Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các Công ty chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Phần I Phần Mở đầu Sau hơn mười năm để đổi mới theo đường lối đúng đắn của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo nên thế và lực mới và bước vào giai đoạn phát triển mới đòi hỏi nền kinh tế không những duy trì được lâu bền, nhịp độ tăng trưởng mà còn phải chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đi kịp với tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực. Ngày nay nhu cầu về công nghiệp hoá hiện đại

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các Công ty chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoá đã đòi hỏi một khối lượng vốn khổng lồn, nhất là vốn dài hạn trong khi đó thị trường tài chính mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu về vốn ngắn hạn cho nền kinh tế. Xuất phát từ đòi hỏi ấy. Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn rất hữu hiệu, góp phần làm cho dòng chảy của vốn có thể dễ dàng đến những nơi làm ăn có hiệu quả. Đó là một kênh quan trọng thu hút vốn dài phạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển ở những ngành kinh tế quan trọng phục vụ cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế phát triển, mà hiện nay đã trở thành một nhu cầu cấp thiết của khách quan. Tuy nhiên thị trường chứng khoán muốn hoạt động hiệu quả cần phải có hàng hoá cho nó như (cổ phiếu, trái phiếu…) và đồng thời phải có các công ty chứng khoán chuyên mua bán, giao dịch các loại hàng hoá đó. Công ty chứng khoán sẽ là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ những nguồn lẻ tẻ trong công chúng tập hợp lại. Như vậy sự ra đời của các công ty chứng khoán trong giai đoạn hiện nay là một nhu cầu khách quan. Tuy nhiên để nó đi vào hoạt động có hiệu quả cầu tiếp tục có những điều chỉnh hợp lý. Đề xuất: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" sẽ đưa ra những kiến nghị góp phần vào việc hoàn thiện các công tác chứng khoán. Và những giải pháp thúc đẩy hình thành cảu các công ty chứng khoán. Đề tài nghiên cứu những lý luận cơ bản về công ty chứng khoán về cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ nhân viên, đồng thời đưa ra những giải pháp kiến nghị mở rộng và phát triển công ty. Nội dung gồm 3 phần. Chương 1. Lý luận chung về thị trường chứng khoán và công ty chứng khoán. Chương 2. Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Chương 3. Các giải pháp hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo. Tiến sĩ Mai Thanh Quế của bộ môn tiền tệ và các cán bộ của vụ quản lý kinh doanh chứng khoán của Ngân hàng công thương đã giúp em hoàn thiện đề án này. Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 2003 Sinh viên Bùi Thị Phượng Phần II. Nội dung chính chương 1 lý luận chung về thị trường chứng khoán và công ty chứng khoán. 1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán 1.1.1. Quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính, hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành những nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Nhà nước để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung hoặc dài hạn thường từ 01 năm trở lên. Công cụ trao đổi trên thị trường chứng khoán rất phong phú. Vậy thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán đã được phát hành và đang lưu hành trên thị trường. Hiện nay tồn tại hai quan điểm đối lập nhau: Quan điểm một cho rằng: thị trường vốn và thị trường chứng khoán là khác nhau vì công cụ của thị trường chứng khoán ngoài các chứng khoán dài hạn còn có các giấy ghi nợ ngắn hạn (các tín phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn 03 tháng hoặc 06 tháng). Quan điểm thứ hai cho rằng: thị trường vốn và thị trường chứng khoán chỉ là các tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: thị trường tư bản. Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thị trường chứng khoán được quan niệm là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều kiện, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn giữa những người phát hành chứng khoán và mua chứng khoán hoặc kinh doanh chứng khoán. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau, nhưng nhìn chung một thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi các hoạt động cơ bản sau. 1.1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán các hoạt động giao dịch chứng khoán được thực hiện . Xét về mặt hình thức, các hoạt động trao đổi mua bán chuyển nhượng các chứng khoán là việc thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán; xét về thực chất đây chính là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ, tức là quá trình chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Các quan hệ mua bán các chứng khoán trên thị trường chứng khoán phản ánh sự thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng khoán. Xét về nội dung, thị trường vốn thể hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà nó là thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Do đó hoạt động của thị trường chứng khoán (xét về bản chất) phản ánh quan hệ trao đổi mua bán quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn, tiền mặt. Các hoạt động này được thực hiện thông qua các thành viên trên thị trường chứng khoán. 1.1.3. Chức năng của thị trường chứng khoán - Trước hết thị trường chứng khoán được xem như cái cầu vô hình nối liền giữa người thừa vốn và người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán chứng khoán. - Thị chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. - Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác kịp thời. - Thị trường chúng khoán bảo đảm cho các loại chứng khoán được phép lưu hành có nơi mua bán thuận tiện theo quy cung - cầu như một hàng hoá khác 1.1.4. Cơ cấu thị trường chứng khoán 1.1.4.1. Cơ cấu thị trường chứng khoán. . Căn cứ vào tính chất các chứng khoán được giao dịch thị trường chứng khoán có thể chia thành thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường các sản phẩm phát sinh. - Thị trường cổ phiếu là thị trường nơi các cổ phiếu được phát hành và giao dịch thị trường cổ phiếu gồm cả thị trường cổ phiếu sơ cấp và thị trường cổ phiếu thứ cấp. - Thị trường trái phiếu: là thị trường nơi các trái phiếu được phát hành và giao dịch thị trường trái phiếu cũng gồm có thị trường trái phiếu sơ cấp và thị trường trái phiếu thứ cấp. - Thị trường các sản phẩm phát sinh bao gồm có thị trường các hợp đồng tương lai các hợp đồng lựa chọn… . Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. - Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các loại chứng khoán lần đầu được phát hành sự huy động của thị trường sơ cấp tạo ra một "kênh" thu hút huy động nguồn tiền nhàn rỗi của dân chúng chuyển thành vốn đầu tư cho nền kinh tế. - Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ tương quan gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu khong có thị trường sơ cấp thì không có hàng hoá để lưu thông trên thị trường thứ cấp. Nhưng nếu không có sự tồn tại của thị trường thứ cấp thì thị trường sẽ cấp cũng khó có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả. 1.1.4.2. Mục tiêu của thị trường chứng khoán. - Hoạt động có hiệu quả: Một thị trường chứng khoán có hiệu quả là một thị trường có tính hiệu quả về mặt thông tin và cơ chế giao dịch, để đạt được điều này thì phải đảm bảo + giá cả được hình thành trên thị trường phải là giá cân bằng giữa cung và cầu và phải phản ánh được tức thời các thông tin có liên quan có thể ảnh hưởng tới giá cả. + Cơ chế và các thủ tục giao dịch chứng khoán cần phải được tiêu chuẩn hoá để thực hiện được một số lượng lớn các giao dịch một cách thông suốt. + Chi phí giao dịch trên thị trường phải được tối thiểu hoá đảm bảo những lợi ích thu được t ừ đầu tư vào chứng khoán không bị chi phí giao dịch ăn mòn. + Thị trường chứng khoán phải được tổ chức một cách thuận tiện cho người sử dụng. Có như vậy mới thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia vào thị trường. - Điều hành công bằng. Đầu hành công bằng thị trường chứng khoán là việc đảm bảo sự bình đẳng giữa người tham gia vào thị trường muốn điều hành công bằng thị trường chứng khoán phải đảm bảo. + Các cơ quan điều hành thị trường phải xác lập các quy chế đảm bảo sự cạnh tranh tự do, bình đẳng trên thị trường. + Bảo đảm quyền lợi của các nhà đầu tư thông qua việc duy trì thị trường hoạt động lành mạnh chống lại các trường hợp lũng đoạn thị trường và bóp méo giá gây thiệt hại cho đầu tư. - Phát triển ổn định thị trường chứng khoán. Để đảm bảo loành mạnh cần chú trọng phát triển và loại trừ các khả năng xảy ra khủng hoảng thị trường do mất khả năng thanh khoản hoặc do biến động giá cả quá lớn. 1.1.5. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. Cũng giống như các thị trường khác, các hoạt động trên thị trường chứng khoán, cũng là những hoạt động mua bán hàng hoá. Chỉ có điều hàng hoá và cách thức mua bán khác với việc mua bán trên thị trường hàng hoá thông thường nơi mà người mua trực tiếp tiếp xúc với hàng hoá và người bán không phải qua bất kỳ một trung gian hay một mô giới nào khác. Điều này đơn giản vì người mua có thể biết rất rõ công cụ và chất lượng của hàng hoá muốn mua và trực tiếp xem xét nó kỹ lưỡng. Để tránh mất mát cho những người đầu tư không thành thạo. Người ta phải tổ chức thị trường chứng khoán theo một cơ chế hoạt động đặc biệt, trong đó không chỉ có những người mua, người bán, mà còn có nhiều chủ thể khác. Nếu xem xét một cách tổng hợp trên thị trường chứng khoán có 5 nhóm chủ thể lớn tham gia. Người phát hành chứng khoán, người đầu tư chứng khoán, người kinh doanh mô giới chứng khoán, ngươi tổ chức thị trường và người điều hoà, quản lý thị trường. - Người phát hành chứng khoán là những người cần tiền và huy động bằng cách cung cấp chứng khoán dưới hình thức phát hành và bán cho những người đầu tư hoặc những người kinh doanh chứng khoán chủ thể phát hành có thể là chính phủ, các doanh nghiệp chính quyền địa phương và một số tổ chức khác theo quy định cho phép. Người đầu tư chứng khoán: Là những người có tiền nhàn rỗi. Sử dụng tiền đầu tư vào thị trường chứng khoán bằng cách thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường. Những người này rất đông gồm có các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức, các quỹ đầu tư. Công ty bảo hiểm. Tuy nhiên những người này không phải là những người trực tiếp giao dịch trên thị trường, mà mọi nhu cầu mua bán chứng khoán của họ phải do một loại người khác có chuyên môn. Đó là những người mô giới chứng khoán. - Người kinh doanh và mô giới chứng khoán là những người hoạt động dưới danh nghĩa của một công ty chứng khoán họ là những người có chuyên môn cao và rất thành thạo trong phân tích và giao dịch chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán chỉ có các nhân viên của công ty chứng khoán mới được phép trực tiếp giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung. Trong nhóm này có 2 loại hoạt động. + Loại chuyên mua bán chứng khoán cho người khác để hưởng hoa hồng gọi là mô giới chứng khoán. + loại mua bán chứng khoán cho chính mình gọi kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra những người này còn có thể tham gia hoạt động với vai trò là người tư vấn đầu tư chứng khoán. - Người tổ chức thị trường: ở các nước đã có thị trường chứng khoán phát triển, sở giao dịch chứng khoán thường là do các công ty chứng khoán thoả thuận lập ra để phục vụ cho các hoạt động giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán là một công ty cổ phần có nhiệm vụ tạo ra địa điểm giao dịch mua bằng trang thiết bị phục vụ giao dịch và tổ chức các hoạt động giao dịch. Chính nó đóng vai trò là người tổ chức thị trường. ở Việt Nam trong thời gian đầu xây dựng thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán nhà nước sẽ tổ chức trung tâm giao dịch và đóng vai trò là người tổ chức thị trường. - Người quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán tức là nhà nước, người bảo đảm cho thị trường hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của ngưòi đầu tư, bảo vệ việc mua bán chứng khoán được công bằng, công khai tránh những tình trạng tiêu cực có thể xảy ra. Ngoài các đối tượng trên, còn có các đối tượng tương hỗ quan trọng khác như: Các tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán, tổ chức dịch vụ sang tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng khoán; trung tâm đào tạo người hành nghề chứng khoán hiệp hội các nhà đầu tư, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Trong các đối tượng đó thì người kinh doanh chứng khoán giữa vai trò quan trọng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động ổn định và có hiệu quả. 1.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam Quá trình đổi mới kinh tế của nước ta đã trải qua một chặng đường đầy gian nan và khó khăn. Điều đó đã đúc kết được bài học kinh nghiệp quý giá cho đất nước bước vào hành trang thế kỷ 21 Thực tiễn đổi mới ngày càng cho thấy trong một loạt vấn đề cần giải quyết nổi lên 2 vấn đề lớn. - Thứ nhất: Phải huy động và sử dụngcó hiệu quả một khối lượng lớn cho đầu tư phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài. - Thứ hai: Phải hoàn thiện cơ chế thị trường trong đó một bộ phận cấu thành cực kỳ quan trọng trong hệ thống tài chính là thị trường chứng khoán. từ hai yêu cầu trên cần phải đạt ra yêu cầu cấp bách mà chúng ta phải giải quyết. - Tiến trình xây dựng thị trường chứng khoán Việt Nam . Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế bền vưngx và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Việc xây dựng thị trường chứng khoán Việt Nam đã chở thành vấn đề bức xúc và cấp thiết nhằm huy đồng các nguồn vốn trung, dài hạn ở trong và nước ngoài vào đầu tư phát triển kinh tế. Vào ngày 28/11/96 chính phủ đã ban hành nghị định 75/CP về thành lập UBCKNN có chức năng quản lý nhà nước và tổ chức, tổ chức hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nghị định 48/1998/NĐ- CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán cùng với quyết định thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội và TPHCM. Có thể nói việc thành lập TTGDCK là một giải pháp cấp bách trước mắt không những tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn, thúc đẩy tiến trình đổi mới doanh nghiệp mà còn hướng các hoạt động giao dịch chứng khoán đi vào quỹ đạo tổ chức ngay từ đầu. Xuất phát từ yêu cầu cấp bách về xây dựng một thị trường tập trung cho các giao dịch chứng khoán sau khi có quyết định của thủ tướng chính phủ về thành lập TTGCK. UBNN đã phối hợp các bộ ngành hữu quan để triển khai xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, khung pháp lý và đào tạo con người cho vận hành thị trường. Sau hai năm triển khai xây dựng cơ sở UBCKNN đã cơ bản hoàn tất để có thể đưa TTGDCK vào vận hành sớm nhất. 1.3. Công ty chứng khoán. 13.1. Khái niệm. Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt Nam được UBCK nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Các công ty chịu sự điều chỉnh của luật công ty và được UBCK nhà nước cấp giấy phép hoạt động . 1.3.2. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán. 1.3.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. Vì công ty chứng khoán là một loại hình địch chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình toỏ chức kinh doanh của nó có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Tuy nhiên ta có thể khái quát lên ba mô hình cơ bản hiện nay là: Mô hình công ty chứng khoán ngân hàng hay mô hình đa năng ( bao gồm ngân hàng đa năng toàn phần, ngân hàng đa năng một phần) và công ty chuyên doanh chứng khoán. - Ngân hàng đa năng toàn phần: Một ngân hàng có thể tham gia tất cả các hoạt động kinh doanh tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm mà không cần thông qua những pháp nhân riêng biệt. - Mô hình ngân hàng đa năng một phần, một ngân hàng muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thông qua công ty con là pháp nhân riêng biệt. Với mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán. 1.3.1.2. Những nét đặc trưng trong tổ chức của các công ty chứng khoán. Do công ty chứng khoán là một hình thức định chế đặc biệt, có hoạt động nghiệp vụ đặc thù nên về mặt tổ chức nó có nhiều điểm khác biệt so với các công ty thông thường. Các công ty chứng khoán ở các nước khác nhau, thậm chí trong cùng một quốc gia cũng có tổ chức rất khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty và mức độ phát triển của thị trường. Tuy vậy, chúng vẫn có một số đặc trưng cơ bản: * Chuyên môn hoá và phân cấp quản lí. Công ty chứng khoán có trình độ chuyên môn hoá rất cao ở từng phòng ban, bộ phận, đơn vị kinh doanh nhỏ. Do chuyên môn hoá cao nên các bộ phận có quyền tự quyết. Một số bộ phận trong công ty có thể không phụ thuộc lẫn nhau (chẳng hạn bộ phận môi giới và tự doanh hay bảo lãnh phát hành...) * Nhân tố con người. Trong công ty chứng khoán, quan hệ với khác hàng giữ vai trò rất quan trọng, đòi hỏi nhân tố con người phải luôn được quan tâm, chú trọng. * ảnh hưởng của thị trường tài chính. Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh hưởng lớn tới sản phẩm, dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận của công ty chứng khoán. Thị trường chứng khoán càng phát triển thì công cụ tài chính càng đa dạng, hàng hoá dịch vụ phong phú, qua đó công ty chứng khoán có thể mở rộng hoạt động thu nhiều lợi nhuận. Với các trình độ phát triển khác nhau của thị trường, các công ty chứng khoán phải có cơ cấu tổ chức đặc thù để đáp ứng những nhu cầu riêng. 1.3.2. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán có thể là những công ty chuyên kinh doanh một dịch vụ như công ty chỉ chuyên môi giới, công ty chỉ chuyên thực hiện bảo lãnh phát hành... hoặc là những công ty đa dịch vụ, hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Nhìn chung có ba nghiệp vụ kinh doanh chính là: - Nghiệp vụ môi giới chứng khoán. - Nghiệp vụ tự doanh. - Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Ngày nay, do thị trường ngày càng phát triển và do nhu cầu của bản thân công ty chứng khoán ngày càng mở rộng nên đã phát sinh nhiều nghiệp vụ như: cho vay kí quĩ, tư vấn đầu tư, quản lí danh mục đầu tư, quản lí thu nhập chứng khoán. Đồng thời các công ty chứng khoán ngày nay còn hoạt động trên cả lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, bảo hiểm. 1.3.2.1. Nghiệp vụ môi giới Bản chất nghiệp vụ. Công ty chứng khoán tiến hành nghiệp vụ môi giới sẽ đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC. Khách hàng sẽ phải chịu hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Các nhà môi giới thường gặp phải rủi ro khi khách hàng của mình hoặc nhà môi giới giao dịch khác không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn. Qui trình giao dịch. Quá trình môi giới của công ty chứng khoán thường qua các bước chủ yếu thể hiện ở sơ đồ sau: Bước 1: Mở tài khoản (1). Bước 2: Nhận lệnh (2). Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện lệnh (3). Bước 4: Xác nhận kết quả thực hiện lệnh cho khách hàng (4). Bước 5: Thanh toán và giao hàng. Khách hàng Công ty chứng khoán (4) (1) (2) (3) (5) 1.3.2.2 Nghiệp vụ bảo lãnh. Bản chất bảo lãnh. Bảo lãnh phát hành là việc hỗ trợ đơn vị phát hành huy động vốn bằng cách bán chứng khoán trên thị trường. Có ba hình thức bảo lãnh phát hành mà thế giới thường áp dụng: Một là, bảo lãnh chắc chắn: công ty bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành của công ty phát hành và sau đó sẽ bán ra công chúng. Hai là, bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức mà công ty bảo lãnh phát hành hứa sẽ cố gắng tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho công ty phát hành. Ba là, bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không: trường hợp này được áp dụng khi công ty phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định. Một số khâu quan trọng trong quy trình bảo lãnh . + Lập nghiệp đoàn bảo lãnh. Khi số số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng bảo lãnh của một công ty chứng khoán thì một nghiệp đoàn bao gồm một số công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính sẽ được thành lập. Nhóm bán: Để việc bán nhanh hơn, nghiệp đoàn bảo lãnh có thể tổ chức thêm một "nhóm bán". Nhóm này bao gồm một số công ty không nằm trong nghiệp đoàn bảo lãnh, họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không phải chịu trách nhiệm về số chứng khoán không bán được. Do vậy, thù lao cho họ ít hơn các thành viên trong nghiệp đoàn bảo lãnh. + Phân tích, định giá chứng khoán. + Ký hợp đồng bảo lãnh. + Đăng kí phát hành chứng khoán. + Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng kí. + Thanh toán Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng khoán cho công ty phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi thù lao cho công ty bảo lãnh. Hoa hồng: là tỉ lệ (%) cố định đối với từng loại chứng khoán nhất định. Việc tính toán và phân bổ hoa hồng do các thành viên trong nghiệp đoàn thương lượng với nhau. Phí bảo lãnh: là chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường và số tiền công ty phát hành nhận được. 1.3.2.3 Nghiệp vụ tự doanh. Đây là nghiệp vụ kinh doanh trong đó công ty chứng khoán dùng kinh phí của mình để mua và bán chứng khoán, họ tự chịu mọi rủi ro và có thể làm thêm nhiệm vụ tạo thị trường cho một loại chứng khoán nào đó. Nhà giao dịch chịu lãi hay lỗ tuỳ thuộc vào chênh lệch giá mua và bán chứng khoán. Hoạt động buôn bán chứng khoán có thể là: Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt lệnh mua và bán của mình trên Sở giao dịch, lệnh của họ được xác định đối với bất kì khách hàng nào không xác định trước. Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch giữa hai công ty chứng khoán hay giữa công ty chứng khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của giao dịch trực tiếp thường là các trái phiếu và cổ phiếu giao dịch ở thị trường OTC. 1.3.2.4. Các nghiệp vụ phụ trợ. * Nghiệp vụ tín dụng. ở các thị trường phát triển thì đây là một hoạt động thông dụng. Còn ở những thị trường chưa phát triển thì hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được phép cấp vốn vay. Một số nước còn qui định không được phép cho vay kí quỹ. * Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty. Đây là việc cung cấp các thông tin về đối tượng chứng khoán, thời hạn, các vấn đề mang tính quy luật của hoạt động đầu tư chứng khoán...Nó đòi hỏi nhiều kiến thức, chuyên môn kỹ năng và yêu cầu vốn không cao. Tính trung thực của cá nhân hay công ty tư vấn có ý nghĩa quan trọng. * Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư. Đây là một dạng tư vấn đầu tư nhưng ở mức độ cao hơn vì khách hàng uỷ thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo những nguyên tắc mà khách hàng yêu cầu. Thông thường nghiệp vụ này tuân thủ theo bốn bước cơ bản: Bước 1: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc tìm hiểu khả năng của nhau. Bước 2: Công ty và khách hàng tiến hành kí hợp đồng quản lí. Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lí. Khi có phát sinh ngoài hợp đồng, công ty chứng khoán phải xin ý kiến của khách hàng rồi mới được phép quyết định. Bước 4: Khi đến hạn kết thúc hợp đồng công ty phải cùng khách hàng bàn bạc, quyết định xem gia hạn hay thanh lí hợp đồng. * Nghiệp vụ quản lí thu nhập chứng khoán (quản lí cổ tức). Nghiệp vụ này xuất phát từ nghiệp vụ lưu kí chứng khoán. Công ty phải thực hiện hoạt động theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. 1.3.3. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán. 1.3.3.1. Nguyên tắc đạo đức. Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán ảnh hưởng nhiều tới lợi ích công chúng và biến động của thị trường tài chính. Vì vậy, luật pháp các nước qui định rất chặt chẽ đối với hoạt động của công ty chứng khoán. Nhìn chung có một số nguyên tắc cơ bản sau: + Công ty chứng khoán có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, chỉ được tiết lộ thông tin khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. + Công ty chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không được tiến hành bất cứ hoạt động lừa đảo phi pháp nào. + Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh. + Công ty chứng khoán phải tách biệt tài sản của mình với tài sản của khách hàng và tài sản của khách hàng với nhau; không được dùng tài sản của khách hàng làm vật thế chấp, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản. + Công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng, đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy. + Công ty chứng khoán không được nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho hoạt động dịch vụ của mình. + ở nhiều nước, công ty chứng khoán phải đóng tiền vào quĩ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp công ty chứng khoán bị mất khả năng thanh toán. + Ngoài ra, các nước còn có qui định chặt chẽ nhằm chống thao túng thị trường; cấm mua bán khớp lệnh giả tạo với mục đích tạo ra trạng thái "tích cực bề ngoài"; cấm đưa ra lời đồn đại, xúi dục hoặc lừa đảo trong giao dịch chứng khoán; cấm giao dịch nội gián sử dụng thông tin nội bộ mua bán chứng khoán cho chính mình làm thiệt hại tới khách hàng. 1.3.3.2. Nguyên tắc tài chính. * Vốn. Vốn của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ. Nhìn chung, số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng việc cân đối giữa vốn pháp định và nhu cầu vốn kinh doanh của công ty. * Cơ cấu vốn: Nợ và Có. Cơ cấu vốn là tỉ lệ các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp của các thành viên mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc huy động vốn được tiến hành thông qua việc góp vốn của các cổ đông, thông qua hệ thống ngân hàng, thị trường vốn. * Quản lí vốn và hạn mức kinh doanh. * Quản lí vốn khả dụng: các công ty chứng khoán thường phải duy trì một mức vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán. * Quản lí quĩ bù đắp rủi ro: Các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh thường phải duy trì một tỉ lệ dự trữ trên mức lợi nhuận ròng, còn các công ty môi giới duy trì tỉ lệ dự trữ tính trên tổng doanh thu với mục đích bù đắp các khoản lỗ kinh doanh trong năm đó. * Quản lí quĩ bổ sung vốn điều lệ: công ty chứng khoán phải trích tỉ lệ phần trăm lãi ròng hàng năm để lập quĩ bổ sung vốn điều lệ cho tới khi đạt một tỉ lệ phần trăm nào đó của vốn điều lệ. Quĩ này dùng bù đắp những thâm hụt trong tương lai. * Quản lí hạn mức kinh doanh: hạn mức kinh doanh được qui định khác nhau tuỳ từng quốc gia. * Chế độ báo cáo. Các thông tin tài chính được thể hiện qua các báo cáo. Các báo cáo này, theo qui định một số nước, phải nộp cho Uỷ ban chứng khoán (hoặc cơ quan quản lý tương đương) và một tổ chức tự quản làm cơ quan kiểm tra các báo cáo tài chính thường niên đã được kiểm toán. Báo cáo tài chính được kiểm toán bao gồm: - Bảng cân đối kế toán. - Báo cáo lỗ lãi. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 1.3.4. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán. Hoạt động của công ty chứng khoán có ảnh hưởng nhiều tới lợi ích của công chúng nên nó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Nhìn chung, qui định về điều kiện thành lập, cấp phép hoạt động cho công ty chứng khoán được thể hiện ở hai khía cạnh sau: Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định được qui định cụ thể cho từng loại nghiệp vụ. Một công ty càng tham gia vào nhiều loại hoạt động nghiệp vụ thì yêu cầu về vốn càng nhiều. Mức vốn qui định cho hoạt động môi giới, tư vấn thường không nhiều. Trong khi đó, nghiệp vụ tự doanh hay bảo lãnh phát hành đòi hỏi mức vốn pháp định tương đối cao. Điều kiện nhân sự: Những người quản lí hay nhân viên của công ty chứng khoán phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm. Thông thường, các nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề. Muốn có giấy phép hành nghề, ngoài việc đáp ứng một số qui định như tuổi tác, trình độ học vấn, lí lịch tốt phải trải qua những kì thi kiến thức chuyên môn chứng khoán. Những người nắm giữ các chức năng quản lí trong công ty chứng khoán phải có giấy phép đại diện. Yêu cầu để được cấp giấy phép đại diện cao hơn so với giấy phép hành nghề về các mặt học vấn kinh nghiệm công tác. Trong điều kiện thành lập công ty chứng khoán cần chú ý tới tính điều kiện và tính đương nhiên. Như vậy, điều kiện thành lập công ty chứng khoán có sự khác nhau ở các nước trên thế giới. Tùy theo đặc thù mỗi quốc gia, các công ty chứng khoán cũng được tổ chức theo nhiều mô hình khác nhau. 1.4. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới. Trên thế giới có ba mô hình công ty chứng khoán cơ bản: Thứ nhất: là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô hình này không có sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng thương mại cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm trong một pháp nhân duy nhất. Đây là phương thức hoạt động ngân hàng đa năng cổ truyền mà điển hình được áp dụng ở CHLB Đức, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, các nước Bắc Âu. Thứ hai: là mô hình đa năng một phần (đa năng kiểu Anh), được áp dụng ở Anh và một số nước có quan hệ gần gũi với Anh như Canada, australia. Ngân hàng khi tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con, có tư cách pháp nhân độc lập. Các công ty con ít khi nắm giữ cổ phần của ngân hàng và thường không có sự kết hợp giữa các công ty bảo hiểm và ngân hàng. Thứ ba: là mô hình chuyên doanh. Nó được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật.v.v. Theo mô hình này các công ty chứng khoán là các công ty chuyên doanh độc lập. Các ngân hàng không được phép tham gia vào kinh doanh chứng khoán. Chương 2 Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt nam hiện nay. Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên Thế giới có thể thấy sự thành lập, phát triển của các công ty chứng khoán gắn liền với sự hình thành, phát triển của thị trường chứng khoán. Nó là một quá trình lâu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV019.doc