Một số vấn đề về chính sách tiền tệ, công cụ thực hiện & định hướng hoàn thiện ở Việt Nam

Phần mở đầu Bước vào thế kỷ 21, cả nhân loại trong xu hướng toàn cầu hoá các nền kinh tế của các thể chế khác nhau đang trên con đường hội nhập chung vào các hoạt động kinh tế đầy sôi động. Loài người đang nỗ lực thúc đẩy thế giới tiến lên trong văn minh với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế. Vậy đáp số của bài toán phát triển kinh tế ở đâu? Nếu ta coi nền kinh tế là một cơ thể sống thì đồng tiền là dòng máu này chảy đến từng tế bào của nền kinh tế thúc đẩy sự phát triển, tăng trưởng

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về chính sách tiền tệ, công cụ thực hiện & định hướng hoàn thiện ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh. Nếu thiếu tiền nền kinh tế sẽ thiếu cầu, kiệt quệ, tăng trưởng chậm và hàng loạt các căn bệnh khác của một nền kinh tế “thiếu sự sống”. Ngược lại nếu quá dư thừa tiền thì sao? Khi lượng tiền tăng quá nhanh gây ra lạm phát, thất nghiệp và nền kinh tế mất ổn định, suy thoái nghiêm trọng. Sự dư thừa này kéo theo nó hàng loạt các vấn đề có tác hại đến sự phát triển và tăng trưởng cuả nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là làm sao điều tiết được tiền, một phương tiện mạnh nhất cũng là điểm yếu nhất của nền kinh tế khi khủng hoảng tiền tệ?. ở tầm quản lý vĩ mô, Chính phủ thường sử dụng chính sách tiền tệ thông qua ngân hàng(NHTW) để điều tiết lượng tiền đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế, đạt được các mục tiêu trong tương lai. Và riêng Việt Nam với hơn 10 năm đổi mới theo cơ chế thị trường, có rất nhiều vấn đề đặt ra. Chính vì vậy trong khuôn khổ môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ em đã nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề về Chính sách tiền tệ, công cụ thực hiện và định hướng hoàn thiện ở Việt Nam”. I. Chính sách tiền tệ và mục tiêu của chính sách tiền tệ 1.Vị trí và vai trò của chính sách tiền tệ Hiện nay trên thế giới bất cứ Chính phủ nào cũng phải đối mặt với sự mất ổn định của nền kinh tế đó là lạm phát, thất nghiệp, là khủng hoảng, sự trì trệ của nền kinh tế. Bên cạnh các chính sách khác của Chính phủ thì chính sách tiền tệ là một công cụ hữu hiệu để giải quyết sự mất ổn định trên; chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế tới mức sản lượng và việc làm mong muốn, đem lại sự tăng trưởng ổn định nền kinh tế. Chính sách tiền tệ ngày càng trở nên vô cùng quan trọng đặc biệt là với các quốc gia có nền kinh tế mở, tỷ giá linh hoạt, vốn chuyển động tự do hoàn toàn. Xu hướng chung của chính sách tiền tệ lúc này là nó sẽ đưa tỷ giá của đồng nội địa giảm, làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong nước và nước ngoài, xuất khẩu tăng lên lãi suất trở về lãi suất cân bằng của thế giới, thất nghiệp giảm, kinh tế tăng trưởng mạnh, Chính sách tiền tệ là một công cụ để đẩy lùi lạm phát và kiềm chế ở mức thấp đưa lạm phát trở thành một công cụ kích thích tăng trưởng của kinh tế, giải thoát cho nền kinh tế khỏi nguy cơ tụt hậu trầm trọng. Chính sách tiền tệ góp phần làm ổn định tiền tệ, giúp cho Chính phủ nhanh chóng xây dựng một hệ thống tài chính - tiền tệ và tín dụng phát triển góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phục vụ phát triển cho nền kinh tế. Chính sách tiền tệ là một bộ phận chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Nó là một công cụ của quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do NHTW khởi thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền, ổn định và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ không chỉ điều chỉnh lượng tiền cung ứng thêm cho một thời gian nhất định thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, mua ngoại tệ, tạm ứng ngân sách mà còn điều chỉnh khối lượng tiền tệ có sẵn trong lưu thông. Đây là quá trình kiểm soát tiền tệ làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền tệ với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa(GNPn), giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng nói chung không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Chính sách tiền tệ phải hướng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng, làm tăng hoặc giảm khối lượng tiền tệ nói chung chứ không phải khống chế tiền mặt. Chính sách tiền tệ có vai trò quyết định trong việc điều hành toàn bộ hệ thống ngân hàng từ NHTW đến ngân hàng thương mại và các định chế tài chính. Nó cho phép kiểm soát hệ thống tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, không những thế nó ổn định sức mua của đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, là công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống kinh doanh tiền tệ làm cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng được lành mạnh an toàn và có hiệu quả trước sóng gió của thị trường. Nó cho phép dự báo tình hình báo động các diễn biến thuận lợi và bất lợi của lưu thông tiền tệ, phân tích và đưa ra các giải pháp cần áp dụng, các công cụ cần vận hành để hệ thống tiền tệ được lành mạnh. Một chính sách tiền tệ thích hợp sẽ là tác nhân mạnh mẽ để ổn định và kích thích tăng trưởng kinh tế và ngược lại sẽ gây mất ổn định, sự phát triển kinh tế chậm lại thậm chí lâm vào đình trệ, suy thoái và khủng hoảng. Sự phát triển kinh tế và lành mạnh về tài chính-tiền tệ là tỷ lệ thuận với nhau. Vì vậy nếu xây dựng chính sách tiền tệ phù hợp vào các điều kiện của một nền kinh tế là một vấn đề chiến lược. Trong một quãng thời gian cụ thể nào đó chính sách tiền tệ quốc gia có thể được xác định theo hai hướng: Chính sách tiền tệ mở rộng: là chính sách nới lỏng tiền tệ ( tăng cung ứng tiền tệ trong lưu thông ) nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, trong trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm vào chống suy thoái và kích thích tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ thắt chặt: chính sách tiền tệ này thu hẹp lượng tiền trong lưu thông nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, lúc này chính sách tiền tệ nhằm vào chống lạm phát. Việc sử dụng chính sách tiền tệ tuỳ theo thực trạng nền kinh tếthông qua nhiều công cụ khác. Tuỳ từng lúc nhấn mạnh cái gì theo từng mục tiêu và đó thực sự là một nghệ thuật của nhà vạch chính sách. 2.Mục tiêu của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, nó là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do NHTW khởi thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đối nội và dối ngoại của đồng tiền, ổn định và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ không chỉ điều chỉnh khối lượng tiền tệ cung ứng thêm cho một thời gian nhất định thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, mua ngoại tệ, tạm ứng ngân sách mà còn điều chỉnh khối tiền tệ có sẵn trong lưu thông. Đây là quá trình kiểm soát tiền tệ làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng nói chung, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu lưu thông. Chính sách tiền tệ phải hướng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng hoặc giảm khối lượng tiền tệ nói chung chứ không phải khống chế tiền mặt. Và bằng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ mà NHTW đưa ra đó là: dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất, hạn mức tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở, chính sách tỷ giá, tái cấp vốn... Các công cụ nêu trên đã góp phần ổn định tiền tệ, kiểm soát được lạm phát và tăng trưởng kinh tế đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, vay từ nước ngoài để đầu tư tín dụng tăng năng lực sản xuất. Chính vì lẽ đó, chính sách tiền tệ theo đuổi 4 mục đích cơ bản sau đây: 2.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, ổn định sức mua dối nội của đồng tiền Trong điều kiện lưu thông các dấu hiệu giá trị thì lạm phát luôn là khả năng tiềm tàng thậm chí khó tránh khỏi khi mà hệ thống kim bản vị cũng như tiền tín dụng chuyển đổi ra vàng không còn nữa thì NHTW luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ của mình, Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hoá là tiền đề cho nền kinh tế phát triển bình thường đảm bảo đời sống người lao động. Giá trị đối nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước. Sức mua của đồng tiền biến đổi tỷ lệ nghịch với giá cả hàng hoá và dịch vụ. ổn định sức mua đồng tiền là một đại lượng tương đối. Nó biến động xung quanh một biên độ cho phép; ở nước ta hiện nay đang phấn đấu giữ cho tỷ lệ lạm phát ở mức độ một con số (tức là dưới 10%). 2.2. ổn định sức mua của đồng tiền Giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiềnđược đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi. Tỷ giá hối đoái là một đại lượng so sánh giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ, vì vậy tỷ giá hối đoái có liên quan đến hàng loạt các yếu tố: Giá thành nhập và xuất khẩu. Tỷ lệ lạm phát làm thay đổi sức mua đồng tiền trong nước. Tình trạng cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế làm biến đổi quan hệ cung cầu ngoại tệ. Yếu tố tâm lý. Chính sách can thiệp tỷ giá của Nhà nước. Tỷ giá hối đoái là một yếu tố, một tín hiệu kinh tế hết sức nhạy cảm. Tỷ giá bị nâng lên quá sức mua thực tế của đồng tiền trong nước đều kéo theo những hệ quả tích cực hoặc tiêu cực khó lường cho nền kinh tế. Cho nên đường lối kinh tế xuyên suốt trong điều hành chính sách tiền tệ là ổn định (không phải cố định) tỷ giá hối đoái. Như vậy, giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền có mối liên quan tác động qua lại với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và kinh tế trong nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hoá, dịch vụ và tỷ giá hối đoái. 2.3. Tăng trưởng kinh tế. Về đại thể, khi tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) lớn hơn nhịp độ tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế. Việc tăng trưởng khối lượng tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn đến thực trạng kinh tế. Khi khối lượng tiền tệ tăng lên, lãi suất tín dụng thường giảm xuống, đồng tiền “rẻ” đi sẽ kích thích đầu tư, tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Mặt khác tăng khối lượng tiền tệ làm tăng tổng cầu, hàng tồn đọng giảm, khích lệ gia tăng sản xuất. Ngược lại khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất sẽ tăng làm cho đầu tư giảm, giảm theo tổng sản phẩm quốc dân(GNP). Trong thời kỳ đầu khi các cơ chế tác động của nền kinh tế thị trường chưa nhạy cảm thì người ta thường sử dụng phương pháp ấn định và điều chỉnh lượng cung tiền tệ trực tiếp, chủ yếu bằng hạn mức tín dụng nhưng khi các cơ chế kinh tế thị trường đã thuần thục, tinh vi và nhạy cảm thì người ta chuyển sang sử dụng chủ yếu các chính sách và công cụ quản lý vĩ mô gián tiếp để thực hiện ý đồ thắt chặt hay mở rộng khối tiền tệ cung ứng. Mục tiêu tăng truởng kinh tế vững chắc quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao bởi vì nhf kinh doanh muốn đầu tư nhiều hơn vào tư liệu sản xuất để nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế khi mức thất nghiệp thấp.Ngược lại khi thất nghiệp cao và các xí nghiệp nhàn rỗi thì không có lợi để cho một hãng đầu tư thêm các nhà máy và thiết bị. Mặc dù hai mục tiêu này quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng các chính sách có thể đặc biệt nhằm vào việc khuyến khích tăng trưởng kinh tế bằng cách trực tiếp khuyến khích các hãng đầu tư hoặc khuyến khích nhân dân tiết kiệm để có thêm nhiều vốn cho các hãng đưa vào đấu tư. 2.4. Tạo công ăn việc làm: Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ hướng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mỗi người, nhất là đối với các quốc gia chưa phát triển, nơi nào sức lao động là hàng hoá thì nơi đó thất nghiệp là một căn bệnh kinh niên. Chính sách tiền tệ chỉ có thể hướng vào việc tạo công ăn việc làm nhiều hơn thông qua các tác động để mở rộng đầu tư, mở rộng hoạt động kinh tế. Chống thất nghiệp, tạo công ăn việc làm chỉ có thể đạt tới mức nhân dụng cao nhất, khó có thể toàn dụng được. Muốn đạt được mục tiêu về công ăn việc làm phải chống suy thoái nhất là suy thaói chu kỳ, đạt được mức tăng trưởng kinh tế ổn định. Nhìn tổng quát giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm có mâu thuẫn đối nghịch nhau. Thông thường khi kiềm chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế giảm, dễ dẫn đến suy thoái và thất nghiệp. Ngược lại, khi mở rộng đầu tư khắc phục suy thoái, tạo tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm thì rất khó kiềm chế lạm phát. Có nhiều ý kiến khác nhau về xử lý mâu thuẫn và tìm đến dung hoà giữa các xu hướng nói trên: Có nhà kinh tế hiện đại chủ trương đưa mục tiêu chống lạm phát lên hàng đầu, tất cả phải phục tùng yêu cầu chống lạm phát, kể cả tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm nhưng nếu ổn định mà để ổn định thì thực chất là tụt hậu, khó khăn sẽ phát sinh và có nguy cơ tái phát. Một số nhà kinh tế khác chủ trương phải “mua” bằng một tỷ lệ lạm phát thấp để đạt được mức độ tăng trưởng kinh tế vừa phải và một tỷ lệ thất nghiệp có thể chấp nhận được. Nó tạo được tình thế ổn định hơn, tránh được các cơn sốc lạm phát, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp. Có người cho rằng chấp nhận một mức lạm phát nhự nhàng đôi khi là liều thuốc bổ quan trọng để kích thích phát triển sản xuất, có thể tìm ra một phần chân lý ở luận điểm này. Nhưng nếu lấy lạm phát làm chất xúc tác cho tăng trưởng thì quả là một trò đi trên dây. Vì vậy vấn đề đặt ra là chính sách tiền tệ phải tìm được giải pháp để dung hoà được 4 mục tiêu trong từng giai đoạn cụ thể, để vừa kìm chế đượclạm phát vừa tăng trưởng được nền kinh tế và đạt mức nhân dụng cao. II. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là một bộ phận cấu thành trong chính sách vĩ mô của Nhà nước. Về thực chất điều chỉnh quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng trên 4 lĩnh vực quan trọng nhất. Khối lượng cung ứng tiền Kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế. Kiểm soát ngoại hối. Kiểm soát việc tạm ứng cho ngân sách Nhà nước. 1.Cung ứng và điều hoà khối tiền tệ a.Lượng tiền cung ứng. Ngân hàng TW phải có giải pháp duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa tiền và hàng bằng cách giữ nguyên hoặc tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Vì vậy việc kiểm soát lượng tiền cung ứng tăng thêm là rất quan trọng. Nó phụ thuộc vào: Nền kinh tế hàng năm tăng trưởng thì khối lượng tiền tệ cần tăng thêm bằng mứctăng trưởng kinh tế. Nếu lạm phát mà chưa kìm được thì khối tiền tệ cung ứng còn phải được tăng thêm bằng tỷ lệ lạm phát ( đã được kìm chế ). Khi kiểm soát khối tiền tệ còn phải tính đến tốc độ luân chuyển của đồng tiền và nó phụ thuộc vào các yếu tố: Tốc độ chu chuyển vật tư hàng hoá Lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền Sự tiên liệu của dân cư vào thời cơ và vận hội làm ăn sinh lời Khuynh hướng chỉ tiêu của dân chúng Chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước Trình độ kỹ thuật và khả năng tổ chức thanh toán của ngân hàng. Tóm lại qua việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ phải khống chế sao cho khối lượng tiền tệ cung ứng trong một thời kỳ nhất định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vòng quay tiền tệ từng thời kỳ. b.Làm cho thành phần khối tiền tệ (M) đa dạng lên cùng với quá trình phát triển công nghệ ngân hàng, gồm: Tiền mặt lưu thông ngoài ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng là M1 M1 và các khoản tiền tiết kiệm (có kỳ hạn) và tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại là M2 M2 và các loại tiền huy động tại các định chế tài chính khác là lhối lượng tiền tệ M3 Khối lượng tiền tệ cung ứng tăng thêm hàng năm về một phía nhằm đáp ứng đủ phương tiện thanh toán, gồm tiền mặt và các loại tiền gửi ở ngân hàng. Và phía khác nhằm dành cho các nhu cầu tín dụng ngắn hạn đối với nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách Nhà nước. c.Điều hoà khối lượng tiền tệ tăng giảm theo tín hiệu thị trường. Khối lượng tiền tệ tăng thêm chỉ là chỉ tiêu định hướng. Điều quan trọng là ngân hàng trung ương phải theo dõi diễn biến: Của hoạt động kinh tế Của giá cả Của tỷ giá hối đoái. Từ đó NHTW điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi không làm tăng giá cả hoặc tắc nghẽn lưu thông vì thiếu phương tiện thanh toán. Hai yếu tố đồng nhất của tín hiệu thị trường là giá cả và tỷ giá hối đoái. Còn tốc độ tăng trưởng và vòng quay đồng tiền đều biến động, khó biết trước chính xác. Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng phải thực hiện từ gốc, qua các nhu cầu đối ứng đặt ra trong các lĩnh vực tạo tiền bằng các chính sách tín dụng và ngoại hối trong những điều kiện khác nhau không đổi, có thể điều hoà lượng tiền cung ứng giữa ba kênh nói trên nhưng tổng số phải bằng tổng lượng tiền cung ứng đã xác định. d.Cách nhìn nhận đối với tiền mặt Để kiểm soát lạm phát, người ta quản lý từ gốc chứ không phải nhằm vào cái ngọn của nó là khống chế tiền mặt. Vì lúc này đã quá muộn, chỉ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với hệ thống ngân hàng. Nhu cầu tiền mặt thường phụ thuộc vào: Thói quen của dân chúng mỗi nước đối với tiền mặt hay thanh toán không dùng tiền mặt Trình độ phát triển của hệ thống thanh toán ngân hàng Lòng tin của dân chúng đối với ngân hàng và Nhà nước. e.Thanh toán không dùng tiền mặt - một công cụ điều tiết khối tiền tệ Về nội dung kinh tế, tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tốt hay không sẽ không ảnh hưởng trực tiếp mà tác động gián tiếp đến khối lượng tiền do làm tăng hay giảm vòng quay của nó. Tuy chỉ ảnh hưởng gián tiếp nhưng nếu tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ không chỉ góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá mà còn có ý nghĩa góp phần kìm chế lạm phát. 2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế Ta biết rằng khối lượng tín dụng mà ngân hàng cung ứng cho các doanh nghiệp từ hai nguồn: Huy động tiền vốn sẵn có trong lưu thông để cho vay Sử dụng tiền trung ương có được qua quá trình tái cấp vốn của ngân hàng trung ương. Sau khi các ngân hàng thương mại cho vay sẽ diễn ra chu trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng rất phức tạp. ở các nước công nghiệp có hệ thống ngân hàng đã phát triển cao, thị trường tiền tệ nhạy cảm thì người ta năng sử dụng về các công cụ tác động vĩ mô gián tiếp ( như lãi suất, thị trường mở...) để điều tiết tín dụng và mức tăng giảm khối tiền tệ. Từ khối lượng tiền tệ cung ứng có thể cung ứng thêm, NHTW sẽ dành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn, phù hợp mức tăng trưởng kinh tế, có tính đến mức lạm phát đã được khống chế trong một thời kỳ nhất định. Khối lượng tiền tệ tăng thêm qua tín dụng sẽ không được “rót” từ NHTW xuống, bất chấp thực trạng về vốn, chất lượng tín dụng của các ngân hàng trung gian mà được hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ, quan hệ vay vốn giữa các doanh nghiệp và các ngân hàng trung gian. Khi các ngân hàng trung gian thiếu phương tiện thanh toán thì họ mới đến NHTW xin tái cấp ( tái chiết khấu ) tiền trung ương. ở đây phải đảo ngược chu trình cấp vốn, NHTW luôn là người cho vay cuối cùng, đóng vai trò chủ nợ nhằm kiểm soát được chất lượng và số lượng tín dụng, các nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng theo các định hướng chính sách cụ thể sau: a.Để tăng tầm kiểm soát của NHTW, tích cực kìm chế lạm phát, tăng nguồn tín dụng, người ta thực hiện chính sách đa dạng hoá các thành phần của khối tiền tệ: NHTW thúc đẩy các NHTM thu hút tất cả các nguồn tiền gửi của mọi doanh nghiệp và dân cư bằng cách mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Từ đó phát triển các thành phần kinh tế của khối tiền tệ và các công cụ lưu thông tín dụng khác bên cạnh tiền mặt nhằm tăng nguồn vốn tín dụng của các NHTM và khả năng chi phối của NHTW đối với khối tiền tệ. b.Thay lãi suất thực (-) bằng lãi suất thực (+) để thay chính sách tiền tệ làm xói mòn nguôn vốn bằng chính sách tiền tệ mở rộng nguồn vốn với một lãi suất (+) vừa phải sẽ làm cho dân cư chuyển từ dạng tiết kiệm phi tài chính (dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản...) qua dạng tiết kiệm tài chính, tăng tiền gửi ngân hàng, cần khuyến khích các ngân hàng trung gian thực hiện chính sách tiền tệ “ mở rộng nguồn vốn” bằng việc áp dụng lão suất (+), thực hiện triệt để nguyên tắc “vay để cho vay”. Các NHTM chỉ tìm đến nguồn tiền trung ương trong trường hợp phải tái chiết khấu. c.Thay chính sách tiền tệ thụ động phục vụ bằng chính sách tiền tệ chủ động điều khiển Tín dụng và lãi suất không phải là những công cụ “phục vụ” đơn giản và thụ động đối với các doanh nghiệp với bất cứ giá nào như một thứ cấp phát ngân sách, trên thị trường tiền tệ, không được toàn quyền lựa chọn ngân hàng. Nhưng đến lượt mình, ngân hàng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn có hiệu quả để đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế. Nghĩa là phải chuyển từ một chính sách tiền tệ thụ động sang một chính sách tiền tệ tích cực trong đó ngân hàng được chủ động điều tiết. d.Tổ chức thị trường vốn: tỷ lệ giữa “tiêu động sản” (M3)/GNP gọi là “ độ sâu tài chính ”. Độ sâu tài chính càng lớn mức huy động vốn càng cao dẫn đến thị trường vốn trung hạn và dài hạn phong phú, tạo tiền đề cho thị trường chứng khoán sơ cấp ra đời. 3. Chính sách ngoại hối Để ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia, NHTW thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về vấn đề tài chính và tiền tệ đối ngoại trên các phương diện sau: Quản lý ngoại hối Lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế Thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường liên ngân hàng ngoại tệ và thị trường hối đoái Xây dựng và thống nhất quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của đất nước Tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế Phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước Quan hệ với NHTW khác, với các tổ chức tài chính-tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối Tổ chức quản lý nợ nước ngoài. a.Chính sách hối đoái: Nhiều nước thực hiện chính sách độc quyền hối đoái cấm lưu thông tiền nước ngoài trên đất nước mình, chính sách ngoại hối hướng vào việc ngăn chặn việc tích trữ ngoại hối rải rác trong các pháp nhân và thể nhân, quản lý mua và bán ngoại tệ, thu hút các nguồn ngoại tệ vào NHTW. Đây là chính sách mua đứt bán đoạn chứ không phải cho phép các tổ chức dân sự và người cư trú đưọc cất giữ ngoại tệ trên tài khoản mở ở các ngân hàng. Bởi vì điều này chỉ có lợi cho nước phát hành số ngoại tệ đó. Nhờ phát hành tiền họ đã thu về khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà chưa bị đòi nợnhư một khoản tín dụng tự nguyện không trả lãi suất. Về phía các ngân hàng trong nước, nếu huy động tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn thì không thể sử dụng được nhiều số ngoại tệ đó. Tất yếu họ phải đem gửi ngân hàng nước ngoài để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút ra của khách hàng và tìm kiếm chút lãi dể bù đắp lãi suất tiền gửi đã huy động vào việc và huy động ngoại tệ dài hạn lại là vấn đề khác. b.Dự trữ ngoại hối: mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối, tuỳ theo khả năng nền kinh tế nước đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong nuức. NHTW mua và gia tăng dự trữ ngoại hối sẽ làm tăng khối lượng tiền tệ. Ngược lại khi NHTW bán ngoại tệ ra, giảm dự trữ ngoại hối thì cũng đồng thời làm giảm khối tiền tệ. Qua việc mua bán ngoại hối, NHTW thực hiện can thiệp thị trường, chủ động tác động tỷ giá hối đoái theo chiều hướng mong muốn. c.Thị trường hối đoái: thị trường hối đoái là nơi mua bán ngoại tệ. Quy mô của nó phụ thuộc vào quy mô phát triển kinh tế và cung cầu ngoại tệ của đất nước. Trình độ tổ chức thị trường hối đoái hoàn hảo hay không trước hết phụ thuộc vào chính sách hối đoái và điều kiện kỹ thuật cho phép. Trước khi hình thành thị trường hối đoái hoàn chỉnh, NHTW phải chủ trương lập một thị trường quá độ là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. d.Tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa nội tệ với ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ và vừa biểu hiện của quan hệ cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và hết sức công phạt đối với sản xuất, xuất nhập khẩu, tình trạng tài chính tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ ngoại tệ của đất nước. Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp (đối với ngoại tệ) sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tương đối đắt, khó bán ra nước ngoài, gây trở ngại cho ngành sản xuất hàng xuất khẩu, bất lợi cho việc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước, dự trữ ngoại tệ dễ bị xói mòn. Nếu tỷ giá hối đoái quá cao (đối với ngoại tệ) sẽ bất lợi cho nhập khẩu, nhưng khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu rẻ hơn, hàng xuất khẩu đắt hơn, dễ cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dễ tìm thị trường tiêu thụ, kích thích chuyển dịch vào trong nước, dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. e.Biện pháp quản lý và ổn định tỷ giá hối đoái: Có hai cách vận hành tỷ giá hối đoái: Tỷ giá cao hay thấp do NHTW ấn định Tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại tệ trên thị trường chi phối, NHTW hoàn toàn không can thiệp. Do tầm quan trọng của nó nên người ta hết sức quan tâm và dùng nhiều biện pháp để ổn định tỷ giá hối đoái như: Thực hiện chính sách thặng dư hay tối thiểu là thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn ngoại tệ Kiểm soát và hạ thấp tỷ lệ lạm phát để ổn định giá cả và nâng cao sức mua đối nội của đồng tiền, tạo sự tác động ngược lại đối với tỷ giá hối đoái Có chính sách lãi suất tín dụng thích hợp để thu hút các khoản tiết kiệm và đầu tư kể cả bằng nguồn ngoại tệ từ ngoài vào, đồng thời hạn chế việc săn lùng ngoại tệ và vàng bạc Tạo quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trường hối đoái khi cần thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện lạm phát không thể khống chế được thì tỷ giá trượt dần hơn là tung hết dự trữ ngoại tệ ra can thiệp. 4. Chính sách đối với ngân sách Nhà nước Chính sách tiền tệ của NHTW muốn có tác dụng mong muốn cần xử lý mối tương quan của nó với chính sách tài chính, trước hết là chính sách thu và chi của ngân sách. Tuỳ theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ. a.Trường hợp ngân sách cân bằng: Khi Chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỏi lưu thông một lượng tiền nào đó, chỉ số tiền ấy vào guồng máy kinh tế. Khối lượng tiền tệ không thay đổi vì nó được tăng giảm một ngạch số như nhau. Tuy nhiên nó có thể làm thay đổi kết cấu tiêu dùng và tiết kiệm. Trong khi đó Chính phủ phải dùng số tiền thuế thu được để cấp phát cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại gia tăng, số đầu tư giảm và kết quả là có khả năng làm tăng dần giá cả. Nếu Nhà nước dùng số chi ngân sách này để đầu tư thì số đầu tư tư nhân giảm trong khi đầu tư Nhà nước tăng lên, đầu tư chung không đổi, cho nên: Nếu chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát, ngân sách thăng bằng vẫn có thể tác dụng ngược lại với chính sách tiền tệ, làm tăng vật giá. Trường hợp chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái, ngân sách thăng bằng vẫn có thể dịch chuyển thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ. b.Trường hợp ngân sách thiếu hụt: Chênh lệch giữa thu và chi ngân sách sẽ có tác dụng khác nhau đến nền kinh tế tuỳ theo cách tài trợ, số chênh lệch ấy có 4 cách để bù đắp thiếu hụt ngân sách: Vay dân cư Vay ở hệ thống tín dụng và thị trường tài chính trong nước Vay NHTW Vay nước ngoài. Vay của NHTW và vay của nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng nhanh khối tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về sau.Vay của dân cư và của NHTM trong nước nguy cơ làm tăng khối lượng tiền tệ nhẹ hơn. áp lực lạm phát ở các nước đang phát triển mạnh hơn so với các nước có thu nhập cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW bằng cách phát hành trực tiếp và nợ nước ngoài. Không có sự lựa chọn nào tốt hơn là phải phấn đấu thực hiện một ngân sách Nhà nước cân bằng bằng nguồn thu từ thuế và tiết kiệm chi tiêu. Không nên bội chi ngân sách dể bù đắp chi phí hành chính mà tối thiểu ngân sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi thường xuyên. Phần chi xây dựng hạ tầng cơ sở và chi phát triển nếu thiếu thì phải được tài trợ bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu Chính phủ để vay nhân dân, vay các NHTM trên thị trường tiền tệ (ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (dài hạn) hoặc vay nợ nước ngoài theo tiêu chuẩn quốc tế, mức bội chi ngân sách phải vay mượn để bù đắp nếu chiếm khoảng 2-3% tổng sản phẩm quốc nội là chấp nhận được. Tuy nhiên không nên coi khoản vay của Nhà nước là nguồn thu phụ thêm mà đó chỉ là bù đắp bội chi. c.Trường hợp ngân sách thặng dư: Trong trường hợp này khối tiền tệ dư thừa sẽ được rút bớt tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. III. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ 1.Nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ(tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng). Đó là nguồn gốc chính gây nên sự biến động trong cung ứng tiền tệ. Khi NHTW mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Khi NHTW bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ, qua đó làm giảm lượng tiền cung ứng. Thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, bởi những ưu thế vốn có của nó: NHTW có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do. Linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ. NHTW đễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian. 2. Chính sách chiết khấu. Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTW trong việc thực thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi NHTW cho vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay(lãi suất cho vay tái chiết khấu). Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá cả của khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi NHTW giảm lãi suất cho vay tái chiết khấu, giá cả của khoản vay rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên, lượng tiền cung ứng tăng lên. Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ cuả NHTW. Nó không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng, mà còn để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, với công cụ này NHTW thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bởi vì, NHTW chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0898.doc
Tài liệu liên quan