như bảo lãnh đấu thầu quốc tế, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh khả năng cung cấp hàng, bảo lãnh nhận hàng, bảo lãnh tiền đặt cọc... Tuy nhiên đi đôi với việc phát triển nghiệp vụ bảo lãnh cần nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh. ý Phát triển các dịch vụ thanh toán séc du lịch và triển khai hệ thống rút tiền tự động, tham gia tổ chức Master Card quốc tế. ý Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh cũng như các hình thức kinh doanh ngoại tệ (Spot, Forward) để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. + Mua bán trao ngay: nhằm cân bằng ngoại tệ cho các hoạt động đối ngoại của khách hàng và trực tiếp kinh doanh với khách hàng. + Mua bán có kì hạn: có thể ký hợp đồng mua ngoại tệ có kì hạn của khách hàng ngay từ khi khách hàng nhận được thông báo L/C hoặc ký hợp đồng bán ngoại tệ có kì hạn cho khách hàng để thanh toán ra nước ngoài trong thời gian tới. 2.3 Nâng cao hiệu quả công tác thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ Để nâng cao hiệu quả công tác thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ (là phương thức chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng phương thức TTQT), NHCT Ba Đình cần: Đối với thanh toán hàng xuất khẩu: cần nghiên cứu, triển khai quy trình thông báo và thanh toán hàng xuất, cải tiến việc chuyển tiếp thông tin nhằm thu hút khách hàng chọn Ngân hàng mình là Ngân hàng thông báo và chiết khấu, phấn đấu tăng tỷ trọng của L/C xuất khẩu. Phối hợp các bộ phận nghiệp vụ liên quan ban hành quy chế thanh toán hàng xuất trên cơ sở thương lượng và chiết khấu chứng từ. Đối với thanh toán hàng nhập khẩu: tiếp tục nghiên cứu xem xét những vướng mắc trong quá trình thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này. Chẳng hạn đối với tỷ lệ ký quỹ mở L/C là vấn đề hết sức quan trọng. Với trường hợp mở L/C bằng vốn tự có thì tỷ lệ ký quỹ là 50%, đối với Tổng công ty 90/91 thì tỷ lệ ký quỹ là 30%. Nếu tỷ lệ ký quỹ cao thì sẽ có tác động đến tình hình vốn của đơn vị, đặc biệt là những đơn hàng nhập khẩu có giá trị lớn. Nếu tỷ lệ ký quỹ thấp khi đến hạn thanh toán nếu đơn vị không còn tiền thì buộc Ngân hàng phải đứng ra cho vay để thanh toán, dẫn đến tình trạng nợ quá hạn kéo dài. Để đảm bảo phòng tránh rủi ro đồng thời thu hút khách hàng nên có chính sách phân định linh hoạt về tỷ lệ ký quỹ đối với từng loại khách hàng. 2.4 Giải pháp an toàn trong hoạt động TTQT Trong các loại hình kinh doanh của cơ chế thị trường, kinh doanh tiền tệ là khó khăn nhất, thứ đến là thầu khoán và đơn giản nhất là kinh doanh bình thường. Nhưng có lẽ lĩnh vực khó khăn nhất là lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao nhất. Ngân hàng trong thời đại hiện nay luôn chịu tác động của nhiều yếu tố, của các quy luật của thị trường. Chính vì vậy để có thể tồn tại trước sóng gió thị trường đòi hỏi Ngân hàng cần phải thận trọng đề phòng rủi ro. Nếu trong lĩnh vực tín dụng hoạt động Ngân hàng gặp phải nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất... thì hoạt động TTQT của Ngân hàng cũng gặp phải rủi ro như rủi ro tỷ giá, rủi ro không đảm bảo được ngoại tệ trong thanh toán... Mỗi hình thức rủi ro đều có những nguyên nhân riêng nhưng tựu chung lại là do việc thanh toán được thực hiện giữa các chủ thể ở cách xa nhau về mặt địa lý với phong tục khác nhau, chịu sự chi phối của những thể chế pháp luật khác nhau. Tuỳ thuộc vào từng loại rủi ro khác nhau mà Chi nhánh có những giải pháp khác nhau. Chẳng hạn với loại hình rủi ro trong thanh toán, Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi tình hình kinh tế chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. Thông qua hệ thống đại lý của NHCT mà điều tra, khai thác thông tin về tình hình tài chính, khả năng giao hàng, tư cách đạo đức của đối tác nước ngoài trong hoạt động kinh doanh. Thêm vào đó để hạn chế bớt thiệt hại của các bên đối tác, theo tôi Chính phủ nên cùng Ngân hàng thành lập quỹ bảo hiểm tín dụng. Khi có rủi ro xảy ra thì quỹ bảo hiểm sẽ chịu bảo hiểm 70% đến 80%, như vậy nhà xuất khẩu của Việt Nam sẽ chỉ chịu 30% rủi ro về thanh toán với nguyên nhân là kinh tế và 20% với nguyên nhân là chính trị. Để tránh rủi ro về tỷ giá, Ngân hàng cần dự trữ đa dạng ngoại tệ, dự báo chính xác về sự biến động tỷ giá trên cơ sở đó mà thay đổi kết cấu sao cho có lợi nhất. Nhằm tạo thêm doanh lợi cho các nhà xuất khẩu đồng thời áp dụng kỹ thuật hối đoái bảo hiểm rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu, Ngân hàng nên phát huy hơn nữa nghiệp vụ mua bán ngoại tệ có kì hạn. Nghiệp vụ này giúp đỡ nhà nhập khẩu được mua bán ngoại tệ theo một tỷ giá đã định sẵn trong tương lai. Ngoài ra Ngân hàng nên tăng cường áp dụng việc mua bán ngoại tệ của doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách trả trước VND thu ngoại tệ có tính phí thời hạn, đồng thời bán trước ngoại tệ cho doanh nghiệp nhập khẩu thu lại VND sau. Nghiệp vụ mua bán kì hạn này giúp đỡ doanh nghiệp xuất nhập khẩu được sử dụng VND theo mức phí ngang bằng với lãi suất vay từ quỹ bình ổn hối đoái của NHTW. 2.5 Tăng cường hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu Có rất nhiều yếu tố tạo nên sự thành công trong hoạt động kinh doanh của các đơn vị xuất nhập khẩu, một trong những yếu tố đó là hoạt động tài trợ tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp về mặt tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp không bỏ lỡ những cơ hội đầu tư quý báu để đẩy mạnh và mở rộng quy mô sản xuất. Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động TTQT của hệ thống NHCT Việt Nam nói chung và NHCT Ba Đình nói riêng. Y Hoạt động tài trợ xuất khẩu bao gồm hình thức sau: - Cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu: Căn cứ vào hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước ngoài hoặc căn cứ vào L/C đã được thông báo, Ngân hàng cấp tín dụng để giúp đơn vị thu mua hoặc sản xuất hàng xuất khẩu. Việc làm này vừa mang ý nghĩa sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động vừa củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng để họ thấy rằng Ngân hàng Ba Đình không chỉ là người bạn mà còn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh từ đó khách hàng sẽ tích cực thanh toán qua Ngân hàng. Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu có vốn kinh doanh, Ngân hàng có thể thay mặt khách hàng thương lượng với đối tác nước ngoài mở L/C theo điều kiện ứng trước tiền hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ thực hiện bảo lãnh nguồn tiền ứng trước này. Việc bảo lãnh sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng một nguồn vốn ngoại tệ mà không phải trả lãi, có chăng chỉ là trả phí bảo lãnh. Kinh nghiệm xuất khẩu nhiều năm cho thấy rằng doanh nghiệp Việt Nam nào xác lập được chữ tín trên thị trường thì Ngân hàng nước ngoài sẵn sàng ứng trước tiền hàng để mua hàng xuất khẩu của Việt Nam. - Chiết khấu bộ chứng từ hoàn hảo: Căn cứ vào bộ chứng từ đòi tiền hoàn hảo, Ngân hàng mua lại bộ chứng từ để giải phóng vốn cho khách hàng, giúp họ tăng nhanh vòng quay vốn. - Chiết khấu hối phiếu: Căn cứ vào hối phiếu đã được Ngân hàng nước ngoài chấp nhận nhưng chưa đến hạn thanh toán, Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách chiết khấu lại hối phiếu đó. Nghiệp vụ ứng trước tiền hàng cũng gần giống như nghiệp vụ chiết khấu nhưng khác ở chỗ Ngân hàng không mua đứt bộ chứng từ mà chỉ cho vay dựa trên bộ chứng từ làm vật thế chấp. Dĩ nhiên lãi suất tín dụng thấp hơn lãi suất chiết khấu song bù lại độ an toàn cao hơn vì trong trường hợp không đòi được tiền từ nhà nhập khẩu thì có thể đòi tiền ở nhà xuất khẩu. Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng có thể sử dụng nghiệp vụ chiết khấu bởi độ rủi ro không cho phép. Như vậy trong những trường hợp đó ta có thể sử dụng nghiệp vụ ứng trước tiền hàng để thay thế vừa đảm bảo độ an toàn vừa khuyến khích có lợi cho khách hàng. Việc triển khai rộng rãi nghiệp vụ chiết khấu và nghiệp vụ ứng trước tiền hàng không những làm Ngân hàng tăng được lợi nhuận mà còn giúp các doanh nghiệp tăng nhanh vòng quay của vốn, khuyến khích nhà xuất khẩu thiết lập bộ chứng từ hoàn hảo. Bên cạnh đó nó còn tác dụng tích cực đến việc hình thành sớm hơn nữa thị trường vốn ở Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Y Hoạt động tài trợ nhập khẩu Cấp tín dụng cho khách hàng mở L/C hàng nhập qua Ngân hàng. Mọi L/C đều do Ngân hàng mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu, tuy nhiên không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo thư tín dụng. Thực tế cho thấy rằng khoảng cách thời gian mở thư tín dụng và thời gian thanh toán là quá dài, nếu Ngân hàng khống chế số dư tài khoản của nhà nhập khẩu điều này ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của họ. Bất kì một sự khoanh vốn nào đều gây thiệt hại về mặt kinh tế. Nhưng khi mở L/C thì L/C lại thể hiện một sự đảm bảo trừu tượng, một sự đảm bảo thanh toán của Ngân hàng. Do đó Ngân hàng mở L/C phải gánh chịu rủi ro một khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đến hạn trả tiền. Để tránh cản trở tới hoạt động kinh doanh của nhà nhập khẩu và đảm bảo uy tín của Ngân hàng thì Ngân hàng mở ra loại hình cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu theo hạn mức. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu qua hình thức cho vay để thanh toán tiền đạt cọc cho phía nước ngoài hoặc cho vay trong thời gian nhà nhập khẩu bán hàng hoá cho đến khi thu được tiền hàng. Để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt hoạt động nhập khẩu thì Chi nhánh phải có nguồn ngoại tệ lớn để đáp ứng nhu cầu vay ngày càng gia tăng của khách hàng. Có đẩy mạnh hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu thì hoạt động TTQT cũng sẽ được phát triển theo, do đó NHCT Ba Đình cần: - Đẩy mạnh nghiệp vụ huy động vốn ngoại tệ - Tích cực khai thác nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng nước ngoài - Nâng cao chất lượng tín dụng ngoại tệ - Cải tiến chế độ tín dụng gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo thủ tục bằng các hợp đồng tín dụng nguyên tắc, quy định đầy đủ chặt chẽ các yếu tố từng lần sử dụng của khách hàng. 2.6 Giải pháp về đào tạo đội ngũ cán bộ TTQT Vai trò của Con người trong công cuộc phát triển ngành Ngân hàng là không thể phủ nhận được bởi vì có hàng vạn những định chế quản lý kì diệu nhưng thiếu đi yếu tố con người thì những định chế đó cũng chỉ là con số không. Thực tế đã chứng minh rằng nếu một Ngân hàng nào đó có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì chắc chắn Ngân hàng đó có thể đứng vững và phát triển trước sóng gió thị trường. Để có thể phát triển được hoạt động kinh doanh đối ngoại nói chung và hoạt động TTQT nói riêng, NHCT Ba Đình đã có một đội ngũ cán bộ nhiệt tình, giỏi chuyên môn và nghiệp vụ, am hiểu các lĩnh vực ngoại thương, am hiểu các luật lệ và tập quán quốc tế về ngoại thương và TTQT. Có khả năng tư vấn cho khách hàng trong các hợp đồng xuất nhập khẩu, giúp họ chọn lựa và áp dụng các phương thức và điều kiện thanh toán có lợi nhất nhằm tránh rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để có thể làm tốt hơn những điều đó đòi hỏi NHCT Ba Đình phải có chiến lược phát triển con người với các giải pháp sau: + Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ TTQT, các cuộc hội thảo về TTQT nhằm giúp các cán bộ trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ TTQT, học tập được kinh nghiệm xử lý các tình huống phát sinh trong hoạt động TTQT + Cử những cán bộ có năng lực đi học tập những kinh nghiệm của các Ngân hàng trên thế giới mà có quan hệ với NHCT để có thể tìm hiểu và đúc rút những ý kiến có lợi cho Ngân hàng, giúp hệ thống NHCT cũng như Chi nhánh NHCT Ba Đình tạo được niềm tin và uy tín đối với các khách hàng và bạn hàng trong nước cũng như trên thế giới. + Hàng năm nên tổ chức các kì thi sát hạch về nghiệp vụ và tổ chức thi tuyển công khai, nghiêm túc để có thể tuyển được những cán bộ mới có năng lực chuyên môn và giàu kinh nghiệm. + Không chỉ hoàn thiện về mặt tri thức, nghiệp vụ, cán bộ làm công tác TTQT cũng cần phải chú trọng đến phong cách giao dịch với khách hàng. Điều này sẽ giúp Ngân hàng thu hút thêm khách hàng mới và củng cố vững chắc hơn mối quan hệ với các khách hàng đã có. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0008.doc
Tài liệu liên quan