Một số giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng

Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm về khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.1. Bản chất và vai trò của đấu thầu xây dựng Có nhiều quan niệm khác nhau của đấu thầu xây dựng. Đứng trên góc độ nhà thầu, đấu thầu là một trong những phương thức chủ yếu để có được dự án giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Thực chất của đấu thầu là quá trình cạnh tranh với các nhà thầu khác về khả năng đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, tiến độ, chi phí xây dựng d

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o bên mời thầu đặt ra. Đối với chủ đầu tư, đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu có khả năng đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về chất lượng, tiến độ và chi phí xây dựng công trình. Theo Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 01/9/2003 của Chính phủ, đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu. Mục tiêu của đấu thầu là tạo nên sự cạnh tranh công bằng và minh bạch trong quá trình lựa chọn nhà thầu phù hợp, bảo đảm hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư. Đối với Nhà nước, đấu thầu là phương thức quản lý các hoạt động xây dựng thông qua việc uỷ quyền cho chủ đầu tư (bên mời thầu) theo chế độ công khai tuyển chọn nhà thầu. Theo đó, trong quá trình đấu thầu có sự tham dự của 3 chủ thể có liên quan đến dự án (gói thầu): - Chủ đầu tư là bên mời thầu để thực hiện có hiệu quả dự án đầu tư của mình. - Các nhà thầu là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có khẳnng thực hiện nhiệm vụ của dự án đầu tư. Đấu thầu xây dựng (xây lắp) được thực hiện qua các hình thức sau đây: - Đấu thầu rộng rãi: việc tổ chức đấu thầu không hạn chế số lượng các nhà thầu tham gia. - Đấu thầu hạn chế: bên mời thầu chỉ mời một số nhà thầu có đủ năng lực tham dự đấu thầu. - Chỉ định thầu: là hình thức lựa chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng được yêu cầu để thương thảo hợp đồng. Các phương thức đấu thầu xây dựng: - Đấu thầu một túi hồ sơ: đề xuất về kỹ thuật và về giá dự thầu được đựng chung trong một túi hồ sơ. - Đấu thầu hai túi hồ sơ: đề xuất về kỹ thuật và về giá được đựng trong hai túi hồ sơ riêng biệt. Túi hồ sơ kỹ thuật được đánh giá trước và chỉ khi nào đạt số điểm từ 70% trở lên (theo quy định trong hồ sơ mời thầu) mới đánh giá tiếp hồ sơ về giá. - Đấu thầu 2 giai đoạn được áp dụng cho các dự án lớn, phức tạp về công nghệ hoặc dự án chìa khóa trao tay. Việc đấu thầu phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây: - Cạnh tranh với những điều kiện ngang nhau - Dự liệu đầy đủ - Đánh giá công bằng - Trách nhiệm phân minh - Bí mật - Ba chủ thể Đấu thầu là chế độ được áp dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị trường. Việc đấu thầu mang lại những lợi ích thiết thực với chủ đầu tư, nhà thầu và cả nền kinh tế quốc dân. Đối với chủ đầu tư, thông qua việc thực hiện đấu thầu, chủ đầu tư sẽ tìm được nhà thầu có khả năng đáp ứng cao nhất các yêu cầu thực hiện dự án đầu tư trên cả phương diện chất lượng, tiến độ và chi phí. Hiệu quả vốn đầu tư được tăng cường nhờ vốn được quản lý chặt chẽ, khắc phục được tình trạng thất thoát vốn. Đấu thầu cũng giúp chủ đầu tư giải quyết được tình trạng phụ thuộc vào một nhà thầu như trong hình thức giao thầu hoặc chỉ định thầu. Tuy nhiên, để bảo đảm hiệu quả thiết thực của đấu thầu, chủ đầu tư phải am hiểu sâu sắc quy chế đấu thầu và có được đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn tốt, có đạo đức nghề nghiệp để lập hồ sơ mời thầu có chất lượng, đánh giá đúng các hồ sơ dự thầu và lựa chọn đúng nhà thầu có đủ năng lực thực hiện yêu cầu công trình. Đối với nhà thầu, việc thực hiện chế độ đấu thầu sẽ phát huy được tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt tìm kiếm việc làm thông qua việc nắm bắt thông tin về dự án, về đối thủ cạnh tranh, thiết lập quan hệ với các chủ thể kinh tế khác. Đấu thầu cũng tạo nên sức ép với các nhà thầu trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ và công nhân viên, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh để tăng xác suất trúng thầu. Thông qua đấu thầu, các nhà thầu cũng sẽ tích luỹ được thêm kinh nghiệm thi công, kinh nghiệm lập hồ sơ dự thầu và xác định chiến lược phát triển dài hạn của mình. Đối với Nhà nước, thông qua đấu thầu, các cơ quan quản lý Nhà nước có đủ thông tin thực tế và cơ sở khoa học để đánh giá đúng thực lực của các chủ đầu tư và các nhà thầu. Những điều đó giúp Nhà nước phát huy đúng được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường: tổ chức thị trường xây dựng, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và tăng cường trật tự, kỷ cương trong thựuc hiện quá trình đầu tư. 1.2. Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của các doanh nghiệp xây dựng Theo C.Marx, cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Ông cũng coi cạnh tranh là một trong những quy luật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. P.A.Samuelson cho rằng, cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp để giành khách hàng hoặc thị trường. Từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) định nghĩa: canh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung - cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất. Các quan niệm nêu trên có sự khác nhau về cách tiếp cận và diễn giải, song có nhiều điểm chung. Đó là: - Khi nói đến cạnh tranh tức là nói đến một quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể có cùng mục tiêu (đối tượng mà các chủ thể đều hướng tới chiếm đoạt). - Có ràng buộc chung mà các chủ thể phải tuân thủ. Đó là đặc điểm nhu cầu của khách hàng, ràng buộc của luật pháp và thông lệ trên thị trường. - Về thời gian và không gian, cạnh tranh diễn ra trong khoảng thời gian và trong không gian không cố định. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường có những mặt tích cực và những mặt tiêu cực nhất định. Vấn đề đặt ra không phải là thủ tiêu cạnh tranh, mà phải để cạnh tranh diễn ra trong điều kiện bình đẳng và minh bạch, tránh dùng những thủ đoạn không lành mạnh, phải phát huy được mặt tích cực và hạn chế đến mức tối đa những mặt tiêu cực của cạnh tranh. Đó là trách nhiệm của Nhà nước và của tất cả các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường. 1.2.1. Tiếp cận và phân loại cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.2.1.1. Tiếp cận về cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng Cạnh tranh trong đấu thầu có thể tiếp cận theo 2 cách: Theo nghĩa hẹp: cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là quá trình các doanh nghiệp xây dựng ganh đua nhau đưa ra các giải pháp về kỹ thuật, tài chính, tiến độ thi công để xây dựng công trình thoả mãn một cách tối ưu các yêu cầu của bên mời thầu. Quan niệm này cho thấy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là sự ganh đua hết sức gay gắt nhằm mục đích trúng thầu. Tuy nhiên, quan niệm này vẫn chỉ bó hẹp ở khâu đấu thầu mà chưa chỉ ra được sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong suốt quá trình sản xuất - kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều tham gia đấu thầu rất nhiều công trình khác nhau với những đối thủ khác nhau trong những khoảng thời gian, địa điểm khác nhau, do đó quan niệm theo nghĩa hẹp này sẽ khó xác định được toàn diện các vấn đề cạnh tranh trong đấu thầu Theo nghĩa rộng: cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là sự đấu tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xây dựng kể từ khi bắt đầu tìm kiếm thông tin, đưa ra các giải pháp tham gia đấu thầu, bảo đảm trúng thầu và thực hiện hợp đồng cho tới khi hoàn thành công trình và bàn giao theo yêu cầu của chủ đầu tư. Có thể hiểu cạnh tranh theo nghĩa rộng trong đấu thầu xây dựng theo sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 1: Quá trình cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng Tìm kiếm thông tin Tham gia đấu thầu Hoàn thành bàn giao Ký hợp đồng Thực hiện hợp đồng Chuẩn bị và đưa ra biện pháp Doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm thông tin về các cuộc đấu thầu để có sự chuẩn bị tham gia đấu thầu. Khi doanh nghiệp tham gia đấu thầu, có hai trường hợp xảy ra là trượt thầu hoặc trúng thầu. Trong trường hợp nào thì doanh nghiệp cũng luôn luôn phải tìm kiếm các thông tin để tiếp cận các cuộc đấu thầu. Phân tích và đánh giá thông tin để đưa ra các quyết sách đúng đắn trong việc tham gia đấu thầu. 1.2.1.2. Phân loại cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng Cạnh tranh trong đấu thầu có nhiều loại, trong đó chủ yếu là: - Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Người mua dịch vụ xây dựng (chủ đầu tư- bên mời thầu) và người bán dịch vụ xây dựng công trình (doanh nghiệp xây dựng - nhà thầu) với những mục tiêu khác nhau, tạo ra sự sôi động của thị trường xây dựng. Mục tiêu của chủ đầu tư là các công trình có chất lượng cao, thời gian xây dựng ngắn và chi phí xây dựng (giá cả hợp lý). Còn mục tiêu của nhà thầu là đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất và ít rủi ro nhất. - Cạnh tranh giữa người mua dịch vụ xây dựng với nhau: Chỉ xảy ra khi có nhiều chủ đầu tư có công trình cần xây dựng nhưng chỉ có một doanh nghiệp xây dựng hoặc một ít tổ chức xây dựng tham gia đấu thầu có khả năng công nghệ độc quyền để xây dựng các công trình ấy. Trường hợp này hiếm xảy ra trong nền kinh tế thị trường, nhất là trong đấu thầu. - Cạnh tranh giữa những người cung ứng dịch vụ xây dựng với nhau (cạnh tranh giữa các nhà thầu - doanh nghiệp xây dựng) đó là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất, gay go nhất của cạnh tranh trên thị trường xây dựng. Cạnh tranh là quá trình đấu tranh giữa các doanh nghiệp khác nhau nhằm đứng vững trên thị trường và tăng lợi nhuận trên cơ sở tạo ra, sử dụng ưu thế của mình về chất lượng, thời gian thi công và chi phí xây dựng công trình. Cạnh tranh, một mặt, sẽ trừng phạt các doanh nghiệp có chi phí cao bằng các hình thức như loại bỏ doanh nghiệp ra khỏi thị trường hoặc doanh nghiệp chỉ thu được lợi nhuận thấp; mặt khác, sẽ khuyến khích những doanh nghiệp có chi phí thấp. Chính nguyên tắc trừng phạt và khuyến khích của cạnh tranh sẽ tạo áp lực buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để giảm chi phí sản xuất - kinh doanh, vì đó là cơ ở cho sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Một trong những vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp xây dựng trong điều kiện cơ chế thị trường là phải giành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ký được nhiều hợp đồng có khả năng mang lại lợi nhuận cao. Vì thế, đấu thầu xây dựng có thể xem là một trong những hoạt động rất quan trọng đối với các doanh nghiệp xây dựng. Để thắng thầu được nhiều dự án đầu tư, doanh nghiệp phải có thực lực cạnh tranh, phải có chiến lược và chiến thuật hợp lý và cần phải có chữ tín với chủ đầu tư, tạo dựng các mối quan hệ thường xuyên với chủ đầu tư hiện tại và chủ đầu tư tiềm năng. Để dự thầu doanh nghiệp phải tiếp cận với hàng loạt vấn đề, từ khâu thiết kế đến thi công, bàn giao đưa công trình vào sử dụng. Hoạt động thi công phải được triển khai thực hiện theo một trình tự công nghệ nghiêm ngặt (kỹ thuật và tổ chức thi công) đảm bảo cho quá trình thi công diễn ra thuận lợi và tiết kiệm nhất. Để thi công xây dựng công trình đúng tiến độ, đạt hiệu quả kinh tế mong muốn thì d xây dựng phải có bộ máy quản lý đủ năng lực để điều hành sản xuất. Nếu hoạt động đấu thầu xây dựng được xem là hoạt động đầu tiên trong quan hệ giữa doanh nghiệp xây dựng với chủ đầu tư, thì hoạt động bàn giao công trình hoàn thành có thể xem là hoạt động cuối cùng. Những công trình bàn giao cho chủ đầu tư được xem là những sản phẩm đã được thị trường chấp nhận. Hoạt động này có quan hệ tích cực hoặc tiêu cực tới hoạt động thầu xây dựng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp bàn giao công trình đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật, thời gian xây dựng thì uy tín cua doanh nghiệp trên thị trường xây dựng được đề cao. Ngược lại, nếu doanh nghiệp bàn giao những công trình xây dựng không đảm bảo như cam kết hợp đồng thì uy tín của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút. 1.2.2. Khả năng và phương thức cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.2.2.1. Khái quát về khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng Khi nói đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là nói đến nội lực (bên trong) của doanh nghiệp, trong dó có các năng lực về tài chính, kỹ thuật công nghệ, marketing, tổ chức quản lý, đội ngũ lao động của doanh nghiệp. Có nội lực là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là doanh nghiệp phải biết sử dụng, phát huy tất cả các nội lực đó để phục vụ cho các cuộc cạnh tranh khác nhau tạo ra lợi thế hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác. Như vậy, khả nưng cạnh tranh của doanh nghiệp là toàn bộ năng lực và việc sử dụng các năng lực đó để tạo ra lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác nhằm thoả mãn đến mức tối đa các đòi hỏi của thị trường. Khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là toàn bộ những năng lực về tài chính, thiết bị, công nghệ, marketing, tổ chức quản lý mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tạo ra các lợi thế của mình so với các doanh nghiệp khác. Khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp không cỉ là lợi thế về sản phẩm (chất lượng, giá cả) mà còn có các lợi thế về nguồn lực để đảm bảo sản xuất ra sản phẩm đó (tài chính, công nghệ, nhân lực). Để tồn tại và phát triển bền vững phải không ngừng nâng cao nội lực của doanh nghiệp nhằm tạo ưu thế về mọi mặt như chất lượng công trình, tiến độ thi công, biện pháp thi công, giá cả v.v.. so với các đối thủ. Trước yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng, nếu doanh nghiệp không vươn lên đáp ứng được thì sự thất bại trong cạnh tranh là điều khó tránh khỏi. Trên thực tế, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt, buộc các nhà thầu phải tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là việc các doanh nghiệp sử dụng toàn bộ năng lực có thể để giành lấy phần thắng, phần hơn trước các đối thủ cùng tham dự thầu. 1.2.2.2. Phương thức cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng Để đánh giá, cho điểm và lựa chọn nhà thầu, chủ đầu tư căn cứ vào những chỉ tiêu chủ yếu sau của nhà thầu sau: - Kinh nghiệm và năng lực của nhà thầu; - Tài chính; - Tiến độ thi công; - Giá dự thầu. Trong các chỉ tiêu trên, chủ đầu tư đặc biệt chú trọng đến ba chỉ tiêu hàng đầu mà các doanh nghiệp xây dựng sử dụng như những phương thức trọng tâm trong quá trình cạnh tranh đấu thầu, cụ thể: Phương thức 1: Cạnh tranh bằng giá dự thầu Trong đấu thầu, chỉ tiêu giá bỏ thầu có vai trò quyết định việc doanh nghiệp có trúng thầu hay không. Nếu xây dựng được mức giá bỏ thầu tốt đảm bảo được hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp vừa đảm bảo khả năng trúng thấu cao. Chất lượng của việc xây dựng mức giá bỏ thầu liên quan đến rất nhiều yếu tố nó thể hiện tổng hợp các phẩm chất của doanh nghiệp xây dựng như: - Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp; - Kỹ thuật thi công, khả năng áp dụng công nghệ tiên tiến; - Phẩm chất kinh doanh của doanh nghiệp. Để giá bỏ thầu của doanh nghiệp có ưu thế cạnh tranh đòi hỏi phải có chính sách về giá một cách linh hoạt dựa trên cơ sở: Năng lực thực sự của doanh nghiệp; mục tiêu tham gia đấu thầu; quy mô, đặc điểm của dự án, địa điểm của dự án, phong tục tập quán của địa phương có dự án được thi công. Việc xây dựng giá bỏ thầu phụ thuộc lớn vào mục tiêu đấu thầu của nhà thầu như để kiếm lợi nhuận, công ăn việc làm hay mở ra thị trường mới. Một nhà thầu thường xây dựng các mức giá khác nhau với những mục tiêu đạt được khác nhau. Tuỳ theo từng công trình cụ thể, tiềm lực nguồn lao động, khả năng về vốn, thiết bị máy móc v.v.. mục tiêu tham gia đấu thầu có chính sách định giá khác nhau trong việc quyết định giá bỏ thầu. Phương thức 2: Cạnh tranh bằng chất lượng công trình Chất lượng công trình là tập hợp các thuộc tính của công trình trong điều kiện nhất định về kinh tế kĩ thuật. Chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau về tính cơ, lý, hoá của công trình mà chủ đầu tư đặt ra. Doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững và không ngừng nâng cao chất lượng công trình. Đó là điều kiện không thể thiếu nếu doanh nghiệp muốn giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Do vậy, chất lượng công trình là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp xây dựng. Nâng cao chất lượng công trình có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện trên các giác độ: - Chất lượng công trình tăng lên sẽ góp phần tăng uy tín của doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng được thị trường. - Nâng cao chất lượng công trình góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất -kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. Trong phương thức cạnh tranh bằng chất lượng công trình, các nhà thầu xây dựng cạnh tranh với nhau không chỉ bằng chất lượng cam kết thực hiện của công trình đang được tổ chức đấu thầu xây dựng mà còn cạnh tranh với nhau qua chất lượng các công trình khác đã và đang được xây dựng. Chất lượng là một trong những yêu cầu chủ yếu đối với mỗi loại sản phẩm được sản xuất ra, chất lượng của sản phẩm là công trình xây dựng lại càng là một yếu tố quan trọng, cũng chính vì vậy mà chất lượng công trình là một công cụ mạnh để cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. Phương thức 3: Cạnh tranh bằng tiến độ thi công Tiến độ thi công thể hiện ở việc bố trí tổng thể của doanh nghiệp trong công tác thi công công trình. Chịu sự ảnh hưởng về sự cam kết đối với chất lượng, an toàn lao động và thời hạn bàn giao công trình. Thông qua tiến độ thi công của các công trình đã và đang thi công, chủ đầu tư có thể đánh giá nhà thầu về các khía cạnh tranh độ quản lý, trình độ kỹ thuật thi công và năng lực máy móc thiết bị, nhân lực của nhà thầu. 1.2.3. Các tiêu thức cơ bản đánh giá khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.2.3.1. Các tiêu thức thể hiện khả năng cạnh tranh Số lượng công trình trúng thầu và giá trị trúng thầu. Chỉ tiêu này thể hiện khái quát tình hình dự thầu và kết quả dự thầu của doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá được hiệu quả, chất lượng của việc dự thầu trong năm, quy mô và giá trị hợp đồng của các công trình trúng thầu. Tỷ lệ thắng thầu trong dự thầu. Tỷ lệ này được tính như sau: Tính theo số dự án (hoặc số gói thầu dự thầu) T1 = x 100 (%) (1) Trong đó: T1: Là tỷ lệ trúng thầu theo số lần tham gia đấu thầu Dtt: Là số dự án (số gói thầu) thắng thầu Ddt: Là số dự án (số gói thầu) dự thầu Tính theo giá trị dự án (hoặc gói thầu) T2 = x 100 (%) (1) Trong đó: Là tỷ lệ trúng thầu theo giá trị dự án (gói thầu) Gtt: Là giá trị của các dự án (gói thầu) trúng thầu Gdt: Là giá trị của các dự án (gói thầu) dự thầu 1.2.3.2. Các tiêu thức đánh giá khả năng trúng thầu trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng Về năng lực và kinh nghiệm Đây là chỉ tiêu xác định điều kiện đầu tiên đảm bảo nhà thầu được tham gia cạnh tranh đấu thầu trong mỗi dự án (gói thầu). Chỉ tiêu này thể hiện khả năng hiện có của mỗi một nhà thầu về tổng thể khả năng trên các mặt: Kinh nghiệm, trình độ nhân lực, khả năng về tài chính với những tiêu chuẩn nhất định tuỳ theo quy mô, yêu cầu kỹ thuật, tiến độ của từng dự án (gói thầu). Tiêu chuẩn này được thể hiện qua bảng 2: Bảng 2: Năng lực và kinh nghiệm của các nhà thầu Tiêu chuẩn Nhà thầu Kinh nghiệm (K) Nhân lực (N) Tài chính (T) NT1 K1 N1 T1 NT2 K2 N2 T2 … … … … NTn Kn Nhà nước Tn Trong đó: - K là tiêu chuẩn kinh nghiệm của nhà thầu: Được đánh giá bằng số năm kinh nghiệm hoạt động hoặc số lượng các hợp đồng quy mô tương tự đã thực hiện trong vòng 3 đến 5 năm gần đây với các điều kiện tương tự. - N là tiêu chuẩn nhân lực của nhà thầu được đánh giá bằng số lượng, trình độ của cán bộ và công nhân kỹ thuật. - T là tiêu chuẩn năng lực tài chính của nhà thầu được đánh giá bằng chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận trước và sau thuế, vốn lưu động trong vòng 3 đến 5 năm gần đây. - n: Số nhà thầu tham dự, i = 1 á n Nhà thầu được xác định là đủ năng lực kinh nghiệm để tham gia dự thầu khi: Ki ≥ Ko với (i = 1á n) Ni ≥ Ko với (i = 1á n) Ti ≥ Ko với (i = 1á n) Trong đó: Ko: Mức kinh nghiệm tối thiểu của nhà thầu No: Số lượng và trình độ nhân lực tối thiểu của nhà thầu; To: Khả năng về tài chính tối thiểu của nhà thầu. Ko, No, To được bên mời thầu qui định cụ thể đối với từng gói thầu tuỳ tính chất, qui mô, yêu cầu kỹ thuật, tiến độ thi công của từng dự án (gói thầu). Về mặt kỹ thuật Chỉ tiêu này là tổng hợp của các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, biện pháp thi công và tiến độ công trình. - Yêu cầu về kỹ thuật và chất lượng: đòi hỏi nhà thầu dự thầu phải đưa ra các giải pháp và biện pháp thi công, sử dụng máy móc thiết bị với tính hợp lý và khả thi (được nêu cụ thể trong hồ sơ mời thầu). Trên cơ sở đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng của công trình. Đưa ra sơ đồ tổ chức hiện trường, bố trí nhân lực, các biện pháp đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh môi trường hợp lý. - Tiến độ thi công là thời gian cần thiết để nhà thầu thi công hoàn thành công trình. Tiến độ thi công phải được bố trí một cách tuần tự khoa học nhằm sử dụng tối đa nguồn lực sẵn có của nhà thầu và mang tính khả thi cao. Tiến độ thi công được quy định cụ thể trong hồ sơ mời thầu. Nhà thầu cần có sự nghiên cứu địa bàn thi công, mặt bằng thi công, nguồn gốc vật liệu v.v.. qua đó bố trí thi công các hạng mục, các phần việc hợp lý nhằm đưa ra được tổng thời gian thi công công trình ngắn nhất. Mức độ đảm bảo tổng tiến độ quy định và sự hợp lý về tiến độ hoàn thành giữa các hạng mục, phân việc công trình có liên quan. Về mặt giá: Chỉ tiêu về giá là một chỉ tiêu kinh tế, có vai trò quan trọng nhất trong việc quyết định nhà thầu trúng thầu hay không và ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhà thầu khi xây dựng giá bỏ thầu đều dựa trên cơ sở của định mức dự toán, đơn giá ca máy, giá vật liệu, chi phí nhân công và các chi phí khác. Nếu tất cả các nhà thầu đều tính đúng, tính đủ theo chế độ quy định thì sẽ có giá dự thầu giống nhau (có sai khác phần nào là do phương pháp kỹ năng tính toán) và điều này sẽ làm mất đi tính cạnh tranh trong đấu thầu. Vấn đề đặt ra là nhà thầu phải định ra được giá dự thầu thấp hơn, đây chính là khả năng cạnh tranh về giá của các nhà thầu. Khả năng cạnh tranh về giá của các nhà thầu có thể xác định qua công thức sau: KG = (3) Trong đó: KG: Là hệ số cạnh tranh về giá của nhà thầu. GA: Là giá gói thầu (giá dự toán được duyệt) Gi: Là giá dự thầu của nhà thầu thứ i [(i = n á (n-1)] Với quy chế đấu thầu hiện nay, nhà thầu thứ j muốn thắng trong cuộc cạnh tranh về giá phải có: KGj ≤ KG và KGj < KGi " i [i = 1á (n-1)] n: là số nhà thầu dự thầu điều này cũng đồng nghĩa với: KGj ≤ KA và KGj < KGi " i [i = 1á (n-1)] Trong thực tế việc xây dựng giá dự thầu để có thể trúng thầu là cực kỳ quan trọng và phức tạp vì nó liên quan đến nhiều yếu tố bao gồm: - Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của khu vực thực hiện dự án như nguồn vật tư, vật liệu, hệ thống giao thông, điện nước, đời sống và dân trí của nhân dân trong khu vực có công trình xây dựng. Đây là những yếu tố khá quan trọng trong việc xem xét giá bỏ thầu. - Đặc điểm yêu cầu của dự án: Các tiêu chuẩn kỹ thuật, mức độ cụ thể về mã hiệu, chủng loại vật tư, loại hình dự án cũng là những yếu tố để các nhà thầu cân nhắc đưa ra tỷ lệ giảm giá hợp lý. Tiêu chí về giá thực chất là tổng thể của hai tiêu chí trên. Bởi vì năng lực kinh nghiệm; trình độ kỹ thuật là những vấn đề có tính quyết định đến việc đưa ra mức giá dự thầu của nhà thầu. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 1.3.1. Nhóm nhân tố bên trong 1.3.1.1. Tài chính Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, kỹ thuật , công nghệ, lao động phát sinh trong quá trình kinh doanh dưới hình thức giá trị. Hoạt động sản xuất - kinh doanh ảnh hưởng đến tình hình tài chính, ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hay cản trở quá trình sản xuất - kinh doanh. Trước hết khả năng tài chính của một doanh nghiệp được thể hiện ở qui mô về nguồn vốn tự có, khả năng huy động các nguồn vốn phục vụ cho sản xuất - kinh doanh và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Mặt khác, để đánh giá khả năng tài chính của một doanh nghiệp xây dựng, cần xem xét cơ cấu giữa vốn cố định và vốn lưu động. Một doanh nghiệp xây dựng với khả năng tài chính cao, có thể tham gia đấu thầu nhiều công trình trong một năm, có nhiều cơ hội để đầu tư tăng thiêt bị, máy móc nhằm đáp ứng yêu cầu thi công và đòi hỏi của qui trình công nghệ hiện đại. Đồng thời giữ luôn được uy tín đối với nhà cung cấp vật tư và các tổ chức tín dụng. Năng lực tài chính mang tác dụng tích cực đến quá trình đấu thầu. Nó được xét trên hai phương diện: - Với những công trình đã thắng thầu, năng lực tài chính mạnh giúp cho doanh nghiệp hoàn thành nhiệm vụ thi công, đảm bảo công trình có kỹ thuật, chất lượng tốt, tiến độ thi công đảm bảo tạo uy tín và niềm tin cho chủ đầu tư. - Trong đấu thầu, khả năng tài chính là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá nhà thầu. Điều quan trọng hơn là một doanh nghiệp với khả năng tài chính mạnh, cho phép đưa ra quyết định giá bỏ thầu một cách sáng suốt và hợp lý hơn. Trong đấu thầu quốc tế, nếu xét trên phương tiện tài chính, các doanh nghiệp trong nước thường mất ưu thế so với các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, các nhà thầu trong nước thường phải liên doanh với nhà thầu nước ngoài và kết cục nếu trúng thầu thường là những nhà thầu phụ. 1.3.1.2. Máy móc, thiết bị, công nghệ thi công Máy móc thiết bị là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong tài sản cố định của doanh nghiệp. Nó là thước đo cho trình độ kỹ thuật là thể hiện năng lực sản xuất hiện có, là nhân tố quan trọng góp phần tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong đấu thầu. Năng lực về máy móc thiết bị được chủ đầu tư đánh giá cao, bởi nó liên quan nhiều đến chất lượng và tiến độ thi công. Để đánh giá về năng lực máy móc thiết bị và công nghệ có thể dựa vào các đặc tính sau: - Tính hiện đại của thiết bị, công nghệ: Biểu hiện ở các thông số như hãng sản xuất, năm sản xuất, công suất, giá trị còn lại của thiết bị. - Tính đồng bộ: Thiết bị đồng bộ là điều kiện để đảm bảo sự phù hợp giữa thiết bị, công nghệ với phương pháp sản xuất; giữa chất lượng, độ phức tạp của sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra. - Tính hiệu quả: Thể hiện trình độ sử dụng máy móc thiết bị của doanh nghiệp, từ đó nó có tác dụng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng huy động tối đa nguồn lực về máy móc thiết bị sẵn có phục vụ cho mục đích cạnh tranh của doanh nghiệp. - Tính đổi mới: là sự đáp ứng yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng là một trong những yếu tố tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong sản xuất kinh doanh yếu tố này quyết định việc lựa chọn tính toán các giải pháp hợp lý trong tổ chức thi công. Trong đấu thầu, năng lực máy móc thiết bị là một trong những tiêu chuẩn đánh giá của chủ đầu tư. Một nhà thầu có năng lực máy móc thiết bị mạnh mẽ sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh và đặc biệt là trong việc xây dựng giá bỏ thầu hợp lý. 1.3.1.3. Nhân lực Đây là yếu tố cơ bản và đặc biệt quan trọng của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Đánh giá nguồn nhân lực của doanh nghiệp chủ đầu tư đặc biệt chú trọng đến vấn đề: - Cán bộ quản trị cấp cao (Ban Giám đốc doanh nghiệp). Là những cán bộ quản trị cấp cao, họ quyết định sự thành công hay thất bị của doanh nghiệp và chịu trách nhiệm về những quyết định kinh doanh của mình. Một trong những chức năng chính của các quản trị viên cao cấp là xây dựng chiến lược hành động và phát triển của doanh nghiệp. Khi đánh giá bộ máy lãnh đạo, trình độ các hoạt động của doanh nghiệp, phẩm chất kinh doanh của doanh nghiệp và các mối quan hệ; sâu xa hơn nữa là tinh thần đoàn kết, hợp lòng của cán bộ công nhân cũng như của êkíp lãnh đạo. Điều này vừa tăng sức mạnh của chính doanh nghiệp, vừa tạo ra uy tín đối với chủ đầu tư. - Cán bộ quản trị cấp trung gian. Đội ngũ cấp chỉ huy trung gian đứng trên cấp quản trị viên cơ sở và dưới cấp quản trị cao cấp. Với cương vị này, họ vừa quản trị các quản trị cấp cơ sở thuộc quyền, vừa đồng thời điều khiển các nhân viên khác. ở cấp này các quản trị viên có chức năng thực hiện các kế hoạch và chính sách của tổ chức bằng cách phối hợp các công việc được thực hiện nhằm dẫn đến sự hoàn thành mục tiêu chung. Để đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ cán bộ quản trị, chủ đầu tư thường tiếp cận trên các khía cạnh: một là, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, tác phong làm việc, sự am hiểu về kinh doanh và luật pháp của từng thành viên trong ê kíp quản lý và hai là, cơ cấu về các chuyên ngành đào tạo phân theo trình độ sẽ cho biết khả năng chuyên môn hoá cũng như khả năng đa dạng hoá của doanh nghiệp. - Cán bộ quản trị cấp cơ sở, công nhân. Đây là đội ngũ các nhà quản trị ở cấp bậc cuối cùng trong hệ thống cấp bậc của các nhà quản trị của một doanh nghiệp. Thông thường họ được gọi là đốc công, tổ trưởng, trưởng ca. Nhiệm vụ của họ là hướng dẫn, đốc thúc, điều khiển công nhân trong các công việc cụ thể hàng ngày để đưa đến hoàn thành mục tiêu chung của cả doanh nghiệp. Đội ngũ quản trị này lãnh đạo lực lượng lao động trực tiếp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp trên các khía cạnh như chất lượng, tiến độ thi công công trình. Người phụ trách đơn vị phải có trình độ quản trị (tổ chức điều phối lao động và thiết bị hợp lý, tránh lãng phí nhằm hạ thấp giá thành, tăng lợi nhuận nhưng đảm bảo chất lượng), am hiểu sâu về công việc mà đơn vị đang thực hiện, biết chăm lo quyền lợi người lao động, mới tạo ra được sự ủng hộ, lòng nhiệt thành từ phía người lao động, mới tạo ra được sự ủng hộ. Tuy nhiên, lãnh đạo đơ vị giỏi cũng chưa đủ, mà còn cần có đội ngũ lao động với trình độ tay nghề chuyên sâu, có khả năng sáng tạo, trung thực trong công việc. Họ chính là những người trực tiếp thực hiện những ý tưởng, chiến lược và chiến thuật kinh doanh của đội ngũ lãnh đạo cấp trên, những người tạo nên chất lượng công trình và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.3.1.4. Hoạt động marketing Chiến lược marketing là một chiến lược bộ phận đóng vai trò quan trọng trong việc giành ưu thế trong cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sử dụng những chiến lược marketing thích hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp chiếm giữ được vị trí trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh. Với mục đích và yêu cầu đã được đề ra, hệ thống marketing phải đảm bảo đem lại những thông tin chính xác, kịp thời về sự phát triển của thị trường, xem xét những triển vọng, đánh giá về những người phân phối, các bạn hàng lớn, các đối thủ cạnh tranh, những nhà cung ứng và những nhân tố có liên quan khác. ứng dụng của nghệ thuật quảng cáo để mở rộng thị trường, tuyên truyền doanh nghiệp mình cho nhiều khách hàng biết. Hoạ._.t động kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng không giống như các doanh nghiệp công nghiệp là các doanh nghiệp này có thể đưa sản phẩm của mình ra thị trường cho khách hàng chọn mua. Ngược lại, họ cần phải dựa vào danh tiếng của mình để khiến cho khách hàng tìm đến và yêu cầu sản phẩm cần thiết. Giữa các doanh nghiệp xây dựng có sự cạnh tranh trực tiếp đó là sự so sánh về danh tiếng. Danh tiếng thành tích của doanh nghiệp có tác dụng rất lớn đến khả năng trúng thầu dự án. Do vậy, trước khi đấu thầu, làm tốt công tác quảng cáo sẽ tăng thêm mức độ tin cậy của chủ đầu tư đối với doanh nghiệp, từ đó nâng cao tỷ lệ trúng thầu. 1.3.1.5. Khả năng liên doanh, liên kết Liên doanh, liên kết là sự kết hợp hai hay nhiều pháp nhân kinh tế để tạo ra sức mạnh tổng hợp về năng lực kinh nghiệm, khả năng tài chính. Đây là một trong những yếu tố đánh giá khả năng của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xây dựng với những dự án có quy mô lớn, những yêu cầu đôi khi vượt khả năng của một doanh nghiệp đơn lẻ trong cạnh tranh đấu thầu. Để tăng năng lực của mình trên thị trường cạnh tranh, vấn đề mở rộng các quan hệ liên danh, liên kết dưới những hình thức thích hợp là giải pháp quan trọng và phù hợp. Thông qua đó, doanh nghiệp xây dựng có thể đáp ứng một cách toàn diện các yêu cầu của những công trình có quy mô lớn và mức độ phức tạp cao. Liên danh, liên kết trong dự thầu xây dựng có nhiều hình thức. Mỗi hình thức có sự thuận lợi, phù hợp riêng cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ cụ thể. Song các hình thức trên đều được dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. - Liên kết: Liên kết có thể thực hiện theo chiều ngang tức là khả năng liên kết của doanh nghiệp với các doanh nghiệp cùng ngành để đảm nhận các dự án lớn; liên kết theo chiều dọc tức là liên kết của doanh nghiệp xây dựng với các doanh nghiệp sản xuất nguyên nhiên vật liệu hoặc trang thiết bị (nhờ đó làm giảm được giá thành xây dựng ở mức tối đa). - Liên danh tham gia dự thầu: Là hình thức các nhà thầu liên kết với nhau thành một nhà thầu để tham dự thầu. Năng lực của nhà thầu này là năng lực tổng hợp của tất cả các nhà thầu độc lập. Điều này sẽ tăng sức mạnh về tài chính, nhân lực, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư. - Tập đoàn xây dựng: Là hình thức liên kết giữa các chủ thể kinh tế, thúc đẩy nâng cao trình độ tập trung vốn trong ngành xây dựng. Tập đoàn xây dựng có thể hoạt động trên tất cả các lĩnh vực xây dựng. Với tiềm năng mạnh mẽ về kinh tế và kỹ thuật, tập đoàn xây dựng có vị trí và khả năng cạnh tranh lớn trên thị trường xây dựng. Như vậy, việc mở rộng hình thức liên danh liên kết là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của các doanh nghiệp xây dựng. Liên kết kinh tế tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển chuyên môn hoá một cách có hiệu quả, khai thác được thế mạnh, khắc phục mặt yếu trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. 1.3.1.6. Trình độ tổ chức lập hồ sơ dự thầu Khả năng cạnh tranh trong đấu thầu phụ thuộc trực tiếp vào trình độ lập hồ sơ dự thầu. Một nhà thầu có thể bị loại ngay từ vòng đầu do hồ sơ dự thầu không đảm bảo các yêu cầu của tổ chức mời thầu. Tổ chức lập hồ sơ dự thầu đòi hỏi phải qua các bước nghiên cứu hồ sơ mời thầu (công việc này đòi hỏi phải tỷ mỷ, nghiêm túc, hiểu rõ đầy đủ nội dung và yêu cầu của hồ sơ mời thầu); điều tra môi trường đấu thầu; điều tra môi trường đấu thầu; điều tra dự án đấu thầu; khảo sát hiện trường xây dựng công trình; lập phương án thi công; xây dựng giá dự thầu… - Điều tra môi trường đấu thầu, đó là việc điều tra các điều kiện thi công, tự nhiên, kinh tế và xã hội của dự án, những điều kiện này ảnh hưởng trực tiếp tới phương án thi công và cuối cùng là giá thành công trình. Điều tra đặc điểm vị trí của hiện trường thi công như vị trí địa lý, điều kiện địa hình, địa chất, giao thông vận tải, thông tin liên lạc; điều kiện cung ứng vật tư nguyên nhiên vật liệu, giá cả, khả năng khai thác nguyên vật liệu tại chỗ; điều kiện cung cấp thầu phụ chuyên nghiệp và lao động phổ thông; khả năng cung cấp lương thực, thực phẩm. Hàng loạt số liệu, thông tin cần điều tra xác định trong một thời gian ngắn nói lên kết quả tiêu thụ phụ thuộc vào tổ chức, trình độ chuyên môn, phương tiện của đội ngũ cán bộ lập hồ sơ dự thầu. - Điều tra dự án đấu thầu đòi hỏi phải nắm được tính chất, quy mô, phạm vi đấu thầu; mức độ phức tạp về kỹ thuật của công trình; yêu cầu tiến độ, thời hạn hoàn thành hạng mục và hoàn thành tổng thể công trình; nguồn vốn; phương thức thanh toán; uy tín, năng lực công tác của tổ chức giám sát. - Lập phương án thi công công trình là khâu có ảnh hưởng quyết định đến giá dự thầu. - Công tác xác định giá dự thầu là một khâu có nội dung phức tạp với những yêu cầu nghiêm ngặt phải tuân thủ, đây là một trong những yếu tố quyết định việc trúng thầu. Công việc này đòi hỏi phải do một bộ phận chuyên nghiệp thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng và kịp thời của các bộ phận chuyên môn khác. Tổ chức lập hồ sơ dự thầu là công việc hết sức phức tạp và yêu cầu thực hiện trong khoảng thời gian thường rất hạn chế. Chất lượng hồ sơ dự thầu là một trong những tiêu chí cơ bản quyết định việc nhà thầu có trúng thầu hay không. 1.3.2. Nhóm nhân tố bên ngoài 1.3.2.1. Cơ chế chính sách của Nhà nước Cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Tác động trực tiếp đến các vấn đề tín dụng, về chống độc quyền; về thuế; các chế độ đãi ngộ, hỗ trợ; bảo vệ môi trường v.v.. Các tác động này có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ cho mỗi doanh nghiệp. Sự ổn định chính trị cũng là một nhân tố thuận lợi làm tăng khả năng cạnh tranh quốc gia nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Một trong những bộ phận của yếu tố chính trị ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hệ thống luật pháp. Mức độ ổn định của hành lang pháp lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải đối diện liên tục với những thay đổi của pháp luật, làm suy yếu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.3.2.2. Chủ đầu tư Chủ đầu tư là cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện về các vấn đề liên quan đến dự án trước pháp luật. Do vậy, chủ đầu tư có ảnh hưởng rất lớn tới các doanh nghiệp tham gia đấu thầu xây dựng công trình. Với chủ đầu tư có tinh thần trách nhiệm cao, trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt tạo nên việc cạnh tranh lành mạnh trong đấu thầu và từ đó chọn ra nhà thầu trúng thầu là thoả đáng, chính xác, ngược lại dễ tạo nên sự quan liêu trong đấu thầu. 1.3.2.3. Cơ quan tư vấn Công tác tư vấn gồm các khâu: Tư vấn thiết kế; tư cấn đấu thầu; tư vấn giám sát. Các khâu này có thể do một hoặc nhiều tổ chức tư vấn thực hiện. - Tư vấn thiết kế là tổ chức tư vấn chịu trách nhiệm thiết kế, xác định giá trị dự toán của công trình. Khi hồ sơ thiết kế thiếu chính xác dẫn đến việc lập dự toán thiếu chính xác và từ đó dẫn đến khó khăn trong phê duyệt giá gói thầu công trình. - Tư vấn đấu thầu giúp chủ đầu tư làm công tác đấu thầu bao gồm các công việc: Chuẩn bị các tài liệu pháp lý, soạn thảo hồ sơ mời thầu, tiếp nhận và quản lý hồ sơ dự thầu; giúp chủ đầu tư đánh giá so sánh và xếp hạng các hồ sơ dự thầu, tổng hợp tài liệu về quá trình đánh giá xet chọn nhà thầu và lập báo cáo xét thầu. Việc đánh giá hồ sơ dự thầu, đề xuất ý kiến chọn thầu ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thắng thầu của các doanh nghiệp xây dựng, đặc biệt khi các nhà thầu có khả năng trúng thầu tương đương. Do đó, kinh nghiệm, trình độ và sự công tâm, khách quan của tư vấn có ảnh hưởng rất lớn tới việc trúng thầu của nhà thầu. - Tư vấn giám sát thi công: Thực hiện việc theo dõi kế hoạch tiến độ của đơn vị nhận thầu; kiểm tra tiến độ thi công, chất lượng thi công; nghiệm thu công trình. Đôn đốc đơn vị nhận thầu thực hiện toàn diện hợp đồng. Với chức năng, nhiệm vụ nặng nề như trên, cơ quan tư vấn luôn đi sát mọi hoạt động của nhà thầu trong quá trình thi công công trình. Trong điều kiện còn nhiều kẽ hở, bất cập về chính sách quản lý xây dựng cơ bản như hiện nay càng làm tăng vai trò ảnh hưởng của cơ quan tư vấn đối với nhà thầu. 1.3.2.4. Các đối thủ cạnh tranh Các đối thủ cạnh tranh là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp nhất đối với khả năng trúng thầu của doanh nghiệp. Số lượng cũng như khả năng cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh quyết định mức độ cạnh tranh trong các cuộc đấu thầu. Để trúng thầu, nhà thầu phải vượt qua được tất cả các đối thủ tham gia dự thầu. Tức là phải đảm bảo được năng lực vượt trội của mình trước các đối thủ cạnh tranh hiện tại với tất cả các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Do vậy, sự hiểu biết đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp. Trong cạnh tranh các bên sẽ bộc lộ tính chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật giành ưu thế trên thị trường. Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào các yếu tố như số lượng các nhà thầu tham gia cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng của ngành, sự đa dạng hoá của các đối thủ cạnh tranh, hàng rào cản trở sự xâm nhập của các đối thủ tiềm ẩn mới. Hiện nay, các doanh nghiệp xây dựng trong nước phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh là các công ty nước ngoài có trình độ phát triển cao. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhằm mục tiêu tăng nguồn vốn, tranh thủ công nghệ tiên tiến, thâm nhập thị trường và kỹ năng quản lý. Việc này, một mặt tạo ra sức phát triển mới cho các doanh nghiệp trong nước, mặt khác làm cho mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng thêm quyết liệt, phần yếu thế trước mặt thường nghiêng về các doanh nghiệp trong nước, làm giảm cơ hội trúng thấu và giảm mức lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước. 1.3.2.5. Các nhà cung cấp Các nhà cung cấp có ảnh hưởng lớn đến việc cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Các tổ chức cung cấp vật tư, thiết bị có ưu thế có thể gây áp lực với các khách hàng để thu lợi nhuận bằng cách tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm hoặc giảm mức độ dịch vụ đi kèm. Các yếu tố làm tăng thế mạnh của người bán - nhà cung cấp như trường hợp số lượng người cung cấp ít; không có hàng thay thế khác và không có các nhà cung cấp nào chào bán các sản phẩm có tính khác biệt thì lúc này các doanh nghiệp mua hàng bị sức ép đáng kể từ nhà cung cấp làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh nếu không có phương án giải quyết tốt. Giữa các nhà cung cấp và doanh nghiệp thường diễn ra các cuộc thương lượng về giá cả, chất lượng và thời gian giao hàng. Khả năng thương lượng về giá cả của các nhà cung cấp tuỳ thuộc vào mức lãi và chất lượng hàng hoá (hay dịch vụ) mà họ dự định cung ứng cho doanh nghiệp. Nhà cung cấp có nhiều cách để tác động vào khả năng thu lợi nhuận của các doanh nghiệp như nâng giá, giảm chất lượng những loại vật tư kỹ thuật mà họ cung ứng, không đảm bảo đúng tiến độ cung cấp theo yêu cầu của doanh nghiệp, hoặc gây ra sự khan hiếm giả tạo. Các nhà cung cấp có thể gây áp lực mạnh khi có những điều kiện sau: - Độc quyền cung cấp một loại vật tư thiết yếu cho doanh nghiệp; - Doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của nhà cung cấp; - Loại vật tư cung cấp là yếu tố đầu vào quan trọng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc đến chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi nhà cung cấp có nhiều điều kiện thuận lợi để gây áp lực với doanh nghiệp, thì các doanh nghiệp với quy mô lớn lại tìm cách để cải thiện vị trí của mình bằng cách tác động đến một hay nhiều yếu tố nói trên. Doanh nghiệp có thể đe doạ hội nhập dọc bằng cách thâm nhập vào kinh doanh ngành hàng này như mua lại các cơ sở cung cấp hàng cho chính họv.v.. Đối với thị trường xây dựng, danh tiếng, sự đảm bảo của nhà cung cấp có ảnh hưởng rất lớn đến chủ đầu tư do có sự liên quan trực tiếp đến chất lượng công trình. Vì vậy, tạo được những mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp có danh tiếng sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu nói riêng, tăng thế mạnh của doanh nghiệp nói chung. Đối với một số dự án doanh nghiệp không đáp ứng đủ về vốn, phải tìm kiếm, huy động từ các nguồn khác, như vay ngắn hạn, dài hạn từ các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Nếu doanh nghiệp có quan hệ tốt với cộng đồng tài chính thì doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội kinh doanh, có thể tham gia dự thầu các dự án có quy mô lớn. 1.4. Một số kinh nghiệm cạnh tranh của các nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam Từ năm 1993 trở lại đây, nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho các dự án xây dựng, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam ngày càng tăng. Trong đó, các nguồn vốn vay chủ yếu là từ các tổ chức tài trợ như WB, ADB, OECF cũng như từ các nước trong khu vực. Việc triển khai thực hiện các dự án này thường áp dụng quy chế đấu thầu quốc tế với các quy định theo thông lệ chặt chẽ của các tổ chức cho vay. Các nhà thầu quốc tế có tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh đã tham gia đấu thầu thi công những công trình này bao gồm các nhà thầu đến từ Châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc… Trong số đó, một số nhà thầu đã chiếm lĩnh và đứng vững tại thị trường xây dựng Việt Nam như: Taisei, Sumitomo của Nhật Bản; BEC của HongKong; HIG. Công ty cầu đường Thượng Hải, Trung Quốc… Các nhà thầu này đã chiến thắng và thực hiện khá tốt, có hiệu quả nhiều gói thầu có giá trị lớn thuộc các lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi, thủy điện. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam do năng lực về tài chính, kinh nghiệm chưa đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu là nhà thầu chính thực hiện các dự án đấu thầu quốc tế, do đó chủ yếu phải làm thầu phụ để từng bước nâng cao năng lực của mình. Qua xem xét quá trình các nhà thầu nước ngoài tham gia đấu thầu và thực hiện dự án xây dựng tại Việt Nam cho thấy một số bài học kinh nghiệm giúp cho các nhà thầu này thắng thầu và thắng thầu có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh khá phức tạp ở thị trường xây dựng Việt Nam. 1.4.1. Phân chia khu vực các nhà thầu trong cùng một quốc gia Trong các gói thầu tổ chức đấu thầu quốc tế rộng rãi có sự tham gia của nhiều nhà thầu từ các quốc gia khác nhau. Trong mỗi nước lại có rất nhiều nhà thầu cùng có mục tiêu thâm nhập thị trường xây dựng Việt Nam. Tuỳ từng gói thầu thuộc địa bàn, lĩnh vực, nguồn vốn cụ thể mà các nhà thầu trong một quốc gia họp bàn và phân chia nhau để tham gia đấu thầu, đặc biệt là các nhà thầu Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung quốc. Thực tế cho thấy, họ thực hiện việc phân chia này bằng hai hình thức chủ yếu: một là, nhà thầu chuẩn bị tham gia đấu thầu từng gói thầu cụ thể và hai là, một số nhà thầu chuẩn bị tham gia với tư cách vệ tinh tạo thế cho các nhà thầu chính có khả năng, có điều kiện thắng thầu. ở Việt Nam, công việc này thuộc về vai trò điều tiết của Hiệp hội nhà thầu, nhưng thực tiễn điều đó chưa làm được, dẫn đến các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh quyết liệt, thạm chí nhiều nhà thầu bỏ giá thấp, không thực tế, gây hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến chất lượng công trình và sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. 1.4.2. Kinh nghiệm từng bước chiếm lĩnh thị trường Đa số các nhà thầu có tiềm lực mạnh thường có chiến lược cạnh tranh, chiến lược đấu thầu dài hạn để đạt được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường xây dựng Việt Nam. Họ đặt kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn với các mục tiêu khác nhau. Chẳng hạn, ở giai đoạn đầu, để đặt chân được vào thị trường họ chấp nhận giảm lợi nhuận, kéo dài thời gian khấu hao máy móc thiết bị, giảm số lượng cán bộ trong bộ máy quản lý… thậm chí có sự hỗ trợ của Công ty mẹ để thắng thầu. Trong số này có thể thấy nhà thầu Taisei của Nhật Bản, trong khi thực hiện gói thầu xây dựng quốc lộ 5, km 0-47; nhà thầu Kukdong của Hàn Quốc thực hiện gói thầu Hợp đồng 2 Hà Nội - Vinh. Sau đó và hiện nay các nhà thầu này đã chiếm lĩnh thị trường xây dựng Việt Nam với rất nhiều gói thầu khác. 1.4.3. Kinh nghiệm về lựa chọn nhà thầu phụ Các nhà thầu nước ngoài tham gia đấu thầu xây dựng các công trình tại Việt Nam về cơ bản phải sử dụng các nhà thầu phụ của nước sở tại để tham gia xây dựng công trình theo quy định các hồ sơ thầu hoặc để giảm chi phí đấu thầu. Việc lựa chọn được chính xác các nhà thầu phụ sẽ tạo điều kiện cho các nhà thầu chính tăng khả năng thắng thầu, đồng thời tăng khả năng thực hiện dự án sau thắng thầu một cách có hiệu quả. Bởi vậy, các nhà thầu nước ngoài thường tìm hiểu rất kỹ các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam về: - Năng lực tài chính - Kinh nghiệm thi công các công trình - Uy tín thương hiệu - Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật - Năng lực máy móc, thiết bị thi công… và đặc biệt là tìm hiểu kỹ về mục tiêu của nhà thầu phụ tại thời điểm đấu thầu. Tại thời điểm đó, nếu nhà thầu phụ có quá nhiều công việc đang triển khai hoặc nghi ngại vì lực lượng sẽ bị dàn trải khi thực hiện dự án, tất nhiên họ sẽ không nhiệt tình với công việc mới và sẽ đưa ra giá thầu phụ cao hơn. Ngược lại, nếu nhà thầu phụ đang đợi việc thì phải xem xét lại khả năng cạnh tranh của nhà thầu phụ, uy tín của nhà thầu phụ trên thị trường… Nhìn chung các nhà thầu nước ngoài rất chú trọng tới khả năng này. Các nhà thầu Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc kiểm tra rất cụ thể tỉ mỉ các nhà thầu phụ Việt Nam khi tham gia liên danh đấu thầu. Trong lĩnh vực tham gia, thường một số Tổng công ty như Cienco 1, Cienco 8, Tổng công ty xây dựng Trường Sơn… là các nhà thầu phụ có uy tín. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, trong điều kiện năng lực của bản thân mỗi doanh nghiệp không đủ mạnh thì việc lựa chọn nhà thầu phụ, nhà thầu liên danh trong đấu thầu cũng cần phải xem xét kỹ lưỡng để tăng khả năng thắng thầu cũng như thực hiện dự án sau thắng thầu. 1.4.4. Kinh nghiệm quan hệ với chủ đầu tư và các cơ quan quản lý Nn địa phương "Nhập gia tuỳ tục". các nhà thầu nước ngoài thực hiện rất tốt công việc này. Việc quan hệ tốt với chủ đầu tư ngoài việc gây thiện cảm, nhưng cái chủ yếu là nắm bắt thông tin nhanh hơn và xử lý thông tin tốt hơn. Về nguyên tắc có quy định nghiêm ngặt trong quan hệ với chủ đầu tư, nhưng thực tế để thắng thầu cần bám sát các chủ thể trên để nắm chắc điều kiện tình hình, sự thay đổi về các nội dung hồ sơ thầu, các cuộc họp giữa chủ đầu tư với nhà thầu tham gia để có sự điều chỉnh phù hợp, đồng thời giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án. Việc quan hệ tốt với các cơ quan quản lý chính quyền địa phương đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các thủ tục pháp lý có liên quan đến dự án, nhà thầu và nhất là công việc giải phóng mặt bằng và các công việc khác. Các nhà thầu nước ngoài đều có sử dụng các nhân viên giỏi người bản xứ (các nhà tư vấn) để giúp họ thực hiện tốt chức năng này, hoặc là tận dụng nhà thầu phụ bản xứ. 1.4.5. Kinh nghiệm về sử dụng và điều động thiết bị Ngoài thiết bị thi công do các nhà thầu phụ cung cấp và tự thực hiện, các nhà thầu nước ngoài cũng cần sử dụng, điều động một số thiết bị của mình để thực hiện dự án. Việc tính toán được thực hiện ngày từ khi lập hồ sơ dự thầu. Các thiết bị đang dùng ở cá dự án khác được tính toán tiến độ rất kỹ để vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị, đồng thời giảm chi phí đấu thầu. Việc này đã tạo điều kiện cho Kukdong thắng thầu và thực hiện tốt hợp đồng sau khi thắng thầu. 1.4.6. Kinh nghiệm vận dụng sự hỗ trợ và bảo đảm của Nhà nước Yếu tố này rất quan trọng thể hiện trên 2 mặt: - Bảo đảm của Nhà nước về uy tín của nhà thầu. - Sự hỗ trợ của Nhà nước về tài chính, cơ chế chính sách hỗ trợ nhằm tăng khả năng thắng thầu của nhà thầu, tạo điều kiện cho nhà thầu tích luỹ kinh nghiệm và bổ sung năng lực tài chính… Các nhà thầu Trung Quốc luôn nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước và chính quyền địa phương khi tham gia các công việc xây dựng ở Việt Nam… Chẳng hạn, nhà thầu HISD khi tham gia đấu thầu dự án sân vận động quốc gia Mỹ Đình; nhà thầu SFEECO (Thượng Hải) tham gia dự án Trung tâm Hội nghị Quốc gia. Một số nhà thầu của Nga, Ucraina trong khi tham gia các dự án thuỷ điện ở Việt Nam, thậm chí khi trượt thầu còn có sự can thiệp của Chính phủ hoặc Đại sứ quán các nước này tại Việt Nam… Trong điều kiện năng lực của các nhà thầu Việt Nam hiện nay còn yếu thì sự hỗ trợ của Nhà nước là rất quan trọng. Thực ra chúng ta chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề này. Hiện tại, Nhà nước mới hỗ trợ bằng cách thực hiện chỉ định thầu đối với một số công trình giao thông, thuỷ điện lớn hoặc thực hiện các hình thức đầu tư xây dựng theo hình thức EPC, BT, BOT… còn sự hỗ trợ tài chính cho các nhà thầu Việt Nam cũng cần phải được xem xét để tạo thế cho các doanh nghiệp. 1.4.7. Kinh nghiệm về sử dụng công cụ luật pháp Đây là một bài học kinh nghiệm rất quan trọng, nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật về xây dựng, các quy chế, chế tài về đấu thầu, quản lý dự án ở Việt Nam còn nhiều bất cập, các dự án đầu tư vừa thiết kế, vừa thi công, hồ sơ đấu thầu chưa hoàn chỉnh, thường có phát sinh lớn… Các nhà thầu nước ngoài rất có kinh nghiệm trong lĩnh vực này nên đã tận dụng tối đa để tạo lợi thế cho mình, chẳng hạn: - Tất cả các thay đổi về hồ sơ, thiết kế phát sinh đều được cập nhật đầy đủ; - Các sai sót của chủ đầu tư về hồ sơ, điều hành đều có biên bản chặt chẽ; - Các chậm trễ do giải phóng mặt bằng gây thiệt hại chờ đợi của lao động, thiết bị thi công của bên nhà thầu đều được lập thành hồ sơ có xác nhận của chủ đầu tư, giám sát thi công… 1.4.8. Kinh nghiệm về lập hồ sơ giải ngân và thanh toán Việc quay vòng vốn có hiệu quả rõ ràng, giải ngân nhanh khối lượng công việc đã thực hiện tạo điều kiện giảm lãi suất vay và thúc đẩy tiến độ thi công. Các nhà thầu nước ngoài đặc biệt quan tâm thực hiện chặt chẽ việc lập hồ sơ thanh toán, để đảm bảo tiến độ giải ngân kịp thời. Các doanh nghiệp Việt Nam rất chậm trễ trong khi thực hiện các nội dung này. Chi phí lãi vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong ki tiền của dự án (hay gói thầu) do chính mình thực hiện lại không giải ngân được… Chương 2 Phân tích và đánh giá khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của các doanh nghiệp xây dựng nước ta thời gian qua 2.1. Tổng quan về tình hình đấu thầu và cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng ở nước ta những năm qua. Sau 15 năm chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá bao cấp sang cơ chế thị trường, ngành xây dựng đã có những bước chuyển và trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Từ chỗ chủ yếu là những cơ sở có quy mô nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, đến nay các nhà thầu xây dựng nước ta đã có sự phát triển lớn mạnh, thực thi được những công trình xây dựng có quy mô ngày càng lớn và kỹ thuật hiện đại, nhờ đó góp phần đáng kể làm thay đổi bộ mặt của đất nước. Tính đến cuối năm 2006, năng lực của ngành xây dựng nước ta có khoảng trên 5000 nhà thầu xây lắp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, với gần 30 Tổng công ty 90, 1500 doanh nghiệp nhà nước, số còn lại là các nhà thầu thuộc các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra, hiện cả nước có trên 30 nhà thầu liên doanh, gần 100 nhà thầu xây lắp nước ngoài thuộc 20 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau (số liệu của Hiệp hội xây dựng Việt Nam). Với một lực lượng hùng hậu như vậy, công tác đấu thầu xây dựng đang diễn ra trong sự cạnh tranh hết sức gay gắt, quyết liệt. Chẳng hạn, chỉ tính riêng trong lĩnh vực giao thông đã có sự tham gia của một loạt các Tổng công ty lớn thuộc các bộ ngành khác nhau, trải dài trên tất cả các vùng, miền của đất nước (Bảng 3). Bảng 3: Năng lực của một số Tổng công ty xây dựng giao thông năm 2006 TT Tên TCT Trực thuộc Bộ Tổng tài sản (tỷ đồng) Tổng giá trị MMTB (Tỷ đồng) Tổng số lao động (người) 1 CIENCO 1 GTVT 1580 439 9160 2 CIENCO 4 GTVT 1210 327 6128 3 CIENCO 5 GTVT 985 319 5230 4 CIENCO 6 GTVT 1053 325 6321 5 CIENCO 8 GTVT 1229 250 4916 6 Thăng Long GTVT 1115 402 6697 7 Sông Đà Xây dựng 1176 182 7021 8 Trường Sơn Quốc phòng 700 381 5680 Nguồn: Báo cáo của các Tổng công ty năm 2006 Từ nguồn lực này cho thấy các Tổng công ty xây dựng của ta có tiềm lực và quy mô, phạm vi hoạt động còn quá nhỏ bé so với các công ty trtong khu vực và trên thế giới (ví dụ năng lực tài chính, các công ty của Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản...gấp hàng chục lần so với các Tổng công ty xây dựng Việt Nam - xem phụ lục 4 và phụ lục 5). Ngoài các Tổng công ty này, còn có hàng nghìn doanh nghiệp độc lập khác tham gia xây dựng công trình giao thông. Trên thực tế tổ chức đấu thầu xây dựng đã phát huy tác dụng tích cực. Việc tổ chức đấu thầu xây dựng đã góp phần rất lớn vào việc tiết kiệm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư và kể cả nhà thầu. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính từ năm 2004 tới nay, hoạt động đấu thầu đã mang lại những lợi ích khá lớn, tiết kiệm mỗi năm khoảng từ 4000 - 5000 tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Ví dụ, tính riêng các dự án đầu tư có sử dụng vốn ngân sách nhà nước được triển khai trong năm 2006 thuộc Bộ Xây dựng quản lý thực hiện cho thấy đấu thầu đã làm giảm được một lượng tiền khá lớn (Bảng 4) Bảng 4: Tổng hợp kết quả đấu thầu năm 2006 Đơn vị tính: tỷ đồng Tổ chức Tổng số gói thầu Tổng giá gói thầu Tổng giá trúng thầu Chênh lệch Ghi chú 1. Bộ xây dựng 1778 4137,01 3740,26 396,75 2. TCT xây dựng Hà Nội 1149 5465,90 2728,94 2736,96 3. TCT xây dựng Sông Hồng 150 481,37 462,79 18,58 4. TCT xây dựng Sông Đà 396 1003,50 935,19 68,31 5. TCT VINACONEX 922 1722,73 1113,73 609 6. TCT LICOGI 174 2517,07 1113,62 1403,45 7. TCT xây dựng miền Trung 207 430,09 419,35 10,74 8. TCT lắp máy Việt Nam 35 78,40 58,80 19,60 9. v.v. Nguồn: Vụ Kế hoạch – Thống kê, Bộ Xây dựng (Ghi chú: Số liệu có tính minh hoạ, không tổng hợp được vì chưa đầy đủ và một số đơn vị khi thống kê có sự tính trùng giữa phần đấu thầu và dự thầu). Kết quả tham gia đấu thầu của các doanh nghiệp xây dựng được thể hiện tập trung qua chỉ tiêu số lượng công trình trúng thầu, giá trị công trình trúng thầu và xác suất trúng thầu (tỷ lệ trúng thầu tính theo số công trình và theo giá trị) qua thí dụ ở bảng dưới đây. Bảng 5: Kết quả tham gia đấu thầu của một số doanh nghiệp xây dựng năm 2006 Tên doanh nghiệp Số công trình dự thầu Số công trình thắng thầu % CTTT/CTDT Giá trị công trình dự thầu (tỷ đồng) Giá trị công trình trúng thầu (tỷ đồng) % GTTT/GTDT 1. TCT xây dựng Hà Nội 1410 493 43,9 4900 1081 22,1 2. TCT LICOGI 189 78 41,3 3500 1300 37,1 3. TCT xây dựng CTGT8 36 21 58,3 370 120 32,4 4. Công ty XD 19 LICOGI 57 21 36,8 342 102 29,8 5. Công ty lắp máy và xây dựng Hà Nội 20 4 20 120 20 16,7 Nguồn: Báo cáo của Phòng đấu thầu và Quản lý dứan của các doanh nghiệp. Thực chất của đấu thầu là tổ chức sự cạnh tranh giữa các nhà thầu và mức độ của sự cạnh tranh đó ở mỗi thời kỳ mang sắc thái riêng. Việc nắm vững những sắc thái này rất có ý nghĩa trong việc phân tích, đánh giá hiện trạng. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng có những đặc điểm chung sau đây: - Các doanh nghiệp mới bắt đầu làm quen với phương thức đấu thầu xây dựng. Tuy chế độ đấu thầu xây dựng đã có từ năm 1994, nhưng giao thầu và chỉ định thầu vẫn còn áp dụng, nên thực sự các doanh nghiệp mới bắt đầu thực hiện đấu thầu trong những năm gần đây, trong khi đó chế độ này đã quá quen thuộc với nhiều quốc gia trên thế giới. Do vậy, so với các nhà thầu nước ngoài, ta còn yếu cả về tiềm lực và kinh nghiệm là điều dễ hiểu. Vấn đề là cần tìm giải pháp để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách này càng sớm càng tốt. - Môi trường pháp lý cho việc tổ chức sự cạnh tranh chưa rõ ràng. Chúng ta chưa có luật cạnh tranh và luật chống độc quyền (đang dự thảo và xin ý kiến Quốc hội). Tương tự như vậy, trong xây dựng chúng ta mới ban hành Luật xây dựng (Quốc hội thông qua tháng 12/2003) nhưng cho tới nay vẫn chưa có hướng dẫn thi hành, chưa có Luật (hay Pháp lệnh) về đấu thầu xây dựng... Giá trị pháp lý thấp của quy chế đấu thầu cũng là một cản trở lớn đối với việc tổ chức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng hiện nay. - Điều kiện cạnh tranh chưa thật bình đẳng, nhất là giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ,doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp trong ngành và ngoài ngành, doanh nghiệp trong vùng và ngoài vùng. Thực tế ưu thế trong đấu thầu thường thuộc về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp trong ngành (thuộc Bộ chủ quản, Sở chủ quản) hoặc doanh nghiệp trong vùng. - Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng hiện nay còn mang nặng tính ngắn hạn, theo từng dự án, gói thầu là chủ yếu. Điều đó xuất phát từ đòi hỏi về giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống trước mắt của đội ngũ lao động ở từng doanh nghiệp và do vậy, doanh nghiệp rất khó khăn trong việc đưa ra những định hướng cạnh tranh có tính chiến lược và tạo lập tiềm lực dài hạn của doanh nghiệp. - Sự thắng thầu (hay trượt thầu) của nhà thầu còn quá lệ thuộc vào phía chủ quan của chủ đầu tư hay Hội đồng xét thầu. Việc đưa ra các tiêu chuẩn chủ quan, thiếu căn cứ, thiếu nhất quán... nhằm lựa chọn nhà thầu thân cận loại bỏ các nhà thầu có tiềm lực thực sự là một thực tế đau lòng, song vẫn còn tiếp diễn ở một số nước đấu thầu hiện nay. Điều đó, một mặt là vi phạm nguyên tắc trao thầu, đi ngược lại mục đích đấu thầu và nguy hại hơn là làm giảm động lực của nhà thầu trong việc tìm cách tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. Trong điều kiện như vậy, việc đánh giá thật chính xác thành tựu và kể cả những hạn chế của đấu thầu xây dựng là một việc làm không phải là dễ dàng. Tuy vậy, qua khảo sát thực tiễn, thu thập và xử lý thông tin, nghiên cứu tình huống điển hình và nhìn nhận một cách tổng quát, chúng ta có thể nêu lên những mặt được chủ yếu sau đây: - Thứ nhất, việc xác định mục đích trúng thầu đang là động lực quan trọng trong phát triển doanh nghiệp. Bởi vì doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ ràng rằng chỉ có trúng thầu mới tạo ra sự tăng trưởng và phát triển ổn định, giải quyết việc làm và đảm bảo thu nhập cho người lao động. Hơn thế nữa, trúng thầu không phải bằng mọi cách, mọi giá như trước đây, mà phải bằng cách tăng khả năng cạnh tranh và thực hiện chiến lược cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. - Thứ hai, thông qua việc tham gia đấu thầu và triển khai thực hiện các dự án hay gói thầu, các doanh nghiệp tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong lập hồ sơ dự thầu và tổ chức thực hiện hợp đồng sau trúng thầu. Đây là bước quan trọng để thực hiện các bước trong lộ trình tăng khả ._. Khâu này là một trong những yếu tố quyết định việc trúng thầu. Trước hết phải xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia định giá chuyên nghiệp phục vụ cho báo giá thầu. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của công trình, cần đưa ra phương án báo giá thầu có sức cạnh tranh một cách kịp thời và chính xác. Nói chung, công việc này đòi hỏi phải do một bộ phận chuyên nghiệp thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng và kịp thời của các bộ phận chuyên môn khác trong doanh nghiệp. Khi xây dựng giá dự thầu cần phải đưa ra các mức báo giá khác nhau tuỳ theo mục tiêu đấu thầu, trong đó lấy chi phí trực tiếp không đổi làm cơ sở, làm cho giá thầu của doanh nghiệp có sức cạnh tranh, lại bảo đảm có thể thực hiện một cách hữu hiệu sau khi trúng thầu. Để xây dựng được giá chuẩn xác, bộ phận xây dựng giá dự thầu phải nghiên cứu kỹ hồ sơ gọi thầu, xét thầu, tiền đặt cọc, môi trường và điều kiện thi công tại hiện trường dự án...; xem xét tỷ mỉ, cẩn trọng bản vẽ thiết kế, thuyết minh kỹ thuật xây dựng giá các hạng mục độc lập, giá từng phần và giá chung công trình theo khối lượng công trình trong hồ sơ mời thầu; tính toán chi phí trực tiếp như nhân công, máy móc, thiết bị, và vật liệu công trình; xác định chi phí gián tiếp như chi phí quản lý, chi phí vốn, chi phí tu sửa, bảo hành... Phân bổ hợp lý các yếu tố chi phí vào giá thành các hạng mục công trình. Đặc biệt phải nghiên cứu các hạng mục trong công trình có khối lượng có thể tăng hoặc giảm trong quá trình thực hiện xây dựng công trình; quan tâm phân tích, dự báo những nhân tố biến động trong quá trình xây dựng công trình như các yếu tố về giá nguyên vật liệu, giá nhân công, tỷ lệ ngoại tệ...; chuẩn bị hồ sơ thuyết minh báo giá, tài liệu về nguồn máy, thiết bị, phương án cung cấp nguyên vật liệu, nhân lực cần thiết cho dự án, phương pháp thi công, phương án thi công...; xây dựng tiến độ thi công. Đồng thời, lập giá dự thầu, cần làm tốt tất cả các công việc trong quá trình sau: - Xác định đầy đủ và đúng số loại công việc và khối lượng từng công việc (n, Q); - Tập trung nhiều nhất về thời gian, lực lượng và kỹ năng cho khâu lập đơn giá dự thầu (ĐGdt), vì vậy là khâu có ý nghĩa quyết định giá dự thầu; - Xác định giá dự thầu tính cụ thể theo từng loại công việc; - Xác định giá dự thầu của dự án hay gói thầu trên cơ sở tổng hợp giá dự thầu của các loại công việc. Hai khâu này chú ý không để sai sót về mặt cơ học và chú ý vận dụng kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo lập giá dự thầu; Tổ chức lập hồ sơ dự thầu là một việc hết sức phức tạp và yêu cầu thực hiện trong một thời gian thường rất hạn chế, chất lượng hồ sơ dự thầu là một trong những tiêu chí cơ bản quyết định việc nhà thầu có trúng thầu hay không, do vậy trình độ tổ chức lập hồ sơ dự thầu là một trong những yếu tố cơ bản đánh giá khả năng cạnh tranh của nhà thầu. Điều quan trọng ở đây là doanh nghiệp không chỉ đưa ra hồ sơ tranh thầu tốt, mà còn dự kiến được phương án thi công sau trúng thầu đảm bảo tính khả thi cao. 3.2.3. Nâng cao chất lượng ra quyết định tranh thầu. Khi tham gia vào công việc đấu thầu, doanh nghiệp phải gánh chịu một khoản chi phí cơ hội. Việc ra quyết định dự thầu có tác động rất lớn đến chi phí cơ hội mà doanh nghiệp bỏ ra với hiệu quả thu được từ hoạt động tham gia dự thầu. Đối với một dự án cụ thể, doanh nghiệp tham gia dự thầu đứng trước hai khả năng; - Nếu thắng thầu, doanh nghiệp sẽ thu được một khoản lợi từ công trình thắng thầu đó và tác động (lợi ích) có tính dây chuyền sau trúng thầu; - Nếu trượt thầu, doanh nghiệp sẽ mất đi một khoản chi cho quá trình tranh thầu, ngoài ra còn có ảnh hưởng đến các hoạt động khác và các dự án tranh thầu khác của doanh nghiệp. Hiện tại, đa số các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam thường áp dụng phương pháp phân tích giản đơn khi ra quyết định tranh thầu. Những phương pháp dựa vào cảm tính này nhiều khi không đảm bảo tính khoa học, không mang lại tính khả thi và không đánh giá được rõ ràng về dự án đấu thầu. Từ những vấn đề đặt ra ở trên cho thấy việc có nên tham dự thầu hay không thực sự là vấn đề mà doanh nghiệp cần xem xét một cách thận trọng. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng tôi khuyến nghị nên áp dụng phương pháp đánh giá bằng chỉ tiêu tổng hợp trong ra quyết định tranh thầu. Việc áp dụng chỉ tiêu tổng hợp có thể coi là một cách tính toán khoa học, hiệu quả áp dụng phù hợp với các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam trong ra quyết định tranh thầu. Quá trình vận dụng phương pháp này được thực hiện qua các bước chủ yếu sau: Bước 1: Xác định danh mục các chỉ tiêu ảnh hưởng đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Thực hiện hoạt động này, doanh nghiệp cần căn cứ vào kinh nghiệm bản thân, những quy định của pháp luật và quy chế đấu thầu hiện hành, để xác định chỉ tiêu đặc trưng cho những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thắng thầu. Các chỉ tiêu này càng sát với chỉ tiêu thắng thầu càng tốt. Số lượng các chỉ tiêu là tùy ý, nhưng tối thiểu phải bao quát được đầy đủ các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá hồ sơ dự thầu, phải tính đến tình hình cạnh tranh của các đối thủ, phải chú ý tránh trùng lặp chỉ tiêu và phải xác định các chỉ tiêu thực sự có ảnh hưởng. Không đưa vào danh mục những chỉ tiêu không có ảnh hưởng, hoặc ảnh hưởng rất ít (không đáng kể) đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Chỉ tiêu đưa ra chi tiết cụ thể bao nhiêu thì kết quả càng chính xác bấy nhiêu. Bước 2: Xây dựng thang điểm. Các chỉ tiêu đã lựa chọn sẽ được phân tích theo một trạng thái tương ứng với từng bậc thang điểm. Có nhiều loại thang điểm. Yêu cầu của thang điểm là đảm bảo tính chính xác và không qua phức tạp trong tính toán. Có thể sử dụng thang điểm bậc 3, bậc 5 hoặc bậc 9. Trong đó: - Thang điểm bậc 3 được chia thành 3 mức 4, 2, 0 tương ứng với 3 trạng thái của phương án trả lời tốt, trung bình, kém. - Thang điểm bậc 5 được chia thành 5 mức 4, 3, 2, 1, 0 tương ứng với 5 trạng thái của từng chỉ tiêu là rất tốt, tốt, trung bình, yếu, kém. - Thang điểm bậc 9 có các mức điểm 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2,1, 0. Như vậy mỗi thang điểm đều có mức tối đa tương ứng với trạng thái tổn thất của các chỉ tiêu. Việc sử dụng thang điểm nào là tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp. Bước 3: Xác định tầm quan trọng của từng chỉ tiêu. Trong các chỉ tiêu đã được lựa chọn để đưa vào tính toán thì rõ ràng mỗi chỉ tiêu có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến khả năng thắng thầu của từng doanh nghiệp. Do vậy, từng doanh nghiệp cần sử dụng kinh nghiệm của bản thân, những quy định của pháp luật và những quy chế đấu thầu hiện hành, những thông lệ và tiêu chuẩn thường được dùng để đánh giá hồ sơ dự thầu, kết hợp với việc sử dụng phương pháp chuyên gia để đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng chỉ tiêu. Tầm quan trọng của các chỉ tiêu có thể được thể hiện bằng phần trăm (trong số) hoặc số thập phân… Tổng hợp sự ảnh hưởng của các chỉ tiêu bằng 1 nếu thể hiện bằng số thập phân, và bằng 100% nếu thể hiện bằng số phần trăm. Bước 4: Tính toán chỉ tiêu tổng hợp cho gói thầu cụ thể Khi xuất hiện một gói thầu cụ thể, doanh nghiệp cần khẩn trương nghiên cứu hồ sơ mời thầu, nghiên cứu gói thầu, phân tích môi trường đấu thầu, đánh giá khả năng của mình với gói thầu và dự đoán đối thủ cậnh tranh để xác định trạng thái của từng chỉ tiêu trong bảng danh mục và số điểm tương ứng với trạng thái đó. Cuối cùng tính toán các chỉ tiêu tổng hợp theo công thức sau: TH = Trong đó: TH: Chỉ tiêu tổng hợp N: Số các chỉ tiêu trong danh mục Ai: Điểm số của chỉ tiêu thứ i tương ứng với trạng thái của nó Pi: Trọng số của chỉ tiêu i Bước 5: Đánh giá khả năng thắng thầu và ra quyết định Khả năng thắng thầu được đo bằng tỷ lệ % theo công thức sau: K = 100 Trong đó: K: khả năng thắng thầu TH: điểm tổng hợp được tính theo công thức trên M: mức điểm tối đa trong thang điểm được dùng Nếu các chỉ tiêu đều ở trạng thái trung bình, thì khả năng thắng thầu sẽ là K = 50%. Nếu khả năng tính toán thắng thầu K>50% thì doanh nghiệp không nên tham gia gói thầu đó. Khi đó nếu K>50% thì tình hình khả quan. Ví dụ minh hoạ: doanh nghiệp A đã xây dựng được các chỉ tiêu và thang điểm 5 bậc như sau: Bảng 15: Thang điểm theo chỉ tiêu TT Các chỉ tiêu Thang điểm trạng thái 0 1 2 3 4 1 Mục tiêu lợi nhuận Rất thấp Thấp Trung bình Cao Rất cao 2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp 3 Mức độ quen thuộc với gói thầu Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp 4 Khả năng đáp ứng tiến độ thi công Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp 5 Khả năng đáp ứng về năng lực thi công Rất cao Cao Trung bình Thấp Rất thấp 6 Đánh giá về đối thủ cạnh tranh Rất yếu Yếu Trung bình Mạnh Rất mạnh Bảng 16: Trong số theo từng mục tiêu TT Các chỉ tiêu Trong số (%) 1 Mục tiêu lợi nhuận 30 2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật 20 3 Mức độ quen thuộc với gói thầu 15 4 Khả năng đáp ứng tiến độ thi công 5 5 Khả năng đáp ứng về năng lực thi công 10 6 Đánh giá về đối thủ cạnh tranh 20 Khi doanh nghiệp có gói thầu, việc tính toán cụ thể như sau: Bảng 17: Bảng tính toán thang điểm cụ thể TT Các chỉ tiêu Trạng thái Điểm Trong số Kết quả 1 Mục tiêu lợi nhuận Thấp 3 0,5 1,5 2 Khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật Rất cao 4 0,2 0,8 3 Mức độ quen thuộc với gói thầu Trung bình 2 0,15 0,3 4 Khả năng đáp ứng tiến độ thi công Cao 3 0,05 0,15 5 Khả năng đáp ứng về năng lực thi công Rất cao 4 0,1 0,4 6 Đánh giá về đối thủ cạnh tranh Mạnh 1 0,2 0,2 Tổng điểm tính toán 3,15 K = 100 = 78,75% Khả năng thắng thầu với gói thầu này là: K>50% doanh nghiệp nên tham gia gói thầu này. Trên đây là một ví dụ đơn giản minh hoạ cho nội dung phương pháp, thực tế khi vận dụng, các công ty cần cụ thể chi tiết hơn các chỉ tiêu, vì càng cụ thể mức độ tính toán càng chính xác. Phương pháp sử dụng chỉ tiêu tổng hợp là cách thức lượng hoá sự ảnh hưởng của các nhân tố cần xem xét và đáp ứng các yêu cầu phản ứng nhanh khi ra quyết định tranh thầu. Vì vậy, đối với phương pháp này, tính đúng đắn của quyết định phụ thuộc rất lớn vào sự phân tích và sự xác định chính xác của từng chỉ tiêu cũng như tầm quan trọng của nó. Doanh nghiệp cần có biện pháp đảm bảo tin cậy của thông tin và phân tích cẩn thận trạng thái của các chỉ tiêu ngay từ vòng ra quyết định thứ nhất. Mặt khác phương pháp này đánh giá dựa hoàn toàn trên quan điểm lượng hoá doanh nghiệp nên đòi hỏi ở bộ phận đánh giá cần có trình độ chuyên sâu, kinh nghiệm tốt và sự phối hợp nhịp nhàng của tất cả các bộ phận có liên quan. Để thực hiện phương pháp này có hiệu quả, doanh nghiệp cần: - Lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá phù hợp với quan điểm của mình. - Đánh giá chính xác, khách quan trọng số cũng như thang điểm các chỉ tiêu. - Việc tính toán phải dựa trên căn cứ khoa học và kết quả phân tích - Người đánh giá phải có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm. - Việc tính toán linh hoạt theo kịp nhịp độ phát triển biến đổi của môi trường kinh doanh. Nhờ áp dụng phương pháp này, doanh nghiệp sẽ thu được hiệu quả cao nhất, hạn chế chi phí cơ hội. Ngoài ra, trong thời đại thông tin kinh tế – xã hội phát triển sẽ giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh với thị trường nhờ có phương pháp điều chỉnh để thích ứng tốt. Phương pháp này vừa dùng cho ra quyết định trước khi lập phương án tranh thầu, hình thành chiến lược tranh thầu, vừa dùng cho việc ra quyết định trước khi nộp thầu. 3.2.4. Hoàn thiện quy chế đấu thầu xây dựng Quy chế đấu thầu xây dựng cùng với các văn bản pháp luật khác tạo ra khuôn khổ pháp lý cho tổ chức đấu thầu xây dựng. Việc đưa ra một quy chế với nội dung tốt không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho nhà nước (tiết kiệm vốn đầu tư), mà còn là một khâu quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, hơn thế nữa nó còn là cơ sở cho việc tổ chức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng một cách lành mạnh. Chính vì thế, Quy chế đấu thầu ở nước ta lần đầu tiên ban hành 1994 và từ đó đến nay đã qua nhiều lần sửa đổi và hoàn thiện. Những năm gần đây, việc đấu thầu xây dựng đang áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành theo Nghị định 88/2003/NĐ - CP và Nghị định 14/2004/NĐ - CP. Gần đây, nhà nước đã ban hành triển khai áp dụng Quy chế đấu thầu xây dựng mới Nghị định số 66/2003/NĐ - CP và Thông tư 01/TT – BKH, ngày 02/02/2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Những văn bản này đã thể hiện nhiều quan điểm và nội dung mới theo hướng tích cực. Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn một số ý kiến trái ngược nhau về Quy chế đấu thầu hiện nay và để đảm bảo tác dụng thực tế của nó, chúng tôi xin kiến nghị một số điểm sau đây: - Tăng giá trị pháp lý của quy chế đấu thầu (Luật hoặc Pháp lệnh). Tuy nhiên, có thể đặt nó với tư cách là một văn bản pháp lý độc lập hoặc là một nội dung của Luật khác (Luật cạnh tranh, Luật dân sự...). Mặt khác, cũng rất cần chú ý tính đồng bộ trong việc ra và thực thi các Luật khác: Luật doanh nghiệp, Luật ngân sách, Luật cạnh tranh và độc quyền... - Cần nghiên cứu sâu hơn về việc có hay không sử dụng giá sàn trong đấu thầu xây dựng, bởi vì theo quy định hiện hành (tinh thần Nghị định 66 CP) thì không áp dụng giá sàn nhằm đề cao tính tích cực của nhà thầu cũng như để phù hợp với xu thế chung. Trong khi đó, nhiều nhà thầu lại cho rằng nên áp dụng giá sàn và nên có hướng đẫn về xác định mức giá sàn nhằm hạn chế hiện tượng bỏ giá dự thầu thấp khá phổ biến như hiện nay. Vấn đề là lựa chọn phương pháp xác định mức giá sàn và xác định nó vào thời điểm nào: vào thời điểm trước hoặc trong khi tổ chức đấu thầu. Việc xác định mức giá sàn trước thời điểm đấu thầu và tính toán theo các quy định hiện hành về dự toán xây lắp của gói thầu cho thấy ít tác dụng tích cực như đã nói ở trên. Trong trường hợp thứ hai, có thể áp dụng phương phap tính toán như sau: Gs = 45% (Gttb + Ggt) Trong đó: Gs: Mức giá sàn tính sau khi mở thầu Gttb: Mức giá bình quân của các nhà thầu đạt tiêu chuẩn điểm kỹ thuật và có giá dự thầu thấp hơn giá gói thầu; Ggt: Mức giá gói thầu So sánh hai cách làm trên, nhận thấy cách làm thứ hai tốt hơn và nên xem xét vận dụng sau này. Ngoài ra, để ngăn chặn hiện tượng phá giá trong đấu thầu xây dựng, cần nghiên cứu cụ thể hóa hơn các kiến nghị về phương pháp xác định và lựa chọn mức giá trúng thầu của Viện Kinh tế – Bộ Xây dựng theo các hướng sau: Một là, lựa chọn mức giá trúng thầu trên cơ sở mức giá hợp lý thấp nhất của gói thầu; Hai là, lựa chọn mức giá trúng thầu dựa trên cơ sở mức giá sàn hình thành từ thực tế; Ba là, lựa chọn mức giá trúng thầu dựa trên mức giá đánh giá trung bình; - Chú trọng thông tin đầy đủ về đấu thầu, không chỉ thông tin có liên quan về Quy chế đấu thầu, mà cả thông tin về chủ đầu tư, về gói thầu và các nhà thầu xây dựng trong và ngoài nước có liên quan; - Quy định rõ và đề cao trách nhiệm các cá nhân, nhất là chủ đầu tư đối với việc triển khai và hoạt động của dự án xây dựng. - Nên quy định trách nhiệm lâu dài của Hội đồng xét thầu đối với chất lượng, tiến độ của công trình xây dựng. Lập các hội đồng xét thầu theo hướng chuyên nghiệp hoá cũng là một cách khắc phục những hạn chế về tổ chức này hiện nay. 3.2.5. Tăng cường vai trò của chủ đầu tư và các cơ quan hữu quan trong đấu thầu xây dựng. 3.2.5.1. Tăng cường vai trò của chủ đầu tư. Để nâng cao vai trò của chủ đầu tư trong cạnh tranh đấu thầu cần tăng cường quản lý đấu thầu và dự án có xây dựng, tổ chức tốt việc đấu thầu trao thầu, theo dõi thực hiện hợp đồng có nghiệm thu, dự kiến đúng mức giá gói thầu và chống phá giá trong đấu thầu xây dựng... Để có được mức giá mời thầu phù hợp, có thể áp dụng phương pháp tính toán dựa vào mức giá tối đa (Gmax) và mức giá tối thiểu (Gmin). Cụ thể là: Bước 1: Xác định mức giá tối đa (Gmax) dựa vào công việc, khối lượng, định mức dự toán, đơn giá xây dựng và các căn cứ khác... với yêu cầu thoả mãn bù đắp tất cả các loại chi phí cần thiết và có lãi ở mức phù hợp cho tổ chức thi công; Bước 2: Xác định mức giá tối thiểu (Gmin) thực chất là tính giá thành xây lắp công trình, do đó không tính tới phần lợi nhuận mang lại cho phí xây lắp và các khoản nộp khác; Bước 3: Xác định khoảng giá mới thầu (Gmt). Giá mời thầu sẽ nằm trong khoảng: Gmin < Gmt <Gmax.Tùy theo yêu cầu nào là cơ bản (trong chất lượng, tiến độ, chi phí) mà dịch chuyển về bên trái hay bên phải của bất đẳng thức này; Bước 4: Xác định dựa theo kinh nghiệm của các chủ đầu tư Nhật Bản, giá mời thầu (Gmt) phải > giá tối thiểu (Gmin) và nằm trong khoảng: Gmt = (85% - 90%) Gmax 3.2.5.2. Kiến nghị với các cơ quan hữu quan và cơ quan khác. - Chú trọng việc giám định chất lượng công trình trong quá trình thi công của nhà thầu, nhất là giám định công đoạn; - Chú trọng khâu thẩm định năng lực nhà thầu (tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm). Điều đó rất cần có sự phối hợp tích cực của các cơ quan chuyên môn: ngân hàng, tài chính, tư vấn, pháp lý... - Xử lý nghiêm các vi phạm chế độ đấu thầu và quản lý xây dựng. Muốn vậy, phải chú trọng hoàn thiện các quy định, tổ chức lực lượng, đầu tư phương tiện và đổi mới phương pháp làm việc của cán bộ và nhân viên. - Tăng cường vai trò của Hiệp hội nhà thầu xây dựng theo hướng là tổ chức nghề nghiệp hỗ trợ đắc lực cho việc tăng khả năng cạnh tranh của nhà thầu xây dựng trong và ngoài nước và đòi hỏi các tổ chức có liên quan tôn trọng và thực hiện tốt quy chế đấu thầu xây dựng. Kết luận Nhờ bám sát mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu cũng như sửa đổi tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu (tổng hợp và phân tích thống kê, điều tra xã hội học, nghiên cứu điển hình (tình huống), so sánh...), đề tài đã đạt được những kết quả sau: - Làm rõ các vấn đề cơ bản của cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng như: thực chất các chỉ tiêu đánh giá, nhân tố ảnh hưởng, bài học kinh nghiệm tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng... - Đánh giá rõ thực trạng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng, chủ yếu là các doanh nghiệp xây lắp các công trình công nghiệp, dân dụng và giao thông trong thời gian qua; khẳng định những tiến bộ và sự tăng trưởng, phát triển khá của doanh nghiệp này cũng như chỉ ra các yếu kém và nguyên nhân hạn chế cần khắc phục. - Kiến nghị các giải pháp và điều kiện liên quan tới các chủ thể chính: nhà thầu, chủ đầu tư, nhà nước và các tổ chức khác có liên quan nhằm đảm bảo lợi ích thực sự của đấu thầu và nhanh chóng rút ngắn khoảng cách về khả năng cạnh tranh đấu thầu giữa doanh nghiệp xây dựng Việt Nam với các nước trong quá trình hội nhập. Hy vọng với những công trình đã công bố và các kết quả nghiên cứu này, đề tài sẽ góp một phần nhỏ vào việc thực hiện các yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo chủ yếu 1. Nghị định 88/2003/NĐ - CP và Nghị định 14/2004/NĐ - CP về qui chế đấu thầu. 2. Nghị định 52/2003/NĐ - CP và nghị định 12/2004/NĐ - CP về quản lý đầu tư và xây dựng. 3. Nghị định 66/2003/NĐ - CP ngày 12 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một điều của Quy chế đấu thầu ban hành theo Nghị định 88/CP và Nghị định 14/CP. 4. Thông tư 01/2004/TT – BKH của Bộ Kế hoạch và đầu tư về hướng dẫn thực hiện Nghị định 66/CP. 5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cẩm nang về công tác đấu thầu, 1997. 6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) – Trường Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) – ngân hàng thế giới (WB), tài liệu tập huấn về công tác đấu thầu, tháng 3/2005. 7. Bộ xây dựng – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các báo cáo về công tác đấu thầu 2002 – 2006. 8. Báo cáo về công tác đấu thầu của các Tổng công ty và Công ty xây dựng từ năm 2002 – 2006. 9. Hiệp hội nhà thầu xây dựng Việt Nam (VACC), Hội thảo chống phá giá trong đấu thầu xây dựng tháng 10/a2006. 10. PGS.TS Lê Công Hoa, Giáo trình Kinh tế và Kinh doanh xây dựng, Đại học Kinh tế quốc dân, 2003. 11. Sổ tay giám thị thi công xây dựng, NXB Xây dựng, 2003. 12. Tạp chí Xây dựng, Kinh tế và Phát triển, các năm 2003 – 2003. 13. Constrution management in developing countries, London First Published 1992. 14. Study Guide Project Planning, Sydney 1994. 15. Construction Project Management. Henry F.W, Naylor, Delmar Publieshed, 1995. Phụ lục Phụ lục 1: Phiếu điều tra về khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng. Để nắm được những khó khăn, vướng mắc trong đấu thầu và tìm giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng trong hoạt động này, xin Ông (bà) vui lòng cung cấp cho chúng tôi một số thông tin sau đây: 1- Những thông tin chung: - Tên doanh nghiệp: ……………………………………………………… - Địa chỉ: - Điện thoại:…………………………Fax:………………………………. - Email:………………………………Website: - Loại hình doanh nghiệp. † DN Nhà nước độc lập † Tổng công ty Nhà nước † DN có VĐT nước ngoài † Công ty cổ phần † Công ty TNHH † Doanh nghiệp tư nhân † Hợp tác xã xây dựng † Loại hình khác - Lĩnh vực kinh doanh: † Xây dựng công nghiệp † Xây dựng dân dụng † Xây dựng giao thông † Xây dựng thuỷ lợi † Xây dựng khác - Quy mô kinh doanh năm 2006: + Tổng số lao động: + Tổng vốn kinh doanh: + Tổng giá trị TSCĐ: + Giá trị xây lắp' 2. Thông tin về tham gia đấu thầu: - Năm bắt đầu tham giao đấu thầu: - Loại công trình tham gia đấu thầu: † Công nghiệp và dân dụng † Giao thông và thuỷ lợi † Lĩnh vực khác † Trong nước † Quốc tế - Kết quả tham gia đấu thầu: Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số công trình đấu thầu Giá trị các công trình đấu thầu Số công trình thắng thầu Giá trị các công trình thắng thầu Số c/trình thắng thầu có quy mô lớn Giá trị các c/trình thắng thầu có quy mô lớn 3. Nhận định về kết quả tham gia đấu thầu: - Kinh nghiệm thắng thầu: † Nghiên cứu kỹ hồ sơ và hiện trường † Lập Hồ sơ dự thầu tốt † Giá dự thầu thấp † Phương pháp thi công tối ưu † Kinh nghiệm khác - Nên dùng chỉ tiêu nào để đánh giá khả năng cạnh tranh trong đấu thầu: † Tỷ lệ công trình thắng thầu † Tỷ lệ giá trị thắng thầu † Số lần tham gia dự thầu † Thị phần doanh nghiệp † Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp † Các chỉ tiêu khác - Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trong đấu thầu: Các nhân tố Rất mạnh Mạnh Trung bình Yếu Rất yếu † Quyền lực của chủ đầu tư † Các đối thủ cạnh tranh † Khả năng của doanh nghiệp † C/chế, c/sách của Nhà nước † Các nhân tố khác - Nguyên nhân trượt thầu: † Nắm thông tin không chính xác † Sai sót về hồ sơ † Giá dự thầu cao † Thiếu kinh nghiệm quản lý điều hành † Khả năng tài chính thấp † Năng lực thi công kém † Nguyên nhân khác 4. Đánh giá về quy chế đấu thầu - Về sàn giá cho các gói thầu: † Nên quy định, vì……………………………………………………… † Không nên quy định, vì - Phạm vi đấu thầu (theo giá trị gói thầu): † Nên mở rộng, vì † Nên thu hẹp, vì - Bảo lãnh dự thầu: † Theo % giá dự thầu, vì † Theo mức chung cho từng gói thầu, vì - Các đánh giá khác: Xin trân trọng cám ơn sự cộng tác và giúp đỡ của Ông (bà). Phụ lục 2: Tổng hợp kết quả điều tra I- Những thông tin cơ bản 1. Loại hình doanh nghiệp STT Loại hình doanh nghiệp Tần suất (14) % 1 Doanh nghiệp nhà nước độc lập 11 78.5 2 Tổng công ty Nhà nước 3 21.5 2. Lĩnh vực kinh doanh STT Lĩnh vực kinh doanh Số lượng Tần suất (14) % 1 Xây dựng công nghiệp 14 14/14 100 2 Xây dựng giao thông 13 13/14 92.9 3 Xây dựng khác 10 10/14 71.4 4 Xây dựng dân dụng 14 14/14 100 5 Xây dựng thuỷ lợi 9 9/14 64.3 3. Quy mô kinh doanh năm 2006: STT Các chỉ tiêu Số DN cung cấp số liệu Giá trị trung bình 1 Tổng số lao động (người) 14 1890 2 Tổng vốn kinh doanh (tỷ đồng) 10 281 3 Tổng doanh thu (tỷ đồng) 13 320 4 Tổng giá trị TSCĐ (tỷ đồng) 11 54 5 Giá trị xây lắp (tỷ đồng) 12 286 II. Thông tin về tham gia đấu thầu: 1. Năm tham gia đấu thầu: STT Năm Số lượng % 1 1990 1 7.1 2 1992 1 7.1 3 1994 1 7.1 4 1996 4 28.6 5 2002 2 14.3 6 2004 3 21.4 7 2006 1 7.1 8 Tổng 13 92.9 9 Số lượng DN không trả lời 1 7.1 Tổng 14 100.0 2. Loại công trình đấu thầu: STT Loại công trình tham gia đấu thầu Số lượng Tần suất % 1 Công nghiệp và dân dụng 14 14/14 100 2 Giao thông và thuỷ lợi 13 13/14 92.9 3 Lĩnh vực khác 8 8/14 57.1 STT Phạm vi đấu thầu Số lượng Tần suất % 1 Trong nước 11 11/14 78 2 Quốc tế 4 4/14 28.6 (Nhiều DN không trả lời là họ có đấu thầu phạm vi trong nước không? Có thể là do lỗi từ người phỏng vấn và điều tra. Nên chỉ số đấu thầu trong nước là 11/14 (78%). Con số này có lẽ là 100% doanh nghiệp đấu thầu trong nước). III. Kết quả tham gia đấu thầu: 1. Tổng số công trình tham gia đấu thầu từ năm 2002 đến 2006: STT Tổng công trình đấu thầu 2002 Tổng công trình đấu thầu 2003 Tổng công trình đấu thầu 2004 Tổng công trình đấu thầu 2005 Tổng công trình đấu thầu 2006 1 DN trả lời 11 11 11 12 13 2 DN không trả lời 3 3 3 2 1 3 Số công trình trung bình 42 65 105 156 145 2. Giá trị các công trình đấu thầu: STT Giá trị công trình Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 DN trả lời 12 12 12 13 13 2 DN không trả lời 2 2 2 1 1 3 Số công trình trung bình 125 377 356 295 275 3. Số công trình thắng thầu: STT Số công trình thắng thầu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 DN trả lời 11 11 11 12 13 2 DN không trả lời 3 3 3 2 1 3 Giá trị trung bình 24 31 44 55 53 4. Giá trị các công trình thắng thầu: STT Giá trị công trình thắng thầu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 DN trả lời 12 12 12 13 14 2 DN không trả lời 2 2 2 1 0 3 Giá trị trung bình (tỷ đồng) 650 676 89 95 111 5. Số công trình thắng thầu có quy mô lớn STT Số công trình thắng thầu có quy mô lớn Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 DN trả lời 11 11 11 12 13 2 DN không trả lời 3 3 3 2 1 3 Số lượng trung bình 2 3.7 5.4 7 6.4 6. Giá trị các công trình thắng thầu có quy mô lớn STT Giá trị công trình thắng thầu có quy mô lớn Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 DN trả lời 11 11 11 12 13 2 DN không trả lời 3 3 3 2 1 3 Giá trị trung bình (tỷ đồng) Không chính xác 34 27 21 36 IV. Nhận định về kết quả tham gia đấu thầu: 1. Kinh nghiệm thắng thầu STT Kinh nghiệm thắng thầu Nghiên cứu kỹ hồ sơ và hiện trường Lập dự án hồ sơ tốt Giá trị thầu thấp Phương án thi công tốt Kinh nghiệm khác 1 Đồng ý 14 13 10 13 8 2 Không đồng ý 0 1 4 0 0 3 % đồng ý 100 92.86 71.43 92.86 57.14 2. Chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh trong đấu thầu: STT Chỉ tiêu đánh giá KNCT Tỷ lệ công trình đấu thầu Tỷ lệ giá trị đấu thầu Số lần tham dự thầu Thị phần tham dự thầu Phạm vi hoạt động của DN Các chỉ tiêu khác 1 Đồng ý 11 10 2 7 4 3 2 Không đồng ý 3 4 12 7 10 11 3 % đồng ý 78.57 71.43 14.29 50 28.57 21.43 V. Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trong đấu thầu: 1. Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trong đấu thầu Nhân tố ảnh hưởng Quyền lực của chủ ĐT Các đối thủ cạnh tranh Khả năng của doanh nghiệp C/chế, c/sách của Nhà nước Nhân tố khác Giá trị trung bình 4.2857 4.2143 4.0000 3.5000 2.2857 Chú thích: Điểm 1: rất yếu; điểm 2: yếu; điểm 3: trung bình; điểm 4: mạnh; điểm 5: rất mạnh. 2. Những nguyên nhân trượt thầu Sai sót về hồ sơ STT Nắm thông tin không chính xác Giá dự thầu cao Thiếu kinh nghiệm quản lý điều hành Khả năng tài chính thấp Năng lực thi công kém Nguyên nhân khác 6 1 Đồng ý 12 12 1 1 3 4 8 2 Không đồng ý 2 2 13 13 11 10 42.86 3 % đồng ý 85.71 85.71 7.143 7.143 24.43 28.57 VI. Đánh giá về quy chế đấu thầu: 1. Về giá sàn cho các gói thầu: STT Nên quy định Không nên quy định 1 Số lượng đồng ý 7 5 2 Số lượng không đồng ý 7 9 3 % đồng ý 50 35.7 2. Phạm vi đấu thầu STT Nên mở rộng Không nên mở rộng 1 Số lượng đồng ý 4 9 2 Số lượng không đồng ý 10 5 3 % đồng ý 28.6 64.5 3. Bảo lãnh dự thầu STT Theo % giá dự thầu Theo mức chung cho từng gói thầu 1 Số lượng đồng ý 2 5 2 Số lượng không đồng ý 12 9 3 % đồng ý 14.3 35.7 VII. Các đánh giá khác Phụ lục 3: Số lượng các nhà thầu nước ngoài tham gia thị trường xây dựng Việt Nam 2006 TT Quốc gia Số lượng TT Quốc gia Số lượng 1 Nhật Bản 32 9 Autralia 2 Singapo 21 10 Đài Loan 3 Hàn Quốc 15 11 Đức 4 Malaisia 11 12 Bỉ 5 Pháp 16 13 Mỹ 6 Hồng Kông 7 14 Phần Lan 7 Thái Lan 6 15 ấn Độ 8 Trung quốc 6 16 Nam Tư (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2005) Phụ lục 4: Tài sản và vốn của một số nhà thầu nước ngoài năm 2006 TT Tên nhà thầu Quốc tịch Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Tỷ trọng vốn chủ sở hữu 1 HAZAMA Nhật 4.973 3.246 0,65 2 DONGAH Hàn Quốc 5.152 3.993 0,77 3 ABB Phần Lan 2.386 1.008 0,42 4 KINDEN Nhật 7.782 4.106 0,53 5 JTOCHU Nhật 75.087 41.434 0,55 6 SUMIMOTO Nhật 39.286 20.846 0,53 7 MASUI Nhật 79.332 44.093 0,55 8 DAEWOO Hàn Quốc 5.856 2.501 0,42 9 HUYNDAI Hàn Quốc 7.438 5.579 0,75 10 ALSTOM Pháp 201 88 0,43 11 KUKDONG Hàn Quốc 1.024 505 0,49 12 SAMHAN Hàn Quốc 617 405 0,66 Nguồn: Hồ sơ năng lực dự thầu tại các ban quản lý 85, PMU11, PMU118. Phụ lục 5: Các quy định chủ yếu về đấu thầu xây dựng ở Việt Nam 1. Quyết định số 91 TTg ngày 13/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy định quản lý xuất nhập khẩu máy móc thiết bị. 2. Quyết định số 60 BXD - VKT ngày 30/3/1994 của Bộ xây dựng ban hành Quy chế đấu thầu xây lắp; 3. Quyết định số 183 TTg ngày 16/4/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập HĐXT quốc gia để xét chọn đơn vị trúng thầu các dự án lớn sử dụng vốn của Nhà nước từ 100 tỷ đồng trở lên. 4. Nghị định số 43 CP ngày 16/4/1996 của Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu; 5. Nghị định số 93CP ngày 23/8/1997 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu theo Nghị định số 473 CP; 6. Nghị định số 88/2003/NĐ - CP ngày 01/9/2003 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đấu thầu; 7. Nghị định số 14/2004/NĐ - CP ngày 05/5/2004 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành theo Nghị định số 88/2003/NĐ- CP; 8. Nghị định 66/2003/NĐ - CP ngày 12 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành theo Nghị định 88/CP và Nghị định 14/CP. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-T36.doc
Tài liệu liên quan