Một số giải pháp nhằm mở rộng quy mô & nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư thành phố nước ngoài vào Campuchia

Lời mở đầu Trong xu thế liên kết và hòa nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế. Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động ngày càng trở thành một trong những dạng đầu tư quan trọng trong nền kinh tế thế giới và được nhiều quốc gia sử dụng như một chính sách kinh tế quan trọng lâu dài. Khai thác và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiế

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm mở rộng quy mô & nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư thành phố nước ngoài vào Campuchia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p nước ngoài đang là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu ở nhiều nước trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển và chuyển đổi, nơi có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư phát triển kinh tế. Bằng các biện pháp và chính sách thích hợp nhiều nước đang phát triển và chuyển đổi đã thu được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với Campuchia, Chính phủ Hoàng gia đã và đang có chính sách mở rộng nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, phát huy những quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo ra bước chuyển biến quan trọng trong sự phát triển kinh tế, góp phần đưa đất nước khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và bước vào thời kỳ phát triển mới. Một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự chuyển biến tích cực đó là việc thu hút có kết quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự di chuyển vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia thể hiện sự nỗ lực to lớn và có hiệu quả thực tế của Chính phủ Hoàng gia Campuchia trong việc thu hút các nguồn lực từ bên ngoài để khai thác các lợi thế của đất nước. Những kết quả ban đầu của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Campuchia, đánh dấu việc chuyển biến về chất trong tư duy hoạch định chính sách khai thác các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, trong điều kiện xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra sâu rộng và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang tạo ra sự thay đổi vượt bậc trong cơ sở vật chất của nền kinh tế thế giới. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn tạo nguồn vốn đầu tư để phục vụ tự do hóa, tư nhân hóa nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Campuchia, tôi chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ của mình. Mục đích của luận án: Mục đích nghiên cứu của luận án đi sâu phân tích thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Campuchia, tìm hiểu những mặt tích cực và hạn chế của nó, từ đó đề xuất những phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện hoạt động đầu tư và kinh tế đối ngoại của Campuchia trong giai đoạn tới trên cơ sở tìm hiểu và áp dụng một cách sáng tạo những vấn đề lý luận và thực tiễn của Campuchia. Đưa ra những giải pháp hợp lý để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia, nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nuớc ngoài tại Campuchia trong thời gian tới. Tổng kết kinh nghiệm về chính sách đầu tư của Campuchia. Chương 1 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc phát triển kinh tế ở Campuchia 1-/ lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1-1./ Đầu tư và hình thức đầu tư Trong điều kiện của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, để tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, vấn đề đặt ra là cần phải có vốn đầu tư và thực hiện hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm hoặc bổ sung trang thiết bị, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động. Vốn đó dù có sự khác nhau về quy mô hay cơ cấu song là cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất, với các quốc gia, nhất là đối với những cơ sở mới bắt đầu hình thành và với những quốc gia còn ở trình độ lạc hậu chưa hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, trong đó có Vương Quốc Campuchia. Vốn đầu tư trong nền sản xuất hàng hóa là tiền được tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân, là vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra của cải lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt xã hội và từng gia đình. Vốn đầu tư có thể được huy động từ trong nước, hoặc từ nước ngoài. Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế phát triển mạnh như ngày nay thì nguồn vốn từ nước ngoài ngày càng trở thành phổ biến hơn và có vai trò không nhỏ. Mặc dù về lâu dài vốn đầu tư trong nước luôn giữ vai trò chủ yếu, nhưng không mất đi tính chất quan trọng của nguồn vốn nước ngoài. Vốn đầu tư được sử dụng để phục vụ cho những mục tiêu phát triển nhất định. Xét về bản chất thì việc sử dụng đó chính là quá trình thực hiện việc chuyển hóa vốn tiền tệ thành các yếu tố của quá trình tái sản xuất, được gọi là hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư bao giờ cũng dựa trên những điều kiện vật chất và mục tiêu cụ thể, trước mắt và lâu dài ở tầm vĩ mô hoặc vi mô. Tuy nhiên, hiện nay còn có khá nhiều định nghĩa khác nhau về đầu tư, trong đó có mấy khái niệm tiêu biểu sau đây: - Đầu tư (Investment) là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực vốn lớn hơn. Vốn đầu tư là phần tích lũy xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác, được đưa vào tái sản xuất xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại khoản tiền lớn hơn. - Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế - xã hội. Đặc điểm của đầu tư là nó xảy ra trong một thời gian tương đối dài, thường từ 2 năm trở lên đến 50 - 70 năm hoặc lâu hơn nữa. Những hoạt động kinh tế ngắn hạn thường trong vòng 1 năm không nên gọi là đầu tư. - Đầu tư (kinh tế) là việc bỏ vốn vào một doanh nghiệp, một công trình xây dựng hay một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách, vốn tự có, liên doanh hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị, xây dựng mới, hoặc thực hiện việc hiện đại hóa, mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay phát triển phúc lợi công cộng. Những cách diễn đạt trên không có sự khác biệt lớn. Theo đó, một hoạt động được coi là đầu tư phải đảm bảo các đặc trưng là: - Sử dụng vốn vào việc phát triển kinh tế - xã hội; - Có tính sinh lợi - Với thời gian kéo dài - Nhằm mục đích thu lại khoản tiền (hoặc mục đích xã hội) lớn hơn; - Là hoạt động tài chính (bỏ vốn thu lợi nhuận), vốn đầu tư có thể là tiền tệ, là tư liệu sản xuất, là tài nguyên, hoặc sức lao động, hoặc các dạng vật chất khác như: công nghệ thông tin, nhãn hiệu, bằng phát minh, biểu tượng, uy tín hàng hóa và các phương tiện đặc biệt khác như cổ phiếu, hối phiếu, vàng bạc đá quý v.v... Như vậy có thể nói khái quát: đầu tư là hoạt động kinh tế gắn với việc sử dụng vốn dài hạn nhằm mục đích sinh lợi. Đầu tư có thể được phân ra nhiều loại tuỳ theo giác độ nghiên cứu. Đầu tư có thể được phân loại theo những tiêu thức chính sau đây: - Phân loại theo mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư vào đối tượng mà mình bỏ vốn: + Phân loại theo mục tiêu đầu tư; + Phân loại theo nội dung kinh tế; + Phân loại theo thời gian sử dụng; + Phân loại theo lĩnh vực đầu tư; - Phân loại theo nội dung nghiên cứu: đầu tư được chia thành 3 loại: + Đầu tư vào lực lượng lao động: nhằm mục đích tăng về lượng và chất, là các yếu tố quan trọng nhất của quá trình kinh doanh. Đó là sức lao động, thông qua tuyển mộ, thuê mướn và đào tạo chuyên gia, cán bộ quản lý và công nhân. + Đầu tư vào tài sản lưu động: nhằm đảm bảo sự hoạt động liên tục nhịp nhàng của quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là tư liệu sản xuất giá trị nhỏ, nguyên vật liệu, tiền tệ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. + Đầu tư xây dựng cơ bản: nhằm tạo ra hoặc nâng cao mức độ hiện đại tài sản cố định của doanh nghiệp thông qua việc xây dựng mới nhà xưởng, các công trình hạ tầng và đầu tư cho thiết bị máy móc, công nghệ bằng phát minh, mua bản quyền, bí quyết công nghệ. Đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai trò quyết định, gắn liền với việc nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi một khoản vốn lớn và cần được tính toán một cách chuẩn xác, nếu không sẽ dẫn đến sự lãng phí tiền của rất lớn. - Phân loại theo mục tiêu đầu tư: theo tiêu thức này đầu tư được chia thành: + Đầu tư mới - Là hình thức đầu tư đưa toàn bộ vốn đầu tư vào xây dựng một đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân riêng. + Đầu tư mở rộng - Là hình thức đầu tư nhằm mở rộng công trình cũ đang hoạt động để nâng cao công suất của công trình cũ hoặc tăng thêm mặt hàng, tăng thêm khả năng phục vụ cho nhiều loại đối tượng so với nhiệm vụ ban đầu. Đầu tư này gắn liền với việc mua sắm thiết bị mới, xây dựng các phân xưởng mới hoặc mở rộng các phân xưởng chính hiện có, xây dựng thêm các công trình phụ trợ và phục vụ mới. + Đầu tư cải tạo công trình đang hoạt động: đầu tư này gắn với việc trang bị lại và tổ chức lại toàn bộ hoạt động hay một bộ phận doanh nghiệp đang hoạt động, được thực hiện theo một thiết kế duy nhất, không bao gồm việc xây dựng mới hay mở rộng các bộ phận sản xuất chính đang hoạt động hoặc có thể là xây dựng mới hoặc mở rộng các công trình phục vụ hay phụ trợ. + Đầu tư hiện đại hóa công trình đang sử dụng: gồm các đầu tư nhằm thay đổi cải tiến các thiết bị công nghệ và các thiết bị khác đã bị hao mòn cả hữu hình và vô hình trên cơ sở kỹ thuật mới, nhằm nâng cao các thông số kỹ thuật của các thiết bị đó. Việc hiện đại hóa có thể tiến hành một cách độc lập, hoặc tiến hành đồng thời với việc cải tạo. Thông thường hiện đại hóa và cải tạo tiến hành đồng thời. Vì vậy tính toán đầu tư thường chỉ xem trong 3 trường hợp: đầu tư mới, đầu tư mở rộng và đầu tư cải tạo, hiện đại hóa. - Phân loại theo thời gian (hoạt động) sử dụng: theo tiêu thức này đầu tư chia thành 3 loại: + Đầu tư ngắn hạn, + Đầu tư trung hạn, + Đầu tư dài hạn, - Phân loại theo lĩnh vực hoạt động: theo tiêu thức này đầu tư được chia thành: đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đầu tư cho sản xuất, đầu tư cho quản lý. - Phân loại đầu tư theo mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư vào đối tượng mà mình bỏ vốn: theo tiêu thức này đầu tư chia thành: + Đầu tư gián tiếp: là đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không phải là một. Loại đầu tư này còn được gọi là đầu tư tài chính vì đầu tư này được thực hiện bằng cách mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, chứng khoán, trái khoán... để được hưởng lợi tức. Với phương thức này, người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý các công cuộc kinh doanh. Trong đầu tư gián tiếp có thể thực hiện theo cách cho vay dài hạn. Cho vay dài hạn (tín dụng): là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay kiếm lời qua lãi suất tiền cho vay. + Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một chủ thể, là người đầu tư đồng thời là người quản lý đầu tư. Trong đầu tư trực tiếp, người có vốn có thể bỏ vốn vào để làm tăng thêm năng lực sản xuất hoặc tạo ra những năng lực sản xuất mới, song cũng có thể mua lại một số cổ phần để hy vọng thu được lợi tức cổ phần. Trong đầu tư trực tiếp, người bỏ vốn ra có thể là người trong nước và cũng có thể là người nước ngoài và đều được luật pháp của nước chủ nhà cho phép. Trong trường hợp người có vốn là người nước ngoài thì hoạt động đầu tư trực tiếp đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là dạng đầu tư trực tiếp do nguồn vốn từ bên ngoài; chủ thể của nó là tư nhân hay Nhà nước, hoặc các Tổ chức quốc tế được nước chủ nhà cho phép đầu tư vào những ngành hoặc những lĩnh vực nào đó của một nước nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Nếu đầu tư trực tiếp bằng vốn trong nước (vốn của nhà nước, vốn của tư nhân...) thì phải tuân theo các luật lệ hiện hành về đầu tư của Nhà nước, trong đó đáng chú ý nhất và cũng phức tạp nhất là các luật lệ về đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư trực tiếp lại được chia thành: + Đầu tư dịch chuyển: là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn mua lại một số cổ phần đủ lớn để nắm được quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong hình thức đầu tư này chỉ có sự thay đổi về quyền sở hữu tài sản được dịch chuyển từ tay người này sang tay người khác, không có sự gia tăng tài sản của các doanh nghiệp. + Đầu tư phát triển: là hình thức đầu tư trong đó tạo dựng nên những năng lực mới (về lượng hay về chất) cho các hoạt động sản xuất, dịch vụ để làm phương tiện sinh lời. Đầu tư phát triển còn gọi là đầu tư xây dựng cơ bản; nó bao gồm các hình thức đầu tư xây dựng mới, mở rộng cải tạo và hiện đại hóa cơ sở sẵn có. Nó là biểu hiện cụ thể của tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để đầu tư tài chính và đầu tư dịch chuyển. 1.2-/ Sự hợp tác đầu tư quốc tế và việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài 1.2.1-/ Khái niệm và ý nghĩa. Như trên đã phân tích, vốn đầu tư là một yếu tố cần thiết cho việc mở rộng quy mô và đổi mới kỹ thuật của hoạt động kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy tất cả các quốc gia đang phát triển đều thiếu và cần vốn đầu tư. Không có một nước nào có thể vươn lên mạnh, nếu không thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài, bởi vì nếu không có nguồn vốn lớn và kỹ thuật cao thì không thể khai thác triệt để các lợi thế so sánh của đất nước. Sự hợp tác đầu tư quốc tế giữa hai bên và nhiều bên là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện tăng cường việc quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, tuy rằng trên thực tế kẻ mạnh vẫn tìm cách thu được nhiều lợi ích hơn. Sự thật là nhiều quốc gia đã từng rất dè dặt trong việc mở cửa đón nhận đầu tư nước ngoài, nhưng cho đến những năm gần đây cũng lần lượt ban hành các luật lệ thích hợp để mở rộng quy mô và nâng cao tốc độ thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Sự hợp tác đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế, trong đó hai nước hay nhiều nước thỏa thuận cùng nhau góp vốn(thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân hay sở hữu hỗn hợp) để đầu tư vào việc xây dựng các công trình mới, hiện đại hóa và mở rộng các xí nghiệp hiện có, nhằm đem lại lợi ích cho cả các bên. Dĩ nhiên quá trình hợp tác này không đơn giản mà trái lại luôn chứa đựng những sự đấu tranh không kém phần gay gắt. Song dù sao thì trong sự hợp tác đầu tư, lợi ích của các bên tham gia cũng khá gắn liền với nhau. Nhận thức rõ tính chất của xu hướng này và sử dụng nó một cách khôn ngoan là một trong những sự bảo đảm cho thành công của con đường phát triển trong giai đoạn hiện nay của mỗi nước. Thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, các nước đang phát triển không những chỉ nhằm nhận được vốn khi đang thiếu mà còn nhằm các mục đích khác để phát triển kinh tế lâu dài, vững chắc bằng thu hút công nghệ mới, giải quyết công ăn việc làm, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, cải thiện cơ cấu nền kinh tế của mình lên hiện đại và tiến bộ. Đối với những nước đang phát triển thì phổ biến là cần thu hút vốn đầu tư của các nước ngoài trên quy mô lớn. Đây là một giải pháp có ý nghĩa sâu sắc nhằm thúc đẩy sự phát triển để hình thành các khu vực có công nghệ cao cũng như để biến đổi căn bản cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên để đạt được các mục đích trên đây không phải dễ dàng, lúc nào cũng suôn sẻ, trái lại các nước đang phát tiển cần tìm cho mình các chủ trương thích hợp, các biện pháp khôn khéo, thu hút được vốn đầu tư vào các ngành và các lĩnh vực cần thiết tạo thuận lợi cho mình hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Cần nhận rõ hiệu quả của việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, có thể xảy ra khác nhau. Chẳng hạn, khi nhận vốn đầu tư của nước ngoài sẽ phát sinh nợ nước ngoài, nhất là khi nhận đầu tư gián tiếp dưới hình thức tín dụng. Trên thực tế đã có những nước chịu gánh nặng nợ nần rất lớn do việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, mặc dù không phải mọi gánh nặng nợ nần đều là do việc thu hút vốn đầu tư cả. Cũng có không ít trường hợp việc nhận đầu tư đi liền với sự du nhập những công nghệ thứ yếu, công nghệ phế thải mang theo chất thải ô nhiễm. Mặt khác, có thể còn chịu ảnh hưởng ý đồ của người đầu tư trong việc xác lập cơ cấu kinh tế, trong việc sử dụng sức lao động và tài nguyên và sẽ đưa đến tình trạng phát triển không đồng đều giữa các vùng trong nước tạo ra sự phân hóa giữa các tầng lớp dân cư. Đành rằng các nước đang phát triển phải chấp nhận có sự phân hóa đó, nhưng có mức giới hạn. Rõ ràng đây là lĩnh vực đa dạng và phức tạp, luôn luôn có sự đấu tranh giữa các lợi ích với nhiều phương sách và thủ đoạn khác nhau, mặc dù chính sự phát triển về hợp tác và đầu tư lại là một xu hướng khách quan. Vấn đề là phải tính toán chu đáo về các mặt kinh tế, kỹ thuật và xã hội của từng dự án cũng như toàn bộ chương trình hợp tác đầu tư với nước ngoài để khai thác triệt để các mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực có thể xảy ra. 1.2.2-/ Đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong sự hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau. Vốn của các Chính phủ và của các Tổ chức quốc tế có thể là viện trợ không hoàn lại, vốn cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, cho vay với lãi suất thông thường. Vốn của các tổ chức xã hội (các tổ chức phi Chính phủ) thường là các khoản tiền viện trợ mang tính chất nhân đạo cho các hoạt động y tế, giáo dục, khắc phục hậu quả thiên tai và nói chung là nó được tính riêng và không phụ thuộc vào vốn hợp tác đầu tư. Tư nhân gồm người nước ngoài và người Campuchia ở nước ngoài cũng góp vốn để đầu tư trực tiếp vào một dự án cụ thể. Trong sự hợp tác đầu tư quốc tế, để phục vụ cho việc quản lý và sử dụng vốn, người ta thường chia ra hai loại hình là đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. 1.2.2.1. Đầu tư gián tiếp nước ngoài Đầu tư gián tiếp nước ngoài là những khoản đầu tư được thực hiện thông qua các hoạt động cho vay và viện trợ mà nguồn vốn thường là của các Chính phủ và của các Tổ chức quốc tế. Một bộ phận đáng kể của đầu tư gián tiếp là các khoản tài trợ phát triển chính thức như ODA (Official Development Assistance) do các Tổ chức Liên Hiệp Quốc như UNDP, FAO, UNICEF, UNFPA..., các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ đóng góp. Phần quan trọng hơn đó là các khoản cho vay của Chính phủ các nước và của các Tổ chức kinh tế khác (như IMF, WB, ADB...) tiến hành. Đặc điểm của vốn đầu tư gián tiếp là vốn thường đi kèm với các điều kiện ưu đãi và các điều kiện khác, cho nên có thể tập trung vào các dự án có mức vốn đầu tư tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn tương đối dài, chẳng hạn như các dự án về năng lượng, giao thông vận tải hay xây dựng các yếu tố kết cấu hạ tầng khác. Chính vì vậy mà đầu tư gián tiếp có tác dụng thúc đẩy, khuyến khích và tạo điều kiện cho việc thu hút đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên loại hình đầu tư này cũng có những sự hạn chế nhất định, vì nó gắn chặt với thái độ chính trị của các Chính phủ nước ngoài và của các Tổ chức kinh tế quốc tế. Mặt khác, đầu tư gián tiếp là cho vay, nên hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó phụ thuộc vào cơ chế quản lý và trình độ tổ chức kinh doanh của chủ nhà và thực tế thì hiệu quả này đạt được thường không cao như mong muốn. 1.2.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài là những khoản đầu tư do các tổ chức kinh doanh và cá nhân người nước ngoài đưa vào một nước để sản xuất kinh doanh hoặc liên doanh với tổ chức và cá nhân trong nước theo quy định của luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Để hiểu rõ hơn chúng ta có thể căn cứ vào mấy khía cạnh: - Một là, đầu tư trực tiếp không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận mà cùng với vốn có thể có cả kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, sản xuất kinh doanh, năng lực marketing. Chủ đầu tư khi đưa vốn vào đầu tư là đã tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh và sản phẩm làm ra phải được tiêu thụ ở thị trường nước chủ nhà hoặc thị trường lân cận. Do vậy phải đầu tư kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. - Hai là, việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài không gây nên tình trạng nợ nần cho nước chủ nhà, trái lại nước chủ nhà còn có điều kiện để phát triển tiềm năng trong nước. - Ba là, chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này chiếm tới 90% khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài của thế giới. - Bốn là, đầu tư nước ngoài tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức cơ bản là chủ đầu tư bỏ vốn vào thành lập xí nghiệp 100% vốn của mình, mua lại toàn bộ hoặc một phần xí nghiệp của nước chủ nhà, cùng góp vốn với các đối tác nước chủ nhà với những tỷ lệ khác nhau để cùng thành lập xí nghiệp liên doanh, bỏ vốn xây dựng công trường vận hành. Sau một thời gian hoạt động quy định có thể chuyển giao cho nước chủ nhà nếu đó là hợp đồng dạng “xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Build-Operate-Transfer - BOT)”. Mỗi hình thức nêu trên đây đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau. ở thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã từng xuất hiện ngay từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước Châu á để khai thác đồn điền, khai thác khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới, đánh dấu bằng sự kiện “Công xã Pari” thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có quy mô to lớn hơn. ở đây các công ty tư bản đã thực hiện việc đầu tư vào các yếu tố tư bản bất biến (C), tư bản khả biến (V) trong đó xây dựng kết cấu hạ tầng tối thiểu để thực hiện có hiệu quả quá trình khai thác các tài nguyên trong lòng đất để đưa về chính quốc. Trong ngành khai khoáng phải kể đến các công ty dầu mỏ như Royal Deutch Shell, BP, EXXON, Mobil oil, Gulf oil... của Anh, Hà Lan, Mỹ và chúng thực hiện từ lâu quá trình đầu tư trực tiếp vào các nước ở Châu á, Mỹ La Tinh, Châu Phi... để khai thác nguồn tài nguyên này. Từ sau chiến tranh thế giới 2, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự thay đổi rõ rệt với sự đầu tư ồ ạt của các nhà đầu tư Mỹ vào Châu Âu theo kế hoạch Marshall (1945 - 1948) để vực dậy phần lục địa bị chiến tranh tàn phá nặng nề này. Và sau đó là sự đầu tư lẫn nhau giữa các nước Châu Âu thực hiện sự liên minh tư bản để tăng cường khả năng kinh tế chống độc quyền của các xí nghiệp ở Mỹ. Cũng từ đó việc đầu tư trực tiếp nước ngoài trở nên thưòng xuyên hơn và nó được sử dụng phối hợp với các hình thức xuất khẩu tư bản khác, trở thành vũ khí lợi hại của các nước phương Tây trong việc thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, nhất là đối với các nước thuộc địa hoặc các nước đang phát triển. Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất, lưu thông và được tăng cường mạnh mẽ. Có thể nói trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay định hướng xã hội chủ nghĩa, lại không cần đến nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài và coi đó là nguồn lực quốc tế cần khai thác để từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. Mặt khác dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ như hiện nay, ngay cả những nước có tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật như Mỹ, Nhật và các nước cộng đồng Châu Âu (EU) cũng không thể tự mình giải quyết có hiệu quả tất cả những vấn đề đã, đang và tiếp tục đặt ra trên lĩnh vực khoa học công nghệ và vốn. Do vậy chỉ có con đường hợp tác, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình đầu tư hợp tác mới đưa lại hiệu quả mong muốn. Do vậy, trên thực tế không một nước nào lại bỏ qua hình thức đầu tư này. Nhìn chung đầu tư trực tiếp có những đặc trưng và thế mạnh riêng. Thứ nhất, đầu tư trực tiếp, mặc dù vẫn chịu sự chi phối của chính phủ, nhưng có phần ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên hơn là so với đầu tư gián tiếp.Thứ hai, bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất- kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt là trong tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Thứ ba, với quyền lợi gắn chặt với dự án, người nước ngoài quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, nên thường lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ quản lý và tay nghề của công nhân. Song cũng phải thấy rõ hoạt động đầu tư trực tiếp diễn ra theo cơ chế thị trường trong khi người đầu tư nước ngoài có nhiều kinh nghiệm, sành sỏi trong việc ký kết hợp đồng, còn phía chủ nhà thì lại thiếu kinh nghiệm, kém sành sỏi trong việc ký kết hợp đồng đó, nên phía chủ nhà không hoàn toàn chủ động trong việc bố trí đầu tư theo ngành cũng như vùng lãnh thổ hoặc bị sơ hở gây nên thiệt hại cho mình. 1.2.2.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong đời sống kinh tế quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng to lớn, thể hiện như sau: 1.2.2.3.1) Đầu tư trực tiếp nước ngoài - nguồn đầu tư phát triển kinh tế Đối với tất cả các nước, kể cả các nước phát triển và các nước đang phát triển luôn cần vốn đầu tư vì thường trong nước không đủ vốn phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc: - Bù đắp vốn thiếu hụt cho đầu tư do khả năng tích luỹ vốn trong nước bị giới hạn; - Cần cải thiện cán cân thương mại; - Cải thiện mức thâm hụt ngân sách của chính phủ. Dòng vốn được tạo ra từ đầu tư trực tiếp nước ngoài rất đa dạng, nhưng chủ yếu là thông qua các hình thức liên doanh và thành lập các công ty 100% vốn nước ngoài. Theo nghiên cứu gần đây của UNCTAD UNCTAD - United Nations Conference on Trade and Development (Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển). , đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp phần đáng kể vào nguồn vốn đầu tư tại các nước. Kết quả của công trình nghiên cứu này cho biết: thông qua tỷ trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng số vốn đầu tư cơ bản trong các nước cho thấy rõ sự gia tăng đáng kể của dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào cả các nước phát triển và các nước đang phát triển ở thập kỷ 80. Bảng 1 - Dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước phát triển và các nước đang phát triển Đơn vị tính: % Các nước được lựa chọn 1971 - 1975 1976 - 1980 1981 - 1985 1986 - 1990 1991 - 1998 1. Các nước phát triển - EC - Bỉ 7,1 5,8 7,6 16,0 15,2 - ý 1,8 0,8 1,1 2,0 2,0 - Hà Lan 6,1 4,5 6,1 12,3 11,3 - Anh Quốc 7,3 8,4 5,4 14,4 12,2 - Mỹ 0,9 2,0 3,0 5,6 7,8 - Nhật Bản 0,1 0,05 0,1 0,1 1 2. Các nước đang phát triển - Malaysia 15,2 11,9 10,8 9,7 8,5 - Thái Lan 3,0 1,5 3,1 6,3 5,1 - Hàn Quốc 1,9 0,4 0,5 1,1 0,6 - Singapore 15,0 16,6 17,4 29,4 20,7 3. Mỹ La Tinh và Châu Phi - Mê Hi Cô 3,5 3,6 2,7 7,0 8,5 - Brazil 4,2 3,9 1,3 1,7 7,1 Nguồn: Báo cáo của UNCTAD năm 1998. Xu hướng gia tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài quốc tế từ 1971 đến năm 1988 so với tốc độ trung bình hàng năm từ 1960 - 1973 đạt 12,6%. Từ giữa những năm 1970, đầu tư quốc tế tăng với tốc độ cao hơn, đạt mức cao nhất vào năm 1981 và thấp nhất vào năm 1985. Tỷ trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng số vốn thuần tuý vào các nước đang phát triển đạt 12% năm 1987 và 37% vào năm 1994 (theo UNCTAD 1995). Luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các nước đang phát triển trong năm 1988 khoảng 30 tỷ USD, tăng lên 35,9 tỷ USD vào năm 1991 (xem bảng số 2 ở phụ lục). Bảng 2 cho biết sự phân bố của FDI vào các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Theo tính toán của ngân hàng thế giới, FDI chảy vào Trung Quốc chiếm một tỷ trọng khá lớn, đạt 33,8 tỷ USD năm 1994. Trong khi đó, FDI chảy vào các quốc gia độc lập và Trung Đông Âu cùng năm chỉ đạt có 15 tỷ USD, bằng tổng FDI của Thái Lan và Malaysia. Bảng 2 - Luồng FDI chảy vào các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi phân theo khu vực Đơn vị tính: % của thế giới Khu vực Tỷ trọng FDI Nam á 7 Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribe 26 Sahara Châu Phi 9 Trung Đông và Bắc Phi 9 Trung Đông Âu, các quốc gia độc lập 15 Trung Quốc 13 Các nước khu vực Đông á khác 21 Tổng số: 100 Nguồn: Báo cáo phát triển ngân hàng thế giới năm 1996. Trong đó tổng FDI từ 1990 - 1995 là 1.640 tỷ USD. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định của các nền kinh tế ASEAN trên hai thập kỷ qua đã cho thấy chiến lược hướng ngoại mà các nước này theo đuổi (bao gồm chính sách ngoại thương, chính sách đầu tư rất cởi mở) đã góp phần đáng kể vào thành tựu kinh tế mà các nước đạt được. Thực hiện các chính sách khuyến khích FDI không những giúp các nước này huy động được lượng vốn cho phát triển mà còn thu được nhiều lợi ích khác như chuyển giao công nghệ, nâng cao kỹ năng cho người lao động, sử dụng tốt hơn các nguồn vốn khan hiếm và tăng khả năng tiếp cận với thị trường xuất khẩu và hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Theo bảng 3 và 4, luồng FDI vào các nước đang phát triển có chiều hướng tăng dần từ những năm 80, nhưng chảy vào các nước phát triển lại giảm đi đáng kể. Bảng 3 - Đầu tư trực tiếp nước ngoài của cộng đồng Châu âu và các nước khác vào ASEAN, 1987 Tên nước Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Triệu USD % Triệu USD % Triệu USD % Triệu USD % Triệu USD % EC 92,1 26 25,6 24 23,4 21 114,4 24 38,5 98 Anh 46,1 13 10,4 10 10,2 9 20,1 4 12,8 32 Đức 16,5 5 4,0 4 0,7 1 42,9 9 17,4 44 Hà Lan 23,3 6 8,0 7 33,7 7 2,9 7 Mỹ 153,8 43 24,3 23 36,0 33 258,1 54 30,8 78 Hồng Kông 9,6 3 11,0 10 27,7 25 -66,9 -170 Các nước khác 17,3 5 31,1 29 3,1 3 8,4 2 3,9 11 Tổng số 358,7 100 106,4 100 109,1 100 477,6 100 39,4 100 Nguồn: Báo cáo hàng năm của ngân hàng Indonesia 1986/1987; FDI vào ASEAN, 1990. Báo cáo hàng năm của ban phát triển kinh tế 1987/1988. Bảng 4 - Dòng FDI ra và vào các nước phát triển vàcác nước đang phát triển giai đoạn 1987 - 1992 Đơn vị tính: tỷ USD 1987 1988 1989 1990 1991 1992 Các nước phát triển Dòng vào 109 132 167 172 108 86 Dòng ra 132 162 203 225 177 145 Các nước đang phát triển Dòng vào 25 30 29 31 39 40 Dòng ra 2 6 10 9 5 5 Tất cả các nuớc Dòng vào 134 162 196 203 147 126 Dòng ra 134 168 213 234 182 150 Nguồn: UNCTAD; Báo cáo đầu tư thế giới 1993: tính toán sơ bộ. 1.2.2.3.2) Chuyển giao công nghệ Một trong những vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp FDI là chuyển giao công nghệ mang một hàm ý rộng, bao gồm không chỉ từ nhập khẩu công nghệ đơn thuần mà còn vận hành công nghệ đó, sửa chữa, bảo hành, nắm vững các nguyên lý, mô phỏng và phát triển nó. Những hoạt động được coi là chuyển giao công nghệ thường được thực hiện như: - Chuyển giao quyền sở hữu hoặc sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích hoặc các đối tượng sở hữu công nghệ khác; - Chuyển giao các bí quyết hoặc kiến thức kỹ thuật chuyên môn dưới dạng phương án công nghệ, tà._.i liệu thực tế, công thức thông số kỹ thuật kèm theo hoặc không kèm theo thiết bị. - Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn công nghệ kể cả đào tạo và thông tin v.v... Các phương thức chuyển giao công nghệ hết sức đa dạng và không đồng nhất. Chẳng hạn, thông qua các hiệp định về cấp bằng sáng chế, viện trợ kỹ thuật, nhập khẩu trang thiết bị chuyên dụng đi cùng với FDI, trong đó FDI chiếm một tỷ trọng lớn. Thông qua các hình thức của FDI, giữa các nước đã có sự chuyển giao công nghệ và bổ sung công nghệ cho nhau. Đối với các nước đang phát triển, trình độ công nghệ lạc hậu, thấp kém thì FDI được coi là một phương tiện hữu hiệu để nhập công nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài. Hầu hết các nước đều đạt được mục tiêu này với các mức độ khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau. Đối với các nước phát triển thì FDI thường giúp bổ sung và hoàn thiện công nghệ. Thông qua FDI, các nước phát triển có điều kiện để thực hiện xuất khẩu trung gian và truyền thống, hoặc chuyển giao công nghệ đã có phần lạc hậu so với trong nước. Các hình thức chuyển giao công nghệ thường có lợi cho cả hai bên: bên chuyển giao và bên nhận công nghệ. Qua đó, các kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, các bằng sáng chế, các bí quyết về kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá mới, kiểu dạng công nghiệp đã được chuyển giao giữa các bên. Phần lớn các nước đang phát triển có nhu cầu đổi mới về công nghệ và do đó đã có những biện pháp và chính sách cởi mở nhằm đẩy mạnh FDI và muốn nhập những ngành công nghiệp mới với công nghệ mới, tiên tiến. Nhiều nước đã rất thành công trong việc chuyển giao và du nhập những công nghệ mới, lấy đó làm cơ sở và tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo về công nghệ (như Nhật bản, Hàn Quốc), nhưng cũng có nước chưa thật thành công về lĩnh vực này. Một vấn đề quan trọng của FDI liên quan đến chuyển giao công nghệ là FDI d8iẫn đến thay đổi về cơ cấu ngành trong nội bộ nền kinh tế của mỗi nước. Chẳng hạn, các nước công nghiệp mới (New Industrialized Countries-Nics) chuyển sang sản xuất hàng hoá xuất khẩu trong những năm 1970. Cùng thời gian đó, Nhật Bản chuyển sang đầu tư nhiều hơn vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ, giảm dần đầu tư vào khai thác tài nguyên và cơ sở hạ tầng. Tại Việt Nam, sau khi luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987, một loạt các dự án đã thực hiện và đã xuất hiện một số ngành hoàn toàn mới như ngành điện tử, lắp ráp, sản xuất ô tô, xe máy. Ngoài ảnh hưởng đến cơ cấu công nghiệp, FDI còn có tác động tích cực đến cán cân thương mại của các nước. Ví dụ: trong năm 1975, có khoảng 70% hàng chế tạo và 84% tổng giá trị xuất khẩu của Singapore được tạo ra từ các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các nhà hoạch định chính sách của Singapore cho rằng, nước này có thể đạt được tốc độ tăng trưởng thực tế 8 - 10% trong những năm 1980 trên cơ sở tăng năng suất lao động 6 - 8% bằng cách nỗ lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ mới thông qua đầu tư cho nguồn nhân lực, tăng cường cơ giới hoá, tự động hoá và tin học hoá. ở Hàn Quốc, năm 1978 có khoảng 19,5% sản lượng công nghiệp chế tạo và 22,7% giá trị xuất khẩu là do chi nhánh của các công ty đa quốc gia nước ngoài tạo ra. Một đặc điểm của các nước ở Châu á là: thông qua FDI để có được các công nghệ mới cho sản xuất hàng hoá dịch vụ trong nước và xuất khẩu. Qúa trình này diễn ra khác với các nước phát triển, ở đó sản xuất hàng hoá có giá trị cao cho xuất khẩu thu được bằng cách sử dụng các yếu tố đầu tư vào nước ngoài. Các nước công nghiệp mới ở Châu á ngày càng tăng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu do lắp ráp các máy móc hoặc các thiết bị từ phụ tùng, linh kiện nhập khẩu (bảng 5). Bảng 5 - Tỷ lệ xuất khẩu so với tổng sản phẩm quốc dân ở một số nước Châu á năm 1988 Đơn vị tính: % Hàn Quốc 40,4 Đài Loan 49,0 Thái Lan 29,0 Malaysia 66,8 Nguồn: Thông báo của Uỷ ban Đầu tư của Thái Lan 1988. ở các nước phát triển, thông qua FDI có thể tạo ra các ngành công nghiệp mới. Chẳng hạn, tập đoàn General Motors (Mỹ) đã liên doanh với 6 công ty hoạt động trên lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị nhằm tiếp thu công nghệ của ngành sản xuất này. Công ty Motorola chấp thuận chuyển giao công nghệ chất bán dẫn cho Toshiba (Nhật Bản) và Toshiba đã giúp công ty này thâm nhập được vào thị trường Nhật Bản. 1.2.2.3.3) Chuyển giao kinh nghiệm và kỹ năng quản lý Thông qua xí nghiệp liên doanh, các nước đã tạo ra môi trường và điều kiện tốt để tiếp thu những kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý và nhân viên những kỹ năng quản lý tiên tiến, kinh nghiệm xây dựng, đánh giá dự án, kinh nghiệm điều hành xí nghiệp, quản lý tài chính, kế toán, quản lý công nghệ, kinh nghiệm nghiên cứu thị trường, nghệ thuật tiếp thị, thông tin quảng cáo, chào hàng, tổ chức mạng lưới dịch vụ v.v... Khi làm việc trong các công ty có vốn nước ngoài, đội ngũ cán bộ quản lý được đào tạo bồi dưỡng qua các khoá học ngắn hạn do các công ty nước ngoài tổ chức. Nhờ vậy mà tiếp cận được với những phương pháp, kỹ năng quản lý mới, tiếp thu và nâng cao trình độ quản lý, đáp ứng nhu cầu mới của các nước ngoài và làm việc có hiệu quả hơn. Đối với các nước phát triển, thông qua FDI các nhà quản lý các công ty đa và xuyên quốc gia cũng tiếp thu được những công nghệ mới, nâng cao được trình độ trong việc quản lý được các ngành công nghiệp mới, các lĩnh vực sản xuất mới mà công ty hoặc một nước có được thông qua FDI. Theo điều tra của 112 hàng xuất khẩu của Hàn Quốc cho thấy những kinh nghiệm mà các cá nhân thu được thông qua việc đi làm ở nước ngoài trước đây được xem là quan trọng hơn việc được cấp bằng sáng chế và viện trợ kỹ thuật. Một trong những thành công của Nhật Bản là khả năng tiếp thu công nghệ, mô phỏng công nghệ của các nước tiên tiến, trong đó có phần tiếp thu kỹ năng, quản lý công nghệ v.v... của các chuyên gia Nhật Bản thông qua các hình thức FDI, hoặc của các công ty nước ngoài hoạt động trên đất Nhật Bản hay các công ty Nhật Bản ở nước ngoài. Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Cooperation and Development - OECD) 1982, thì các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước đã rất thành công trong việc mô phỏng và phát triển hơn nữa công nghệ nhập khẩu thông qua chuyển giao công nghệ và chuyển giao kỹ năng quản lý từ FDI. 1.2.2.3.4) Khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên tốt hơn, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động Mục tiêu đầu tư ở nước ngoài của các công ty đa và xuyên quốc gia là thu lợi nhuận và tìm thị trường mới, củng cố chỗ đứng và duy trì thế cạnh tranh của công ty trên thị trường quốc tế. Các công ty này thường có tiềm năng về vốn và muốn thâm nhập vào thị trường các nước có nguồn nguyên vật liệu dồi dào, có thị trường tiêu thụ hoặc sản xuất cho xuất khẩu. Họ đặc biệt chú trọng đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nước đang phát triển. ở các nước này thường thừa lao động, trình độ lao động thấp, giá lao động rẻ. Do vậy, FDI là một trong những phương tiện để các nước đang phát triển giải quyết lao động thừa. Đối với các nước công nghiệp mới ở Châu á và các nền kinh tế chuyển đổi, nhà nước tập trung xây dựng và khai thác ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động, khác với nước phát triển là sản xuất hàng xuất khẩu bằng việc tập trung vốn. Chính sách này khá thành công ở một số nước như Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc v.v... Các ngành sản xuất hàng xuất khẩu đều được xây dựng trên cơ sở FDI và tạo ra một số lượng việc làm lớn cho nền kinh tế. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư Việt Nam năm 1996 dự tính dự án FDI được thực hiện ở Việt Nam từ 1988 đến 1995 đã tạo thêm được 90.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng 100.000 chỗ làm việc gián tiếp. Bảng 6 cho biết số việc làm được tạo ra trong năm 1988 ở Thái Lan do FDI từ các nước đầu tư chính là Nhật Bản, Mỹ, Anh, Đài Loan và Hồng Kông đầu tư vào. Nói chung, số việc làm mà do FDI tạo ra tại các nước ASEAN có tỷ lệ trung bình cao hơn các nước đang phát triển khác. Theo báo cáo của ngân hàng thế giới năm 1987, trong khi ở các nước đang phát triển chỉ có 1% dân số ở độ tuổi lao động có việc làm do các công ty đa quốc gia tạo ra thì ở các nước ASEAN tỷ lệ này lớn hơn nhiều: 6,8% ở Indonesia (1977); 5,9% ở Malaysia (1975); 8,6% ở Philippines (1976) và 54,6% ở Singapore (1982). Bảng 6 - Đầu tư trực tiếp nước ngoài và số việc làm được tạo ra trong năm 1988 -trường hợp Thái Lan Tên nước Số các dự án Tổng việc làm Nhật Bản 264 69.108 Mỹ 104 37.202 Anh 43 9.189 Đài Loan 30 75.671 Hồng Kông 86 32.784 Nguồn: Thông báo của ủy ban Đầu tư của Thái Lan 1988. Song song với việc tạo thêm việc làm và tạo thêm thu nhập cho người lao động, FDI góp một phần quan trọng vào đào tạo đội ngũ công nhân, giúp đội ngũ này có được cơ hội tiếp cận với kỹ thuật công nghệ mới và được đào tạo về kỹ năng để vận hành máy móc thiết bị. Nhờ có FDI mà trình độ kỹ năng của người lao động trong các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi đã được nâng cao, rút ngắn khoảng cách về trình độ của người lao động giữa các nước phát triển và đang phát triển. Ngoài các vai trò chính như đã trình bày ở trên, FDI còn đóng góp tích cực vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế như thông tin liên lạc, đường xá, kho tàng, bến cảng, sân bay và góp phần vào hiện đại hoá các cơ sở sản xuất trong nước. Sản phẩm của các hình thức đầu tư nước ngoài thường có chất lượng cao trên thị trường nội địa và có thể phục vụ thay thế hàng nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước. Hơn nữa, các hình thức đầu tư FDI đã kích thích thị trường nội địa phát triển, tạo môi trường cạnh tranh trong nước giữa các nhà kinh doanh. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó bao gồm khung khổ luật pháp và chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Quá trình bày trên đây có thể tóm tắt vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài là: - Tạo nguồn vốn bổ xung hay phát triển ban đầu cho nền kinh tế của một nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong nước; - ổn định và tạo đà phát triển kinh tế cho nước đó, cải tạo và hoàn thiện cơ cấu ngành nghề công nghiệp; - Với các nước đang phát triển, FDI còn tạo điều kiện hoà nhập với nền kinh tế thế giới; - Tiếp thu được công nghệ tiên tiến qua đường chuyển giao công nghệ trong đầu tư (tiếp thu kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, thu được các kiến thức và sáng chế bí quyết kỹ thuật); -Tạo thuận lợi về thương mại như cải thiện cán cân thương mại, tăng sản xuất công nghiệp, phát triển dịch vụ; -Tạo điều kiện phát triển thị trường cũ và tìm thị trường mới; -Tiếp thu được kinh nghiệm và kỹ năng quản lý kinh tế, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước.... 2-/ Những xu hướng chủ yếu về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới. 2.1./ Luồng vốn đầu tư trực tiếp trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển. Nếu những thập kỷ 50- 60, luồng vốn đầu tư trực tiếp tập trung vào các nước đang phát triển (chiếm khoảng 70% tổng số vốn đầu tư ), phần còn lại khoảng 30% vào các nước tư bản phát triển, thì trong những năm đầu thập kỷ 90, quy mô vốn FDI trên thế giới bình quân hàng năm khoảng 190 tỷ USD, đến năm 1995 đã đạt khoảng 315 tỷ USD, các nước công nghiệp phát triển đóng vai trò chủ yếu trong dòng vận động của vốn FDI. Đồng thời, các nước công nghiệp phát triển cũng thu hút đến 3/4 vốn FDI của thế giới. Tính riêng trong năm 1995, các nước công nghiệp phát triển đầu tư ra nước ngoài tới 270 tỷ USD (tăng 42% so với năm 1994) và cũng thu hút 203 tỷ USD (tăng 53% so với năm 1994). Các dòng vốn đầu tư tập trung vào một số ít nước. Chỉ tính riêng 10 quốc gia thu hút vốn FDi lớn nhất đã chiếm tới 2/3 vốn FDI của năm 1995 trong khi 100 nước nhận đầu tư FDI ít nhất chiếm 1% vốn FDI thế giới. Dòng đầu tư lẫn nhau giữa các quốc gia phát triển là xu hướng vận động chỉ đạo của đầu tư quốc tée và là nhân tố chính thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Tính đến năm 1999, nguồn vốn FDI từ 43.000 công ty mẹ đầu tư qua 32.000 chi nhánh ở nước ngoài đã đạt mức 3.400 tỷ USD, góp phần tạo ra 6% GDP của thế giới. Sở dĩ có hiện tượng tăng cường đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển là do một số nguyên nhân sau: - Do sự tiến triển của cuộc cáh mạng khoa học công nghệ, lĩnh vực cạnh tranh có sự thay đổi cơ bản từ những ngành truyền thống chuyển sang những ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, tiêu biểu cho sự tiến bộ kỹ thuật như các dạng năng lượng mới, điện - điện tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin.... Đây là những ngành hứa hẹn lợi nhuận siêu ngạch lớn đêm lại khả năng chi phối kinh tế thế giới trong tương lai nếu làm chủ nó, vì vậy có sức hấp dẫn mạnh đói với đầu tư. Tuy nhiên, chi phí nghiên cứu triển khai lớn mà chỉ có những nước công nghiệp phát triển hợp tác với nhau mói giải quyết được vấn đề vốn và công nghệ. - Môi trường đầu tư (cả luật pháp, kinh tế, cơ sở hạ tầng) của các nước phát triển đã hoàn thiện, chế độ chính trị khá ổn định, trình độ công nghệ và lao động coa phù hợp với yêu cầu đầu tư của các tập đoàn TNCS.. - Xu thế hính thành các khối hợp tác kinh tế - đầu tư khu vực đang gia tăng, do đó các nước tăng cường đầu tư vào các khối hợp tác kinh tế này (EU, AFTA, NAFTA...) để được hưởng tự do hoá thương mại và đầu tư, trước khi các khối này khép lại. - Việc tăng cường đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển, các tập đoàn đa quốc gia nhằm tránh đối đầu trực diện trong cạnh tranh, tăng cường hợp tác, tin tưởng lẫn nhau để cùng nhau thống trị chi phối nền kinh tế thế giới và khu vực. 2.2./ Công nghiệp chế biến và dịch vụ là lĩnh vực thu hút đầu tư mạnh nhất. Sự phát triển kinh tế luôn luôn đặt ra vấn đề là phải chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại hoá và phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế thế gới. Để giải quyết vấn đề này phải bắt đầu từ hoạt động đầu tư , việc thay đổi cơ cấu đầu tư sẽ làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, ngày càng có nhiều ngành kinh tế ra đời và phát triển nhanh chóng, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới xuất hiện thay thế cho nhiều ngành, lĩnh vực mới, sản xuất kinh doanh truyền thống trước đây. Một số lĩnh vực kinh doanh mới, phù hợp với biến đổi của thời đại đã trở nên có sức hấp dẫn mạnh mẽ đầu tư, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong giai đoạn hiện nay, hai ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ là lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoìa mạnh nhất, còn các ngành truyền thống như khai khoáng và nông nghiệp giảm đi. Hiện nay, một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại là cơ cấu kinh tế trong đó các ngành công nghiệp chế biêns và dịch vụ chiếm một tỷ lệ lớn. Đây là xu hướng có tính phổ biến tên thế giới và xu hướng này đã chi phối toàn bộ hoạt động đầu tư, trong đó đáng kể là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy mà hầu hết các nước đều tập trung mọi cố gắng để tạo những điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư truực tiếp nước ngoài vào phát triển hai ngành này. Xuất phát từ yêu cầu phát triển một cơ cấu kinh tế hiện đại theo hướng công nghiệp hoá mà chính phủ nhiều nước đang phát triển đã giành ưu tiên cho những nhà đầu tư nước ngoài vào hai ngành này, điều đó đã tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vào giữa thập kỷ 80, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ chiếm tới 50% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giươí trong đó dịch vụ ngân hàng, buôn bán chiếm phần quan trọng nhất, mặc dù khoản đầu tư trực tiếp vào quảng cáo, giao thông vận tải cũng chiếm phần không nhỏ. Các công ty xuyên quốc gia công nghiệp nắm gần một nửa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ. ở các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp vào ngành dịch vụ thường tập trung chủ yếu vào các trung tâm tài chính lớn. Hiện nay có nhiều công ty lớn và nổi tiếng thế giới, không còn sản xuất kinh doanh ở một ngành truyền thống nữa, mà có xu hướng đầu tư kinh doanh đa ngành và mở rộng hoạt động sang lĩnh vực dịch vụ. Trong thời gian gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung nhiều vào hai ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ là do một số nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất ngày một nâng cao, vì vậy mà nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh tăng lên mạnh mẽ, nhất là dịch vụ kỹ thuật, tài chính, du lịch, đòi hỏi dịch vụ phải được phát triển tương ứng. Thứ hai, ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành, mà những phân ngành đó thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cáh mạng khoa học - công nghệ, như điện tử , thông tin liên lạc, vật liệu mới.. Thứ ba, do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này là dễ dàng thực hiện sự hợp tác. Ví dụ, ngành công nghiệp chế biến có những quy trình công nghệ có thể phân chia ra nhiều công đoạn và tuỳ theo thế mạnh của mỗi nước có thể thực hiện một trong những khâu mà mình có thế mạnh nhất. Cuối cùng cũng phải kể đến một lý do chung là việc đầu tư vào hai ngành này cho phép người đầu tư thu được lợi nhuận cao, đỡ gặp rủi ro hơn nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư. 2.3./ Đa cực và đa biên trong đầu tư trực tiếp. Nhìn lại lịch sử hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, chung sta thấy tình hình có những biến đổi căn bản. Sau chiến tranh thế giưoí lần thứ hai, Mỹ là nước không bị ảnh hưởng của cuộc chiến tranh, vì vậy họ có tiềm lực kinh tế hơn hẳn các đồng minh khác và là nước duy nhất thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo kế hoạch Marshall, trước hết là các nước Tây Âu "bại trận" và do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Nhưng ngay sau đó các công ty xuyên quốc gia của Mỹ đã vấp phải sự phản ứng của các công ty Tây Âu, các công ty này đã liên minh tư bản lại với nhau để cạnh tranh với các công ty của mỹ. sau nữa, các công ty của Nhật bản cũng bắt đầu vươn ra thị trường quốc tế và trở thành đối thủ đáng quan tâm của các cong ty xuyên quốc gia của Mỹ trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Vì vậy thị trường đầu tư quốc tế đến bây giờ không còn là của riêng các công ty xuyên quốc gia của Mỹ nuữa mà ít có sự cạnh tranh của các công ty ở Tây âu và Nhật bản. Điều này đã làm suy giảm tính chất " một cực" trong đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và hình thành xu hướng "đa cực". Đặc biệt là từ khi có sự xuất hiện của NICS , nhất là NIC S Châu á, với sự vươn lên của Nhật Bản, Tây âu thì tính chất "đa cực" đã hoàn toàn thay thế tính chất "một cực" trong đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhìn vào số liệu thống kê tình ình đầu tư nứơc ngoài vào các nứoc trên thế giới trong thời gian gần đây chúng ta thấy, số lượng các đối tác nước ngoài ở mỗi nước không phải có một hay vài nước mà có rất nhiều quốc gia cùng đầu tư vào. Hiện tượng trên đây diễn ra khá phổ biến không chỉ ở các nước đang phát triển mà cả ngay trong các nước phát triển. Nguyên nhân của hiện tượng này là do có sự phát triển nhanh chóng của một loạt nước công nghiệp mới, các nứơc này đã và đang rút ngắn dần khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển và do tình hình quan hệ quốc tế có nhiều biến đổi theo hướng các nước trên thế giới ngày càng hợp tác chặt chẽ với nhau và có thể chia sẻ rủi ro khi xẩy ra. Ngày nay, trên thế giới không chỉ có sự cạnh tranh của các nứoc tiếp nhận đầu tư , mà còn diễn ra cuộc cạnh tranh không kém phần gay gắt quyết liệt giữa các nước đi đầu tư. Điều này đã tạo ra lợi thế cho các nước tiếp nhận đầu tư trong việc lựa chọn và đàm phán với các chủ đầu tư, hạn chế phần nào sự áp đặt những điều kiện bất lợi của các nước đi đầu tư đối với các nước nhận đầu tư. Xu hướng đa biên, đa cực trong đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện đã tạo điều kiện cho các nước thực hiện đường lối mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với phương châm đa phương và đa dạng hoá. 2.4./ Các công ty xuyên quốc gia đã trở thành chủ thể đầu tư trực tiếp. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia (TNCS) đang chi phối, kiểm soát phần lớn sản xuất kinh doanh trên thế giới. Khi nghiên cứu 100 TNCS lớn nhất trên thế giới mà tất cả đều thuộc các nước công nghiệp phát triển có thể thấy các TNCS này chiếm tới một phần ba toàn bộ nguồn vốn FDI của thế giới và tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới 1400 tỷ USD; sử dụng tới 72 triệu lao động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm tới 16%. Trong đó, Mỹ có tới 32 TNCS hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng như dầu khí, hoá chất, sắt thép, điện tử, thiết bị điện, ô tô, máy bay, dược phẩm, dịch vụ ăn uống... Thời kỳ 1990 - 1995, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNCs Mỹ là 42%, của các TNCS Nhật là 48% và của các TNCs Châu âu là 59%. Tính bình quân chiếm một nửa tổng vốn đầu tư. Dự báo thời kỳ 1996 - 2000, các TNCs sẽ gia tăng mạnh mẽ đầu tư ra nước ngoài. Tỷ trọng đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNCs Mỹ sẽ là 55% và các TNCs Nhật, Tây âu sẽ là 63%; tính bình quân là 60% vốn đầu tư của các TNCs là ở nước ngoài. Từ đó đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu một cách đầy đủ biểu hiện mới này và đặt trọng tâm lâu dài của việc thu hút đầu tư trực tiếp vào các công ty xuyên quốc gia chứ không phải các công ty nhỏ phần lớn làm môi giới và trung gian, mặc dù cũng có vai trò nhất định song nói chung chỉ là giai đoạn trước mắt. 2.5./ Hiện tượng “ hai chiều” hoặc lưỡng tính trong đầu tư trực tiếp. Từ cuối những năm 70 và đầu những năm 80 trở lại đây, đã xuất hiện hiện tượng hai chiều trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, tức là hiện tượng một nước vừa tiếp nhận đầu tư vừa đầu tư nước ngoài. Mỹ là một điển hình rõ nét về vấn đề này, Mỹ vừa là chủ đầu tư lớn trên thế giới (chiếm 17% trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới) nhưng lại là nước tiếp nhận nhiều đầu tư trực tiếp của nước ngoài (hàng năm Mỹ thu hút khoảng hơn 30% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới ). Các nước thuộc nhóm G7 chiếm khoảng 80% trong tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới nhưng chính họ lại thu hút tới 70% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước họ. Không chỉ có các nước công nghiệp phát triển mà các nước công nghiệp mới phát triển (NICs ), nhất là NICs châu á cũng là các chủ đầu tư lớn trong những năm đầu thập kỷ 80 lại đây, 37% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê chuẩn ở các nước đang phát triển vào thời điểm những năm 80 là từ Nics Châu á. Trong khi đó Nics lại là những nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nhiều nhất từ các nước Mỹ và Nhật Bản. Đài Loan và Hồng Kông là hai trong số nước đầu tư nhiều nhất vào các nước ASEAN, trong khi chính họ là nước thu hút đầu tư lớn của thế giới. Họ vừa cạnh tranh với các nước khác để đầu tư vào ASEAN, nhưng họ cũng lại là đối thủ cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tượng trên đây là kết quả của quá trình phân công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế. Quá trình đó đã tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia của một số nước, đang có nhu cầu tìm kiếm địa bàn đầu tư, đã năng động nắm bắt lấy những ciư hội kinh doanh ở nước ngoài nhằm đạt được mức lợi nhuận cao. Mỗi nước có lợi thế tương đối về một lĩnh vực kinh tế kỹ thuật nào đó nhưng lại kém hơn ở lĩnh vực khác, bằng hoạt động đầu tư ra nước ngoài các nước sẽ phát huy được lợi thế tương đối của mình, trên cơ sở đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và cũng thông qua việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, họ sẽ bổ xung những mặt hạn chế để tăng hiệu quả phát triển kinh tế. 3-/ Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước trong khu vực Do nhận thức, đánh giá vai trò của FDI và thực trạng của mỗi nước khác nhau nên mỗi nước có những chính sách khác nhau để khuyến khích, thu hút và thúc đẩy FDI vào nước mình. Không thể có một chính sách FDI chung để áp dụng cho tất cả các nước. Nhìn chung chính phủ các nước đang phát triển đã có sự quan tâm đặc biệt và cố gắng rất nhiều để đưa ra những chính sách cởi mở nhất nhằm thu hút FDI và cạnh tranh lẫn nhau trong việc thu hút FDI khi dựa vào đặc điểm về kinh tế, văn hoá, mức độ phát triển v.v... của nước mình. Tuy nhiên, chính sách FDI của các nước đang phát triển lại có những mặt làm hạn chế FDI, đó là sự không nhất quán và hay thay đổi của chính sách do ảnh hưởng của sự thay đổi về thể chế. Giai đoạn 1950 - 1960, phần lớn các nước đang phát triển có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu v.v ... và thiếu vốn trầm trọng. Chính sách FDI của các nước trong thời kỳ này thể hiện sự ưu đãi và nhân nhượng đối với các công ty nước ngoài như cho thuê đất dài hạn, cho phép tồn tại sở hữu nước ngoài trên đất nước mình. Đến thập kỷ 70, các nước đang phát triển bước sang giai đoạn phát triển mới. Với những kinh nghiệm mà họ thu được về quản lý cũng như tích luỹ về vốn, chính sách của các nước trong thời kỳ này được thực hiện dựa trên nguyên tắc của mối quan hệ cùng phụ thuộc lẫn nhau và giảm bớt sự phụ thuộc vào vốn đầu tư nước ngoài. Lúc này chính phủ các nước đã bắt đầu nuôi dưỡng các nhà đầu tư trong nước và tạo thế cạnh tranh với các công ty nước ngoài. Có một số chính phủ đã thực hiện quốc hữu hoá các công ty nước ngoài trong một số ngành khai thác phát triển vì muốn nắm phần lợi nhuận do giá tài nguyên tăng. Trong thập kỷ 80, đa số các nước đang phát triển đã thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu.... Do ảnh hưởng của những cuộc khủng hoảng kinh tế của các nước phát triển, luồng FDI vào các nước đang phát triển giảm xuống nhanh chóng, đã buộc các nước phải xem xét lại chính sách và nơi lỏng kiểm soát đối với FDI, ví dụ, các nước đang phát triển ở Châu á đưa ra những điều kiện đặc biệt hấp dẫn để thu hút các công ty nào muốn đầu tư vào các khu chế xuất, chẳng hạn giảm các loại thuế và dùng các biện pháp khác. Trong những năm gần đây, FDI tăng rõ rệt ở các nước thuộc khu vực Đông Nam á và giảm ở Châu Mỹ La Tinh do môi trường đầu tư thuận lợi và tốc độ phát triển kinh tế nhanh ở khu vực này. Đặc điểm chung của chính sách FDI của các nước đang phát triển thời kỳ này là phát triển thêm một số hình thức đầu tư mới, mềm dẻo hơn, hình thành các thoả thuận hợp tác giữa các công ty trong nước và nước ngoài, tạo cho đối tác trong nước có một phạm vi kiểm soát rộng hơn, đồng thời giảm sự lạm dụng của các công ty nước ngoài. Sau đây sẽ trình bày kinh nghiệm về chính sách đầu tư nước ngoài ở một số nước đang phát triển và chuyển đổi: 3.1-/ Singapore Singapore đã từ lâuluôn coi việc lợi dụng vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế như một quốc sách. Tuỳ vào từng giai đoạn phát triển khác nhau mà chính phủ xác định những ngành kinh tế mũi nhọn, cần ưu tiên phát tiển mà có những chính sách khuyến kkhích đầu tư thích hợp. Trong thập kỷ 60, dùng những biện phấp ưu đãi để khuyến khích đầu tư vào các ngành chế biến, lắp ráp, sử dụng nhiều lao động; trong thập kỷ 70, khuyến khích đầu tư vào chế tạo, sử dụng nhiều kỹ thuật và vốn. Từ thập niên 80 đến nay, Chính phủ lại có những chế độ ưu đãi khuyến khích đầu tư vào những ngành mang tính thời đại: những ngành kỹ thuật cao sử dụng công nghệ hiện đại, điện tử, máy tính, cơ khí chính xác... Phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế ở từng giai đoạn, chính phủ Singapore có những sắc luật khuyến khích đầu tư khác nhau: Ngay trong giai đoạn đầu phát triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu, sắc lệnh về công nghiệp mũi nhọn và sắc lệnh miễn thuế cho cacs xí nghiệp đang mở rộng đã đưa ra một loạt những điều khoản khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài. Sang giai đoạn phát triển công nghiệp hướng xuất khẩu, những sắc lệnh trên được sửa đổi và bổ sung bằng đạo luật giảm thuế thu nhập để phát triển kinh tế năm 1967 và đạo luật khuyến khích phát triển kinh tế năm 1970. Những đạo luật này đã quy định những điều khoản chính sau: + Để hưởng quy chế về công nghiệp "mũi nhọn" một công ty phải đầu tư tối thiểu 1 triệu USD Singapore (tương đương 417.000 USD) công ty diện này được giảm thuế trong 5 năm, lợi nhuận cổ phần đóng góp cho đến cuối thời gian hưởng quy chế "mũi nhon" đều được miễn thuế thu nhập. + Mỗi xí nghiệp mở rộng phát triển sản xuất phải chi phí thêm trên 10 triệu USD Singapore, được giảm bớt một phần thuế. + Mỗi xí nghiệp xuất khẩu (mà giá trị hàng xuất khẩu của nó) 100.000 USD Singapore (hay 41.700 USD) và chiếm tối thiểu 20% tổng số hàng bán ra có thể được miễn thuế đánh vào 90% số tăng lơị nhuận xuất khẩu. Lợi nhuận xuất khẩu nói chung, chỉ phải chịu thuế nhẹ 4% trong khi các xí nghiệp không sản xuất cho xuất khẩu phải chịu thuế lơị tức tới 40%. Thời gian miễn đối với xí nghiệp sản xuất xuất khẩu là 8 năm, thậm chí có thể kéo dài đến 15 năm đối với xí nghiệp có vốn cố định trên 15 triệu USD Singapore. + Mọi xí nghiệp có thể không phải chịu thuế về chi phí sản xuất trong 3 năm nếu bị thua lỗ. Số tiền bị thua lỗ có thể chuyển vào thời gian sau để tính thuế khi xí nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi. +Các xí nghiệp có thể nhập khẩu miễn thuế thiết bị và nguyên vật liệu không có sẵn ở Singapore. + Các doanh nghiệp nước ngoài không bị hạn chế về quy mô vốn đầu tư và hoàn toàn không bị hạn chế về hồi hương vốn và lợi nhuận. + Những khoản nợ vay của nước ngoài để nhập thiết bị cũng được miễn thuế để làm giảm gánh nặng cho người đi vay. + Những khoản trả bản quyền (bằng sáng chế, phát minh) và chi phí về viện trợ kỹ thuật của các nhà đầu tư ở nước ngoài được giảm thuế 20% nêú được Nhà nước thừa nhận là loại kỹ thuật cần thiết để du nhập. Trong một số trường hợp, những khoản này được miễn hoàn toàn. Tháng 5 -1975 chính phủ Singapore đã công bố một chương trình mới về viện trợ vốn cho các nhà đầu tư trong tình hình tín dụng quốc tế còn nhiều khó khăn. Theo chương trình này những công ty nào có kỹ thuật đặc biệt hiện đại có thể được EDB giúp vốn để thành lập xí nghiệp ở Singapore. Nhà nước Singapore cũng có những đóng góp cổ phần vào xí nghiệp này để rồi sau đó, một xí nghiệp hoạt động có lãi tư nhân lại có thể mua lại một hay toàn bộ cổ phần của Nhà nước. Sau năm 1975, Singapore còn bổ sung thêm một số ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài như có chương trình tài trợ 100 triệu USD Singapore dưới hình thức mua cổ phần của xí nghiệp cho vay và bảo đảm cho những công ty nước ngoài có kỹ thuật công nghiệp hiện đại và có sẵn thị trường xuất khẩu. Đối với xí nghiệp mũi nhọn phải đầu tư ban đầu số vốn lớn và thời gian hoạt động dài mới sinh laĩ thì thời gian miễn giảm thuế được._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0008.doc
Tài liệu liên quan