Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực của công cụ lãi suất trong giai đoạn hiện nay

LờI NóI ĐầU Tư duy kinh tế hiện đại nói chung đều thừa nhận vai trò quan trọng của các chính sách lãi suất như là một kỹ thuật quản lý nhằm đạt được cả sự cân đối về đối nội, đối ngoại và đảm bảo việc phân bố có hiệu quả các nguồn vốn tài chính tiền tệ trong một nền kinh tế. Chính vì tầm quan trọng của biến số lãi suất này, cho nên việc duy trì lãi suất ở mức thích hợp là điều vô cùng cần thiết. Là một sinh viên sắp ra trường, được đào tạo về quản lý kinh tế nên em cảm thấy lãi suất thực sự là

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực của công cụ lãi suất trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một công cụ mạnh và có hiệu quả, do đó đề tài “ Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực của công cụ lãi suất trong giai đoạn hiện nay ” được đưa ra nhằm góp phần nhỏ vào việc điều chỉnh và ngày càng hoàn thiện hơn cônh cụ này để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Trong quá trình thực hiện em đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý, đặc biệt em vô cùng biết ơn GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn – người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Nội dung của đề tài gồm : Phần I : Một số vấn đề về lãi suất. Phần II : Tác động trên thế giới và thực trạng lãi suất ở Việt Nam thời gian qua. Phần III : Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực của công cụ lãi suất. Do thời gian và kiến thức có hạn nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô, bạn bè và những người quan tâm tới vấn đề này để có nhận thức đúng hơn trong lần viết sau cũng như trong thực tiễn. Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên Trần Văn Hoàng Phần I : Một số vấn đề chung I- Lý thuyết về lãi suất Các nhà kinh tế học cổ điển coi lãi suất là nhân tố tạo ra sự cân bằng giữa nhu cầu đầu tư và ý muốn tiết kiệm. Đầu tư thể hiện cầu về nguồn vốn có thể đầu tư và tiết kiệm thể hiện lượng cung, trong khi lãi suất là cái giá của nguồn lực có thể đầu tư và ở mức này lượng cầu và lượng cung bằng nhau. Đúng như giá của một mặt hàng nhất định được xác lập ở mức tại đó lượng cầu vầ lượng cung của mặt hàng đó bằng nhau, lãi suất dưới tác động của các tác nhân thị trường cũng sẽ dừng lạỉ mức tại đó lượng đầu tư với mức lãi suất đó bằng lượng tiết kiệm với lãi suất đó. Kinh tế học hiện đại đã đưa ra một khái niệm dễ hiểu về lãi suất như sau : Lãi suất về thực chất chính là “giá mua” và “giá bán” của vốn (tiền, tài sản). Có nghĩa là khi người đi vay (hoặc người cho vay) gửi (hoặc cho vay) một lượng tiền (vốn) nhất định nào đó mà ngoài lượng tiền (vốn) đó sau một thời gian phát sinh thêm một khoản mới theo tỷ lệ phần trăm với lượng tiền (vốn ) ban đầu thì đó chính là phần lãi. Phần lãi ở đây có thể là khoản thu thêm (đối với người cho vay) cũng có thể là phần phải trả (đối với người đi vay) và người ta gọi chung là lãi suất . Như vậy, lãi suất là giá cả của các khoản tín dụng, nhưng bởi vì hàng hoá ở đây không phải là hàng hoá thông thường mà là các khoản tiền vay- một loại hàng hoá đặc biệt nên lãi suất không chỉ là một loại giá cả thông thường mà là một loại giá cả đặc biệt. II. Phân biệt các loại lãi suất Lãi suất danh nghĩa : Lãi suất danh nghĩa là lãi suất chưa tính đến yếu tố làm thay đổi giá (mức lạm phát). Ta luôn có công thức : Lãi suất danh nghĩa (i) = lãi suất thực tế + mức lạm phát dự tính (pi). Suy ra: ir = i- pi Để hiểu rõ vấn đề này, ta lấy một ví dụ cụ thể sau đây: Giả sử ta thực hiện cuộc cho vay đơn 1 năm với một khoản tiền nhất định nào đó với lãi suất 5% (ký hiêụ i =5%) và dự tính mức giá giữ nguyên không đổi trong thời gian 1 năm (ký hiệu pi =0%). Vì cho vay, vào cuối năm ta sẽ có thêm 5% hiện vật, nghĩa là, theo số hàng hoá và dịch vụ thực tế ta có thể mua được. Trong trường hợp này, lãi suất mà ta nhận được theo số lượng thực tế của hàng hoá và dịch vụ là 5%, nghĩa là : ir = 5% - 0%. 2) Lãi suất thực : lãi suất thực tế là lãi suất đã tính đến yếu tố lạm phát (sự thay đổi giá cả sau 1 năm). Cũng từ ví dụ trên điều gì sẽ xảy ra nếu lãi suất tăng lên 10%, nhưng dự tính lạm phát pi = 20% trong 1 năm. Tuy ta có thêm 10% số tiền vào cuối năm nhưng lại phải trả thêm 20% để mua hàng (vì mức giá đã tăng do lạm phát tăng), kết quả là ta chỉ có thể mua ít đi 10% hàng hoá ở cuối năm và ta đã bị kém đi theo hiện vật. Có nghĩa là : ir = 10% - 20% = -10%. Với tư cách là nhà cho vay, rõ ràng không ai thích thực hiện một khoản cho vay trong điều kiện này, bởi và tính theo số hàng hoá và dịch vụ thực, ta thu được khoản lãi suất âm – 10%. Mặt khác người đi vay hoàn toàn có lợi vì cuối năm tổng số tiền mà họ phải hoàn trả sẽ kém giá đi 10% tính theo số hàng hoá và dịch vụ – người đi vay sẽ được lợi 10% theo hiện vật. Sự khác nhau giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa là điều quan trọng và lãi suất thực phản ánh chi phí thực tế của việc vay mượn có thể là một công cụ chỉ báo tốt hơn ý muốn đi vay hay cho vay. Nó tỏ ra là một chỉ dẫn tốt hơn về việc người dân sẽ bị tác động như thế nào do những cái đang xảy ra trong thị trường tín dụng. Lãi suất chiết khấu : là lãi suất mà ngân hàng trung ương quy định đối với các ngân hàng thương mại trong quá trình chiết khấu. 4) Lãi suất cơ bản : Khoản 12 Điều 9 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam giải thích : “lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh ”. 5). Lãi suất tái cấp vốn : lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do ngân hàng Nhà nước áp dụng khi tái cấp vốn. III. Vai trò của lãi suất 1) Lãi suất giúp cho Nhà nước kiểm soát mức cầu tiền tệ. Chi phí giữ tài sản dưới dạng tiền là thu nhập từ lãi suất mà các tài sản có thể tạo ra nếu như để chúng dưới dạng trái phiếu. Lãi suất chính là cơ hội của việc giữ tiền. Trong điều kiện khác không đổi, khi lãi suất giảm xuống người dân muốn để nhiều tài sản dưới dạng tiền hơn và ít tài sản dưới dạng trái phiếu hơn. Quan hệ tỉ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu về tiền được gọi là hàm cầu về tiền. Hàm này có dạng như sau: LP =kY-hi Trong đó: LP là mức cầu về tiền thực tế Y là thu nhập i là lãi suất k, h là các hệ số phản ánh độ nhạy cảm của mức cầu tiền đối với thu nhập và lãi suất. Ta có mối quan hệ giữa lãi suất và mức cầu tiền như hình vẽ bên: Với mức cung tiền tại Mo và i0 lãi suất là io thì đường cầu về tiền là đường LPo Khi mức cung tiền tăng tới M1 thì đường cầu là LP1 2) Lãi suất kích thích hoặc kìm hãm đầu tư. Đầu tư , kể cả đầu tư cơ bản (vốn cố định) và vốn luân chuyển (hàng tồn kho) đều có quan hệ mật thiết với lãi suất. Các chi phí đầu tư phải thu được lợi nhuận bù đắp được chi phí cơ hội của vốn bỏ ra (lãi suất). Nếu mức lãi suất thấp sẽ có nhiều dự án được đầu tư hơn (kích thích đầu tư), còn mức lãi suất cao thì ngược lại (kìm hãm đầu tư). Đường cầu đầu tư có dạng dốc nghiêng đi xuống biểu thị lợi ích cận biên của đầu tư giảm dần. Chúng ta giả sử mối quan hệ giữa chi tiêu cho đầu tư và lãi suất là mối quan hệ nghịch đảo với lập luận kinh điển là, thông thường các doanh nghiệp trong kinh tế thị trường vay vốn để mua hàng hoá đầu tư, lãi suất cho các khoản vay đó càng cao, thì lợi nhuận của doanh nghiệp dự kiến sẽ thu được từ các khoản vay để mua thiết bị, nhà xưởng càng thấp, và vì vậy họ sẽ càng ít muốn đầu tư, ngược lại, các công ty sẽ mong muốn vay vốn đầu tư nhiều hơn khi lãi suất xuống thấp hơn. Dưới đây ta xét phương trình: I = I0 - bi Trong đó : I: Đầu tư dự kiến i: Lãi suất trung bình/năm I0: Chi tiêu tự định (tức là chi tiêu đầu tư độc lập với thu nhập và lãi suất b: Thước đo nhạy cảm của đầu tư đối với lãi suất Dựa trên số liệu từ bảng 1, ta được hàm ước lượng của đầu tư phụ thuộc vào lãi suất như sau: I= 50309,19 – 5,691754 i – [AR(1)=-5,691754] R2=0,9034 ; Adj R2=0,806 ; DW= 1,827 ;SMPL=91-95 Bảng 1: Đầu tư và lãi suất (Bảng số liệu) Năm Đầu tư (tỷ đồng theo giá 1989) Lãi suất thực (TB % năm) 1986 2.774 1987 2.668 1988 3.770 1989 3.290 62,5 1990 4.830 13,4 1991 4.067 25,6 1992 6.390 17,9 1993 9.004 16,4 1994 10.514 2,4 1995 121.862 4,1 1996 13.904.454 9,0 Qua phương trình trên ta thấy, hệ số ước lượng phù hợp với lý thuyết kinh tế, tức là với thu nhập cho trước, khi lãi suất i tăng lên thì nhu cầu về đầu tư giảm xuống và ngược lại, khi lãi suất giảm thì nhu cầu về đầu tư tăng lên. Kết quả Adj R2=0,806 có nghĩa là 80,6% thay đổi của đầu tư được giải thích bằng sự thay đổi lãi suất, phần còn lại 19,4% được giải thích bằng các yếu tố khác. Theo phương trình các ước lượng ở trên ta thấy, giả sử lãi suất bằng 0 thì nhu cầu về đầu tư là 10.543,7 tỷ đồng theo giá cố định 1989, khi lãi suất tăng lên 1% năm thì nhu cầu đầu tư sẽ giảm đi 1,732478 tỷ đồng theo giá 1989. Thực tế Việt Nam thời gian qua cho thấy, với xu thế giảm lãi suất cho vay khối lượng đầu tư tăng khá mạnh. Qua đó có thể thấy vai trò của công cụ lãi suất là khá lớn trong tăng cầu đầu tư. 3) Lãi suất với tổng cầu Ta biết rằng tổng cầu (kí hiệu là AD) của toàn bộ nền kinh tế được đo bằng công thức : AD=C+I+G+X-IM. Trong đó: C_Cầu về hàng hoá và dịch vụ của các hộ gia đình. I_Cầu về hàng hoá đầu tư của các hãng kinh doanh. G_ Chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ của chính phủ. X_Cầu về hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu. IM_Cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu. Do đó khi mức cung tiền tăng lên, lãi suất sẽ giảm xuống dẫn đến mở rộng khả năng tiêu dùng, khuyến khích đầu tư và xuất khẩu làm cho đường tổng chi tiêu dịch chuyển lên trên tạo nên một thu nhập (GNP) cao hơn. Như vậy thay đổi của lãi suất sẽ tác động đến quy mô tổng cầu và do đó tác động đến thu nhập . 4) Lãi suất giúp cho việc ổn định giá trị đồng tiền. Khi một nền kinh tế nhỏ như đất nước của chúng ta tham gia vào thị trường chung của thế giới, thì chính sách lãi suất của nước ta không ảnh hưởng đến mức lãi suất chung của thế giới. Trong một đất nước như vậy, lãi suất có xu hướng dao động xung quanh mức lãi suất chung của thế giới. Hay nói cách khác chúng ta giả sử rằng mức lãi suất của thế giới cho trước, kí hiệu là i*. Giả sử khi lãi suất trong nước tăng lên trên mức lãi suất của thế giới (i>i*), sẽ có nhiều công dân và nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào nước ta để thu một khoản tiền lãi cao hơn. Một luồng vốn sẽ chảy vào nước ta cho đến khi lãi suất trong nước cân bằng với lãi suất của thế giới (i=i*). Còn trong trường hợp ngược lại, khi lãi suất trong nước thấp hơn lãi suát của thế giới (i<i*) một số vốn trong nước sẽ “chảy” ra cho tới khi lãi suất được trở lại cân bằng. Thật vậy, khi vì một lý do nào đó, lãi suất trong nước tăng lên, tư bản nước ngoài sẽ đổ dồn trong nước gây ra sức ép nâng giá đồng nội tệ. Ngân hàng trung ương phải đứng ra mua ngoại tệ, tăng dự trữ vào để tăng cung nội tệ trên thị trường ngoại hối, nhằm giữ cho tỷ giá không đổi . Mặt khác dân chúng trong nước sẽ bán ngoại tệ đổi lấy nội tệ mua tài sản trong nước. Từ đó cho ta thấy lãi sút có vai trò quan trọng đối với việc ổn định tỷ giá. 5) Lãi suất với tiêu dùng và xuất khẩu. Chúng ta biết rằng trái phiếu và tiền tệ có quan hệ với nhau trong quá trình điều tiết mức cung tiền. Khi nhà nước muốn giảm lượng tiền trên thị trường xuống thì có thể thực bằng cách bán trái phiếu để thu tiền và ngược lại. Do đó khi mức cung tiền tệ tăng lên, lãi suất sẽ giảm xuống (hình 1), giá trái phiếu tăng lên do giá trị hiện tại của thu nhập trong tương lai có giá trị hơn gây ra hiệu ứng của cải và làm dịch chuyển hàm tiêu dùng lên trên- tiêu dùng sẽ tăng lên ở mỗi mức thu nhập. Trong trường hợp này, nếu có tín dụng tiêu dùng thì mức tiêu dùng cũng tăng lên bởi khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay tín dụng. 6) ảnh hưởng của công cụ lãi suất đối với tiết kiệm. Phương trình kinh tế lượng sử dụng để kiểm nghiệm mối quan hệ giữa tiết kiệm S và lãi suất tiền gửi i và lãi suất thực ir trung bình năm của loại kỳ hạn 3 tháng ở Việt Nam từ 1989 đến 1996 (xem bảng II) cho kết quả sau: S=9707,2205 – 134,64106 i + [Ma(1)=0,9206 , Backcast=1989] (7,77) (-3,950) (13,79) R2*= 0,95 ; Adj.R2= 0,92 ; DW=1,64 ; SMPL= 89 – 95 S=7106,131 – 129,381 ir (7,3685) (-13,79) R2 =0,7335 ; Adj. R2=0,68 ; DW=1,6 ;SMPL =89 – 95 Chú thích : Ma(1) : Biến xử lý trung bình dịch chuyển. Backcast=1989 :Số liệu so với năm 1989. R2 :Trung bình bình phương các sai số Adj : Adjuste _điều chỉnh SMPL: Sample_mẫu chọn số liệu Bảng 2 Các chỉ số tiết kiệm ,lãi suất danh nghĩa trung bình , lãi suất thực Năm Tiết kiệm(tỷ đồng Giá 1989) i danh nghĩa (% năm) ir thực tế (% năm) 1989 -400 97,0 62,5 1990 2.443 54,0 13,4 1991 3.270 42,0 25,6 1992 4.500 35,5 17,9 1993 5.710 21,6 16,4 1994 6.969 16,8 2,4 1995 8.840 16,8 4,1 1996 13,5 9,0 Trong phương trình này, các hệ số ở biến i và ir âm, tức là khi lãi suất tiền gửi của hộ gia đình tăng lên sẽ làm cho nhu cầu về tiết kiệm giảm đi, hay nói theo cách tương đương là, khi lãi suất tiền gửi ngân hàng giảm thì tiết kiệm tăng lên. Điều này trái ngược với lý thuyết ‘kinh điển’ (về mặt lý thuyết khi lãi suất ngân hàng tăng lên thì chi phí cơ hội cho việc giữ tiền lên do vậy xu thế tiết kiệm tăng lên ), nhưng phản ánh đúng thực tế ở Việt nam thời gian qua. Vậy điều này cần giải thích như thế nào? Thực ra, diễn biến tiết kiệm và lãi suất ở Việt nam không hẳn trái nghịch với quy luật kinh tế khách quan. Yếu tố tạo ra hiện tượng không bình thường này chính là vì lãi suất tiền gửi ở Việt nam thời gian qua rất khác biệt với lãi suất bình thường trong nền kinh tế thị trường đã ổn định. Do vậy dù lãi suất thị trường danh nghĩa giảm từ năm này qua năm khác, nhưng lãi suất thực nói chung vẫn còn cao, tác dụng hấp dẫn tiết kiệm vẫn còn lớn. Như vậy có thể nói, trong mấy năm vừa qua tỷ lệ tiết kiệm ở nước ta tăng nhanh nhờ chủ yếu vào ổn định nền kinh tế và phần nào chính sách lãi suất dương hợp lý. Tuy nhiên mặc dù tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh nhưng mức tiết kiệm của nước ta vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thấp xa so với nhu cầu đầu tư. Phần II : tác động trên thế giới và thực trạng lãi suất ở Việt Nam thời gian qua I. Tác động trên thế giới và diễn biến lãi suất ở Việt nam. Trong xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế, ngân hàng trung ương mỗi quốc gia khi tiến hành điều chỉnh lãi suất của mình trước hết phải xem xét tới diễn biến lãi suất trong khu vực và trên thế giới. Mới đây tháng 4/1999, ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) đã tuyên bố cắt giảm mức lãi suất chiết khấu cơ bản từ 3% xuống còn 2,5%. Đồng thời mức lãi suất áp dụng cho các ngân hàng vay vốn trực tiếp của ECB cũng hạ từ 4,5% xuống 3,5%. Các chuyên viên của Ngân hàng nhà nước Việt nam cho rằng, quyết định nói trên đã mở màn cho đợt cắt giảm lãi suất ở Châu Âu. Cũng trong tháng 4/1999 Ngân hàng trung ương Anh đã tuyên bố sẽ cắt giảm lãi suất Repo từ 5,5% xuống 5,25%. Uỷ ban chính sách tiền tệ Anh quốc cho biết, việc cắt giảm lãi suất được đưa ra trong điều kiện tỷ lệ lạm phát nằm dưới mức mục tiêu về tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Đây là cú cắt giảm lần thứ 6 của Ngân hàng trung ương Anh kể từ tháng 11/1999 và cũng là lần cắt giảm lãi suất nhiều nhất. Tiếp đến trong tháng 6 năm 1999 ngân hàng trung ương Anh quốc một lần nữa cắt giảm lãi suất xuống mức thấp trong vòng 22 năm gần đây, lãi suất giao dịch chính thức giảm từ 5,25% xuống 5%. Theo bước 2 ngân hàng trên Ngân hàng trung ương Thụy sỹ cũng đã cắt giảm lãi suất chiết khấu chủ chốt từ 1% xuống còn 0,5% và Ngân hàng trung ương Séc cắt giảm lãi suất từ 7,5% xuống 7,2%. Các ngân hàng thương mại Việt nam huy động ngoại tệ để cho vay lại một phần, phần còn lại để gửi ra thị trường nước ngoài. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm tăng rủi ro trên thị trường quốc tế. Các tổ chức tín dụng Việt nam đã phải thu hẹp hình thức đầu tư tại hầu hết các thị trường tiền gửi quốc té và việc đầu tư vào trái phiếu của chính phủ Mỹ được quan tâm hơn cả, sau đó là việc gửi tiền vào các ngân hàng nước ngoài có độ tín nhiệm từ AA trở lên và sang thị trường SIBOR, LIBOR. Loại hình đầu tư vào trái phiếu của chính phủ Mỹ thường chiếm tỷ trọng 25% –35% tổng số vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng và ngân hàng trung ương ra thị trường nước ngoầi, còn tiền gửi ngắn hạn vào thị trường SIBOR, LIBOR chiếm tỷ trọng 10%- 15%. Lãi suất trên các thi trường quốc tế giảm mạnh đã ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của các ngân hàng Việt nam. Năm 1994, tại hội nghị giám đốc ngân hàng, chủ trương hạ lãi suất đã được công bố nhưng lại bãi bỏ vì tỷ lệ lạm phát vượt quá 10%. Ba năm sau, năm 1996 chúng ta mới hạ được lãi suất. Năm 1997, Ngân hàng nhà nước tiếp tục cắt giảm lãi suất. Sang năm 1998 Ngân hàng nhà nước đã có quyết định điều chỉnh hạ lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng và trần lãi suất cho vay bằng đồng USD nhằm hỗ trợ và cho giải pháp về quản lý và mở rộng tín dụng bằng đồng USD. Xu hướng lãi suất giảm thấp đã cho phép nền kinh tế thế giới cũng như Việt Nam phục hồi và đi lên (GDP năm 1999 tăng 9%, năm 2000 tăng 7,2%) nhưng cho đến thời điểm hiện nay, năm 2001 thì sự phát triển rất khả quan báo hiệu sự tăng trưởng khá và GDP tăng khoảng 6,7% so với năm 2000 ). Do mức lãi suất nội tệ hiện nay tuy ở mức cao so với nền kinh tế phát triển nhưng không phải là cao so với một số nước trong khu vực. Lãi suất thực của đồng Việt nam có xu hướng giảm so với năm 1997 (lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 năm phổ biến ở mức 10,2% - 10,56%, lạm phát năm 1997 là 3,6%, do đó lãi suất thực là 6,6% - 7%, năm 1998 lãi suất tiền gửi 1 năm là 12% nhưng lạm phát khoảng 10% nên lãi suất thực là 2% và năm 1999 mức lạm phát cũng tương tự như năm 1998. Do lạm phát tăng cao nên trong thời kù ngắn hạn vẫn chưa có sự thay đổi lãi suất cho vay tối đa đồng Việt nam vì việc tăng lãi suất sẽ gây khó khăn cho việc mở rộng tín dụng và giảm lãi suất sẽ không huy động được vốn ngân hàng. Như vậy hoạt động cho vay sẽ có sự lựa chọn hơn và chương trình kinh tế ưu đãi vẫn được hỗ trợ theo chính sách lãi suất ưu đãi hiện hành. Với tác động của việc giảm lãi suất quốc tế và xu hướng phân tích như trên sẽ tăng sức ép giảm giá đối với đồng USD do các khoản tiền gửi bằng đồng USD trở nên ít hấp dẫn hơn các đồng tiền khác.Thực tế là nền kinh tế Mỹ năm 2000 và 9 tháng dầu năm 2001 này cho thấy sự giảm sút về tăng trưởng so với toàn bộ thời kỳ 9 năm trước đó và so với tháng 11 năm 2000 thì trong tháng 12 giá trị của đồng Việt nam tăng lên, khoảng 14500 đồng/USD. Đó là dấu hiệu cho thấy sự tác động của lãi suất cũng như nhịp độ tăng của các quốc gia có đồng tiền mạnh trên thế giới ảnh hưởng không nhỏ tới Việt nam. II.Diễn biến lãi suất năm 1999-2000 Bước vào năm 1999, nền kinh tế nước ta đang trên đà giảm sút nhịp độ tăng trưởng; khả năng cạnh tranh của hàng hoá rất thấp ở cả thị trường trong và ngoài nước; hiệu quả kinh doanh của một bộ phận lớn các doanh nghiệp đạt thấp; tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ tiếp tục gây ảnh hưởng bất lợi đối với nước ta, hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế gặp phải nhiều khó khăn. Trước khó khăn của nền kinh tế, tháng 1/1999 Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh trần lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) ở khu vực thành thị từ 1,2% - 1,25%/tháng xuống còn 1,1%-1,15%/tháng và không áp dụng đối với trần lãi suất ở khu vực nông thôn và các tổ chức tín dụng cổ phần, hợp tác. Tuy nhiên, do thị phần tín dụng của các NHTMQD chiếm trên 70%, nên với việc điều chỉnh lãi suất, mặt bằng lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường đã giảm nhẹ; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 0,7%-1%/tháng còn 0,6%-0,8%/tháng; lãi suất cho vay thấp hơn mức trần 0,05%/tháng. Đến cuối tháng 5/1999, diễn biến kinh tế vĩ mô theo chiều hướng xấu : chỉ có khu vực đầu tư nước ngoài là tăng trưởng cao, còn khu vực công nghiệp nguồn vốn trong nước tốc độ ngày có xu thế chậm lại; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3,4,5 giảm liên tục (0.7%, 0.6%, 0.4%), tính chung năm tháng đầu năm là 1.9%; hạn hán diễn ra gay gắt ở một số vùng ; hàng hoá ứ đọng; tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm hơn tốc độ tăng tiền gửi của các tổ chức tín dụng, nên các tổ chức tín dụng có khả năng điều hoà vốn cho vay giữa thành thị và nông thôn , NHNN đã điều chỉnh trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn và tổ chức tín dụng cổ phần xuống cùng một mức trần lãi suất là 1,15%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6-7/1999 tiếp tục giảm 0,3% và 0,4%, hiện tượng thiểu phát đã bộc lộ rõ, tăng trưởng kinh tế vẫn đạt thấp, vốn huy động của các tổ chức tín dụng tăng khá lớn, trong khi đó việc cho vay khó khăn nên xuất hiện tình trạng ứ đọng vốn. Thực hiện chủ trương kích cầu của Chính Phủ, NHNN điều chỉnh trần lãi suất cho vay xuống mức 1,05% áp dụng chung cho cả thành thị và nông thôn. Để kích cầu tín dụng trong tháng 9-10/1999, NHNN đã tiếp tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay: xuống mức 0,95%/tháng rồi đến 0,85%/tháng đối với khu vực thành thị và nông thôn là 1%/tháng. Năm 2000, NHNN tiếp tục thực hiện việc quản lý và điều hành chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng; trong khuôn khổ trần lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn tín dụng từng giai doạn, nhằm mở rộng tín dụng, góp phần quan trọng vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế trong năm.Trần lãi suất trong năm 2000 được điều chỉnh liên tục, phù hợp với chỉ số lạm phát, góp phần thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng. Có thể nói, đây là năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín dụng nhiều nhất từ trước tới nay, lãi suất năm 2000 luôn có xu hướng giảm sau các lần điều chỉnh. Đến đâu tháng 8/2000, lạm phát 7 tháng đầu năm ở mức thấp. Từ tháng 2 đến tháng 7 liên tục giảm phát, tình hình cung vượt quá cầu về vốn tín dụng, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam từ 1,15%/tháng xuống 1,05%/tháng; riêng trần lãi suất cho vay của NHTM cổ phần nông thôn là 1,15%/tháng và Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là 1,5%/tháng. Ngày 2/8/2000, NHNN đã ban hành các Quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất. Theo đó, NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ % biên độ trên, dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các NHTM áp dụng đối với khách hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp. Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản. Lãi suất cho vay của TCTD cao nhất =LSCB +tỷ lệ % Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, dựa trên mặt bằng lãi suất được hình thành trên thị trường nông thôn và thành thị, không tác động làm thay đổi lãi suất thị trường và không tạo ra tâm lý về việc NHNN tăng trần lãi suất. Nhờ cơ chế điều hành mới này, lãi suất đang từng bước được tự do hoá nhưng vẫn bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường, phù hợp với mục tiêu và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiến hành cải cách DNNN, điều kiện thực tế thị trường tiền tệ trong nước và hạn chế đến mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường tiền tệ thế giới. Cơ chế mới này cũng tỏ ra khá phù hợp với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và thế giới, lãi suất trong nước đã theo sát lãi suất thị trường quốc tế. NHNN đã và đang nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm về quá trình tự do hoá lãi suất của các nước để áp dụng cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. III. Những vấn đề đặt ra đối với lãi suất : 1).Cần xử lý hài hoà quan hệ lợi ích thể hiện trong giá cả - lãi suất : Lãi suất là một trong những yếu tố hết sức phức tạp và nhạy cảm.Nó vừa là công cụ vĩ mô điều hành gián tiếp chính sách tiền tệ quốc gia, xử lý hài hoà giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, vừa là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng. Lãi suất vừa có tác dụng to lớn làm thu hẹp hay mở rộng tín dụng, làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng và phương tiện thanh toán trong nền kinh tế vừa có tác động lên cung cầu vốn cụ thể, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Là một loại giá cả đặc biệt, lãi suất chứa đựng trong mình nhiều mối quan hệ, trong đó có quan hệ lợi ích giữa người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng. Lãi suất chỉ thực sự là đòn bẩy tốt nhất khi xử lý hài hoà các quan hệ lợi ích đó. Chỉ thực thi một chính sách điều hành lãi suất như vậy mới xử lý đúng đắn các vấn đè của vĩ mô, đồng thời mở ra tình thế mới cho vi mô phát triển sinh động. Chính sách lãi suất lâu nay của ta chỉ chú ý bảo vệ lợi ích của người vay vốn (nhà sản xuất) và của người gửi tiền là cán bộ công nhân viên ,người lao động về hưu. Trong cơ chế điều hành lãi suất này, lợi ích của cacá ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng không được quan tâm đầy đù. Việc giảm lãi suất cho vay, khó khăn trong hạ lãi suất đầu vào, hẹp mức chênh lệch lãi suất đã khiến cho một số ngân hàng thương mại cảm giác bị đóng vai trò “ngân hàng chính sách”, cho vay dưới giá thành, bao cấp cho doanh nghiệp 2).Hạ lãi suất không phải là đòn bẩy duy nhất để kích cầu : Thực trạng hiện nay là các ngân hàng đang thừa vốn trong khi các doanh nghiệp lại thiếu vốn. Nguyên nhân chủ yếu không phải do lãi suất cao, hạ xuống sẽ xử lý được. Hiện tại tổ tín dụng đang bí đầu ra, trước hết là do không tìm được các dự án khả thi, có khả năng hoàn vốn và trả được nợ. Các doanh nghiệp đang hoạt động thì sản xuất trì trệ, khả năng cạnh tranh kém, hàng hoá ứ đọng. Trong điều kiện thua lỗ các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc không dám vay vốn đầu tư. Vì vậy chỉ trong chờ hạ lãi suất cũng không mở tín dụng được. Trong nền kinh tế thi trường, một trong những nguyên tắc kinh doanh tiền tệ là “vay để cho vay” ; có cho vay mới huy động được vốn. Thực trạng hiện nay, nền kinh tế đói vốn, nhưng không có khả năng hấp thụ vốn với điều kiện làm ăn có hiệu quả; ngân hàng không cho vay được nên thừa vốn. 3). Nên đẩy mạnh cho vay và kích cầu vào khâu nào : Đã có nhiều ý kiến cho rằng vốn “no” ở thành thị . Cầu đầu tư và cầu tiêu dùng ở đô thị không gay gắt bằng nông thôn. ở thành phố có tiền ngưòi ta cũng không đi mua sắm gì nhiều, đầu tư buôn bán thì khó tìm ra lợi nhuận. Cho nên tốt nhất là gửi ngân hàng kiếm lãi; không lợi tức nào bằng lãi suất ngân hàng .Vì vậy vốn huy động của các ngân hàng thương mại ngày càng nhanh. Trong khi đó, cầu đầu tư và tiêu dùng ở nông thôn rất cấp bách. Chỉ riêng việc kiên cố hoá các kênh mương, thuỷ lợi, nâng cấp và liên hoàn đường giao thông nông thôn , đưa điện về các hộ gia đình, phát triển kinh tế trang trại, xây dựng vườn rừng xây hố bioga để sản xuất chất đốt, vv… đã đặt ra yêu cầu vốn lớn. Cầu tiêu dùng ở nông thôn giảm sút là do gặp khó khăn trong tiêu thụ nông sản, kể cả nông sản xuất nhập khẩu. Để kích cầu ở nông thôn , bên cạnh việc đầu tư thêm vốn, cái chính là làm sao người nong dân tiêu thụ được nông sản với giá ổn định. Trong khi đó trần lãi suất ở nông thôn cao hơn so với thành thị là một ngịch lý. Vẫn biết là chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng ở nông thôn rất cao, nên lãi suất trần ở nông thôn cao hơn so với thành thị là điều dễ hiểu. Nhưng mức lãi suất ở nông thôn quá cao ,chênh lệch nhiều với thành phố là không hợp lý, vì yêu cầu kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nông thôn dặt ra mạnh hơn nhiều so với thành thị . 4).Dồn lãi suất cho vay ngắn, trung và dài hạn vào một mức thì điều gì sẽ xảy ra : Đã nhiều năm trước đây, trong hệ thống lãi suất đã từng không có sự phân biệt giữa các loại tín dụng ngắn trung, dài hạn biến các ngân hàng thương mại thành các ngân hàng chỉ có khả năng cho vay ngắn hạn. Với thói quen hoạt động ngắn hạn, các ngân hàng thương mại của ta chỉ đủ sức cho vay để duy trì quy mô sản xuất cũ, không có khả năng cho vay xây dựng cơ sở vật chất. Qua nhiều năm phấn đấu, đã có sự phân biệt lãi suất ngắn, trung và dài hạn thì lịch sử lặp lại : Tất cả các loại cho vay ngắn, trung, dài hạn dồn về một mức lãi suất. Do đó người ta băn khoăn nhiều câu hỏi : lãi suất như vậy làm sao có thể huy động được các nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư. Đầu tư trung và dài hạn có nhiều rủi ro hơn cho vay ngắn hạn, mức lãi suất như nhau thì lấy gì mà bù đắp ? Không có nhiều vốn trung dài hạn thì đến bao giờ mới chấm dứt tình trạng sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn – một việc mà Luật các tổ chức tín dụng đã khống chế chặt chẽ ? Cơ chế lãi suất như vậy làm sao có khả năng đáp ứng vốn cho yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 5). Tương đương giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất ngoại tệ còn vênh, nhất là chênh lệch lãi suất : Hiện nay mức chênh lệch đầu ra - đầu vào đối với lãi suất VND vào khoảng 0,1 –0,4%/tháng (tức là 1,2 – 1,68%/năm) hoặc thấp hơn nữa. Trong khi đó chênh lệch đầu ra - đầu vào USD là 3%/năm. Như vậy kinh doanh ngoại tệ có thu nhập cao hơn kinh doanh tiền đồng. Không ít ngân hàng huy động được ngoại tệ đã không cho các doanh nghiệp trong nước vay mà gửi ra nước ngoài kiếm chênh lệch cao hơn cho vay trong nước. Đây là một bất lợi cho nền kinh tế . Do vậy việc sử lý đúng đắn tương quan giữa VND và ngoại tệ là một trong những yếu tố tích cực để thu hút nguồn vốn từ ngoài vào, kể cả nguồn ngoại tệ mà chi nhánh ngân hàng nước ngoài đưa vào kinh doanh ở nước ta. Phần III : Một số kiến nghị nâng cao hiệu lực của công cụ lãi suất Trong hơn 10 năm đổi mới , chính sách lãi suất của ngân hàng nhà nước đã được điều hành theo hướng tích cực, nới lỏng từng bước theo hướng, quyền chủ động ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng được mở rộng nên làm tăng khả năng cạnh tranh nhưng vẫn kiểm soát được lãi suất trên thị trường tiền tệ, góp phần phát triển thị trường tài chính trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn đinh giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt nam. Để thúc đẩy phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, Ngân hàng nhà nước phải đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, từng bước triển khai thực hiện các chủ trương đổi mới hoạt động ngân hàng của Đảng, Nhà nước , Quốc hội đề ra. 1.Tiếp tục duy trì cơ chế điều hành lãi suất cơ bản : Trong điều kiện kinh tế, thị trường tiền tệ hiện nay, cơ chế lãi suất mới không làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, tạo điều kiện tổ chức tín dụng huy động vốn ở trong và ngoài nước ở mức cao để đảm bảo vốn cho tăng trưởng có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của chủ trương kích cầu, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt nam. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất có điều chỉnh linh hoạt, có lợi cho các bên, khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động và cho vay vốn trung và dài hạn. Riêng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ tuy đã tiếp cận dần với thông lệ quốc tế nhưng sẽ thấp hơn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35158.doc
Tài liệu liên quan