Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 Chương I: Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào thành phố Hà Nội. 3 I: Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào Hà Nội. 3 1.Điều kiện tự nhiên. 3 2.Điều kiện kinh tế xã hội: 4 II. Một số vấn đề lý luận về FDI. 7 1.Khái niệm. 7 2. Đặc điểm. 7 3. Tính tât yếu thu hút FDI của một quốc gia. 8 III. Tổng quan thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. 9 1.Đánh giá tình hình ĐTNN tại việt nam những năm qua. 9 2. Xu

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1289 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây. 21 3 Triển vọng đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới. 23 II. Thực trạng thu hút đàu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội. 24 1.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội phân theo giai đoạn 24 2.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự án. 29 3.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo đối tác. 32 4.Tình hình thu hút FDI phân theo hình thức đầu tư. 36 5. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài phân theo ngành. 38 III. Đánh giá tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội. 40 1. Thành công trong thu hút FDI 41 1.1.FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. 41 1.2. Góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và cải thiện cơ cấu kinh tế. 43 1.3. FDI tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng lao động. 45 1.4.Tạo và tăng thu ngân sách cho thành phố 46 1.5.FDI góp phần chuyển giao và nâng cao năng lực công nghệ mới của nền kinh tế, góp phần tăng nhanh năng suất lao động . 47 1.6. FDI làm tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế 48 2. Những hạn chế và nguyên nhân trong quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 51 2.1. Những hạn chế. 51 2.2.Nguyên nhân của những yếu kém trong thu hút FDI vào Hà Nội. 54 Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội. 58 I. Mục tiêu, nhu cầu, định hướng và các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài của xã hội Hà Nội thời gian tới. 58 1. Mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế xã hội Hà Nội thời gian tới 58 1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tới năm 2010. 58 1. 2. Nhu cầu vốn đầu tư xã hội và vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2006-1010. 59 1. 3. Định hướng phát triển thành phố Hà Nội đến năm 2010. 60 1. 4. Các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài : 62 2. Quan điểm và định hướng thu hút FDI thời gian tới 63 2.1. Quan điểm thu hút FDI 63 2.2. Định hướng thu hút FDI của Hà Nội trong thời gian tới. 64 3. Những thuận lợi và khó khăn của Hà Nội trong quá trình thu hút FDI 65 3.1. Những yếu tố thuận lợi 65 3.2. Những thách thức 67 II. Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Hà Nội. 70 1.Một số giải pháp về phía Nhà nước. 70 1.1 Về pháp luật, chính sách: 70 1. 2. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN: 71 1.3. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động XTĐT: 72 1. 4. Giải pháp về lao động tiền lương 73 1.5. Giải pháp về thuế 73 2.Giải pháp từ phía Hà Nội. 74 2.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch. 75 2.2. Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính 76 2.3 Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư 77 2.4 Phát triển các dịch vụ tư vấn 79 2.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước 80 2.6. Nâng cấp và cải thiện cơ sở hạ tầng của Thành phố 80 2.7 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 81 2.8. Khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân 82 2.9. Các hỗ trợ khác. 83 KẾT LUẬN 84 LỜI NÓI ĐẦU Trong quá trình hội nhập, thu hút FDI có ý nghĩa quan trọng đến tăng trưởng kinh tế bền vững, kể cả đối với các nước đang phát triển cũng như đối với các nứoc phát triển. Với những lợi ích thu đựơc từ FDI cho cả hai phía( bên đầu tư và bên nhận),FDI đã mở ra các cơ hội hợp tác và hội nhập cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần đảm bảo nguồn lực lâu dài và có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế bền vững.FDI giữ vai trò to lớn và khá toàn diện đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của các nước tiếp nhận đầu tư.Thu hút ngày càng nhiều FDI trở thành chiến lược phát triển kinh tế chủ đạo của nhiều quốc gia. Nước ta đang trong giai đoạn CHN - HĐH nên việc đẩy nhanh thu hút đầu tư nước ngoài để bổ sung tổng vốn đầu tư phát triển là việc làm có ý nghĩa rất quan trọng và là một trong những động lực cơ bản giúp nước ta đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Khai thác và sử dụng tốt vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế một cách ổn định, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra hàng hóa để xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ và cân bằng cán cân thanh toán... Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.Hà Nội đã và đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư để đẩy nhanh tốc độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.Trong những năm qua, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được nhiều thành tựu quan trọng và có ý nghĩa, thực hiện được các mục tiêu thành phố đặt ra như bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, đóng góp vào ngân sách,chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH...Hà Nội đã trở thành địa phương đứng thứ hai trong cả nước về thu hút FDI tính từ năm 1989 đến nay. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động thu hút sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội vẫn chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hiệu quả sử dụng chưa cao. Chính vì vậy, để nhìn lại những thành quả đã đạt được và tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội, em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội”. Đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội và những kết quả đã đạt được cũng như các hạn chế và nguyên nhân của nó. Từ đó đưa ra một số giải pháp về phía nhà nước nói chung và một số giải pháp của Hà Nội dựa trên tình hình cụ thể của địa phương nhằm thu hút ngày càng có hiệu quả FDI. Nội dung của đề tài có kết cấu gồm 2 chương : Chương I : Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào thành phố Hà Nội. Chương II : Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội. Đề tài được hoàn thành nhờ sự cố gắng nỗ lực của bản thân và sự hướng dẫn nhiệt tình của TS Vũ Kim Toản. Tuy nhiên, với thời gian và trình độ có hạn nên đề tài này không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định, mong nhận được lời nhận xét, phê bình khách quan của thầy. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương I: Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào thành phố Hà Nội. I: Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào Hà Nội. Điều kiện tự nhiên. Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Là nơi có tình hình an ninh chính trị ổn định, được Unesco trao tặng “ Thành phố vì hoà bình” Hà nội có lợi thế rất lớn trong việc thu hút các nhà đầu tư, như lầ Hà nội có những đặc thù : cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, văn hoá phát triển hơn; có nguồn nhân lực chất lượng cao hơn; tập trung nhiều loại hình doanh nghiệp hơn; tập trung nhiều tổ chức kinh tế xã hội, nghề nghiệp hơn v.v.. đây là những lợi thế quan trọng của Hà Nội sau khi gia nhập WTO. Những lợi thế này sẽ giúp Hà Nội có thể gia tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội hơn,và do vậy sẽ phát triển hơn.Hà Nội nằm trên châu thổ Sông Hồng là trung tâm của miền Bắc Việt nam là nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi về kinh tế, văn hoá, thương mại giao dịch quốc tế và du lịch.   Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giới hạn trong khoảng từ 20o 53' đến 21o 23' vĩ độ Bắc, 105o 44' đến 106o 02' kinh độ đông, tiếp giáp với 5 tỉnh: Bắc Thái ở phía bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông, Hà Tây và Vĩnh Phúc ở phía nam và phía tây. Hà Nội có diện tích tự nhiên 918,1 km2, khoảng cách dài nhất từ phía bắc xuống phía nam là trên 50km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim: 462 m (huyện Sóc Sơn); nơi thấp nhất thuộc xã Gia Thụy (huyện Gia Lâm) 12 m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. Khí hậu Hà Nội khá tiêu biểu cho kiểu khí hậu Bắc Bộ với đặc điểm là khí hậu nhiệt đới gió mùa ấm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít. Nằm trong vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh nǎm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Ðặc điểm khí hậu Hà Nội rõ nét nhất là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Giữa hai mùa đó lại có hai thời kỳ chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10) cho nên có thể nói rằng Hà Nội có đủ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông. Địa hình Hà Nội tương đối bằng phẳng, được bồi tích phù sa dầy của phù sa đệ tứ trung bình là 90-120 m. Vùng đồi núi của Hà Nội và vùng phụ cận có thể tổ chức nhiều loại du lịch và phát triển chăn nuôi… Ở phía Bắc và Tây – Tây Bắc của Thủ đô có điều kiện và diện tích rất thuận lợi cho việc phân bố công nghiệp đẻ giãn bớt sự tập trung quá mức cho nội thành và liên kết hình thành vùng phát triển ở Bắc Bộ. Nguồn nước ngầm của Hà Nội tương đối dồi dào (Hà Nội có khả năng khai thác nước ngầm khoảng 1triệu m3/ngày đêm), có thể đáp ứng nhu cầu đời sống và sản xuất kinh doanh với qui mô lớn.Hà nội có 36 nhà máy nước, nguồn cung cấp nước rất dồi dào, ổn định từ song hồng và song đuống đảm bảo phục vụ đầy đủ cho sinh hoạt và sản xuất,đặc biệt là sản xuất công nghiệp.Nguồn nước mặt và nước ngầm tương đối dồi dào. Chất lượng nước ngầm tốt đảm bảo nhu cầu về nước sinh hoạt và nước phục vụ sản xuất công nghiệp.Giá nước kinh doanh dịch vụ và cho người nước ngoài: 0.43USD/m3. Giá nước dùng cho sản xuất, cơ quan bệnh viện, trường học: 0.2 USD/m3. Nước sinh hoạt: 0,10 USD/m3.  Nhờ có vị trí cấu trúc đặc biệt, nơi qui tụ nhiều đới kiến tạo. khoáng sản của Thủ đô Hà Nội và vùng phụ cận rất phong phú và đa dạng. Trên tổng diện tích khoảng 32000 km2 của Hà Nội và vùng phụ cận đã pát hiện trên 500 mỏ và diểm quặng của gần 40 loại khoáng sản khác nhau, Nhiều loại có trữ lượng và chất lượng có thể đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển các cơ sở kinh tế - công nghiệp của Hà Nội . Điều kiện kinh tế xã hội: Hệ thống cơ sở hạ tầng khá phát triển. Các loại hình giao thông như đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hang không đồng bộ đã hình thành nên mạng lưới giao thông vận tải rộng khắp nối liền các tỉnh, các địa phương trong cả nước và tới các nước trên thế giới. Đặc biệt là cảng hang không quốc tế nội bài là trung tâm không lưu của khu vực vận tải hang không phía bắc với 44 chuyến bay quốc tế và nội địa một ngày, phục vụ 1.5 triệu lượt khách mỗi năm. Quốc lộ 1 nối liền Bắc Nam, quốc lộ 5 nối liền cảng biển quốc tế Hải Phòng với Hà Nội. Cảng khuyến lương và cảng Phà Đen cho phép tàu có trọng tải 2000-3000 tấn cập cảng. Là đầu mối của 5 tuyến đường sắt, trong đó có 2 tuyến quốc tế, khoảng 50-60% lượng hang hoá cung cấp cho Hà Nội, 30-40% lượng hang hoá của HN đi tới các vùng khác trong cả nứơc được vận chuyển bằng đường sắt. Hệ thống điện ổn định, gần nhà máy thuỷ điện hoà bình và nhà máy nhiệt điện Phả Lại, mạng lưới điện rộng khắp, nâng cấp và bảo dưỡng thường xuyên, cung cấp điện liên tục, ổn định. Mạng lưới viễn thông đựơc trang bị hiện đại, hoà mạng với hệ thống viễn thông toàn cầu. Mạng lưới điện đã được nâng cấp đảm bảo nguồn cung cấp ổn định liên tục. Giá điện sinh hoạt: 0,10 USD/KWh, giá điện sản xuất: 0,09 USD/KWh và điện trong khu công nghiệp: 0,08 USD/KWh. Mạng lưới viễn thông được trang bị các thiết bị hiện đại, tổng đài kỹ thuật số, cáp quang và đã hoà mạng với hệ thống viễn thông toàn cầu. Cước điện thoại quốc tế: 1,3 USD/phút. Giá cước tuy vẫn còn cao, song hy vọng sẽ giảm nhiều vào cuối năm 2002 khi Việt nam có được vệ tinh riêng của mình. Là nơi tập trung các cơ quan ngoại giao, các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc tế, Hà Nội có lợi thế rất lớn trong việc hợp tác quốc tế và phát triển kinh tế đối ngoại. Về tiềm lực tài chính, Hà Nội đứng thứ hai của cả nước về tiềm năng và thực tế huy động các nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội ,bao gồm cả vốn trong nước và ngoài nước , vốn ngân sách và ngoài ngân sách, vốn tập trung và phi tập trung, vốn dài hạn và ngắn hạn… Nguồn vốn của Hà Nội gồm có : + Nguồn vốn bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm. + Nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước + Nguồn tài chính huy động từ hoạt động của hệ thống ngân hàng, tín dụng. + Nguồn tài chính huy động từ phát hành trái phiếu. + Nguồn tài chính do bản thân các đơn vị kinh tế tự huy động. + Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) + Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) + Nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ (NGOs) + Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Vốn huy động trong nước và vốn từ nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội trong những năm qua đều có mức tăng đáng kkể. Giai đoạn 1996 – 1998 : trên địa bàn thành phố tổng số vốn huy động phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội là 59 559.7 tỷ đồng( năm 1996 : 17 334.3 tỷ đồng. Năm 1997 : 20 744.2 tỷ đồng. Năm 1998 :21 400.8 tỷ đồng), bình quân mỗi năm huy động 19 750 tỷ đồng, trong đó : nguồn vốn huy động trong nước là : 36 219.5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61.12% tổng nguồn vốn huy động. Nguồn vốn huy động qua ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất : 30.84% ), và có xu hướng tăng nhanh. Nguồn vốn từ ngân sách hàng năm chiếm khoảng : 10.42%. Nguồn huy động thêm từ các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh khoảng 18 %, còn các nguồn huy động trong dân chiếm tỷ trọng nhỏ. Hà Nội là một trong những thành phố có nền giáo dục và đào tạo phát triển nhất. Hiện tại có 27 trường công nhân kỹ thuật và đào tạo nghề với hơn 10.000 học viên, 32 trường cao đẳng và đại học với trên 30.000 sinh viên, 3 trường quốc tế. Điều này sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm bớt được các chi phí đào tạo khi đầu tư vào Hà Nội. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Hà Nội trên 11%, cao hơn 3% tốc độ tăng trung bình của cả nước. Mức thu nhập của người dân cao, GDP bình quân đầu người 18.2 triệu VND/người, thị trường rộng lớn với dân số 3.118 nghìn người cũng như tâm lý và cơ cầu tiêu dùng của nhân dân tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiêu thụ các sản phẩm đầu ra. Tiền thuê đất tại Hà Nội được chia làm 4 nhóm, từ 0,06 USD/m2/năm đến 12/USD/m2/năm và được ổn định ít nhất 5 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê đất. Khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức quy định lần trước. Trường hợp thuê nhà xưởng, nhà đầu tư chỉ phải trả tiền thuê nhà xưởng cho bên cho thuê. Bên cho thuê có trách nhiệm trả tiền thuê đất cho nhà nước. Mức tiền thuê nhà xưởng khoảng từ 1-2 USD/m2/tháng. Chi phí thuê văn phòng từ 10-25 USD/m2/tháng. Ngoài những thuận lợi trên, Hà Nội còn có tiềm năng cơ bản khác như tình hình an ninh, chính trị ổn định, thị trường rộng lớn, qui hoạch tổng thể ổn định đến năm 2020, thời gian cấp giấy phép đầu tư nhanh, có truyền thống văn hoá lâu đời và 5 khu công nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tóm lại, Hà Nội có nhiều điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội rất thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nứơc ngoài.Thu hút FDI sẽ tạo ra động lực lớn phát triển kinh tế của thủ đô nói riêng và nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa VN nói chung.Hà Nội sẽ xây dựng được các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung hiện đại với các ngành nghề sản phẩm có tính cạnh tranh, các đô thị hiện đại xứng tầm với các thủ đô trên thế giới. Tăng cường thu hút FDI sẽ giúp HN trở thành trung tâm kinh tế ngày càng có uy tín trong khu vực và nhanh chóng đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặt ra.Muốn vậy chúng ta cần tìm hiểu một số vấn đề về đàu tư trực tiếp nước ngoài. II. Một số vấn đề lý luận về FDI. Khái niệm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc làm đầu tư nước ngoài bỏ vốn để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư và tiến hành quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh của Việt Nam ngay 31/7/2000 : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đưa vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào khác của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam để trực tiếp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lơị nhuận theo hình thức của Luật đầu tư nước ngoài”. Như vậy cho dù các khái niệm về FDI có khác nhau nhưng hoạt động này đề dựa trên một mục đích cuôí cùng là lợi nhuận cho các nhà đầu tư. 2. Đặc điểm. * Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tùy theo luật đầu tư của mỗi nước. * Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý. * Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. * FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại từng phần hay toàn bộ doanh nhgiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sát nhập các doanh nghiệp với nhau. * FDI được thực hiện ít chịu phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa nước chủ đầu tư và nước sở tại. * FDI được thực hiện theo cơ chế thị trường tức là ở đâu có môi trường đầu tư thuận lợi, lợi nhuận cao thì sẽ có nhiều dự án . 3. Tính tât yếu thu hút FDI của một quốc gia. Thu hút FDI là phù hợp và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình hội nhập, đặc biệt là thu hút FDI có ý nghĩa quan trọng đến tăng trưởng kinh tế bền vững, kể cả đối vớicác nước đang phát triển cũng như đối với các nứoc phát triển. Với những lợi ích thu đựơc từ FDI cho cả hai phía( bên đầu tư và bên nhận),FDI đã mở ra các cơ hội hợp tác và hội nhập cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần đảm bảo nguồn lực lâu dài và có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Trên thực tế cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia tham gia vào quá trình toàn cầu hoá gần đây đã tăng 2,9%/năm trong thập niên 70 lên 3,7%/năm trong thập niên 80 và 5,0% trong thập niên 90. Còn các quốc gia phát triển không nằm trong nhóm toàn cầu hoá thì tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ 3,3% năm 70 xuống 0,8% thập ký 80 và chỉ tăng lê4n mức 1,4%/năm trong thập kỷ 90. Vì vậy thu hút FDI là phù hợp và đáp ứng hội nhập kinh tế quốc tế. FDI có ưu thế hơn so với các nguồn vốn ĐTNN khác Trong số các kênh bổ sung vốn từ bên ngoài, nguồn vốn FDI và ODA là quan trọng nhất.Nguồn vốn FDI không thay thế được vốn ODA, nhưng nó có những đặc trưng và thế mạnh riêng. Vốn ODA thường gắn liền với quan hệ chính trị giữa nước cấp vốn với nước nhận viện trợ; các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB cũng đòi hỏi các nước đi vay phải thực hiện nhiều cam kết, đôi khi khá ngặt nghèo về tái cơ cấu kinh tế, về cải cách hệ thống tài chính, tiền tệ…Hơn nữa, chi phí ODA xét ra là khá đắt cho nước nhận viện trợ vì buộc phải chịu các quy định khác về giải ngân và triển khai dự án ODA theo các điều kiện bất lợi như: mua, bán thiết bị công nghệ theo các địa chỉ, đối tác chỉ định sẵn, trả lương cao cho chuyên gia v.v FDI là kênh đầu tư tương đối an toàn Do nhà ĐTNN tự chịu trách nhiệm về chi phí và hiệu quả đầu tư, chịu trách nhiệm vay và trả nợ; không để lại gánh nặng nợ nần cho ngân sách nhà nước như vay thương mại, không phải chịu sức ép ràng buộc các điều kiện kinh tế, chính trị như vay ODA, đồng thời tránh cho nước chủ nhà những biến động đầy rủi ro từ những thăng trầm trên thị trường chứng khoán. Tóm lại, FDI giữ vai trò to lớn và khá toàn diện đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của các nước tiếp nhận đầu tư. Thực tiễn thế giới đã cho thấy nhiều ví dụ thuyết phục về các nước (điển hình là Trung Quốc và Indonesia) sau khi có chính sách mở cửa và Luật ĐTNN, nền kinh tế đã như một người khổng lồ đang ngủ bừng tỉnh dậy, trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển và mức độ hiện đại hoá kinh tế nhanh. Thu hút ngày càng nhiều FDI trở thành chiến lược phát triển kinh tế chủ đạo của nhiều quốc gia và việc thu hút tới mức nào còn tuỳ thuộc vào điều kiện, nhu cầu tạo vốn để phát triển kinh tế mỗi nước và một số yếu tố khác. III. Tổng quan thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Đánh giá tình hình ĐTNN tại việt nam những năm qua. Theo khảo sát mới nhất của Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Việt Nam đứng thứ 4 trên thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan về sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1988) đến hết ngày 28/02/2006, Việt Nam đã thu hút được trên 6.090 dự án (còn hiệu lực) với mức vốn đăng ký đạt hơn 52,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 28 tỷ USD. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc dân.Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận hữu cơ năng động của nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh  tế. Đầu tư nước ngoài đóng góp tới 27% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xã hội và hơn 14% GDP của cả nước, tạo thêm việc làm cho hơn 80 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác. Khu vực FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá cho thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu hàng hoá thiết yếu, góp phần bình ổn thị trường, nâng cao đời sống xã hội. Mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào thu ngân sách ngày càng gia tăng về giá trị tuyệt đối và tương đối, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. Trong thời gian vừa qua, dòng ngoại tệ vào Việt Nam thông qua FDI vẫn lớn hơn rất nhiều so với dòng ngoại tệ từ Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; cộng thêm việc mở rộng nguồn thu gián tiếp từ FDI (qua khách tham quan, tìm hiểu cơ hội đầu tư, tiền cho thuê đất, tiền lương cho lao động thuộc khu vực đầu tư nước ngoài, tiền cung cấp nguyên vật liệu địa phương và các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ khác) đã góp  phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước. Những năm gần đây, thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam có một số đặc điểm mới như sau: Thứ nhất, có nhiều dự án vốn đầu tư nước ngoài có quy mô trên 100 triệu USD, trong đó có những dự án đầu tư lớn trị giá từ 1 tỷ USD trở lên. Tiêu biểu là dự án của tập đoàn Intel Corp (Mỹ) đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất vi mạch trị giá 1 tỷ USD tại TP. Hồ Chí Minh trong năm 2006; dự án xây dựng Nhà máy Sản xuất thép (do Tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) đầu tư tại miền Nam) trị giá tới 1,126 tỷ USD. Năm 2006, vốn đăng ký đầu tư của 10 dự án đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam đạt trên 4 tỷ USD. Thứ hai, nội dung đầu tư có những thay đổi so với trước đây. Các dự án có đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tin học và công nghệ cao tại Việt Nam tăng mạnh. Ngoài dự án của Intel còn có dự án sản xuất thiết bị y tế hiện đại do tập đoàn lớn Terumo (Nhật Bản) đầu tư; dự án đầu tư sản xuất thiết bị máy fax và máy in lade của tập đoàn công nghiệp Brothers-co; các dự án công nghệ cao liên doanh giữa Việt Nam và các doanh nghiệp Nhật Bản, như Canon, Toshiba. Bảng 1: Tình hình thu hút FDI trong giai đoạn 1988-2006 Đơn vị: triệu USD,% Năm Số dự án Vốn đăng ký(VĐK) Vốn thực hiện(VTH) Tốc độ tăng VTH so với năm trước Tỷ lệ VTH/VĐK Quy mô b/q dự án của cả nước Tổng số 6,935 65,847.90 33,306.50 - 50.58 9.49 4.8 1988-1990 214 1.582 - - - 7.39 - 1988 38 321,50 - - - 8.46 - 1989 68 525,50 - - - 7.73 - 1990 108 735,00 - - - 6.81 - 1991-1995 1,397 19,007.6 6,517.8 - 34.16 13.65 4.67 1991 151 1,291.50 328.80 - 25.46 8.55 2.18 1992 197 2,208.50 574.90 74.85 26.03 11.21 2.92 1993 274 3,347.20 1,017.50 76.99 30.40 12.22 3.71 1994 367 4,534.60 2,040.60 100.55 45.00 12.36 5.56 1995 408 7,695.80 2,556.00 25.26 33.21 18.86 6.26 1996-2000 1,730 25,627.6 12,944.8 - 50.51 14.81 7.48 1996 387 9,735.30 2,714.00 6.18 27.88 25.16 7.01 1997 358 6,055.30 3,115.00 14.78 51.44 16.91 8.70 1998 285 4,877.00 2,367.40 -24.00 103.12 17.11 8.31 1999 311 2,524.20 2,334.90 -1.37 89.53 7.28 7.51 2000 389 2,695.70 2,413.50 3.37 70.77 6.93 6.20 2001-2005 3,594 19,560.7 13,843.9 - 75.87 5.44 3.85 2001 550 3,320.00 2,450.50 1.53 87.45 5.87 4.46 2005 802 2,963.00 2,591.00 5.73 84 3.69 3.23 2003 748 3,145.50 2,650.00 2.28 25 4.21 3.54 2004 723 4,222.20 2,852.40 7.64 67.56 5.84 3.95 2005 771 6,000.00 3,300.00 15.69 55.00 7.78 4.28 2006 833 10,200.00 4,100.00 24.2 40.02 Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài. Đồ thị phát triển FDI vào Việt Nam là một đường cong; ba năm đầu kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài, 1988 - 1990 vốn FDI còn ít; bảy năm tiếp theo, 1991-1997 đường cong lên dần và đạt đến đỉnh vào năm 1997; sau đó là sáu năm, 1998-2003 đường cong giảm xuống rõ rệt. Năm 2004, FDI bắt đầu phục hồi, năm 2005 đã tăng trưởng rõ rệt và năm 2006 đạt được nhiều kỷ lục về vốn đăng ký mới, vốn đầu tư tăng thêm và vốn thực hiện. Vốn đăng ký thời kỳ 88-90 mới thi hành luật đầu tư nước ngoài mới đạt 1,58 tỷ USD, nhưng trong giai đoạn 91-95 đã tăng lên gấp 10 lần( 16,2 tỷ USD). Sau giai đoạn suy giảm ( từ năm 1997-1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực), nhịp độ tăng ĐTNN vào Việt Nam từ năm 2000 đến nay còn chậm và chưa ổn định. Tính chung trong cả giai đoạn 1996-2000 vốn đăng ký đạt 21 tỷ USD, tăng 27% so với thời kỳ 1991-1995. Đồng thời trong quá trình hoạt động , số lượt các dự án triển khai có hiệu quả đã tăng vốn đăng ký, mở rộng quy mô sản xuất tăng dần theo thời gian. Từ năm 1998 tới cuối năm 2003 đã có khoảng 2.100 lượt dự án tăng vốn đăng ký với số vốn tăng them trên 9 tỷ USD. Số vốn tăng thêm trong giai đoạn 1996-2000 đạt gần 4 tỷ USD. Như vậy, tính chung cả vốn cấp mới và tăng vốn thì tổng vốn đăng ký trên 25 triệu USD. Riêng trong ba năm 2001-2003 vốn đăng ký cấp mới và bổ sung đạt gần 9 tỷ USD, bằng 75% mục tiêu đề ra của thời kỳ 2001-2005( 12 tỷ). Trong những năm đầu và giữa thập niên 90, vốn FDI vào Việt Nam không ngừng tăng. Vốn FDI đăng ký đạt mức đỉnh điểm 9735.30 tỷ USD vào năm 1996 và vốn FDI thực hiện đạt mức cao nhất khoảng 3,115.00 tỷ USD vào năm 1997, trong đó vốn thực hiện của bên nước ngoài khoảng 2,8 tỷ USD. Cũng trong thời gian này FDI chiếm 28-30% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và là một trong những nguồn vốn chủ yếu góp phần tăng tỷ trọng đầu tư trên GDP của Việt Nam lên 30%. Việt Nam đã trở thành một trong những nước đứng đầu trong danh sách những nước tiếp nhận đầu tư. Cùng với xuất khẩu, đầu tư được coi là một trong hai động lực phát triển chủ đạo của kinh tế Việt Nam. Mặc dù vậy, từ khoảng giữa năm 1996, đã bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu suy giảm của FDI cho dù vào thời điểm cuối năm có hai dự án lớn là khu đô thị Nam Thăng Long và An phú với số vốn ước đạt 3,1 tỷ USD và một trong hai dự án này đã không triển khai được trong năm 1997( có ý kiến cho rằng năm 1996 là năm đỉnh điểm của vốn đăng ký chẳng qua là vì có hai dự án này, mà nếu quả thực như vậythì tính tới tháng 7-1997, năm đạt cao nhất phải là năm 1995). Hơn nữa, vốn thực hiện giai đoạn 1991-1998 so với vốn cam kết chỉ chiếm khoảng 34%. Không thể không nói đến những nhân tố bên ngoài đã tác động thuận chiều và ngược chiều đến FDI vào Việt Nam, như dòng vốn FDI thế giới đã tăng nhanh trong 15 năm gần đây, tạo cơ hội cho những nước đang phát triển hoặc chuyển đổi cơ chế kinh tế có thể thu hút được một lượng vốn nước ngoài cần cho công cuộc xây dựng kinh tế; như cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực đã làm cho các nhà đầu tư quốc tế đánh giá lại “sự thần kỳ của Đông Á” làm giảm đi tính hấp dẫn của các nước trong khu vực đối với các nhà đầu tư lớn. Tuy vậy, cần khách quan thừa nhận rằng, đường cong của đồ thị FDI ở nước ta do tác động chủ yếu của nhân tố chủ quan, liên quan đến việc tận dụng thời cơ và tạo lập môi trường đầu tư đủ bảo đảm lợi thế cạnh tranh trong một thế giới vừa hợp tác, vừa cạnh tranh khá gay gắt trong việc thu hút các nguồn vốn quốc tế. Năm 1996, lần thứ ba Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi, nhưng không phải theo chiều hướng của hai lần trước đó, 1990 và 1992, mà ngược lại, đã giảm bớt khá nhiều ưu đãi đầu tư gây nên phản cảm đối với nhiều doanh nghiệp FDI và nhà đầu tư mới. Tháng 7/1997 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, các nước chịu tác động lớn nhất là Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaysia…; nước ta nằm ngoài “tâm bão”. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định rằng, mặc dù cuộc khủng hoảng này có tác động tiêu cực đến Việt Nam, nhưng lại tạo ra thời cơ cho việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi mà các nước khác trong khu vực đang phải đối phó với “trận cuồng phong kinh tế”. Đáng tiếc là do môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn từ khi sửa Luật năm 1996, lại không có được một đối sách thích hợp để chủ động đối phó với khủng hoảng, nên nước ta đã gánh chịu hậu quả nặng nề, giảm sút rõ rệt tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu hút FDI quốc tế trong nhiều năm liên tiếp. Mấy năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều chủ trương cải thiện môi trường đầu tư, tạo lập cơ sở pháp lý bình đẳng trong kinh doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp, coi trọng hơn cải tiến quản lý nhà nước và cải cách thủ tục hành chính trong các hoạt động kinh tế, chủ động trong hoạt động xúc tiến đầu tư. Năm 2006 với Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới đánh dấu bước tiến quan trọng trên lộ trình hội nhập kinh tế với thế giới trong lĩnh vực lập pháp. Chính phủ đã phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố việc thẩm định và cấp phép, việc quản lý nhà nước các doanh nghiệp FDI, vừa tạo thế chủ động cho UBND các địa phương, vừa gây nên phong trào thi đua cải tiến thủ tục và môi trường đầu tư giữa các địa phương. Cũng phải kể đến địa - chính trị của khu vực; với sự nổi lên của Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế thứ ba thế giới, chỉ sau và đang thách thức Mỹ và Nhật Bản, châu Á đã có hai cường quốc kinh tế đang cạnh tranh với nhau. ASEAN ngày càng được các cường quốc đánh giá cao hơn, trong đó Việt Nam cũng có vị thế gia tăng trong tổ chức khu vực này. Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây (2001-2005), các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu khoảng 74,061 tỷ USD. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng bình quân trên 20%/năm, đã ._.làm cho tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước tăng liên tục trong các năm qua. So sánh giá trị xuất khẩu và đóng góp cho GDP như trên với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội mới thấy hết hiệu quả của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN. Chính vì vậy, cần phải khuyến khích các dự án ĐTNN hoàn thành và đưa vào sử dụng, vì những dự án này sẽ mang lại lợi ích lớn về kinh tế cho đất nước, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thu hút vốn FDI qua các năm 2000-2005 Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Chỉ riêng trong năm 2005 đã đạt tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD (không kể dầu khí), ngang bằng với năm 2004. Hơn nữa, cả vốn và lao động đều được bồi bổ thêm đáng kể. Cụ thể là trong năm 2005, khu vực kinh tế ĐTNN đã thực hiện được 6,338 tỷ USD vốn đầu tư, tăng trên 50% so với năm 2004. Nhờ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng cao hơn mà trong năm 2005, chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực ĐTNN đã đề nghị và được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng thêm vốn đầu tư để mở rộng quy mô hoạt động, với tổng vốn đầu tư tăng thêm 2,070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm Thu hút vốn đầu tư nước ngoài năm 2005 đã có những kết quả rất ấn tượng với kỳ lục về số lượng và chuyển biến về chất lượng. Dường như nhận định về một làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam đang trở thành hiện thực. Với nhiều điều kiện thuận lợi mới cộng với những nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài được đánh giá là đang trên đà thuận lợi. Bộ Kế hoạch đầu tư (KH - ĐT) cho biết, năm 2006, thu hút đầu tư nước ngoài đã đạt mức kỷ lục kể từ khi ban hành luật Đầu tư nước ngoài đến nay, dự kiến số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký có thể đạt hơn 9 tỷ.Bên cạnh đó, thu hút vốn FDI năm 2006 đã đánh dấu một bước chuyển mới về chất mà cụ thể chúng ta đã thu hút được nhiều dự án lớn của các tập đoàn xuyên quốc gia có công nghệ cao. Lần đầu tiên Việt Nam có những dự án công nghiệp lớn trên một tỷ USD và lần đầu tiên chúng ta thu hút được những dự án công nghệ cao như dự án đầu tư sản xuất chíp điện tử của Intel với số vốn ần 1 tỷ USD. Nhiều tập đoàn công nghiệp lớn trên thế giới đã chọn Việt Nam là điểm đầu tư sản xuất cho cả khu vực, đưa Việt Nam tham gia vào chu trình sản xuất mang tính toàn cầu của các tập đoàn lớn. trước. Điều đó cho thấy, nhiều nhà ĐTNN muốn làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Năm 2006 có thể coi như sự khởi đầu cho một thời kỳ mới, với hy vọng không chỉ vốn đăng ký, vốn thực hiện FDI ngày càng tăng, mà quan trọng hơn là cùng với việc tiếp tục thu hút nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, sẽ có các tập đoàn hàng đầu trên thế giới đầu tư những dự án công nghệ cao, có tầm ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo một báo cáo của Bộ KH&ĐT, trong 5 tháng đầu năm 2006 nước ta đã thu hút thêm hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung của những dự án cũ. Trong đó, riêng phần mới cấp phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 2 tỷ USD, tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng vốn đăng ký cấp mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1% và 33,4%; phần còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-thuỷ sản. Đáng chú ý là, trong số dự án mới cấp phép không chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, mà còn gắn liền với việc sẽ chuyển giao công nghệ cao, như Tập đoàn Intel 605 triệu USD, Công ty Tây Hồ Tây 314 triệu USD, Winvest Investment 300 triệu USD, Công ty Panasonic Communication 76,36 triệu USD, Công ty Kho xăng dầu Vân Phong 60 triệu USD… Năm 2006 đánh dấu sự tăng trưởng ngoạn mục của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam. Cả nước có 833 dự án FDI mới, với tổng vốn đăng ký 7.838 triệu USD và 486 dự án tăng vốn đầu tư 2.362 triệu USD; gộp lại là 10,2 tỷ USD. Đây là năm có vốn FDI cao nhất trong gần hai thập kỷ vừa qua, kể từ khi Quốc hội nước ta ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào tháng 12 năm 1987. Năm 2006, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo dự án đạt 10,2 tỷ USD, tăng 52% so với năm 2005, đạt mức cao nhất kể từ năm 1987 khi Việt Nam công bố Luật Đầu tư nước ngoài. Đồng thời, tổng vốn đầu tư thực tế của nước ngoài vào Việt Nam năm 2006 cũng lập kỷ lục cao mới, đạt 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. Năm 2006 cũng là năm vốn thực hiện của FDI có mức tăng trưởng cao nhất trong những năm gần đây, 24,2% so với năm 2005, đạt 4,1 tỷ USD; có thêm 250 doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, đưa số doanh nghiệp FDI đang kinh doanh ở nước ta lên con số 3.500, tạo ra doanh thu 29,4 tỷ USD, tăng 31,3%, kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu thô) đạt 14,5 tỷ USD, tăng 30,1% so với năm trước; tính cả dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu là 22,6 tỷ USD, chiếm hơn 57% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước Nếu năm 1997 được coi là đỉnh điểm của FDI thì sau 10 năm, đến năm 2006 mới vượt qua được đỉnh điểm đó (!). Như vậy, tính đến cuối năm 2006, nước ta đã thu hút được 60,4 tỷ USD vốn FDI đăng ký, trong đó vốn thực hiện là 36 tỷ USD, kể cả các dự án đã ngừng hoạt động Bức tranh về đầu tư nước ngoài ở nước ta trong năm 2006 có màu sắc phong phú hơn với sự xuất hiện của một số dự án mới có quy mô lớn từ các tập đoàn xuyên quốc gia Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, như dự án của Công ty thép Posco có vốn đầu tư 1,126 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư 1 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Tycoons với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD, dự án Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1 triệu USD, dự án Winvest Investment với vốn đầu tư 300 triệu USD... Nhiều dự án được cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện như các nhà máy của Công ty Hoya Glass Disle, Canon, Matsushita, Brothers Industries, Honda… Ước tính vốn thực hiện trong năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. Kết quả tốt đẹp này đã được dư luận nước ngoài đánh giá là hiện tượng Việt Nam. Trong năm 2006, vị thế của nước ta trên thế giới được nâng cao sau khi trở thành thành viên 150 của WTO và tổ chức thành công Hội nghi cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội, tiếp tục làm gia tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, môi trường kinh doanh của nước ta đã tiếp tục được hoàn thiện nâng cao nhằm tạo một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo môi trường kinh doanh minh bạch thông thoáng hơn phù hợp với thông lệ quốc tế. Lý do dẫn đến việc đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh trong năm 2006. Các nhà đầu tư hy vọng sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các yếu tố bất ổn định sẽ bị loại bỏ, môi trường xuất khẩu sang Mỹ sẽ được cải thiện, thị trường dịch vụ sẽ được mở rộng sẽ tạo ra những cơ hội kinh doanh mới. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện nhờ những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của chính phủ Việt Nam. Việt Nam luôn được đánh giá cao nhờ tính ổn định về thể chế so với các quốc gia khác như Campuchia, Mianna, Lào. Hy vọng rằng cơ hội tham gia vào các dự án quy mô lớn đang được triển khai hoặc dự kiến ttrieenr khai trong thời gian tới như xây dựng khu đô thị mới, dự án tái phát triển, xây dựng đường sắt cao tốc, nhà máy phát điện, nhà máy lọc dầu, nhà máy hóa dầu, khu sản xuất sắt thép, xây dựng khu công nghiệp… Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến gần cuối tháng 3/2007 cả nước đã thu hút được trên 2,5 tỉ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), mức cao nhất từ trước đến nay. Chỉ cần so với thống kê của năm ngoái, một chuyên gia đầu tư nhận xét: "Đã qua rồi thời kỳ mỗi tháng thu hút được vài chục triệu USD. Tại Diễn đàn Đầu tư lần thứ 2 vừa diễn ra ở Hà Nội, nhiều nhà đầu tư cũng như giới chuyên môn cho rằng mục tiêu thu hút 12 tỉ USD vốn FDI năm nay của Việt Nam là trong tầm tay, thậm chí có thể lên đến 15 - 16 tỉ USD. Theo nguồn tin từ Cục Đầu tư nước ngoài, từ đầu năm đến nay trên cả nước đang có khoảng 200 dự án FDI với tổng vốn đăng ký khoảng 30 tỉ USD đang trong quá trình "dạm hỏi" tại các địa phương. Trong đó có rất nhiều dự án lớn và khả năng triển khai là thực tế. Ví dụ như Tập đoàn dầu khí BP cùng các đối tác đang tiếp tục đệ trình một dự án khí - điện - đạm, tương tự dự án Nam Côn Sơn (vốn đầu tư 1,3 tỉ USD), có tổng vốn đăng ký dự kiến là 2 tỉ USD. Hay, dự án khu đô thị - địa ốc - khu công nghiệp và sản xuất công nghệ cao của Tập đoàn Honhai (Đài Loan) có số vốn kỷ lục 5 tỉ USD,... Thời gian gần đây, có nhiều yếu tố để đưa ra nhận định về khả năng xuất hiện một làn sóng đầu tư mới của nước ngoài vào Việt Nam. Làn sóng này dường như âm ỉ từ sau các động thái khi Việt Nam đàm phán vòng cuối để gia nhập WTO, khi các tập đoàn lớn của Nhật Bản, Hoa Kỳ gửi các đoàn vào Việt Nam tìm hiểu môi trường đầu tư, kinh doanh để tìm kiếm cơ hội đầu tư ... Rồi hàng loạt các sự kiện diễn ra tại Việt Nam trong năm 2006 đã góp phần làm nổi lên làn sóng đầu tư mà đỉnh cao là vốn đăng ký và vốn thực hiện của năm 2006 đều đạt mức đỉnh điểm kể từ khi nước ta thực thi Luật Đầu tư. Rõ ràng nước ta đang đứng trước những cơ hội mới và cả những thách thức để có thể thu hút mạnh mẽ hơn nguồn vốn FDI, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xu hướng gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài dự báo sẽ tiếp tục được duy trì trong các năm tới. Trong 5 năm (2006 - 2010), vốn cấp mới sẽ có thể đạt trên 30 tỉ USD, bình quân mỗi năm khoảng trên 6 tỉ USD; vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt khoảng 24 - 25 tỉ USD, bình quân gần 5 tỉ USD/năm. Cơ cấu đầu tư phân theo đối tác sẽ có sự chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, nhất là từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU. Đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp sẽ tập trung chủ yếu trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế. Một số dự án quy mô lớn đang đàm phán sẽ được thực thi. Trên cơ sở đánh giá thực trạng môi trường đầu tư của nước ta và các yếu tố mới có tác động đến hoạt động đầu tư nước ngoài, kể cả yếu tố thuận lợi và bất lợi, có thể dự báo tình hình FDI năm 2007 như sau: - Vốn thực hiện đạt 4,2 - 4,5 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2006; - Cơ cấu ngành: công nghiệp - xây dựng khoảng 60%, nông - lâm -ngư nghiệp 6% và dịch vụ 34%; Doanh thu xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 17 tỉ USD (tăng 23% so với năm 2006), nhập khẩu 19 tỉ USD (tăng 16,5 % so với năm 2006). - Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tuyển dụng thêm 24 vạn lao động trực tiếp, đưa tổng số lao động trong khu vực đầu tư nước ngoài lũy kế đến cuối năm 2007 lên 1,4 triệu người; - Vốn cấp mới đạt 6,8 tỉ USD, (tăng 5% so với năm 2006) trong đó vốn đầu tư cấp mới đạt khoảng 5 tỉ USD, số còn lại là vốn tăng thêm. Nhìn tổng thể bức tranh kinh tế - xã hội, cũng như dấu hiệu của làn sóng mới FDI vào nước ta trong năm 2006 đã làm tăng thêm lòng tin của người dân vào con đường đi lên của dân tộc, làm cho nhiều chuyên gia kinh tế thế giới đánh giá cao thành quả của Việt Nam trong một thế giới đang biến động và đầy bất trắc. Ông Ayumi Konishi, Giám đốc quốc gia cơ quan đại diện thường trú Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam nhận xét: “Về phát triển kinh tế, có thể nói, Việt Nam là một ngôi sao của khu vực Đông Nam Á. Chính sự tăng trưởng trong đầu tư tư nhân, tiêu dùng và xuất khẩu là những động lực thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam”. Giám đốc Viện nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Raghuram Rajan cho rằng: “Chắc chắn là Việt Nam đang được rất nhiều người coi như một ‘Trung Quốc mới’ (Emerging China). Tôi tin rằng, đó là một lời khen ngợi xứng đáng”. Đặc biệt là từ sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được đưa vào chương trình nghị sự chính thức, mang lại thuận lợi hơn các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Bộ Thương mại Việt Nam cho hay, đến năm 2010, kim ngạch thương mại Việt - Nhật sẽ tăng lên 17 tỷ USD, so với 10 tỷ USD năm 2006. Sự gia tăng mạnh mẽ trong đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam là một trong những nguyên nhân khiến đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc giảm. Theo thống kê, năm 2006, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Trung Quốc (không kể đầu tư vào lĩnh vực tài chính) giảm 29,58% xuống 4,598 tỷ USD. Trong tổng kim ngạch đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc năm 2006, tỷ lệ vốn đầu tư của Nhật Bản đã giảm từ 10,82% năm 2005 xuống 7,3%. Năm 2005 viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản dành cho Việt Nam lên tới 90,8 tỷ yên, viện trợ có hoàn lại 4,5 tỷ yên và hỗ trợ kỹ thuật 5,7 tỷ yên. Kim ngạch đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam cũng lên tới 6,22 tỷ USD với 591 dự án đầu tư và xu thế này sẽ còn tiếp tục tăng trong năm nay. 2. Xu thế Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây.  Kể từ sau khủng khoảng tài chính khu vực năm 1997, xu hướng dòng vốn FDI vào Việt nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Các vùng trọng điểm kinh tế vẫn là đầu tàu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực phát triển kinh tế của nước ta, tạo sức lan tỏa của đầu tư nước ngoài sang những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Chỉ tính riêng trong năm 2005 (tính đến ngày 20/12/2005), trong tổng số 798 dự án được cấp phép, ngoại trừ có 1 dự án dầu khí ngoài khơi thì 797 dự án còn lại được thực hiện trên 40 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Dẫn đầu là thành phố Hồ Chí Minh với 243 dự án được cấp phép, tỉnh Bình Dương với 140 dự án, tỉnh Đồng Nai với 87 dự án và tỉnh Tây Ninh với 26 dự án. Tại khu vực phía Bắc, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh và Hưng Yên là các địa phương dẫn đầu về số lượng các dự án FDI được cấp phép hoạt động, trong đó, Hà Nội có 103 dự án, Vĩnh Phúc có 24 dự án và Hải Phòng có 21 dự án. Các tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn cũng thu hút được các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài như Lào Cai (5 dự án), Cao Bằng (3 dự án), Đắc Nông (2 dự án), Yên Bái (2 dự án),.  Với môi trường đầu tư kinh doanh từng bước được cải thiện, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, thể hiển ở các chỉ tiêu vốn thực hiện, doanh thu, xuất khẩu và nộp ngân sách nhà nước ngày càng tăng.  Chất lượng các dự án mới và các dự án tăng vốn trong năm 2005 có chuyển biến tích cực ; đã thu hút được một số dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến như dự án xây dựng hệ thống điện thoại di động CDMA, dự án đầu tư nghiên cứu phát triển và sản xuất mô tơ chính xác cao của tập NIDEC, dự án nghiên cứu, phát triển và sản xuất các thiết bị âm thanh siêu nhỏ của tập đoàn SONION, các dự án mở rộng sản xuất của Canon. Ngày càng nhiều dự án của các tập đoàn đa quốc gia quay trở lại đầu tư  và mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Đến nay, đã có 95 công ty đa quốc gia đầu tư vào trên 230 dự án FDI tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký (kể cả tăng vốn) là 10,6 tỷ USD, chiếm 20% tổng vốn đăng ký. Hầu hết các công ty nói trên đầu tư vào các dự án có quy mô lớn (bq trên 45 triệu USD/dự án). Bảng 2: Thu hút FDI,2005 theo cơ cấu ngành Dự án Vốn Công nghiệp và xây dựng 66.20% 58.70% Dịch vụ 24.20% 37.10% Nông nghiệp 9.60% 4.20%  Cơ cấu đầu tư nước ngoài trong năm nay đã có sự chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ, chỉ tính riêng năm 2005 (tính đến ngày 20/12/2005), số dự án ĐTNN đầu tư vào ngành dịch vụ cấp mới là 193 dự án chiếm 24,19% với tổng vốn đầu tư gần 1,5 tỷ USD và 50 dự án tăng vốn chiếm 9,77% với tổng vốn tăng thêm gần 228 triệu USD. .3 Triển vọng đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới. Triển vọng đầu tư tại Việt Nam : Theo báo Kinh tế của Nhật Bản, công ty bảo hiểm lớn nhất Nhật Bản The Dai-Ishi Mutual Life Insurance Company mới đây tuyên bố mua lại công ty bảo hiểm CMG của Việt Nam. Đây là công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam. Các chuyên gia kinh tế dự báo, cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm của Việt Nam sẽ còn tăng trưởng mạnh và viễn cảnh là sáng sủa, vì vậy, đầu tư của các công ty Nhật Bản tại Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm cũng sẽ gia tăng. Giới doanh nghiệp Nhật Bản và Việt Nam cho rằng làn sóng mới trong đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đang đến gần. Nhật Bản sẽ tăng cường hợp tác với Việt Nam trong các lĩnh vực kỹ thuật thông tin, năng lượng, xây dựng cơ sở hạ tầng, đồng thời chuẩn bị thành lập một Trung tâm giáo dục tại Tp.HCM, hỗ trợ các dự án xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam. Mới đây, công ty cơ cấu tư vấn và nghiên cứu kinh tế lớn nhất của Mỹ - Stratfor đã công bố báo cáo cho hay, Việt Nam đã trở thành một trong những khu vực điểm nóng đầu tư trên thế giới có sức hấp dẫn nhất. Phát triển kinh tế của Việt Nam có hai ưu thế: tỷ lệ tài sản "xấu" trong lĩnh vực tài chính khá thấp. Hai là mặc dù xuất khẩu của Việt Nam chiếm tới 56% GDP, nhưng mức độ ảnh hưởng của sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế thế giới đối với Việt Nam là rất nhỏ. Việt Nam có thể duy trì sự ổn định trong thu nhập từ xuất khẩu, bởi sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, chủ yếu là hàng tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp nhẹ, không chịu ảnh hưởng lớn của biến động giá cả quốc tế. Ba là tình hình chính trị của Việt Nam ổn định, các chính sách đầu tư không chỉ duy trì tính nhất quán mà còn không ngừng được hoàn thiện. Từ đó có thể thấy, viễn cảnh thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam là rất tốt đẹp. - Nếu môi trường đầu tư không có biến động quá lớn, dự kiến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng trong thời gian tới, đặc biệt đầu tư của Hàn quốc, Nhật Bản và Mỹ sẽ tiếp tục mở rộng, trong khi đầu tư từ Singdpore có thể chững lại. - Đặc biệt đầu tư của Nhật vào các sản phẩm điện tử và phụ phẩm tại miền bắc sẽ được mở rộng hơn nữa. Ngoài ra phát huy vị thế là quốc gia cung cấp nguồn vốn viện trợ ODA lớn nhất cho phía Việt Nam , Nhật Bản cũng sẽ tăng cường tham gia vào các dự án mang tính quốc sách của Việt Nam, trong đó có dự án xây dựng đường sắt cao tốc. - Đầu tư của Mỹ vào lĩnh vực khai thác dầu khí, xây dựng khách sạn và khu nghỉ, đầu tư vào lĩnh vực tín dụng và thông tin tại khu vực Nam Bộ sẽ được tiếp tục mở rộng trong thời gian tới, ngoài ra cũng sẽ tăng cường đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng điểm cần vốn đầu tư lớn như xây dựng nhà máy phát điện. II. Thực trạng thu hút đàu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội. 1.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội phân theo giai đoạn Căn cứ vào tiêu cchí chính sách FDI qua các thời kỳ, mức độ phát triển của dòng vốn, tính phân kỳ của hoạt động đầu tư, quá trình thu hút FDI có thể chia thành 4 giai đoạn như sau: Bảng 3: Tình hình thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội-giai đoạn 1989-2006 Đơn vị: triệu USD,% Năm Vốn đầu tư Tốc độ tăng so với năm trước Tỷ lệ VTH/VĐK Đăng ký(VĐK) Thực hiện(VTH) VĐK VTH Tổng 11,211.30 4,309.72 38.44 1989-1990 343.258 12.582 36.65 1989 48.17 0 0 1990 295.088 12.582 512.6 4.26 1991-1995 3,332.05 1,098.14 32.96 1991 126.352 28.444 -57.18 126.07 22.51 1992 301 54.962 138.22 93.23 18.26 1993 856.912 108.933 184.69 98.2 12.71 1994 989.781 386.34 15.51 254.66 39.03 1995 1,058 519.458 6.89 34.46 49.1 1996-2000 4,672 2,104 45.03 1996 2,641 605 149.62 16.47 22.91 1997 913 712 -65.43 17.69 77.98 1998 673 525 -26.29 -26.26 78.01 1999 345 182 -48.74 -65.33 52.75 2000 100 80 -71.01 -56.04 80 2001-2005 2,864 1,095 38.23 2001 200 85 100 6.25 42.5 2002 362 175 81 105.88 48.34 2003 162 195 -55.25 11.43 120.37 2004 293 270 80.86 38.46 92.15 2005 1,847 370 30.38 37.04 20.03 2006 1120 350 -39.36 5.41 31.25 Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội. Từ năm 1989-1996, kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội có xu hướng tăng cao 2). Từ năm 1997 đến 2003, dòng vốn FDI vào Hà Nội có xu hướng giảm dần: 913 triệu USD (1997); 673 triệu USD (1998); 345 triệu USD (1999); 100 triệu USD (2000); 200 triệu USD (2001); 362 triệu USD (2002) và 162 triệu USD năm 2003. Trong giai đoạn 1996-2000, Hà Nội thu hút được 4672 triệu USD vốn đăng ký và 2104 vốn thực hiện . Đỉnh cao nhất trong thu hút FDI là năm 1996 với vốn đăng ký đạt 2,641 tỷ USD và năm 1997 đạt cao nhất về vốn thực hiên với 913 USD. Năm 2000 là năm có số lượng FDI thu hút được thấp nhất trong suốt thời gian qua với mức 100 triệu USD đăng ký. Năm 2004 xuất hiện một số động thái mới với mức thu hút 293 triệu USD, tăng 80% so với năm 2003, đứng thứ 5 cả nước. Các dự án FDI chiếm 21% tổng xuất khẩu Hà Nội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 12% GDP, 17% tổng đầu tư xã hội và tạo ra khoảng 45000 việc làm. Cũng trong năm 2004, số doanh nghiệp có vốn ĐTNN có lãi là 29%, bị lỗ là 11%, còn lại hoạt động cầm chừng, hoà hoặc chưa rã kết quả. Vốn đầu tư thực hiện cũng giảm dần từ năm 1998. Cụ thể năm 1998 vốn đầu tư thực hiện giảm 26.26% sô với năm 1997; năm 1999 vốn đầu tư thực hiện giảm mạnh nhất tới 65.33% so với năm 1998, năm 2000 vốn đầu tư thưc hiện giảm 56.04% so với năm 1999.Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện của Hà Nội khá cao nhưng năm 1999 tỷ lệ này chỉ bằng một nửa của cả nước. Nguyên nhân là do các đối tác chủ yếu của Hà Nội là các nước NIC, ASEAN…lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Hơn nữa một loạt các dự án vào Hà Nội bị ngừng lại do thay đổi quy hoạch khu vực nội đô, bên cạnh đó là do các địa phương tích cực cải thiện môi trường đầu tư nên đầu tư nước ngoài vào Hà Nội tiếp tục giảm mạnh. Trong những năm đầu kỳ kế hoạch , bối cảnh sau khủng hoảng tài chính khu vực đã ảnh hưởng sâu sắc , dẫn đến sự giảm sút thu hút ĐTNN. Trong các năm sau, đặc biệt năm 2004, 2005 với những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của chính phủ và thành phố Hà Nội cùng với chuyển biến thuận lợi tình hình quốc tế, kết quả thu hút và thực hiện đầu tư nước ngoài có sự gia tăng mạnh mẽ. So với năm 2000, vốn đăng ký năm 2001 tăng 100% và tăng mạnh nhất vào năm 2005 tăng 530.38% so với năm 2004. Điều này thể hiện sự cố gắng rất lớn của Hà Nội trong việc thu hút FDI.Năm 2004-2005 với các nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của chính phủ và của thành phố Hà Nội cũng như tình hình kinh tế thế giới phục hồi, kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh mẽ. Năm 2004, Hà Nội thu được 293 triệu USD thì năm 2005 Hà Nội trở thành địa phương đứng đầu cả nước về thu hút FDI, tổng số vốn FDI đăng ký là 1,847 triệu USD cao nhất trong giai đoạn 2001-2005.So với giai đoan năm năm trước , lượng vốn FDI đăng ký giảm 52.05%. Tong giai đoạn này tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tăng trung bình 73% năm và đạt 2.602 triệu USD. Tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 2001-2005 đạt được 1.030 triệu USD( tương đương khoảng 16 tỷ đồng). Như vậy tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 5 năm bằng 46% so với kế hoạch( 16000 tỷ đ/34800 tỷ đ) và chiếm khoảng gần 13% tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn so với chỉ tiêu 28.3% theo kế hoạch( dẫn đến tỷ trọng khiêm tốn này- 13%, ngoài nguyên nhân từ sự giảm sút vốn khu vực đầu tư nước ngoài, còn có kết quả tác động của sự gia tăng mạnh mẽ vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân trong nước sau khi luật doanh nghiệp đi vào cuộc sống). Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư xã hội thể hiện xu hướng tăng trong các năm cuối kỳ kế hoạch ( 2000: 8%, 2001:7,2%, 2002: 12,1%, 2003: 12,3% ; 2004: 14,3%; 2005: 14%). Hà Nội Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 9 tháng đầu năm 2006 có nhiều tín hiệu khả quan. Tính đến ngày 30/9/2006, Thủ đô Hà nội thu hút được 137 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 894 triệu USD. Dự kiến đây là năm thứ 2 liên tiếp Hà Nội tiếp tục giữ vị trí là một trong những địa phương đi đầu trong thu hút vốn FDI.   Giá trị sản xuất công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 9 tháng tăng 31,8% so với cùng kỳ năm ngoái và dự kiến cả năm 2006 sẽ dẫn đầu so với các thành phần kinh tế khác, nhờ tăng mạnh xuất khẩu được sản phẩm ra thị trường nước ngoài; tiêu biểu như thiết bị văn phòng, thiết bị điện, phương tiện vận tải... Tính đến hết tháng 9, trên địa bàn Hà Nội có 700 dự án FDI có hiệu lực, với tổng số vốn đầu tư đăng ký khoảng 8,9 tỷ USD; số vốn đầu tư thực hiện đạt 300 triệu USD, tăng 30% so với cùng kỳ 2005. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2006 tiếp tục thu được nhiều kết quả khả quan.ƯỚC tính năm 2006 Hà Nội đạt 117% về số dự án và 124% về tổng vốn đầu tư đăng ký cả năm. Còn so với kết quả năm 2005 số dự án tăng 16% , còn số vốn đầu tư bằng 71% do năm 2005 có một dự án rất lớn là dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh mạng điện thoại di động CDMA-656 triệu USD được cấp phép tháng 2/2005. Trong năm 2006, nguồn vốn FDI đầu tư vào Hà Nội đạt con số khả quan: 194 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 1,1 tỷ USD (cả vốn cấp mới và tăng vốn). Trong số đó, dự án cấp mới là 148 với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 609,4 triệu USD, ở vị trí thứ 6 về thu hút vốn mới; còn lại là dự án và vốn bổ sung. Năm 2006, khối đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 15% tổng đầu tư xã hội trên địa bàn, đóng góp khoảng 16% GDP, 38% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo 10% tổng thu ngân sách cho thành phố, và thu hút trên 60.000 lao động. Chỉ tính đến tháng 2/2007 Hà Nội thu hút được tổng cộng 33 dự án cả cấp mới và tăng vốn , với vốn đầu tư đăng ký là 145.,5 triệu USD, trong đó: -Dự án cấp mới là 30 dự án với vốn đầu tư đăng ký là 133,8 triệu USD trong đó đáng chú ý là có 4 dự án lớn công ty TNHH phát triển nhà Daewon- Hancic( vốn đàu tư 25 triệu USD, công ty TNHH Cavico-Hoa Kỳ( 18,1 triệu USD), Công ty TNHH hồ tây ( 11,6 triệu), Công ty TNHH Berjaya- Handico12 (50 triệu) - Dự án tăng vốn là 3 dự án với vốn đầu tư đăng ký là 11,7 triệu USD; trong đó đáng chú ý là có dự án công ty Denso Việt Nam tăng vốn đầu tư 11,5 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2006, số dự án tăng 50% (33/22), còn số vốn đầu tư bằng 31% ( 145,5/471,8) do tháng 1/2006 một dự án rất lớn là dự án khu đô thị mới Tây Hồ Tây- 314 triệu USD được cấp phép. Dự kiến năm 2007 Hà Nội phấn đấu thu hút vốn đầu tư đăng ký 1,5 tỷ USD trở lên với trên 200 dự án. Kế hoạch định hướng năm 2007 đã giao theo quyết định số 233/2006/QĐ-UB ngày 12/12/2006 của UBND thành phố Hà Nội là: Tổng vốn đầu tư đăng ký 1.300 triệu USD với 210 dự án , trong đó cấp mới là 800 triệu USD với 145 dự án, bổ sung tăng vốn là 500 triệu USD với 65 dự án. Tổng vốn đầu tư thực hiện 400 triệu. Tổng doanh thu 2.900 triệu USD .2.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự án. Từ năm 1989-2006 Hà Nội đã cấp phép cho 960 dự án với tổng số vốn đăng ký 12331.303 triệu USD và số vốn thực hiện là 4659.719 triệu USD. Bảng 4: Thu hút đầu tư nước ngaofi của Hà Nội so với cả nước qua các giai đoạn Giai đoạn Số dự án Tỷ trọng Cả nước Hà Nội .1988-1990 214 12 5.61 1991-1995 1397 203 14.53 1996-2000 1730 227 13.12 2001-2006 3594 324 9.01 Bảng 6:Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự án ở Hà Nội(1989-2006). Đơn vị: Dự án, triệu USD. Năm Số dự án VĐK VTH Quy mô dự án theo nguồn vốn đăng ký Quy mô dự án theo vốn thực hiện Hà Nội Cả nước Hà Nội/cả nước Hà Nội Cả nước Hà Nội/cả nước 1989 4 48.2 0 12.042 7.73 1.56 0 1990 8 295 12.6 36.886 6.81 5.42 1.572 1991 13 126 28.4 9.719 8.55 1.14 2.188 2.18 1 1992 26 301 55 11.576 11.21 1.03 2.113 2.92 0.72 1993 43 857 109 19.928 12.22 1.63 2.533 3.71 0.68 1994 62 990 386 15.964 12.36 1.29 6.231 5.56 1.12 1995 59 1,058 519 17.932 18.86 0.95 8.804 6.26 1.41 1996 45 2,641 605 58.68 25.16 2.33 13.444 7.01 1.92 1997 50 913 712 18.26 16.91 1.08 14.24 8.7 1.64 1998 46 673 525 14.63 17.11 0.86 11.413 8.31 1.37 1999 45 345 182 7.666 7.28 1.05 4.044 7.51 0.54 2000 41 100 80 2.439 6.93 0.35 1.951 6.2 0.31 2001 44 200 85 4.545 5.87 0.77 1.931 4.46 0.43 2002 60 362 175 6.033 3.69 1.63 2.916 3.23 0.9 2003 66 162 195 2.454 4.21 0.58 2.954 3.54 0.83 2004 74 293 270 3.959 5.84 0.68 3.648 3.95 0.92 2005 80 1,847 370 23.087 7.78 2.97 4.625 4.28 1.08 2006 194 1120 350 5.773 12.24 0.47 1.804  4.92 0.37 Tổng 960 12331.303 4659.719 Nguồn : Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nôi. Biểu đồ: Quy mô vốn bình quân một dự án( Vốn đăng ký) tại Hà Nội.(1989-2006). Nguồn: sở kế hoạch và đầu tư HN. Giai đoạn 1989-1990. Hà Nội thu được 12 dự án, chiếm 5.61% số dự án của cả nước . Năm 1989 và năm 1990 quy mô dự án của Hà Nội lớn gấp 1.56 và 5.42 lần so với cả nươc. Giai đoạn 1991-1995. Trong giai đoạn này quy mô bình quân dự án của Hà Nôi khá cao( vốn đăng ký) trên 9 triệu USD/1 dự án và lớn hơn so với cả nước( trừ năm 1995) . Tính theo vốn thực hiện quy mô dự án nhỏ hơn rất nhiều so với vốn đăng ký, cao nhất là 8.804 triệu USD/ dự án, thấp nhất là 2.113 triệu USD/ dự án. So với cả nước , quy mô dự án ( vốn thực hiện ) thấp hơn trong hai năm 1992,1993 và đến năm 1994, 1995 thì cao hơn. Giai đoạn 1996-2000: Giai đoạn này quy mô dự án của Hà Nội đạt mức cao nhất, cao nhất là năm 1996( 58.68 triệu USD) cao gấp 2.33 lần so với cả nước. Nhưng sau đo quy mô dựa án giam mạnh chỉ còn tương ứng là 4.044 triệu USD( bằng 1.54 lần so với cả nước) và 1.951 triệu USD( 0.31 lần). Giai đoạn 2001-2005 và năm 2006. Trong những năm này quy mô dự án đều nhỏ hơn giai đoạn trước. Riêng năm 2005 Hà Nội được một khối lượng vốn đầu tư lớn đăng ký nên quy mô dự án đạt mức cao( 23.087 triệu USD) gấp 2.97 lần so với cả nước., còn các năm 2001-2004 quy mô dự án đều nhỏ hơn cả nước. Diều này phản ánh môi trường đầu tư Hà Nội kém hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Quy mô dự án nhỏ sẽ hạn chế việc thực hiện các mục tiêu thu hút các ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều vốn. Bảng 5: Quy mô dự án của Hà Nội so với các thành phố khác và so với cả nước( 19880-2005). Đơn vị: USD Địa phương Số dự án Vốn thực hiện Quy mô dự án TP. Hồ Chí Minh 1869 6,056,463,599 3,240,483.47 Hà Nội 766 4,309,719,000 5,626,265.01 Đồng Nai 700 3,842,121,843 5,488,745.49 Bình Dương 1083 1,862,200,644 1,719,483.51 Bà Rịa-Vũng Tàu 120 1,253,723,412 10,447,695.10 Như vậy ta thấy trong giai đoạn 1989-2005 so với các thành phố khác. Tuy Hà Nội có số dự án ít n._.nước, đặc biệt là bảo đảm tính minh bạch và tiên liệu trước được trách nhiệm giải trình để các nhà đầu tư an tâm đầu tư; tuyên truyền, phổ biến nội dung của các Luật mới; kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính, củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ĐTNN phù hợp với quy định của Luật mới. Coi trọng việc giữ vững sự ổn định, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các Luật mới. -  Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản đáp ứng nhu cầu và thực tế hội nhập kinh tế quốc tế.  - Bổ sung cơ chế, chính sách xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong mở cửa lĩnh vực dịch vụ (bưu chính viễn thông, vận chuyển hàng hóa, y tế, giáo dục và đào tạo.v.v).  - Đẩy mạnh việc đa dạng hóa hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập công ty hợp danh, ĐTNN theo hình thức mua lại và sáp nhập (M&A)... Sớm ban hành Quy chế công ty quản lý vốn (holding company) để điều hành chung các dự án. Tổng kết việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp ĐTNN để nhân rộng. 1. 2. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN: - Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; chú trọng vào công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các địa phương tránh tình trạng ban hành chính sách ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương vào xử lý các vấn đề cụ thể, trong đó nhiệm vụ giám định đầu tư và hậu kiểm được tăng cường; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý từ trung ương đến địa phương thông qua tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn. Chính phủ Việt Nam cũng đang tích cực cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư nhằm tạo nên một bước ngoặt. Cuối tháng 10, một loạt các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư (Nghị định 108), Luật Doanh nghiệp (Nghị định 88) và Nghị định 101 về việc đăng ký lại của các doanh nghiệp FDI bắt đầu có hiệu lực. Tinh thần của các Nghị định là Chính phủ sẽ phân cấp triệt để cho ủy ban nhân dân các địa phương xem xét, cấp phép và quản lý các dự án đầu tư trên địa bàn, không hạn chế về quy mô, hình thức đầu tư. Bộ KH&ĐT sẽ chuyển các dự án đầu tư đang thụ lý về các địa phương, tới đây bộ sẽ là cơ quan chủ trì xây dựng chiến lược, quy hoạch, xúc tiến đầu tư, theo dõi đánh giá hoạt động đầu tư và tiến hành thanh tra, hậu kiểm... Rà soát và điều chỉnh quy hoạch tổng thể và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, tránh tình trạng đầu tư chồng chéo, tràn lan, manh mún dẫn đến sự lãng phí và kém hiệu quả, trong đó Chính phủ đóng vai trò chỉ huy thống nhất trên phạm vi toàn vùng, có biện pháp bảo đảm, nâng cao tính hiệu lực pháp lý của các quy hoạch đã công bố. Trên cơ sở quy hoạch chung của vùng, các địa phương xây dựng chiến lược và các dự án kêu gọi đầu tư phù hợp với khả năng của mình và phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư. - Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 13 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc tiến hành đều đặn chương trình giao ban Vùng; duy trì, nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư, kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.  - Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích họ đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. (Đây là cách tốt nhất chứng minh có sức thuyết phục về môi trường ĐTNN ở Việt Nam đối với các nhà ĐTNN tiềm năng). - Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bằng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi trong lập qũy, vay vốn đầu tư ; đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cấp phép, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép. - Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động ĐTNN ở cả trung ương lẫn địa phương. 1.3. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động XTĐT:  - Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư chú trọng các đối tác chiến lược. Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên cứu và xác định qua kinh nghiệm vấn đề đầu tư tại Nhật Bản vừa qua, cần tăng cường vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể. Bên cạnh đó, tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành, hoặc lĩnh vực tại các địa bàn có thế mạnh với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành. - Kết hợp với các chuyến đi thăm, làm việc nước ngoài của các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư, mời các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của Chính phủ đối với ĐTNN. - Phối hợp triển khai Đề án kết nối kinh tế Việt Nam - Singapore nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút ĐTNN.  - Nâng cấp trang thông tin website về ĐTNN. Biên soạn lại các tài liệu giới thiệu về ĐTNN (guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến ĐTNN).  - Nghiên cứu các địa bàn đầu tư tiềm năng ở nước ngoài để hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả. 1. 4. Giải pháp về lao động tiền lương Sớm xem xét bổ sung hoặc ban hành các chính sách về tiền lương, bảo hiểm, nhà ở và một số chính sách xã hội khác, đồng thời tăng cường công tác thanh tra việc thực hiện các chính sách đó để đảm bảo lợi ích chính đáng, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân, lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI. 1.5. Giải pháp về thuế  Chính sách và pháp luật thuế giai đoạn 2006-2010 để đáp ứng được quá trình hội nhập và mở cửa thị trường.  Chính sách pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm mức điều tiết, nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế nên hầu hết các sắc thuế đã thực hiện tốt chức năng điều tiết thu nhập của các doanh nghiệp và dân cư, đã tiến gần đến mục tiêu đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng, bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, giữa người trong nước và người nước ngoài; thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, EU, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác, đang góp phần đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO   Để đảm bảo chính sách nhất quán mở cửa thị trường nói chung và thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, chúng tôi chủ trương tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật thuế theo hướng đồng bộ, cơ cấu hợp lý, khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, đổi mới công nghệ, đồng thời hiện đại hoá công tác quản lý thuế, hải quan nhằm đảm bảo chính sách động viên GDP phù hợp với điều kiện Việt Nam và tiến dần tới thông lệ quốc tế. Những năm tới trình Quốc hội sửa đổi và bổ sung Luật thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế TNDN, thuế tài nguyên và pháp luật phí, lệ phí (sửa đổi) và trình Quốc hội ban hành mới các Luật: thuế bảo vệ môi trường; thuế tài sản; thuế sử dụng đất; thuế thu nhập cá nhân thay cho pháp lệnh thuế TNCN đối với người có thu nhập cao hiện hành và Luật quản lý thuế – một bước đột phá trong hành chính thuế ở Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế. Giải pháp từ phía Hà Nội. Những giải pháp từ phía Nhà nước sẽ góp phần tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh, thi đua thu hút vốn FDI với các địa phương khác, Hải Phòng cũng cần có sự chủ động và những nỗ lực mạnh mẽ của riêng mình Theo Sở KH&ÐT, muốn đạt được mục tiêu đã đặt ra cần phải có những giải pháp thích hợp. Trước hết phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá về môi trường, tiềm năng đầu tư, thương mại, du lịch, định hướng phát triển, tạo dựng và đề cao hình ảnh Hà Nội với thế giới. Thường xuyên tổ chức các diễn đàn, hội thảo giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của Hà Nội nhằm kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước. Thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư để giải quyết các công việc liên quan đến đầu tư, bảo đảm nhanh gọn, chính xác, thuận lợi cho nhà đầu tư. Triển khai mở văn phòng đại diện kinh tế của Hà Nội ở nước ngoài, như Mỹ, Nhật, Tây Âu. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục đầu tư theo hướng thông thoáng và tập trung một đầu mối. Ðơn giản các tiêu chí xem xét, thẩm định dự án, rút ngắn thời gian xét duyệt, thẩm định, cấp giấy phép đầu tư. Ðịnh kỳ tổ chức đối thoại, thiết lập "đường dây nóng" giữa lãnh đạo thành phố với các doanh nghiệp FDI để kịp thời giải quyết vướng mắc cho DN. Tạo cơ chế khuyến khích, ưu đãi như xây dựng quỹ đất để nhà đầu tư dễ dàng lựa chọn địa điểm đầu tư bằng cách đền bù giải tỏa trước hoặc tổ chức đấu giá đất đã hoàn thành hạ tầng kỹ thuật. Ðối với các dự án ưu tiên, thành phố sẽ chịu một phần chi phí đền bù, GPMB. Chính quyền sở tại sẽ giúp các nhà đầu tư giải quyết đền bù, GPMB. Ðối với các dự án đặc biệt, thành phố sẽ ứng trước tiền đền bù, GPMB và nhà đầu tư cam kết thanh toán khoản tiền này. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các KCN tập trung bằng các cơ chế, chính sách cụ thể. Có chính sách đặc biệt ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư cao như công nghiệp điện tử, thông tin, công nghệ sinh học, hạ tầng đô thị, khu đô thị mới, giao thông công cộng... Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tập đoàn, DN có tiềm lực tài chính mua lại các dự án FDI hoạt động kém hiệu quả. Thành phố khuyến khích và giúp đỡ các DN nước ngoài tham gia đầu tư, xây dựng khu đô thị mới và hạ tầng đô thị, giao thông công cộng bằng xe điện, xe buýt, cầu qua sông Hồng, các bệnh viện và trường học quốc tế. Nâng cao năng lực hoạt động của DN trong nước, tạo điều kiện hợp tác với DN nước ngoài. Có kế hoạch đồng bộ để giúp DN giảm chi phí trung gian trong sản xuất, kinh doanh. Cụ thể là một số giải pháp sau. 2.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch. Cải tiến và nâng cao chất lượng quy hoạch là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. Công tác quy hoạch đô thị và các sản phẩm, ngành nghề ưu đãi, khuyến khích là cơ sở để các nhà ĐTNN lựa chọn mục tiêu đầu tư, căn cứ hình thành dự án. Tuy nhiên công tác lập quy hoạch đô thị phải đi trước một bước và được chú trọng hơn. Đi đôi với việc lập quy hoạch cần xây dựng cơ chế và kế hoạch triển khai thực hiện. Tập trung cao cho các công tác quy hoạch, phối hợp với các bộ xây dựng quy hoạch vùng, quy hoạch tổng thể phát triển thủ đô, quy hoạch xây dựng chi tiết để có cơ sở xá định rõ địa điểm cụ thể và công khai kêu gọi đầu tư. Các căn cư để lập quy hoạch của đất nước theo ngành, theo vùng, ngành nghề sản phẩm và định hướng phát triển của thủ đô cũng như đảm bảo khai thác được các lợi thế so sánh của địa phương. Các quy hoạch này phải tính đến các yếu tố trong tương lai, kha năng đáp ứng cũng như tính ổn định của quy hoạch. Trong thời gian trước, công tác lập quy hoạch của Hà Nội còn chưa tốt đã làm cho một số dự án phải chuyển đổi mục tiêu đầu tư , giảm sút long tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong công tác quy hoạch cần chú trọng những địa bàn có khả năng thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các khu công nghiệp. Hiện nay sở quy hoạch và kiến trúc Hà Nội đã trình ủy ban nhân dân thành phố vị trí của năm khu công nghiệp mới trong đó mỗi khu công nghiệp có chức năng của từng ngành công nghiệp chủ lực. Các ngành công nghiệp này nằm ngoài vành đai ba hoặc các huyện ngoại thành bởi quỹ đất của Hà Nội đã hết cũng như giảm thiểu được các ô nhiễm môi trường mà các khu công nghiệp này tạo ra. Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể cũng như quy hoạch đầu tư nước ngoài sẽ giảm thiểu được tình hình đầu tư tràn lan, phá vỡ quy hoạch, lãng phí nguồn lực nhằm tăng tính hiệu quả của các dự án đầu tư nước ngoài. 2.2. Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính Thời gian qua, các tỉnh phía Nam đã thu hút được nhiều vốn FDI một phần là do thủ tục hành chính ở các tỉnh này được đơn giản hóa rất nhiều. Các cơ quan quản lý ở đây áp dụng các quy chế một cách “mềm dẻo theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Tuy thủ tục hành chính tại Hà Nội đã được cải thiện nhiều nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn gặp nhiều phiền phức trong khâu triển khai thực hiện dự án như: việc gải phóng mặt bằng, chi phí đền bù, giao thông, cấp điện, cấp nước, doanh nghiệp có vốn FDI phải chịu sự kiểm tra, giám sát của quá nhiều cơ quan chức năng…Ở Hà Nội hiện nay, các dự án đang trong giai đoạn xem xét cấp giấy phép đầu tư, Sở Kê hoạch và đầu tư phải gửi hồ sơ dự án tới các ngành liên quan để xin ý kiến, như vậy là rất rườm rà, mất nhiều thời gian. Do đó, thời gian tới, Thành phố nên tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hơn nữa từ quá trình xin cấp giấy phép đầu tư, các thủ tục triển khai dự án đầu tư như : thuê vào giao đất, cấp giấy phép xây dựng, xuất nhập khẩu, hải quan, thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện, xuất nhập cảnh…. Nhằm rút ngắn hơn nữa thời gian thẩm định và cấp giấy phép cho các dự án FDI. Bắt đầu từ 2/1/2007, Hà Nội bắt đầu triển khai cơ chế "một cửa liên thông" về thủ tục thành lập doanh nghiệp, do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Công an Hà Nội và Cục Thuế Hà Nội kết hợp thực hiện. Đây là một quyết định quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư của Hà Nội, và cũng là bước khởi đầu đột phá trong công tác cải cách hành chính của thành phố ngay từ những ngày đầu năm 2007 Triên khai thưc hiện thủ tục đầu tư nước ngoài theo cơ chế “một đầu mối”với cơ quan thường trực là sở KH&ĐT. Tăng cường hoạt động của tổ công tác liên thông giải quyết thủ tục hành chính để bảo đảm kịp thời giải quyết , tháo gỡ khó khăn cho các nhà đâu tư trong cả quá trình từ xúc tiến đến lập và triển khai dự án. Cơ chế “ Một đầu mối” hiện nay đang được nhiều địa phương áp dụng có hiệu quả như thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Để đẩy mạnh hơn nữa trong cải cách thủ tục hành chính , thủ đô Hà Nội cần tiếp tục làm những nội dung sau: + Tổ chức một đầu mối, trong thời hạn quy định cần cung cấp đầy đủ các thông tin ban đầu, hướng dẫn các nhà đầu tư nước ngoài thiết lập hồ sơ dự án. Đặc biệt hạn chế các nhà đầu tư phải đi lại nhiều lần, đến nhiều cơ quan lấy thông tin ban đầu hoặc xin chủ trương, thỏa thuận đầu tư. Những trường hợp cần thiết có thể giới thiệu cụ thể tới các cơ quan hữu quan. + Thành lập tổ công tác đầu tư nước ngoài của thành phố, tổ chức họp thường ký vào một thời gian cố định trong tuần để xem xét chủ trương, đề xuất giới thiệu địa điểm, đối tác, thẩm định các dự án có quy mô lớn. + Cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, phân định rõ trách nhiệm quyền hạn khi giải quyết các vấn đề ĐTNN phát sinh. Việc thành lập các tổ liên ngành là cần thiết để rà soát các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng như bãi bỏ các quy định không cần thiết. Đến nay, thành phố đã đạt được một số kết quả bước đầu, tạo tiền đề rất quan trọng cho năm 2007 và những năm tới. Đó là, đã triển khai rộng khắp việc tổng rà soát, chuẩn hóa các thủ tục hành chính. Cơ chế “một cửa” đã triển khai ở tất cả các cơ quan hành chính 3 cấp: Sở, Ngành của Thành phố; UBND Quận, Huyện; UBND Phường, xã, Thị trấn, riêng đối với các cơ quan Sở, Ngành, đã hoàn thành việc bóc tách chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh để tập trung làm các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Một số Sở, Ngành đã nhận thực hiện khoán biên chế hành chính, bước đầu có hiệu quả. Hầu hết các cơ sở sự nghiệp đã chuyển sang thực hiện chế độ tự chủ tài chính. Gần đây, thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 32/2006/CT-TTg ngày 07/09/2006 về chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp, Thành phố đã chỉ đạo đều khắp cơ quan hành chính các ngành, các cấp triển khai. Tổ chức 14 đoàn do các đồng chí Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch UBND Thành phố dẫn đầu về làm việc cụ thể tại 29 Sở, Ngành, Quận, Huyện, thực hiện kiểm tra, chấn chỉnh, thúc đẩy làm tốt hơn nữa các nội dung CCHC và yêu cầu mới của Thủ tướng Chính phủ. 2.3 Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư Nghiên cứu, xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư dài hạn (5 năm, 10 năm) và kế hoạch hành động ngắn hạn từng năm trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô. Thủ đô Hà Nội cần tập trung xây dựng một chiến lược cụ thể về xúc tiến đầu tư gồm các bước cơ bản: xác định các cở sở để xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư; xác định ngành nghề và khu vực ưu tiên thu hút đầu tư; xây dựng chương trình xúc tiến và cơ chế chính sách đầu tư; xây dựng kế hoạch hành động; đánh giá hiệu quả. Một khi đã thông qua chiến lược xúc tiến đầu tư và kế hoạch hoạt động, cần thực hiện nghiêm túc theo đúng kế hoạch và chiến lược đã đề ra. Gắn kết chương trình xúc tiến đầu tư ở thủ đô với chương trình xúc tiến đầu tư ở mỗi vùng, miền và với chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia để vừa tiết kiệm chi phí vừa đem lại hiệu quả cao hơn. Các địa phương có lợi thế khác nhau có thể hợp tác thực hiện các chương trình xúc tiến đầu tư chung, tăng cường liên kết vùng. Điều này có thể áp dụng đối với các địa phương trong nước với nhau cũng như đối với các địa phương của một số nước khác nhau. Địa phương cần chủ động dành nguồn kinh phí lớn, ổn định cho hoạt động xúc tiến đầu tư bằng cách hình thành quỹ xúc tiến đầu tư, bên cạnh đó tích cực kêu gọi các nguồn vốn hỗ trợ từ trung ương và nước ngoài. Cần công bố công khai chiến lược xúc tiến đầu tư quốc gia, chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia, vùng, miền dài hạn và hằng năm để các địa phương có thể tham khảo, chủ động kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư của địa phương với vùng, miền và cả nước. Tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ địa phương làm công tác xúc tiến đầu tư. Thiết lập kênh thông tin đầu tư thường xuyên và kịp thời giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các địa phương trong cả nước nhằm giải quyết những vướng mắc trong quá trình xúc tiến dự án, tham vấn những vấn đề liên quan đến pháp luật; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xúc tiến đầu tư và xây dựng kênh thông tin đầu tư. Phân bổ hợp lý nguồn kinh phí xúc tiến đầu tư cho từng vùng, theo từng chương trình xúc tiến đầu tư cụ thể. Công bố Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010 và chuẩn bị các tài liệu đầu tư làm cơ sở tiến hành vận động đầu tư theo các phương thức mới, nhằm vào các tập đoàn lớn và các dự án trọng điểm. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Hà Nội; chuẩn bị để sớm đặt thêm các văn phòng đại diện xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài. Để nâng cao chất lượng của công tác xúc tiến đầu tư, Hà Nội cần đa dạng hóa phương thức xúc tiến theo hướng sau: + Tiếp xúc trực tiếp giữa thành phố với các tập đoàn có tiềm lực mạnh về công nghệ và vốn để xúc tiến các dự án quan trọng đã được định hướng. + Cung cấp đầy đủ các thông tin về các dự án có tính khả thi cao cho các nhà đầu tư nước ngoài. + Hợp tác với các cơ quan thông tấn báo chí trong và ngoài nước để họ cung cấp các thông tin về Hà Nội, tránh tình trạng bóp méo thông tin. +Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xúc tiếnđầu tư như xây dựng các trang web riêng để giới thiệu cụ thể và chi tiết hơn so với hiện nay về cơ hội đầu tư, tiềm năng, các văn bản pháp lý, quy trình thủ tục và những ưu đãi khi đầu tư vào Hà Nội. + Tăng cường tổ chức các buổi hội thảo trao đổi giữa các cơ quan nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Hà Nội. Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế-xã hội, cơ sở dự liệu hỏi đáp phục vụ XTĐT, với trang thiết bị mạng cần thiết tạo điều kiện để mọi tổ chức trong và ngoài nước đẽ dàng tìm kiếm thông tin . Kịp thời cung cấp thông tin, quảng bá môi trường đầu tư và dự án XTĐT lên mạng trong nước và ngoài nước. Về xúc tiến thương mại và đầu tư, các chương trình cần phải làm liên tục, thường xuyên, chứ không thể ào ào rồi bỏ đấy. Điều này đòi hỏi những người làm xúc tiến phải dày công và chịu khó. Nhưng quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động giới thiệu về mình. Các nhà đầu tư không thể chỉ trông chờ vào fax hay số điện thoại, mà họ cần những thông tin đầy đủ từ các trang web của doanh nghiệp. 2.4 Phát triển các dịch vụ tư vấn Thời gian qua, các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước bị vấp phải những khó khăn về thị trường và thông tin. Do vậy, đi liền với công tác xúc tiến đầu tư thì Hà Nội cần phát triển hơn nữa các dich vụ tư vấn. Dịch vụ tư vấn khụng chỉ dừng lại ở việc cung cấp thụng tin cho các nhà đầu tư mà cần phát triển lên mức độ cao hơn là giúp các đối tác đầu tư nước ngoài và Việt nam gặp gỡ nhau và cùng nhau hợp tác. Dịch vụ tư vấn càng phát triển, càng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi có những vướng mắc trong quá trình đầu tư thì làm cho khả năng thu hút FDI của thành phố càng thuận lợi. 2.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước Tăng cường công tác quản lý nhà nước, xúc tiến đầu tư phải gắn bó mật thiết với việc quản lý đầu tư nước ngoài để việc hỗ trợ nhà đầu tư thống nhất xuyên suốt trong cả ba giai đoạn chuẩn bị dự án, cấp phép và triển khai hoạt động. Xúc tiến đầu tư tốt sẽ thu hút ngày càng nhiều dự án đầu tư, tạo tiền đề cho quản lý đầu tư và ngược lại quản lý đầu tư tốt cũng chính là một phương thức hữu hiệu, ít tốn kém nhất để vận động xúc tiến đầu tư. Mở rộng hoạt động đối ngoại, kết hợp hoạt động xúc tiến đầu tư trong các chuyến công tác của lãnh đạo địa phương ra nước ngoài. Nghĩa là tăng cường các hoạt động ngoại giao phục vụ kinh tế, phục vụ xúc tiến đầu tư; tránh tình trạng bị động trong việc tổ chức các hội nghị, hội thảo về đầu tư hoặc mang tính phô trương, hình thức; tăng cường vai trò và hoạt động của các cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Đây là một kênh thông tin quan trọng nhằm thẩm tra, đánh giá năng lực của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như vai trò hỗ trợ của các cơ quan ngoại giao trong việc tiếp cận các nhà đầu tư lớn tiềm năng. Ngoài ra, cần tăng cường hợp tác giữa cơ quan xúc tiến và quản lý đầu tư nước ngoài với các sở, ban, ngành liên quan ở địa phương, với các cơ quan, tổ chức khác trong nước và nước ngoài. Mối quan hệ hợp tác này đặc biệt cần thiết đối với công tác xúc tiến, quản lý đầu tư nước ngoài trong cả ba giai đoạn trước, trong và sau khi cấp giấy phép đầu tư vì năng lực, quyền hạn, tài chính... của cơ quan chuyên trách về đầu tư nước ngoài hạn chế, cần có sự thỏa thuận, hợp tác của nhiều cơ quan, tổ chức liên quan 2.6. Nâng cấp và cải thiện cơ sở hạ tầng của Thành phố Cơ sở hạ tầng của địa phương cũng là một vấn đề đáng quan tâm của chủ đầu tư nước ngoài khi tiến hành hoạt động FDI tại địa phương đó. Một cơ sở hạ tầng hoàn thiện sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí đầu vào cho sản xuất cũng như dễ dàng hơn cho việc tiêu thụ sản phẩm. Thành phố cần mạnh dạn đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật coi đây là nguồn vốn ban đầu( vốn đối ứng) để thu hút đầu tư. Hệ thống giao thông phát triển bao gồm cầu cảng, đường xã ( đường bộ, đường sông, đường hàng không và đường sắt), kho bãi, sự đa dạng của các phương tiện vận tải. Để phục vụ cho các dự án triển khai thuận lợi, Hà Nội chú trọng vào việc tích cực chuẩn bị và sớm xây dựng ba tuyến đường vành đai, 3 tuyến xe điện, 3 cầu qua sông hồng. Thành phố sẽ phát triển khoảng trên 10000 ha khu vự bắc sông hồng, 2 khu du lịch lớn và xây dựng nhiều công viên, trung tâm thương mại, bệnh viện…tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long –Hà Nội vào năm 2010, đây là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư lớn. Trong thời gian tới Hà Nội cần tập trung xây dựng mới và hoàn thiện dần các công trình trọng điểm trên địa bàng, từng bước cải thiện bộ mặt đô thị của Thành phố, từ đó làm tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.Hà Nội cần nâng cao chất lượng của các khu công nghiệp và khu chế xuất như chỗ ở cho công nhân viên, các điều kiện về điện nước, thông tin liên lạc đến tận hàng rào khu công nghiệp, không tính tiền thuê đất và đền bù công trình hạ tầng ngoài hàng rào, khi các nhà đầu tư ứng trước thì trừ vào tiền thuê đất hoặc các nghĩa vụ khác mà doanh nghiệp phải nộp sau này… để khuyến khích các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các dịch vụ phụ trợ như y tế, ngân hàng, khu vui chơi giải trí... cũng cần được phát triển hơn nữa để các nhà đàu tư` có những điều kiện tốt nhất tiến hành đầu tư tại đây. Hệ thống thông tin liên lạc phải được bao phủ rộng khắp , kết nối với các quốc gia trên thế giới để đủ sức phục vụ nhu cầu của cỏc nhà đầu tư trong các giao dịch , hoạt động sản xuất kinh doanh . Việc cung cấp điện nước cần đảm bảo tính ổn định, tránh việc gây gián đoạn ảnh hưởng đến sản xuất. Ngoài ra các dịch vụ tài chính, quảng cáo cũng cần được đa dạng hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp FDI. Phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi khối lượng lớn về vốn đầu tư. Vì vậy, ngoài nguồn vốn từ ngân sách, Hà Nội cần chủ động xây dựng kế hoạch thu hút vốn từ các nguồn khác như ODA, các khoản vay thương mại, phát hành trái phiếu, tín phiếu xây dựng công trình thậm chí cả vốn của các doanh nghiệp tư nhân 2.7 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một trong những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam núi chung và Hà Nội núi riêng. Đó là đội ngũ lao động trẻ, dồi dào, cần cù, chăm chỉ.Chi phí lao động của Việt Nam nằm trong khoảng 100-200 USD được các nhà đầu tư đánh giá là hấp dẫn. Tuy nhiên đây không phải là yếu tố quyết định để các nhà đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư mà họ đòi hỏi một đội ngũ lao động có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của công việc. Dự báo nhu cầu nhân lực Phân theo trình độ đào tạo: Năm 2005 Năm 2010 Năm 2015 Trên đại học Đại học, cao đẳng Trung cấp Sơ cấp và huấn luyện ngắn hạn Phân theo ngành nghề kinh doanh: Khách sạn, nhà hàng Lữ hành, vận chuyển du lịch Dịch vụ khác 482 29.844 35.966 167.804 115.050 31.036 88.010 966 45.818 49.276 239.336 168.632 45.869 118.276 2.804 71.570 75.716 354.112 240.070 63.672 199.370 Học tập kinh nghiệm của thành phố Hồ Chớ Minh, Hà Nội nên trích một khoản ngân sách dành cho việc dào tạo đội ngũ lao động làm việc trong các liên doanh. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài giảm chi phí cũng như thời gian đầu tạo , tăng tính hấp dẫn môi trường đầu tư ở Hà Nội. Nội dung đào tạo bao gồm trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngư và tin học cũng như kiến thức về pháp luật, hiểu biết về kinh tế xá hội. Thuê các công ty tư vấn luật nước ngoài hoặc xin giúp đỡ của trung tâm xúc tiến đầu tư phía bắc- cục đầu tư nước ngoài để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về pháp luật cho đội ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo trong doanh nghiệp FDI.Tăng cường phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề để tìm ra các chương trình đào tạo phù hợp với các đòi hỏi cỏc doanh nghiệp FDI, lý thuyết đi đôi với thực hành thậm chí nếu có điều kiện bố trí cho các sinh viên đi kiến tập ở các doanh nghiệp này. 2.8. Khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân Như đó đề cập ở phần trên, các doanh nghiệp Nhà nước là chủ thể cơ bản tham gia hợp tác đầu tư với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng theo chủ trương tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp ở Hà Nội sẽ tiến hành cổ phần hoá, chia tách, sáp nhập, giải thể ... Do đó, có xu hướng tăng dần các doanh nghiệp tư nhân hoặc là cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp giảm xuống. Khi quyền lợi gắn liền với trách nhiệm thì họ sẽ làm việc có hiệu quả hơn, không phụ thuộc vào sự trợ giúp của Nhà nước. Ngoài ra, bản thân cỏc doanh nghiệp cũng tự đi tìm đối tác đầu tư cho mình nên họ chính là lực lượng quan trọng để quảng bá môi trường đầu tư của Hà Nội với các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp tư nhân phát triển là một yêu cầu tất yếu đặt ra. Thực tế hiện nay cho thấy hầu hết bên đối tác Việt nam tham gia trong liên doanh với nước ngoài tại Hà Nội là các doanh nghiệp tư nhân. Họ đã có những đóng góp rất lớn cho thành phố trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Không những chỉ mang lại lợi ích cho Thành phố mà bản thân các doanh nghiệp cũng thu hút được nhiều lợi nhuận hơn và mở rộng quy mô sản xuất của mình. Nghiên cứu xây dựng áp dụng các hình thức đầu tư mới như BOT/BTO/BT/PPP…trong đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ. 2.9. Các hỗ trợ khác. Bên cạnh các giải pháp đã nêu trên , để đẩy mạnh quá trình thu hút ĐTNN vào Hà Nội, thủ đô cần có nhứng biện pháp hỗ trợ sau: + Ưu đãi thuế + Miễn giảm giá thuê đất, văn phòng, nhà ở. + Hỗ trợ tài chính tín dụng. + Tăng cường phát triển các ngành công nghiệp phu trợ. Nếu các giải pháp cơ bản nói trên được thực hiện nhất quán với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và giữa Trung ương với địa phương thì triển vọng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng sẽ rất sáng sủa, mặc dù phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức. KẾT LUẬN FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội theo xu hướng đổi mới mở cửa và hội nhập. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành mọt bộ phận trong chiến lược đầu tư phát triển của nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng,góp phần phát huy nội lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khai thác triệt để lợi thế so sánh. Trong quy hoạch tổng thể thủ đô, Hà Nội đã xác định chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài và đã đạt được nhiều kết quả có ý nghĩa và giành được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo. Như đã phân tích,qúa trình hội nhập tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức trong việc thu hút FDI. Thủ đô Hà Nội cần biết tận dụng triệt để những thuận lợi và có những giải pháp hợp lý khắc phục nhưngc hạn chế để trở thành điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4926.doc
Tài liệu liên quan