Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

Tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội: ... Ebook Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời mở đầu:…………………………………………………………………1 Chương 1: Chất lượng hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thương mại Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng - những vấn đề cơ bản………….3 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò và chức năng của bảo lãnh ngân hàng 1.1.1.1 Khái niệm ………………………………………………………….. 3 1.1.1.2 Đặc điểm .5 1.1.1.3 Chức năng 6 1.1.1.4 Vai trò 8 1.1.2 Phân loại bảo lãnh ngân hàng 9 1.1.2.1 Căn cứ vào hình thức phát hành 9 1.1.2.2 Căn cứ vào đối tượng bảo lãnh 12 1.1.2.3 Căn cứ vào tính chất bảo lãnh 15 1.1.2.4 Căn cứ vào điều kiện thanh toán 17 1.1.3 Nội dung của bảo lãnh ngân hàng 18 1.1.3.1 Nội dung thư và hợp đồng bảo lãnh 18 1.1.3.2 Phí bảo lãnh 19 1.1.4 Các hình thức bảo lãnh ngân hàng 19 1.2 Chất lượng bảo lãnh 20 1.2.1 Khái niệm về chất lượng bảo lãnh 21 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá 23 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động bảo lãnh 23 1.3.1 Nhân tố khách quan 23 1.3.2 Nhân tố chủ quan 23 Chương 2: Thực trạng chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội 2.1 Tổng quan về ngân hàng 24 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Hà nội 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Ngoại thương Hà nội 26 2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNT HN 27 2.2 Thực trạng chất lượng hoạt động bảo lãnh tại NHNT HN 34 2.2.1 Các quy định chung về nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNTHN 34 2.2.2 Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNT HN 40 2.2.3 Quy mô và cơ cấu bảo lãnh tại chi nhánh NHNT HN 53 2.3 Đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại NHNT HN 60 2.3.1 Các kết quả mà NHNT HN đạt được 60 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 61 Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh NHNT HN 3.1 Định hướng phát triển của NHNT HN trong thời gian tới 68 3.1.1 Mục tiêu kinh doanh năm 2008 68 3.1.2 Các kế hoạch kinh doanh để thực hiện mục tiêu năm 2008 69 3.1.3 Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh 71 3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại NHNT HN 73 3.2.1 Nâng cao chất lượng thẩm định 73 3.2.2 Tăng cường kiểm tra giám sát 75 3.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 75 3.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 76 3.3 Kiến nghị………………………………………………………………. 77 Kết luận……………………………………………………………………..80 LỜI MỞ ĐẦU Bước vào thế kỷ 21, với những thành tựu đã đạt được từ công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nền kinh tế Việt nam đang tạo ra những bước phát triển vững chắc trên con đường hội nhập và phát triển. Cùng với sự phát triển của đất nước, ngành Ngân hàng Việt nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Hệ thống Ngân hàng đã được đổi mới từ cơ cấu tổ chức đến các hoạt động kinh doanh. Các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển đa dạng. Bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống, ngân hàng ngày càng phát triển thêm các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại phù hợp với xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và một trong những nghiệp vụ đó chính là nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh đã ra đời và đi vào hoạt động. Cho đến nay, đã trở thành một trong những nghiệp vụ mạnh nhất của ngân hàng trong xu hướng toàn cầu hoá về các nghành đầu tư, tín dụng, thương mại... Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây, nhưng nó đã phát huy được vai trò hết sức to lớn. Đặc biệt, khi nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình huy động vốn, thiếu thiết bị công nghệ hiện đại, uy tín trên thị trường thế giới còn chưa cao. Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ còn mới mẻ, nên trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đôi khi còn gây ra tổn thất cho chính bản thân ngân hàng. Chính vì vậy mà việc áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động của ngân hàng còn bị hạn chế chưa phát huy được hết vai trò của nó. Nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh đối với ngân hàng nói chung và với Ngân hàng Ngoại thương Hà nội nói riêng có định hướng nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo lãnh nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động chung của toàn hệ thống ngân hàng. Là một sinh viên ngành ngân hàng, tôi đã nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của các nghiệp vụ ngân hàng. Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội, tôi đã tìm hiểu và chọn đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội. Mục tiêu của đề tài: - Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, nội dung và những vấn đề cơ bản liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh. - Đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội. - Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh. CHƯƠNG 1 CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN 1.1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1.1.1 Khái niệm bảo lãnh ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, luôn tồn tại những mối quan hệ xã hội khác nhau, các mối quan hệ này vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp. Trong quan hệ xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên được quan tâm. Chỉ cần một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đối tác, đặc biệt là trong quan hệ kinh tế. Trong khi đó, quan hệ kinh tế chỉ diễn ra lành mạnh khi các bên thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Vì vậy, các bên tham gia quan hệ kinh tế đều muốn có sự đảm bảo bằng uy tín hay tài sản của bên thứ ba về việc thực hiện nghĩa vụ của đối tác. Sự đảm bảo của bên thứ ba đó gọi là bảo lãnh. Có hai hình thức bảo lãnh chủ yếu: - Bảo lãnh đối nhân: được áp dụng chủ yếu đối với các quan hệ phi tài sản trong các lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, chế tài hành chính và quan hệ phi tài sản trong dân sự. - Bảo lãnh đối vật: được áp dụng chủ yếu trong quan hệ kinh tế và dân sự có yếu tố tài sản, với sự đảm bảo rằng nếu bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đền bù cho bên nhận bảo lãnh với số tiền được thỏa thuận từ trước. Như vậy, bảo lãnh là sự cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi họ không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Ngày 26/6/2006 NHNN đã ra quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ban hành quy chế mới về bảo lãnh ngân hàng. Quy chế này thay thế quy chế “Bảo lãnh ngân hàng” được ban hành theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của thống đốc ngân hàng nhà nước và theo quyết định số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi một số điều trong quy chế Bảo lãnh đã chỉ rõ: “Bảo lãnh Ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. “Bên bảo lãnh” là các tổ chức tín dụng bao gồm các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng. Ngoài ra còn có các ngân hàng được thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh khác mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu theo quy định của pháp luật về thương phiếu. “Bên được bảo lãnh” là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt nam bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị; tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam, doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra còn có các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của bộ Luật Dân sự, các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt nam, hộ kinh doanh cá thể. Ngân hàng sẽ không được bảo lãnh đối với những người như sau: Thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của các tổ chức tín dụng; cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định bảo lãnh: bố; mẹ; vợ; chồng; con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc). “Bên nhận bảo lãnh” là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng. “Cam kết bảo lãnh” là cam kết của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. “Hợp đồng bảo lãnh” là văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên có liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. 1.1.1.2 Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng 1.1.1.2.1 Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương Để tiến hành được một nhiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, thông thường không chỉ có ngân hàng và người được bảo lãnh tham gia mà cón có người nhận bảo lãnh. Giữa các chủ thể này có mối quan hệ với nhau qua hợp đồng kinh tế. Mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thông qua hợp đồng mua bán hàng hoá. Mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành và bên nhận bảo lãnh thông qua cam kết bảo lãnh dưới hình thức thư bảo lãnh, thư L/C. Do vậy, ta có thể hiểu rằng bảo lãnh ngân hàng không chỉ là mối quan hệ song phương mà là mối quan hệ đa phương. 1.1.1.2.2 Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập Mặc dù ngân hàng sẽ bồi thường cho người thụ hưởng những thiệt hại gây ra do không thực hiện đúng như trong hợp đồng gốc với người được bảo lãnh, song việc thanh toán một bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều khoản và điều kiện quy định trong cam kết bảo lãnh. Tức là, bên nhận bảo lãnh chỉ được quyền đòi tiền bảo lãnh đối với ngân hàng nếu những điều kiện ghi trong cam kết bảo lãnh xảy ra và ngân hàng cũng không thể viện ra các điều khoản trong hợp đồng gốc để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. Tính độc lập còn được thể hiện ở chỗ ngân hàng có quyền truy đòi khoản tiền bảo lãnh đã trả thay cho khách hàng ngay sau khi ngân hàng thực hiện yêu cầu thanh toán từ bên nhận bảo lãnh mà không hề bị ảnh hưởng bởi các điều khoản của hợp đồng gốc. 1.1.1.2.3 Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng của ngân hàng Khi ngân hàng phát hành một cam kết bảo lãnh thì ngân hàng chưa thực sự phải bỏ ra số tiền bảo lãnh, ngân hàng chỉ tiến hành thu phí bảo lãnh do bên được bảo lãnh đóng. Bảng cân đối tài sản chưa hề bị thay đổi, do vậy nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại bảng. Bảng cân đối tài sản chỉ thay đổi khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh, khi đó ngân hàng sẽ phải chuyển một phần nguồn vốn dùng để cho vay sang hay phải huy động từ các nguồn khác. Nếu bên được bảo lãnh chưa hoàn trả này số tiền ngân hàng trả thay thì sẽ phải tiến hành nhận nợ. 1.1.1.3 Chức năng của bảo lãnh ngân hàng 1.1.1.3.1 Bảo lãnh được dùng như một công cụ đảm bảo Mục đích quan trọng của hoạt động bảo lãnh ngân hàng chính là cung cấp cho bên nhận bảo lãnh một khoản bồi hoàn tài chính trong trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm điều khoản được ghi nhận trong cam kết bảo lãnh. Đó là một hình thức bảo đảm cho bên nhận bảo lãnh và thường do bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên được bảo lãnh phải đề nghị ngân hàng bảo lãnh. Trong thực tế, bên nhận bảo lãnh không mong muốn nhận được tiền bảo lãnh, họ mong muốn bên được bảo lãnh thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Họ chỉ coi bảo lãnh như một công cụ để bảo đảm an toàn cho mình khi có sự cố vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh và bên được bảo lãnh cũng không muốn chuyện đó xảy ra vì khi thiệt hại do không đúng trong hợp đồng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, bảo lãnh ngân hàng được dùng như một công cụ bảo đảm. 1.1.1.3.2 Bảo lãnh được dùng như một công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng Sau khi ngân hàng phát hành cam kết bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, chỉ cần bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng thì bên nhận bảo lãnh có quyền truy đòi số tiền bảo lãnh. Số tiền này ngân hàng sẽ cho vào khoản tín dụng bắt buộc và chắc chắn rằng bên được bảo lãnh đã gây ấn tượng không tốt với ngân hàng, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc xin vay, bảo lãnh sau này. Do vậy, bảo lãnh ngân hàng đã tạo áp lực đốc thúc bên được bảo lãnh phải hoàn thành nghĩa vụ của mình đúng như trong cam kết. 1.1.1.3.3 Bảo lãnh được dùng như một công cụ tài trợ Trong hợp đồng thầu hoặc hợp đồng mua bán có giá trị lớn, thời gian hiệu lực kéo dài, nhu cầu tài trợ cho dự án là rất cần thiết. Các nhà đầu tư hoặc người bán gặp rất nhiều khó khăn về mặt tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu như phải hoàn tất các hạng mục hoặc toàn bộ hợp đồng mới được thanh toán. Do vậy, để công trình tiến hành thuận lợi, chủ thầu hoặc người mua thường tạm ứng trước cho từng công đoạn với điều kiện nhà thầu phải có một bảo lãnh do ngân hàng có uy tín đứng ra cam kết sẽ hoàn trả lại số tiền ứng trước đó. Vì thế ngân hàng được coi như một công cụ tài trợ. 1.1.1.3.4 Bảo lãnh được dùng như một công cụ đánh giá Bảo lãnh ngân hàng giúp bên nhận bảo lãnh có những đánh giá nhất định về năng lực tài chính và hoạt động của bên đối tác thông qua việc ngân hàng có chấp thuận hay không chấp thuận bảo lãnh. Bởi vì ngân hàng là một định chế tài chính có chuyên môn cao, có khả năng phân tích đánh giá được tình trạng khách hàng của mình. Do vậy, việc ngân hàng không sẵn sàng chấp thuận bảo lãnh cho đối tác chứng tỏ rằng họ có điều gì không ổn về mặt tài chính hoặc năng lực sản xuất kinh doanh. Trên đây là những chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Nó có tác động to lớn đến tất cả các chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh cả trên phương diện nghĩa vụ và quyền lợi. 1.1.1.4 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng 1.1.1.4.1 Đối với nền kinh tế Bảo lãnh ngân hàng được coi là một công cụ quan trọng được sử dụng ngày càng rộng rãi để trợ giúp cho các hoạt động kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế để phát triển kinh tế đất nước. Bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện cho các chủ đầu tư thực hiện vay vốn trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu về vốn, phục vụ cho đầu tư phát triển. Đối với một doanh nghiệp không phải là khách hàng truyền thống, thì việc xin vay vốn đặc biệt là với số vốn xin vay lớn, rất ít khi được ngân hàng cho vay. Do ngân hàng chưa chắc chắn được rằng doanh nghiệp có khả năng trả được nợ hay không. Trong khi việc dùng tài sản cầm cố hay thế chấp để xin vay không phải lúc nào cũng dễ đối với các doanh nghiệp. Do vậy, dịch vụ bảo lãnh ra đời đã đảm bảo việc hoàn trả vốn vay, còn bên có nhu cầu vay vốn sẽ có nhiều cơ hội có được nguồn vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo ra nhiều công ăn việc làm góp phần ổn định xã hội làm cho nền kinh tế phát triển. 1.1.1.4.2 Đối với ngân hàng Hiện nay, hệ thống ngân hàng đã được đổi mới toàn diện từ nội dung hoạt động cho đến cơ cấu tổ chức, đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, nhằm tăng doanh thu, nâng cao thu nhập từ các dịch vụ trong đó có dịch vụ bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng và khách hàng truyền thống bên cạnh đó còn giúp ngân hàng tìm kiếm những khách hàng mới. Thông qua việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng còn có điều kiện cung cấp thêm các loại dịch vụ khác cho doanh nghiệp. Nhờ đó, nâng cao được hiệu quả kinh doanh của cả ngân hàng và doanh nghiệp. 1.1.1.4.3 Đối với khách hàng Bảo lãnh ngân hàng giúp khách hàng giảm thiểu rủi ro, đảm bảo lợi ích kinh tế do vi phạm hợp đồng gây ra, giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận nguồn vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh. Giúp các doanh nghiệp yên tâm hơn khi ký kết hợp đồng, tiết kiệm thời gian chi phí vào việc tìm hiểu đối tác và không phải bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Tóm lại, bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy cho các doanh nghiệp phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao doanh thu, giúp người bán yên tâm hơn khi ký kết hợp đồng, giảm thiểu rủi ro. 1.1.2 PHÂN LOẠI BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1.2.1 Căn cứ vào hình thức phát hành 1.1.2.1.1 Bảo lãnh trực tiếp Là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cam kết và chịu trách nhiệm trực tiếp với bên nhận bảo lãnh về cam kết của mình. Bảo lãnh trực tiếp có thể thông báo thông qua ngân hàng phát hành. Bảo lãnh trực tiếp còn có tên gọi khác là bảo lãnh ba bên. Bảo lãnh trực tiếp ngân hàng bảo lãnh phát hành trực tiếp cho người thụ hưởng. Người được bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân hàng phát hành một bảo lãnh với các điều kiện và thời hạn được quy định trong hợp đồng, đồng thời cam kết sẽ hoàn lại cho ngân hàng phát hành nếu ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Sau khi xem xét nếu ngân hàng đồng ý sẽ ký phát hành một bảo lãnh. Ta có mô hình như sau: NH phát hành bảo lãnh NH thông báo Bên được bảo lãnh Bên nhận bảo lãnh (2) (3) (1) (4) (5) Trong đó: (1) Là thoả thuận giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng. (2) Bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành một bảo lãnh ngân hàng. Ngân hàng phát hành sẽ phát hành một thư bảo lãnh cho người thụ hưởng thông qua ngân hàng thông báo. Ngân hàng thông báo bảo lãnh sẽ kiểm tra tính trung thực và thông báo lại cho bên nhận bảo lãnh. Ngân hàng phát hành thực hiện việc thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi có sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh. Về nguyên tắc, ngân hàng phát hành có thể gửi thư bảo lãnh trực tiếp cho người thụ hưởng. Trên thực tế bảo lãnh trực tiếp thường có sự tham gia của ngân hàng thông báo tại nước của người thụ hưởng. Ngân hàng thông báo thường là ngân hàng của người thụ hưởng và có quan hệ đại lý với ngân hàng phát hành. Ngân hàng thông báo sẽ giúp người hưởng xác nhận tính chân thực của thư bảo lãnh nhận được. Tuy nhiên, vai trò của ngân hàng thông báo chỉ đơn thuần là kiểm tra tính chân thực và chuyển giao bảo lãnh cho người hưởng. Ngược lại, khi người hưởng đòi tiền theo thư bảo lãnh, ngân hàng thông báo sẽ giúp ngân hàng phát hành kiểm tra tư cách pháp lý của người đòi tiền. Tóm lại, ngân hàng thông báo chỉ tham gia dưới góc độ “kỹ thuật nghiệp vụ” mà không có quyền và nghĩa vụ liên quan trong bảo lãnh. Chính vì vậy dù có thêm sự tham gia của ngân hàng thông báo, bảo lãnh trực tiếp vẫn được gọi là bảo lãnh ba bên. 1.1.2.1.2 Bảo lãnh gián tiếp Bảo lãnh gián tiếp còn được gọi là bảo lãnh bốn bên. Ta có mô hình sau: NH phát hành bảo lãnh đối ứng NH phát hành bảo lãnh Bên được bảo lãnh Bên nhận bảo lãnh (1) (2) (3) (4) Trong đó: (1) Bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng. (2) Bên được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình yêu cầu một ngân hàng khác tại quốc gia của bên nhận bảo lãnh phát hành bảo lãnh. (3) Ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh. (4) Ngân hàng phát hành thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Sau khi ngân hàng phát hành thanh toán cho bên nhận bảo lãnh, ngân hàng phát hành yêu cầu ngân hàng bảo lãnh đối ứng hoàn trả lại số tiền mà họ đã thanh toán cho bên nhận bảo lãnh và ngân hàng phát hành đối ứng yêu cầu bên được bảo lãnh phải hoàn trả số tiền bảo lãnh. 1.1.2.1.3 Bảo lãnh được xác nhận Là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng được xác nhận bảo lãnh. Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh. 1.1.2.1.4 Đồng bảo lãnh Là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của khách hàng thông qua một tổ chức tín dụng làm đầu mối. 1.1.2.2 Căn cứ vào đối tượng bảo lãnh 1.1.2.2.1 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành về việc bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. 1.1.2.2.2 Bảo lãnh thanh toán Là bảo lãnh do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn. 1.1.2.2.3 Bảo lãnh dự thầu Là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cam kết. 1.1.2.2.4 Bảo lãnh giao hàng Đảm bảo việc nhận hàng mà không có vận đơn gốc của bên được bảo lãnh. Bên bảo lãnh cam kết bồi hoàn cho bên nhận bảo lãnh mọi tổn thất phát sinh do việc giao hàng không vận đơn gốc. 1.1.2.2.5 Bảo lãnh chất lượng công trình Trong xây dựng cơ bản khi nhà thầu bàn giao công trình hoặc khối lượng xây lắp đã hoàn thành, chủ đầu tư sẽ giữ lại một tỷ lệ phần trăm nhất định số tiền phải thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định để đảm bảo chất lượng công trình. Thay vào số tiền đó chủ đầu tư có thể yêu cầu một bảo lãnh chất lượng công trình. 1.1.2.2.6 Bảo lãnh bảo hành Đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ bảo hành của bên được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Loại bảo lãnh này thường được sử dụng khi mua bán, lắp đặt máy móc, thiết bị hoặc dây chuyền sản xuất. 1.1.2.2.7 Bảo lãnh hải quan Khi hàng hoá thuộc diện tạm nhập tái xuất như nhập để dự hội chợ, triển lãm, nhà thầu nhập máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động xây lắp. Bên nhập khẩu phải tạm nộp thuế nhập khẩu và được hoàn lại khi tái xuất. Bên nhập khẩu có thể không nộp thuế nhập khẩu và sử dụng bảo lãnh hải quan để đảm bảo việc tái xuất này. 1.1.2.2.8 Bảo lãnh vay vốn Là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, đúng hạn. 1.1.2.2.9 Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm Là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành về việc đảm bảo khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. 1.1.2.2.10 Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước Là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh. 1.1.2.2.11 Bảo lãnh đối ứng Là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho một tổ chức tín dụng khác về việc đề nghị bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. 1.1.2.2.12 Bảo lãnh giáp lưng Ngân hàng Ngân hàng Ngân hàng Người bán đầu tiên Trung gian Người mua / Người bán Người mua cuối cùng Trung gian Người mua / Người bán Trong thương mại quốc tế, hàng hoá có thể phải qua nhiều khâu trung gian trước khi đến người mua cuối cùng. Trong mỗi khâu, nghĩa vụ thanh toán hoặc nghĩa vụ thực hiện hợp đồng có thể được bảo đảm bằng một bảo lãnh riêng biệt. Hoặc: Ngân hàng Ngân hàng Ngân hàng Người mua cuối cùng Trung gian Người mua / Người bán Người bán đầu tiên Trung gian Người mua / Người bán 1.1.2.3 Căn cứ vào tính chất bảo lãnh 1.1.2.3.1 Bảo lãnh truyền thống Trong bảo lãnh truyền thống, bên bảo lãnh chỉ thanh toán khi có sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối với bên hưởng và có thiệt hại thực tế phát sinh. Bên thụ hưởng có nghĩa vụ phải chứng minh với bên phát hành bảo lãnh khi yêu cầu đòi tiền. Bên thụ hưởng có thể chứng minh việc vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh và thiệt hại thực tế của mình thông qua trọng tài hoặc toà án, tức là bên hưởng phải xuất trình một phán quyết của trọng tài hoặc toà án cho bên phát hành bảo lãnh. Bên bảo lãnh không thanh toán chừng nào tranh chấp giữa bên thụ hưởng và bên được bảo lãnh chưa được giải quyết. Bên bảo lãnh chỉ thanh toán cho bên hưởng trong trường hợp bên được bảo lãnh không còn khả năng thanh toán. Như vậy, khi bên được bảo lãnh vi phạm cam kết với bên hưởng và phát sinh thiệt hại cho bên hưởng thì trước hết bên hưởng phải đòi bên được bảo lãnh bồi thường. Khi bên được bảo lãnh không có khả năng thanh toán thì bên bảo lãnh mới trả tiền theo bảo lãnh. Số tiền thanh toán được xác định theo phán quyết của trọng tài hoặc toàn án. Một số bảo lãnh truyền thống còn cho phép bên bảo lãnh có thể thay thế bên được bảo lãnh thực hiện nốt phần nghĩa vụ chưa hoàn thành của bên được bảo lãnh thay vì trả tiền. Bảo lãnh truyền thống hết sức bất lợi cho người hưởng. Người hưởng không dễ gì nhận được tiền theo thư bảo lãnh. Mà theo đuổi các vụ kiện luôn là một quá trình mệt mỏi và tốn kém mà không bên nào biết chắc được điểm dừng ở đâu. Bảo lãnh truyền thống không đáp ứng được yêu cầu của người hưởng muốn có một hình thức đảm bảo hữu hiệu, giúp người hưởng nhanh chóng có được nguồn tài chính cần thiết để bù đắp những thiệt hại do sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh gây ra. Xuất phát từ nhu cầu đó các ngân hàng đã đưa ra sản phẩm bảo lãnh trả tiền ngay. 1.1.2.3.2 Bảo lãnh trả tiền ngay Bảo lãnh trả tiền ngay là bảo lãnh theo đó bên bảo lãnh cam kết thanh toán ngay cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình được những chứng từ phù hợp với điều khoản và điều kiện của bảo lãnh. Trong thương mại quốc tế có nhiều hình thức đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ cam kết của các bên liên quan. Một hình thức lâu đời là đảm bảo bằng tiền mặt. Ví dụ, người mua có thể đặt cọc cho người bán để thể hiện ý chí mua hàng của mình, chủ đầu tư có thể giữ lại một phần tiền phải thanh toán cho nhà thầu để đảm bảo cho chất lượng của công trình. Tiền đặt cọc giúp cho người bán có ngay nguồn tài chính cần thiết để bù đắp những thiệt hại phát sinh từ sự vi phạm nghĩa vụ của người mua theo hợp đồng đã ký kết. Tiền giữ lại giúp chủ đầu tư có nguồn tài chính để khắc phục những sự cố của công trình đã được bàn giao. Tuy nhiên, hình thức giữ tiền mặt có nhược điểm lớn là gây tồn đọng vốn. Một công ty có thể đồng thời tham gia nhiều giao dịch. Số tiền đặt cọc sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới nguồn vốn lưu động của công ty. Xuất phát từ thực tiễn đó, các ngân hàng đã đưa ra sản phẩm bảo lãnh trả ngay cam kết thanh toán ngay cho người hưởng số tiền của bảo lãnh khi được yêu cầu. Người hưởng chỉ phải xuất trình những chứng từ quy định trong thư bảo lãnh. Chứng từ mà người hưởng phải xuất trình khi đòi tiền rất đơn giản. Trong nhiều trường hợp người hưởng chỉ cần xuất trình một yêu cầu đòi tiền bằng văn bản là đủ, không cần bất kỳ một chứng từ nào khác để chứng minh sự vi phạm của bên được bảo lãnh cũng như thiệt hại (nếu có). Như vậy, đối với người hưởng bảo lãnh trả tiền ngay có giá trị như tiền đặt cọc vì thủ tục đòi tiền đơn giản cộng với uy tín của ngân hàng phát hành. Thay vì trực tiếp giữ tiền người hưởng nhờ ngân hàng giữ hộ. Bên được bảo lãnh cũng được lợi vì không bị đọng vốn. Trong đa số trường hợp bên được bảo lãnh sử dụng hạn mức tín dụng do ngân hàng cấp để phát hành bảo lãnh và trả một khoản phí nhỏ cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Chính vì đáp ứng được những yêu cầu của tất cả các bên có liên quan nên bảo lãnh trả tiền ngay ngày càng được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế và được gọi là bảo lãnh hiện đại để phân biệt với bảo lãnh truyền thống. 1.1.2.4 Căn cứ vào điều kiện thanh toán 1.1.2.4.1 Bảo lãnh vô điều kiện Bảo lãnh vô điều kiện là loại bảo lãnh mà ngân hàng phát hành sẽ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ngay khi bên nhận bảo lãnh yêu cầu không được phép trì hoãn. Khi đó bên nhận bảo lãnh chỉ cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh toán mà không cần phải có thêm văn bản nào khác chứng minh rằng bên được bảo lãnh đã vi phạm những điều khoản có trong cam kết bảo lãnh. Loại bảo lãnh này tạo ra lợi thế rất lớn cho bên nhận bảo lãnh vì họ có quyền yêu cầu thanh toán bất cứ lúc nào trong thời gian hiệu lực của bảo lãnh khi mà họ nhận thấy rằng bên được bảo lãnh đã vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên nó gây bất lợi rất lớn cho bên được bảo lãnh và cả phía ngân hàng. Do việc bồi thường mang tính chủ quan nên khả năng xảy ra gian lận lừa đảo từ bên nhận bảo lãnh là khá cao. 1.1.2.4.2 Bảo lãnh có điều kiện Bảo lãnh có điều kiện là loại bảo lãnh ngân hàng mà trong đó bên nhận bảo lãnh muốn nhận tiền bồi thường phải xuất trình các giấy tờ do bên thứ 3 xác nhận hay phán quyết của toà án chứng minh rằng bên được bảo lãnh đã vi phạm hợp đồng. Loại bảo lãnh này giúp bên được bảo lãnh và ngân hàng giảm bớt nguy cơ bị lừa đảo vì việc bồi thường chỉ có thể tiến hành nếu có sự xác nhận của của bên thứ 3 nên nó đảm bảo tính khách quan. Tuy nhiên nó gây bất lợi khá lớn cho bên nhận bảo lãnh do thời gian thanh toán bị kéo dài. Vì để được bồi thường bên nhận bảo lãnh phải đề nghị bên thứ ba xác nhận việc vi phạm của bên được bảo lãnh, mà điều này lại mất rất nhiều thời gian. Hiện nay, Việt nam đang trên đà phát triển nhu cầu sử dụng vốn rất lớn trong khi đó nguồn vốn trong nước còn bị hạn chế. Mà các doanh nghiệp thì rất cần vốn để đầu ._.tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao lợi nhuận. Vì vậy mà hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng. 1.1.3 NỘI DUNG CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1.3.1 Nội dung thư và hợp đồng bảo lãnh 1.1.3.1.1 Thư bảo lãnh Thư bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của TCTD về việc TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. 1.1.3.1.2 Hợp đồng bảo lãnh Hợp đồng bảo lãnh do tổ chức tín dụng bảo lãnh, khách hàng được bảo lãnh và các bên có liên quan thỏa thuận bao gồm các nội dung sau: - Tên, địa chỉ của tổ chức tín dụng và khách hàng. - Số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh. - Mục đích, phạm vi, đối tượng bảo lãnh. - Điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. - Hình thức đảm bảo cho nghĩa vụ bảo lãnh, giá trị tài sản làm đảm bảo. - Quyền và nghĩa vụ của các bên. - Quy định về bồi hoàn sau khi tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. - Giải quyết tranh chấp phát sinh. - Chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên. - Những thỏa thuận khác. Hợp đồng bảo lãnh có thể được sửa đổi, bổ sung, hoặc huỷ bỏ nếu các bên liên quan có thỏa thuận. 1.1.3.2 Phí bảo lãnh Mức phí do 2 bên thỏa thuận, mức phí không vượt quá 2%/ năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh. Ngoài ra, khách hàng phải thanh toán cho chi nhánh các chi phí hợp lý khác phát sinh liên quan đến giao dịch bảo lãnh khi các bên có thỏa thuận bằng văn bản. 1.1.4 CÁC HÌNH THỨC PHÁT HÀNH BẢO LÃNH Sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh với khách hàng, ngân hàng sẽ căn cứ vào yêu cầu của bên cho vay hoặc chủ đầu tư quy định trong hợp đồng vay vốn hoặc hợp đồng thi công xây lắp, ngân hàng sẽ ký phát hành một trong số các hình thức bảo lãnh sau cho khách hàng. 1.1.4.1 Phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh Ngân hàng có thể phát hành thư bảo lãnh và xác nhận bảo lãnh cho tất cả các loại hình bảo lãnh. Thư bảo lãnh và xác nhận bảo lãnh do ngân hàng lập ra theo yêu cầu của bên được bảo lãnh và các điều khoản trong thư bảo lãnh phải được bên nhận bảo lãnh chấp thuận và phù hợp với lợi ích của ngân hàng. 1.1.4.2 Ký xác nhận bảo lãnh trên các hối phiếu, lệnh phiếu Hình thức này được sử dụng chủ yếu với loại hình bảo lãnh vay vốn và bảo lãnh thanh toán. Sau khi kiểm tra và đối chiếu giữa bộ hối phiếu do bên được bảo lãnh phát hành hoặc lệnh phiếu do bên nhận bảo lãnh phát hành với các nội dung tương ứng trong hợp đồng gốc. Ngân hàng sẽ ký xác nhận bảo lãnh cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho bên được bảo lãnh nếu họ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình. 1.1.4.3 Các hình thức khác theo quy định của pháp luật Thư tín dụng trả chậm là một hình thức phát hành do ngân hàng bảo lãnh phát hành cho bên nhận bảo lãnh, cam kết thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Loại này thường được sử dụng trong bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh vay vốn. 1.2 CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH 1.2.1 KHÁI NIỆM VỀ CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH Một nghiệp vụ bảo lãnh được coi là có chất lượng khi nó đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Vậy chất lượng bảo lãnh là gì, ta sẽ xem xét chất lượng bảo lãnh từ các góc độ khác nhau: * Từ góc độ khách hàng: Khách hàng ở đây bao gồm cả bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thì chất lượng bảo lãnh là bảo lãnh có uy tín, có khả năng tài chính cao. - Đối với bên được bảo lãnh thì một nghiệp vụ bảo lãnh có chất lượng sẽ tạo điều kiện tốt cho doanh nghiệp hoàn thành tốt hoạt động cần bảo lãnh của mình như thu hút được vốn, công nghệ, có được hợp đồng. - Đối với bên nhận bảo lãnh để đảm bảo an toàn, bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên được bảo lãnh phải có một hợp đồng bảo lãnh trong đó người bảo lãnh cam kết thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Nếu ngân hàng đứng ra bảo lãnh, thì bên được bảo lãnh sẽ thực hiện hợp đồng một cách tốt hơn. * Từ góc độ ngân hàng: Trước khi tiến hành một nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã phân loại chủ thể theo mức độ an toàn từ cao đến thấp như là: chính phủ, công ty bảo hiểm, các NH, các DN, các cá nhân. Tuy vậy, một nghiệp vụ bảo lãnh được coi là tốt phải được tiến hành tốt ngay từ khi thẩm định bảo lãnh cho đến khi kết thúc một nghiệp vụ bảo lãnh với kết quả là ngân hàng thu được doanh thu từ nghiệp vụ này. Tóm lại, một hoạt động bảo lãnh được coi là có chất lượng khi mà nó đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Bên được bảo lãnh thì có nhiều điều kiện tiếp cận với nguồn vốn, công nghệ để đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất, nâng cao lợi nhuận. Bên nhận bảo lãnh cũng yên tâm hơn khi cho vay vốn, bán hàng hoá, máy móc, thiết bị công nghệ. Còn ngân hàng thì hỗ trợ cho khách hàng phát triển, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường mối quan hệ với khách hàng, đẩy mạnh uy tín của ngân hàng trên trường quốc tế, thu hút thêm khách hàng. Góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. 1.2. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ Để đánh giá một nghiệp vụ bảo lãnh có chất lượng hay không, ta phải đánh giá cả quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đó. - Ngân hàng phải đảm bảo mọi bước thực hiện đều đúng pháp luật. - Ngân hàng phải đáp ứng dịch vụ bảo lãnh hoàn hảo theo yêu cầu của khách hàng trong thời gian nhanh nhất như: thủ tục đơn giản, quá trình cấp bảo lãnh nhanh chóng, các điều khoản thuận lợi khi thanh toán. Về thời gian để thực hiện một món bảo lãnh, mỗi một ngân hàng có quy định thời gian làm việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Cán bộ nhân viên ngân hàng phải có thái độ phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo. Điều này ảnh hưởng tới hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. - Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng giúp khách hàng thực hiện tốt mục đích của mình theo đúng pháp luật. Giúp khách hàng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, góp phần vào sự phát triển kinh tế. - Ngân hàng phải luôn đảm bảo rằng khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh thì ngân hàng sẽ thu lại được tiền từ người được bảo lãnh một cách nhanh nhất. Ngoài ra, để đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại một ngân hàng, ta cần phải đánh giá tất cả các nghiệp vụ bảo lãnh mà ngân hàng đã thực hiện. - Chỉ tiêu doanh thu từ hoạt động bảo lãnh. Doanh thu cho biết tổng số tiền ngân hàng thu được từ các hoạt động và dịch vụ mà ngân hàng đã cung cấp. Doanh thu bảo lãnh được tính từ tổng số phí thu đựơc mà khách hàng tham gia bảo lãnh đã trả. Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh (%) = Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh x 100% Tổng doanh thu Nếu hệ số này lớn chứng tỏ hoạt động dịch vụ bảo lãnh ngân hàng rất phát triển, số lượng khách hàng đến sử dụng dịch vụ bảo lãnh không phải là nhỏ. - Chỉ tiêu chi phí từ hoạt động bảo lãnh. Phản ánh các khoản tiền mà ngân hàng đã bỏ ra để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và các nghĩa vụ khác có liên quan đến hoạt động bảo lãnh. Chi phí này được đưa vào chi phí ngoài để hạch toán. Chi phí này càng giảm chứng tỏ hoạt động bảo lãnh không xảy ra nhiều rủi ro. - Chỉ tiêu lãi từ hoạt động bảo lãnh. Lãi từ hoạt động bảo lãnh được tính bằng: Lãi từ hoạt động bảo lãnh = Doanh thu – chi phí Lãi từ hoạt động bảo lãnh góp phần tạo thêm nguồn thu nhập cho ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết hoạt động bảo lãnh mạng lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân hàng. - Chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh quá hạn. Dư nợ quá hạn là những khoản vốn mà ngân hàng bỏ ra để trả thay cho người được bảo lãnh nhưng đến hạn thanh toán khách hàng không có đủ tiền trả hoặc không chịu trả cho ngân hàng. Dư nợ bảo lãnh quá hạn càng lớn càng thể hiện ngân hàng đang đứng trước nguy cơ mất vốn và chất lượng bảo lãnh của ngân hàng là không tốt. 1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.3.1 NHÂN TỐ KHÁCH QUAN Đó chính là các chính sách kinh tế vĩ mô của quốc gia thể hiện qua các văn bản luật và sự thay đổi của chúng tác động tới hoạt dộng bảo lãnh cũng như chất lượng bảo lãnh. Tại Việt nam, hoạt động bảo lãnh vẫn còn mới song các văn bản Luật quy định về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã ra đời từ rất sớm như Luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng…và mới đây là quy chế về bảo lãnh của NHNN. Tuy nhiên, các văn bản này còn chưa đồng bộ và đầy đủ làm cho quá trình thực hiện bảo lãnh còn gặp nhiều khó khăn, tác động tới hoạt động bảo lãnh cũng như chất lượng bảo lãnh. 1.3.2 NHÂN TỐ CHỦ QUAN Trước khi ra quyết định bảo lãnh ngân hàng phải tiến hành thẩm định khách hàng. Song tại nhiều ngân hàng, trình độ nhân viên còn kém dẫn đến việc thẩm định sai, ra quyết định không đúng. Thái độ của nhân viên cũng ảnh hưởng một phần tới việc mở rộng hoạt động bảo lãnh. Nó ảnh hưởng tới hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng, nếu nhân viên có thái độ phục vụ tận tình chu đáo sẽ khiến khách hàng hài lòng và tiếp tục giao dịch với ngân hàng. Hiện nay, việc đầu tư vào máy móc còn gặp nhiều khó khăn, chưa tạo điều kiện trong việc cung cấp thông tin, xử lý dữ liệu, quản lý khách hàng. Công nghệ thông tin chưa được ứng dụng rộng rãi trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BÃO LÃNH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 2.1 TỔNG QUAN VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 2.1.1 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI Chi nhánh Ngân hàng Ngọai thương Hà nội (Vietcombank Hà nội) được thành lập ngày 01/03/1985, là thành viên trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, được nhà nước công nhận là doanh nghiệp hạng nhất. Cùng với sự phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội có truyền thống kinh doanh đối ngoại, thanh toán quốc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế khác. Đến cuối năm 2005 Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội đã có mạng lưới bao gồm: 04 Chi nhánh trực thuộc 05 Phòng giao dịch 01 Quầy thu đổi ngoại tệ Quản lý vốn cổ phần tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế (VIBank). Là một trong những chi nhánh hàng đầu của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại cung cấp các dịch vụ tự động hoá cao: VCB ONLINE, thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống rút máy tiền tự động ATM, thẻ ATM Connect 24...hệ thống thanh toán SWIFT toàn cầu và mạng lưới đại lý trên 1200 Ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt trong các chính sách phát triển, Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội luôn chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình và tinh thông nghiệp vụ. Trong quá trình phát triển, tập thể cán bộ công nhân viên Ngân hàng Ngoại thương Hà nội đã không ngừng phấn đấu và đạt được nhiều kết quả trong hoạt động ngân hàng, vinh dự được nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba và là một trong những chi nhánh hàng đầu trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thươngViệt nam, là ngân hàng thương mại được giới tài chính quốc tế xếp hạng tốt nhất Việt nam. Tóm lại, trải qua hơn 20 năm hoạt động và phát triển chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội đã không ngừng trưởng thành, trở thành một trong những chi nhánh lớn của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. Dù còn gặp nhiều khó khăn và thách thức nhưng ngân hàng đã phát huy được sức mạnh, tiếp tục phát triển, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp xây dựng thủ đô và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.1.2 CƠ CẤU TỔ CHỨC TiÕn sÜ NguyÔn Xu©n LuËt Gi¸m §èc Phô tr¸ch chung vµ phô tr¸ch ho¹t ®éng Ng©n hµng b¸n bu«n Phßng Ban NghiÖp Vô P. Quan hÖ kh¸ch hµng Bµ TrÞnhThÞ ®øc Phã Gi¸m §èc Phô tr¸ch chung vµ phô tr¸ch ho¹t ®éng Ng©n hµng b¸n lÎ ¤ng Cao v¨n ®øc phã Gi¸m §èc Phô tr¸ch Qu¶n trÞ rñi ro vµ xö lý tµi s¶n Nî - Cã Bµ NguyÔn thÞ kim liªn Phã Gi¸m §èc Phô tr¸ch t¸c nghiÖp vµ ho¹t ®éng Ng©n Hµng Qu¶n lý vèn vµ Kinh doanh ngo¹i tÖ P. Thanh to¸n XuÊt nhËp khÈu P. Tæ chøc C¸n bé P. KiÓm tra néi bé P. DÞch vô Ng©n Hµng P. Thanh to¸n thÎ TÝn dông thÓ nh©n P. Qu¶n lý rñi ro P. Tin häc X©y dùng c¬ b¶n Ph¸t triÓn m¹ng l­íi P. Ng©n Quü P. KÕ to¸n tµi chÝnh Qu¶n lý nî Hµnh chÝnh qu¶n trÞ m¹ng l­íi - chi nh¸nh trùc thuéc C¸c phßng giao dÞch c¸c héi ®ång CN Thµnh C«ng CN CÇu GiÊy CN Ch­¬ng D­¬ng CN Ba §×nh Phßng Quan HÖ kh¸ch hµng Phßng KÕ to¸n vµ dÞch vô Phßng Hµnh chÝnh Ng©n quü PGD sè 1 PGD sè 2 PGD sè 3 PGD sè 4 PGD sè 5 QuÇy thu ®æi ngo¹i tÖ Héi ®ång TÝn dông Héi ®ång Xö lý rñi ro Héi ®ång thi ®ua Héi ®ång L­¬ng Héi ®ång MiÔn gi¶m l·i Ban gi¸m ®èc Phßng Quan HÖ kh¸ch hµng Phßng KÕ to¸n vµ dÞch vô Phßng Hµnh chÝnh Ng©n quü Phßng Quan HÖ kh¸ch hµng Phßng KÕ to¸n vµ dÞch vô Phßng Hµnh chÝnh Ng©n quü Phßng Quan HÖ kh¸ch hµng Phßng KÕ to¸n vµ dÞch vô Phßng Hµnh chÝnh Ng©n quü 2.1.3 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHNT HN Trải qua hơn 20 năm tồn tại và phát triển, Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội đã không ngừng lớn mạnh. Năm 2005 năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm (2001-2005), nền kinh tế nước ta nói chung và Hà nội nói riêng gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng từ sự biến động của giá dầu mỏ, vàng và các loại ngoại tệ mạnh với biên độ cao trong năm, dịch cúm gia cầm diễn biến phức tạp...làm chỉ số CPI tháng 12/2005 của Hà nội tăng 9,55% so với chỉ số giá tháng 12/2004. Bên cạnh đó, Hà nội có thêm nhiều kênh huy động vốn mới như hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán, trái phiếu xây dựng thủ đô lần thứ nhất, một số tổng công ty phát hành trái phiếu doanh nghiệp...khiến cạnh tranh thu hút vốn ngày càng trở nên quyết liệt. Ngoài ra, tiến trình cổ phần hoá của các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, gây ách tắc về vốn của các doanh nghiệp, qua đó cũng ảnh hưởng đến hoạt động và chất lượng tín dụng của ngân hàng. Sang đến năm 2007, nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,5%. Các hoạt đông kinh tế càng về tháng cuối năm càng sôi động, lãi suất của các ngân hàng sau một thời gian liên tục điều chỉnh hiện đang duy trì ở mức ổn định sau việc cắt giảm lãi suất của Fed. Gần đây, các ngân hàng thương mại cổ phần đang tăng lãi suất huy động để có đủ vốn cho hoạt động cuối năm. Giá vàng tăng đột biến ở mức 1,6 và lên tới 1,7 triệu đồng/chỉ, thị trường chứng khoán với nhiều diễn biến quanh mốc Vn-Index đạt 1.000 điểm, thị trường bất động sản phục hồi với nhiều dấu hiệu mới...Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2007 tăng 12,63% so với tháng 12/2006 tác động mạnh tới kinh tế và đời sống, đặc biệt trong mấy tháng cuối năm. Tại địa bàn Hà nội tuy phải đối phó với nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội: Nguy cơ tái phát dịch cúm gia cầm, tình trạng tăng giá khá phổ biến, nhất là ở một số hàng hoá, vật tư, nguyên liệu, sự trầm lắng trên thị trường chứng khoán, mức độ gia tăng sức ép cạnh tranh từ hàng ngoại nhập do thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong năm đầu tiên chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO)...nhưng xét về tổng thể, tình hình kinh tế xã hội của thủ đô trong năm 2007 có nhiều chuyển biến tích cực: Tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn Hà nội tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước, kim nghạch xuất nhập khẩu trên địa bàn tăng tương ứng 20,6 và 17,8% so với cùng kỳ năm 2006. Đặc biệt, hoạt động ngân hàng tại địa bàn Hà nội năm 2007 vẫn phát triển khá ổn định, các chỉ tiêu đều ở mức cao so với toàn quốc. 2.1.3.1 Về công tác huy động vốn Công tác huy động vốn của chi nhánh năm 2007 đã duy trì kết quả tốt. Phát huy được thế mạnh về uy tín, thương hiệu gần 45 năm của Vietcombank và với các phương pháp huy động vốn hiệu quả, thực hiện thành công việc đưa các sản phẩm mới về huy động vào thị trường theo chủ trương của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, tổng nguồn vốn của chi nhánh tính đến 31/12/2007 đạt 7.088 tỷ đồng, tăng 5% so với năm 2006, trong đó nguồn vốn huy động đạt 6.270 tỷ, tăng 12% so với cuối năm 2006, đạt kế hoạch Ngân hàng Ngoại thương Việt nam giao cho chi nhánh. Huy động VNĐ đạt 3.433 tỷ đồng, chiếm 54,7% tổng nguồn vốn huy động. Huy động ngoại tệ đạt 2.837 tỷ quy đồng, chiếm 45,3% tổng nguồn vốn huy động. Cơ cấu nguồn vốn huy động giữa tiền đồng và ngoại tệ đang có sự chuyển dịch theo hướng vốn huy động ngoại tệ giảm dần, đây cũng là xu hướng chung của các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây. Sỡ dĩ có sự dịch chuyển đó, một phần là do việc cắt giảm lãi suất cơ bản USD của cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) trong tháng 9/2007 từ 5,25% xuống còn 4,75% và 4,25% vào tháng 12/2007 đã khiến lãi suất huy động USD của các Ngân hàng thương mại trong nước giảm theo. Mặt khác là do xu hướng cạnh tranh về huy động vốn giữa các ngân hàng, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng thương mại cổ phần mới. Huy động từ tổ chức kinh tế đạt: 2.134 tỷ đồng, chiếm 34% nguồn vốn huy động. Huy động từ dân cư đạt: 4.136 tỷ đồng, chiếm 66% nguồn vốn huy động. Đến 31/12/2997, thị phần huy động VNĐ, USD và huy động quy Việt nam đồng của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thưong Hà nội tương ứng là 1,41%; 2,92% và 1,84% so với mạng lưới 209 tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn. 2.1.3.2 Về hoạt động tín dụng Công tác tín dụng của chi nhánh trong năm 2007 tiếp tục thực hiện với phương châm “hiệu quả và an toàn”. Với nỗ lực của các cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Hà nội, dư nợ tính đến 31/12/2007 đạt 2.555 tỷ đồng, tăng 6% so với cuối năm 2006, đạt 88% kế hoạch năm 2007, chiếm 1,49% thị phần trên địa bàn Hà nội. Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp có vốn vay tại chi nhánh hiện là 133 khách hàng. Đến 31/12/2007, dư nợ quá hạn chiếm 0,78% tổng dư nợ. - Cho vay trung dài hạn: chiếm 22,3% tổng dư nợ. - Cho vay ngắn hạn: chiếm 77,7% tổng dư nợ. Thực hiện quy trình tín dụng mới theo quyết định 90/QĐ.NHNT/QLTD ngày 26/05/2006 của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam áp dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp. Phòng quản lý rủi ro tín dụng đã từng bứơc góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, tạo đà phát triển bền vững cho Ngân hàng Ngoại thương Hà nội tiếp cận với tập quán quốc tế về quản lý trong hoạt động ngân hàng. Để mở rộng quan hệ khách hàng và đẩy mạnh công tác tín dụng, đội ngũ cán bộ VCBHN đã chủ động tìm kiếm khách hàng tiềm năng, các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo điều kiện hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Ngân hàng Ngoại thương Hà nội luôn quan tâm duy trì và củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống. Phong cách giao dịch của cán bộ tín dụng và chất lượng các sản phẩm tín dụng của chi nhánh đã tạo niềm tin và uy tín đối với các khách hàng, tạo điều kiện cùng khách hàng kinh doanh hiệu quả. Bên cạnh đội ngũ khách hàng truyền thống về xuất nhập khẩu, mở các chương trình hỗ trợ về vốn cho khách hàng vừa và nhỏ để phát triển kinh doanh, chi nhánh đang mở rộng thêm loại hình cho vay cá thể với nhiều hình thức cho vay ưu đãi, hấp dẫn: mua ôtô mới, sửa chữa nhà, phát triển kinh tế tư nhân-gia đình, du học, mua biệt thự tại khu biệt thự, đầu tư xây dựng văn phòng...Đến 31/12/2007, dư nợ tại bộ phận tín dụng thể nhân đạt 145 tỷ đồng, chiếm 5,7% tổng dư nợ. Nhìn chung, các khoản vay cá nhân có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng. 2.1.3.3 Về công tác thanh toán XNK và bảo lãnh Từ đầu năm 2007 đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu có những thách thức mới do môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các quy định rào cản về xuất khẩu ngày càng chặt chẽ, giá một số vật tư và dịch vụ đầu vào tăng làm hạn chế sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên tại VCBHN, doanh số thanh toán XNK vẫn đạt cao, có chất lượng tốt với tổng số xuất nhập khẩu đạt 435 triệu USD. - Nhập khẩu đạt 246 triệu, vượt 8% kế hoạch đặt ra cho năm 2007, chủ yếu là các mặt hàng nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc. - Xuất khẩu đạt 189 triệu USD, vượt 69% kế hoạch đặt ra từ đầu năm, chủ yếu là các sản phẩm nông, lâm sản. - Dư nợ bảo lãnh đến 31/12/2007 đạt 113 tỷ đồng. 2.1.3.4 Về hoạt động thẻ và dịch vụ ngân hàng Ngân hàng Ngoại thương đã liên minh với các ngân hàng cổ phần để phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý, mạng lưới dịch vụ thẻ và thúc đẩy hợp tác dịch vụ thẻ giữa các ngân hàng và doanh nghiệp với các chương trình hợp tác như thanh toán cước điện thoại, internet, phí bảo hiểm... Với mạng lưới ATM và các đơn vị chấp nhận thẻ rộng khắp trên toàn quốc, số lượng thẻ do VCB phát hành ngày càng tăng. Số lượng thẻ ATM phát hành mới trong năm 2007 của VCBHN đạt 27.155 thẻ, nâng tổng số thẻ ATM của chi nhánh lên 73.029 thẻ. Tổng số thẻ debit năm 2007 đạt 31.629 thẻ, vượt 63% kế hoạch năm 2007. Số lượng phát hành thẻ tín dụng mới đạt 728 thẻ, nâng tổng số thẻ tín dụng của chi nhánh đạt 3.254 thẻ. Thẻ ghi nợ quốc tế MTV phát hành mới trong năm 2007 đạt 2.317 thẻ, nâng tổng số thẻ MTV lên 3.599 thẻ. Thẻ ghi nợ visa đạt 1.399 thẻ, thẻ ghi nợ SGH24 đạt 758 thẻ. Sau khi chuyển một số máy ATM cho các chi nhánh cấp 2 nâng cấp trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, chi nhánh NHNT Hà nội có 34 máy ATM, 86 đơn vị chấp nhận thẻ. Với chính sách đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng và từng bước đưa ra các sản phẩm ngân hàng hiện đại vào tiếp cận cuộc sống, ban giám đốc chi nhánh đã tạo điều kiện cho công tác khuếch trương các tiện ích dịch vụ ngân hàng, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng nhằm thu hút đựơc đông đảo khách hàng thủ đô và các tỉnh lân cận đến sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng Ngoại thương. Công tác dịch vụ ngân hàng phát triển là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của chi nhánh. Không ngừng mở rộng các dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm nâng cao doanh thu từ dịch vụ là mục tiêu được chi nhánh đặt lên hàng đầu. - Số lượng tài khoản cá nhân mở mới đạt: 29.291 tài khoản, nâng tổng số tài khoản cá nhân mở tại chi nhánh là 72.653 tài khoản, đạt 120% kế hoạch của năm 2007. - Chuyển tiền trong nước đạt 322,6 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2006. - Chuyển tiền nước ngoài đi đạt 1,3 triệu USD. - Chi trả kiều hối đạt 61,7 triệu USD, tăng 5% so với năm 2006. Trong đó, chuyển tiền qua hệ thống Money Gram đạt hơn 300.000 USD. Mặc dù con số này chưa cao so với lượng tiền nước ngoài chuyển đến qua tài khoản hoặc cmt...Tuy nhiên sự mở rộng dịch vụ chuyển tiền sẽ góp phần nâng cao thương hiệu cho Vietcombank. - Doanh số bán ngoại tệ tại các bàn thu đổi đạt 6,4 triệu USD, tăng 201% so với năm 2006. Với nỗ lực của các cán bộ, chi nhánh hiện có 40 đơn vị đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử VCB Money và 450 đơn vị, 3.000 lượt đăng ký truy vấn thông tin qua internet i-banking, sử dụng dịch vụ sms-banking... 2.1.3.5 Về kinh doanh ngoại tệ Doanh số mua bán ngoại tệ của VCB HN năm 2007 đạt 725 triệu USD, tăng 3% so với năm 2006. Lãi kinh doanh ngoại tệ trong năm 2007 đạt gần 6 tỷ đồng. Ngoại tệ mua được phần lớn từ nguồn các tổ chức kinh tế đáp ứng cho nhu cầu thanh toán nhập khẩu và trả nợ tại chi nhánh. Đồng thời, để tránh rủi ro về tỷ giá cũng như xác định rõ nguồn ngoại tệ đảm bảo thanh toán cho khách hàng, NHNT HN đã sử dụng công cụ phái sinh là hợp đồng có kỳ hạn đối với các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá. Trong thời gian tới, NHNT VN nói chung cũng như NHNT HN nói riêng cần nghiên cứu, tiếp tục đưa ra các sản phẩm phái sinh mới, tạo sự đa dạng cho lựa chọn của khách hàng. 2.1.3.6 Về công tác ngân quỹ Năm 2007, khối lượng giao dịch thu chi tiền mặt qua VCB HN tăng nhiều, gồm cả ngoại tệ cũng như Việt nam đồng: Tổng thu chi Việt nam đồng đạt 28.450 tỷ đồng, tăng 33% so với kế hoạch năm 2007, thu chi ngoại tệ quy USD đạt 490,56 triệu USD, tăng 32% so với kế hoạch năm 2007. Công tác ngân quỹ luôn đảm bảo an toàn. Lãnh đạo và phòng kiểm tra nội bộ thường xuyên kiểm tra, đôn đốc thực hiện đúng quy trình thu chi tiền mặt, ngoại tệ, tổ chức tốt công tác thu chi tiền mặt cho sản xuất và đời sống, tạo được lòng tin đối với khách hàng. Bên cạnh đó, cùng với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của ban giám đốc cũng như sự nỗ lực của từng giao dịch viên (teller) nên mặc dù luôn có sự thay đổi về mặt nhân sự, các nghiệp vụ đa dạng hơn, khối lượng công việc nhiều hơn, nhưng trong giao dịch tiền mặt vẫn luôn đảm bảo chi đủ, đúng, thực hiện trả lại tiền thừa cho khách, thu được nhiều tiền giả đảm bảo giải phóng khách hàng nhanh, thái độ phục vụ nhiệt tình. - Tiền giả: 2100 USD; 100 EUR; 20 GDP; 186.590.000 VNĐ. - Tiền thừa: 281.550.000 VNĐ (28 món). Để đảm bảo lượng tồn quỹ tiền mặt đủ cho các phòng nghiệp vụ và giao dịch viên, từ 01/04/2007, Giám đốc NHNT HN đã quy định hạn mức tồn quỹ hàng ngày cho các phòng nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả điều hành vốn của chi nhánh. 2.1.3.7 Về công tác kế toán Công tác thanh toán của ngân hàng luôn đảm bảo chính xác, kịp thời cho các giao dịch chuyển vốn của khách hàng với thời gian ngắn nhất và chất lượng tốt nhất, tạo điều kiện tăng nhanh tốc độ chu chuyển của đồng vốn qua ngân hàng. Doanh số thanh toán điện tử liên ngân hàng và thanh toán IBT ONLINE đã đạt kết quả cao. Với vai trò đầu mối, VCB HN luôn đảm bảo thanh toán cho các chi nhánh NHNT cơ sở thông suốt, kịp thời và chính xác. Tuy nhiên, trong thanh toán bù trừ và giao dịch tiền mặt, do NHNN quy định cứng về thời gian giao dịch làm ảnh hưởng tới các chi nhánh NHNT cơ sở. - Doanh số thanh toán bù trừ đạt: 10.973 tỷ đồng, tăng 57% so với năm 2006. - Doanh số thanh toán IBPS đạt 82.540 tỷ đồng, tăng 106% so với năm 2006. - Doanh số thanh toán IBT online đạt: 83.673 tỷ đồng, tăng 144% so với năm 2006. Hiện chi nhánh có 131 đơn vị đăng ký trả lương qua tài khoản với doanh số gần 30 tỷ đồng/tháng, 1.958 đơn vị mở tài khoản tại ngân hàng, tăng 12% so với cuối năm 2006. Kết quả kinh doanh năm 2007: Lợi nhuận đạt 111 tỷ đồng. Chi nhánh tiếp tục phát huy các thế mạnh về công nghệ và uy tín thương hiệu của một ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp đa dạng các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kỳ phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, thích hợp nhiều tiện ích, mở rộng mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn...để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng huy động vốn từ khách hàng từ 26% năm 2006, 36% năm 2007 lên đến 40% năm 2008. 2.2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 2.2.1 CÁC QUY ĐỊNH CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NHNT HN 2.2.1.1 Đối tượng được bảo lãnh Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho: - Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt nam bao gồm: Các doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp cả các tổ chức tín dụng chính trị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân. - Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng bao gồm: các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt nam, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng; các ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, hoạt động theo luật pháp Việt nam. - Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại điều 94 của bộ luật Dân sự. - Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt nam. - Hộ kinh doanh cá thể. 2.2.1.2 Các hình thức bảo lãnh chủ yếu Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội thực hiện các loại bảo lãnh sau: - Bảo lãnh vay vốn: bao gồm có bảo lãnh vay vốn trong nước và bảo lãnh vay vốn nước ngoài. - Bảo lãnh thanh toán và thư tín dụng dự phòng. - Bảo lãnh dự thầu. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm. - Bảo lãnh hoàn thanh toán. - Bảo lãnh bảo hành. - Bảo lãnh bảo dưỡng. - Bảo lãnh khoản tiền giữ lại. - Các loại bảo lãnh khác. 2.2.1.3 Các hình thức phát hành bảo lãnh Tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội, sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh với khách hàng. Căn cứ theo yêu cầu bảo lãnh của khách hàng được quy định cụ thể trong hợp đồng. Ngân hàng sẽ phát hành một trong các loại thư bảo lãnh sau: - Phát hành bảo lãnh bằng thư/điện, phát hành bảo lãnh đối ứng và phát hành bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của tổ chức tín dụng khác. - Thông báo bảo lãnh. - Xác nhận bảo lãnh, ký xác nhận bảo lãnh trên các hối phiếu, lệnh phiếu. - Các hình thức khác. 2.2.1.4 Điều kiện bảo lãnh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội xem xét và quyết định bảo lãnh cho các khách hàng thuộc đối tượng được bảo lãnh khi có đủ các điều kiện sau: * Điều kiện chung: - Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. - Có bảo đảm hợp pháp cho bảo lãnh theo yêu cầu của NHNT Hà nội. * Điều kiện chung: - Trường hợp bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán/thư tín dụng dự phòng và bảo lãnh có thời hạn trung/dài hạn, ngoài các qui định tại điều kiện chung, khách hàng cần có thêm các điều kiện sau: + Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán với tổ chức tín dụng. + Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất/kinh doanh khả thi, hiệu quả khi đề nghị bảo lãnh vay vốn. + Đáp ứng các điều kiện với khách hàng vay vốn được quy định tại bản hướng dẫn của NHNT Hà nội về quy chế cho vay đối với khách hàng. + Trong trường hợp vay vốn nước ngoài, khách hàng phải thực hiện đúng các qui định của pháp luật về quản lý vay và trả nợ nước ngoài. - Trường hợp phát hành bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh bảo dưỡng, bảo lãnh khoản tiền giữ lại, và các loại bảo lãnh khác ngoài các điều kiện qui định tại phần điều kiện chung, NHNT Hà nội sẽ xem xét: mức độ tín nhiệm; khả năng tài chính; năng lực chuyên môn; biện pháp bảo đảm cho bảo lãnh hoặc ký quỹ để quyết định phát hành bảo lãnh. - Đối với trường hợp bảo lãnh hối phiếu,._. và tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm và chính sách khách hàng mà giám đốc ra quyết định mức phí bảo lãnh là bao nhiêu. Song hoạt động bảo lãnh cũng giống như hoạt động tín dụng, chứa đựng trong nó những rủi ro nhất định. Do đó mức phí này vẫn không thể bù dắp rủi ro cho ngân hàng bảo lãnh, đặc biệt là đối với bảo lãnh mở L/C bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh tiền ứng trước. Chi phí mà ngân hàng bỏ ra khi thực hiện một món bảo lãnh như bảo lãnh L/C không phải là nhỏ. Vì vậy đây được coi là một bất lợi đối với ngân hàng. * Còn sai sót trong quá trình theo dõi các món bảo lãnh. Trong quá trình thực hiện một món bảo lãnh, các cán bộ tín dụng không phải lập sổ theo dõi bắt buộc nên sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh có một số cán bộ tín dụng theo dõi bảo lãnh không chặt chẽ dẫn đến một vài món bảo lãnh đã phát hành nhưng chưa chuyển đến phòng kế toán qua mạng. Kết quả là kế toán chưa nhập ngoại bảng, ảnh hưởng đến việc thu phí khách hàng sau đó. * Một số trường hợp thời gian thực hiện bảo lãnh còn chưa đạt tiêu chuẩn. Mặc dù các cán bộ tín dụng đã tuân thủ nghiêm túc các quy định về thời gian song có trường hợp khách hàng vẫn phàn nàn do chờ đợi lâu để thực hiện song một món bảo lãnh. Đây có thể do một số món bảo lãnh có số tiền bảo lãnh lớn, các cán bộ tín dụng phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định bảo lãnh. Mà quy trình bảo lãnh đôi khi còn phức tạp gây phiền hà cho khách hàng. Mặt khác việc thảo thư phát hành bảo lãnh còn gặp khó khăn do đó các cán bộ tín dụng lại mất thời gian chỉnh sửa lại mẫu thư sao cho phù hợp với từng hợp đồng đã làm kéo dài thời gian thực hiện một món bảo lãnh. Những hạn chế trong hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Hà nội hiện nay vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Đó là do có những nguyên nhân chủ yếu khiến ngân hàng gặp khó khăn khi giải quyết những hạn chế trên. 2.3.2.2 Nguyên nhân 2.3.2.2.1 Nguyên nhân khách quan * Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Hiện nay, Ngân hàng Ngoại thương Hà nội đang hoạt động dưới sự điều chỉnh của luật các TCTD và hệ thống các luật, văn bản dưới luật của chính phủ và NHNN ban hành. So với trước đây thì hệ thống các văn bản này đã có những thay đổi hợp lý hơn, tạo điều kiện hơn cho ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động song nó vẫn chưa thực sự mở ra những hành lang pháp lý thực sự thông thoáng và hợp lý. Do vậy, hệ thống các văn bản này vẫn cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng ra đời chưa lâu, do đó các văn bản luật, dưới luật quy định về nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chưa thống nhất. Cho đến hiện giờ vẫn chưa có luật hay nghị định về bảo lãnh ngân hàng. Do đó khi đưa các văn bản luật này vào thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn. Tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động, kinh nghiệm và thói quen, các ngân hàng sẽ cụ thể hoá các văn bản. Vì thế khi thực hiện một số loại hình bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, phía ngân hàng sẽ phải tham khảo thêm các thông lệ chung để đưa ra các điều khoản trong hợp đồng và khi mối quan hệ bảo lãnh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia thì việc giải quyết các tranh chấp sẽ khó khăn. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật vẫn chưa bổ sung thêm các loại hình bảo lãnh mới mà nhu cầu về chúng đang ngày càng tăng như bảo lãnh nộp thuế. NHNN Việt nam vẫn chưa chính thức thừa nhận cho phép sử dụng các nghiệp vụ bảo lãnh này. Điều này khiến ngân hàng dè dặt khi đưa ra một sản phẩm mới. Mức phí mà NHNN quy định vẫn còn là một vấn đề đáng quan tâm đòi hỏi phải có sự thay đổi thích đáng. Mức phí tối đa do NHNN quy định chưa đảm bảo cho ngân hàng cân đối giữa doanh thu được với chi phí mà họ bỏ ra nhất là với bảo lãnh vay vốn nước ngoài. * Cơ chế hoạt động bảo lãnh vẫn còn phức tạp. Doanh nghiệp tìm đến ngân hàng xin bảo lãnh phải tuân theo những thủ tục rườm rà, mất khá nhiều thời gian. Khi được chấp nhận bảo lãnh, thương vụ kết thúc, doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với những thủ tục phiền hà trong việc xử lý tài sản thế chấp và giải toả bảo lãnh. Mặc dù hiện nay công nghệ ngân hàng cũng đang được nâng lên đáng kể nhưng vẫn còn phiền hà gây tâm lý ngại ngần cho các doanh nghiệp mỗi khi họ cần đến ngân hàng, bởi thế rất có thể những thủ tục ấy khiến các doanh nghiệp mất khả năng đầu tư và cạnh tranh với đối thủ khác. Điều này rõ ràng không có lợi cho doanh nghiệp và cả ngân hàng nhưng khắc phục nó không phải một sớm một chiều. Ngân hàng cần quan tâm cải thiện vấn đề này, đặc biệt là những doanh nghiệp xin bảo lãnh với mức nhỏ, cần có thủ tục linh hoạt hơn giúp họ nhanh chóng có đủ nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra thông suốt. * Trình độ và năng lực quản lý của các DN còn thấp. Các doanh nghiệp Việt nam hiện nay trình độ và năng lực quản lý còn thấp. Điều này không những ảnh hưởng tới công tác tổ chức điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới quá trình doanh nghiệp đến xin bảo lãnh. Trước hết, do trình độ quản lý còn yếu kém nên các doanh nghiệp thường không nắm chắc các quy định về bảo lãnh như yêu cầu về hồ sơ xin bảo lãnh, tài sản đảm bảo khiến cho ngân hàng mất nhiều thời gian để xem xét liệu đã đủ điều kiện thực hiện món bảo lãnh chưa. Chính điều này đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của bản thân doanh nghiệp do mất nhiều thời gian. Nếu ngân hàng xem xét qua loa thì có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Các doanh nghiệp Việt nam nhất là các doanh nghiệp mới thường không có đủ điều kiện về tài sản đảm bảo. Với những doanh nghiệp nhà nước, phần lớn nằm trong tình trạng lạc hậu, khó thanh khoản, nhiều tài sản như công xưởng, đất đai lại thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên khó khăn trong việc thanh lý. Trong khi khách hàng mới thường phải ký quỹ hoặc thế chấp 100%. Các tài sản này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên vấn đề thanh lý là không khó khăn nhiều. Nhưng với món bảo lãnh có giá trị lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản thế chấp có giá trị tương đương. Vì thế làm mất cơ hội kinh doanh của cả doanh nghiệp và ngân hàng. 2.3.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan * Công nghệ thông tin, các trang thiết bị máy móc hiện đại, cơ sở hạ tầng còn chưa hợp lý. Hiện nay, ngân hàng đã thực hiện từng bước việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của ngân hàng, như nối mạng nội bộ giữa các phòng ban...giúp cho việc kiểm tra tình hình công nợ của khách hàng hay cán bộ tín dụng có thể thu thập thông tin của khách hàng trên mạng internet…Nhưng do chưa đầu tư thích đáng nên để thu thập thông tin một cách nhanh chóng vẫn còn gặp khó khăn. Công nghệ thông tin chưa được ứng dụng rộng rãi trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, do vậy việc đối chiếu giữa các khâu không được nhanh gọn làm mất nhiều thời gian. Muốn thu hút được khách hàng thì chất lượng sản phẩm cung ứng phải tốt song đôi khi cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cũng ảnh hưởng tới tâm lý của khách hàng. Một cơ sở hạ tầng hiện đại tạo tâm lý tin tưởng đối với khách hàng. Hiện nay, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị tại ngân hàng vẫn còn chưa hợp lý. * Việc thu thập và xử lý thông tin về khách hàng cón gặp nhiều khó khăn. Ngày nay việc thu thập thông tin đã được hỗ trợ rất nhiều từ các phương tiện máy móc hay từ các trung tâm lưu giữ thông tin nhưng để có được thông tin quan trọng và chính xác, cán bộ tín dụng còn gặp phải những khó khăn nhất định như: Trong nhiều trường hợp khi doanh nghiệp nộp đầy đủ các giấy tờ liên quan theo yêu cầu của ngân hàng thì cũng không chắc chắn được rằng những giấy tờ đó có đảm bảo được tính chân thực hay không. Trong trường hợp liên quan đến tài sản thế chấp cán bộ tín dụng khó có thể biết được rằng tài sản thế chấp đó doanh nghiệp đã dùng để làm tài sản đảm bảo cho các giao dịch trước đó tại những ngân hàng khác không. * Trình độ cán bộ nghiệp vụ còn chưa hoàn thiện. Cán bộ tín dụng vừa phải thực hiện nghiệp vụ cho vay thông thường kiêm luôn cả nghiệp vụ bảo lãnh. Bên cạnh những ưu điểm là họ hiểu được khách hàng và nắm rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng họ không có đủ thời gian để chuyên tâm nghiên cứu sâu về cách thức giải quyết những nhân tố phát sinh trong bảo lãnh. Những hạn chế tại ngân hàng là do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Do đó để nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh, ngân hàng cần có các giải pháp thích hợp. Em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Hà nội. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1.1 MỤC TIÊU KINH DOANH NĂM 2008 Không ngừng tăng trưởng về nguồn vốn, mở rộng nâng cao chất lượng tín dụng, áp dụng nhiều giải pháp để kinh doanh hiệu quả với mục tiêu tăng lợi nhuận: * Về nguồn vốn: Chi nhánh tiếp tục phát huy các thế mạnh về công nghệ và uy tín thương hiệu của một ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp với đa dạng hoá các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kỳ phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng mạng lưới giao dịch, áp dụng các chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn...để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến với khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng huy động vốn từ khách hàng từ 26% năm 2006, 36% năm 2007 lên 40% năm 2008. Với việc mở thêm các địa điểm giao dịch và giao dịch tại trụ sở mới tại 344 Bà triệu, dự kiến cuối năm 2008 tổng nguồn vốn của chi nhánh tăng 15% so với năm 2007, trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế đạt 7.500 tỷ đồng, tăng 19% so vói năm 2007. Tính trung bình trong giai đoạn 2005-2010 tốc độ tăng trưởng huy động vốn của chi nhánh dự kiến khoảng 16,4% do sự phát triển không ngừng của các tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức kinh tế trên địa bàn hiện nay làm gia tăng các loại hình đầu tư cạnh tranh với hoạt động gửi tiền của ngân hàng. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp về nghiệp vụ, chi nhánh đã và sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và văn minh trong giao tiếp, từng bước áp dụng mô hình quản lý và tổ chức giao dịch trong khối ngân hàng bán lẻ theo chuẩn mực của một ngân hàng thương mại hiện đại. * Cho vay : Kế hoạch đến cuối năm 2008, chi nhánh sẽ đạt mức dư nợ tín dụng tăng 20% so với năm 2007. Khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới mức 2%, giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Tăng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đầu tư tài sản cố định trong cơ cấu tín dụng của chi nhánh , kế hoạch năm 2008 đạt 28% tổng dư nợ. * Phát triển mạng lưới: Thực hiện theo chỉ đạo của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, dự kiến trong năm 2008, chi nhánh sẽ tiến hành mở thêm mới 04 phòng giao dịch, đưa sản phẩm dịch vụ và các tiện ích khác của Vietcombank tới gần hơn với khách hàng. * Tăng cường đào tạo và bổ sung cán bộ cho yêu cầu mở rộng quy mô hoạt động và đặc biệt cổ phần hoá Vietcombank. Nâng cao chất lượng hoạt động, nâng cao vị thế của Vietcombank trong giai đoạn mới-giai đoạn cổ phần hoá. 3.1.2 CÁC KẾ HOẠCH KINH DOANH * Chiến lược nguốn vốn: Tiếp tục duy trì và hoàn thiện các hình thức huy động truyền thống đồng thời đa dạng hoá các công cụ và hình thức huy động vốn mới, tiếp tục các chính sách lãi suất linh hoạt. Tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn, tăng tỷ trọng tiền gửi khách hàng. Từng bước cơ cấu lại khách hàng theo hướng tăng trưởng nguồn vốn trung và dài hạn,nâng cao hơn nữa chất lượng các sản phẩm và dịch vụ. Tích cực mở rộng quan hệ vay vốn dưới nhiều hình thức,củng cố quan hệ với khách hàng truyền thống và đồng thời mở rộng quan hệ tiếp cận với khách hàng mới. Mở rộng mạng lưới huy động, tăng cường tiếp thị, quảng cáo thông tin, tuyên truyền và áp dụng nhiều hình thức khuyến khích nhằm tạo điều kiện phục vụ tốt nhất cho khách hàng. * Chiến lược tín dụng: Tiếp tục tìm kiếm thu thập thông tin về các dự án đầu tư phát triển. Mở rộng nhiều hình thức đầu tư tín dụng, không phân biệt các thành phần kinh tế. Mở rộng cho vay trung và dài hạn để giữ vững vị thế của ngân hàng trên địa bàn hoạt động. Thường xuyên nắm bắt nhu cầu của khách hàng. Tăng cường công tác đánh giá, phân loại khách hàng để có chính sách lãi suất phù hợp, kết hợp với chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Tăng cường công tác thẩm định, tiến hành phân tích đánh giá thực trạng các khoản vay, nhất là các khoản nợ quá hạn, nợ không thu được. Tổ chức thực hiện xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu. * Chiến lược nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển sản phẩm mới. Tăng cường mở rộng các dịch vụ phục vụ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, chú trọng việc phát triển mối quan hệ với các đơn vị xuất khẩu các mặt hàng chủ lực chủ Việt nam và các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất thông qua các dịch vụ thanh toán trong nước theo tiêu chuẩn cao, thanh toán quốc tế. Nghiên cứu, triển khai mở rộng nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ tại các điểm giao dịch hiện nay của ngân hàng hoặc tìm kiếm các đại lý có đủ điều kiện để thực hiện thu đổi ngoại tệ, thanh toán séc du lịch, mở tài khoản cá nhân, chuyển tiền. Mở rộng các dịch vụ khác như dịch vụ chi trả lương, chuyển tiền kiều hối. * Chiến lược hợp tác phát triển. Tăng cường củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống đồng thời mở rộng mối quan hệ với khách hàng, tạo lập sự hợp tác bình đẳng giữa ngân hàng với doanh nghiệp. Cùng với khách hàng, hai bên hợp tác cùng phát triển, lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động, lấy dự án kinh doanh của khách hàng là cơ hội kinh doanh. Mở rộng quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng trong và ngoài nước theo nguyên tắc tự chủ, bình đẳng cùng có lợi và đàm phán để làm đầu mối trong việc cho vay đồng tài trợ, đồng bảo lãnh. Cùng với các chi nhánh khác trong hệ thống hợp tác chặt chẽ phối hợp thực hiện các chính sách khách hàng, chính sách lãi suất tạo nên sức cạnh tranh thống nhất trong hệ thống NHNT. * Chiến lược về công tác tổ chức cán bộ và quản trị điều hành. Yếu tố con người là yếu tố quyết định đến sự phát triển của ngân hàng. Nhận thức được điều đó, ngân hàng đã xây dựng tốt chiến lược tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, sử dụng và bố trí nguồn nhân lực đủ về cả số lượng và chất lượng. Đào tạo nâng cao hiệu quả quản lý và quản trị rủi ro đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Phát triển mạng lưới theo hướng phát triển mạng lưới hệ thống các phòng giao dịch tại các khu dân cư đông đúc, những nơi tập trung các công ty lớn với quy mô và nghiệp vụ phù hợp, tập trung vào huy động vốn dân cư và dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Quản trị điều hành thông qua kế hoạch kinh doanh hàng tháng, quý, năm, cụ thể hoá thành kế hoạch tác nghiệp của các bộ phận, giám sát việc thực hiện kế hoạch để có sự điều chỉnh kịp thời. 3.1.3 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH Với mục tiêu phát triển NHNT Hà nội thành một chi nhánh mạnh trong hệ thống, sản phẩm có chất lượng tốt, có uy tín trong và ngoài nước thì không ngừng đổi mới, cải tiến chất lượng các nghiệp vụ đã có và phát triển thêm một số loại hình nghiệp vụ mới. Trong đó phải phát triển các hoạt động dịch vụ để nâng cao sức cạnh tranh, tăng thu nhập. Bên cạnh các nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doang ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh là một trong các nghiệp vụ đem lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đánh giá tình hình thực hiện bảo lãnh trong những năm vừa qua, ban lãnh đạo ngân hàng đã đề ra những mục tiêu phấn đấu sau: - Tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động bảo lãnh trong tổng thu nhập của ngân hàng để cơ cấu lại nguồn thu nhập giữa hoạt động tín dụng và hoạt động dịch vụ, phù hợp với mục tiêu phấn đấu xây dựng ngân hàng thành một chi nhánh hoạt động đa năng tổng hợp, có hiệu quả. - Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh. Bên cạnh việc củng cố, nâng cao chất lượng các loại hình bảo lãnh đã có thì phát triển thêm một số loại hình bảo lãnh mới. - Thực hiện tốt chính sách khách hàng, chiến lược marketing để thu hút thêm khách hàng. - Chú trọng tới việc đưa công nghệ hiện đại vào không chỉ hoạt động bảo lãnh mà còn tới tất cả các hoạt động khác nhằm đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất với chất lượng tốt nhất. - Đào tạo và quản lý tốt đội ngũ cán bộ, đặc biệt bồi dưỡng nâng cao kiến thức về nghiệp vụ bảo lãnh. Trên cơ sở kết hợp phân tích những khó khăn vướng mắc trong công tác bảo lãnh, định hướng kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng tại ngân hàng trong những năm tới, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị như sau. 3.2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NHNT HN 3.2.1 Nâng cao chất lượng thẩm định Giống như hoạt động tín dụng, hoạt động bảo lãnh cũng chứa đựng rủi ro nhất định. Nếu ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì món vay đó sẽ trở thành một món vay bắt buộc, khi đó nó sẽ có nguy cơ không thu hồi được nợ. Chính vì vậy, để hạn chế rủi ro xảy ra, các ngân hàng phải hết sức chú trọng tới công tác thẩm định trước khi ra quyết định. Muốn vậy các cán bộ tín dụng cần đảm bảo tuân thủ đúng quy trình và nội dung thẩm định phương án thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký giữa hai bên. Tuy nhiên, quá trình này nhiều khi không được chặt chẽ và chính xác do các yếu tố khách quan và chủ quan. Do vậy trong việc thẩm định nhu cầu bảo lãnh, ngân hàng cần chú trọng hơn những vấn đề sau: - Tư cách pháp nhân: Điều này là cần thiết đối với khách hàng mới, đặc biệt là công ty cổ phần, công ty TNHH. Bởi vì, khi có tranh chấp xảy ra mọi việc đều được đưa ra trước pháp luật. Do đó ngân hàng cần quan tâm tới tư cách pháp lý của ngân hàng để nhằm tránh những bất lợi cho ngân hàng sau này. - Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh: Các cán bộ tín dụng cần đặc biệt chú trọng tới việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh dựa trên các báo cáo tài chính, hay công suất sử dụng máy móc, số lượng công nhân viên. Việc thu thập thông tin có thể trực tiếp qua khách hàng hoặc qua bạn hàng, báo chí và đặc biệt là trực tiếp đến tìm hiểu tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng phải chú ý tới việc phân tích môi trường kinh doanh, đánh giá những khó khăn, thuận lợi của doanh nghiệp từ đó đưa ra ý kiến xem liệu doanh nghiệp có khả năng hoàn thành được hợp đồng hay không. - Khả năng điều hành của chủ doanh nhiệp: Đây là một yếu tố khá quan trọng, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các cán bộ tín dụng cần phải đánh giá kỹ càng khả năng điều hành lãnh đạo của doanh nghiệp thông qua năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn và uy tín của họ. Có thể thu thập thông tin qua các nhân viên, qua bạn hàng hoặc tiếp xúc trực tiếp. Kết hợp với kinh nghiệm từ trước, các cán bộ tín dụng sẽ đưa ra đánh giá chính xác hơn. - Khả năng tài chính: Một trong những điều kiện để ra quyết định bảo lãnh đó là doanh nhiệp phải có khả năng tài chính lành mạnh, có khả năng trả được nợ. Ngân hàng sẽ xem xét đánh giá tình hình công nợ hiện có của doanh nghiệp, thu chi hàng năm của doanh nghiệp để ra quyết định. - Định giá tài sản thế chấp: Đây là một trong những vướng mắc rất lớn không chỉ đối với chi nhánh mà còn đối với nhiều ngân hàng khác. Trong thực tế, nhóm khách hàng truyền thống thường là các DNNN, tài sản thế chấp của họ chủ yếu thuộc quyền sở hữu của nhà nước do đó cơ chế thanh lý, phát mãi rất phức tạp. Do đó, trước khi tiếp nhận tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng cần nắm rõ các quy định hiện thời của các cơ quan chức năng về tài sản thế chấp đó để có phương án giải quyết phù hợp. Một vấn đề gặp phải nữa đó là việc định giá tài sản thế chấp, đặc biệt tài sản đó là nhà cửa, máy móc, trang thiết bị. Việc định giá các tài sản này gặp phải khó khăn do chúng có tính hao mòn, cả hữu hình và vô hình. Cán bộ tín dụng phải tính toán được chính xác mức độ hao mòn của tài sản dựa trên phương pháp tính hao mòn tại doanh nghiệp đó, đồng thời kết hợp với kinh nghiệm của bản thân. Ngoài ra, các cán bộ tín dụng cần tính đến cả hao mòn vô hình bằng cách đánh giá tình hình thị trường về loại tài sản đó, mức độ lên xuống của giá cả. Nếu tổng giá trị tài sản thế chấp không bằng 70% giá trị bảo lãnh thì phải yêu cầu doanh nghiệp đảm bảo thêm tài sản hoặc thực hiện thêm hình thức đảm bảo khác như ký quỹ. 3.2.2 Tăng cường kiểm tra giám sát Cán bộ tín dụng phải thường xuyên đôn đốc khách hàng thực hiện đúng các quy định trong hợp đồng. Nếu khách hàng gặp khó khăn, cán bộ sẽ cùng họ tham gia tìm hiểu nguyên nhân để từ đó có biện pháp tháo gỡ, khắc phục. Thường xuyên phối hợp với các phòng ban như kế toán để theo rõi số dư tiền gửi tại ngân hàng đồng thời theo rõi tình hình công nợ của doanh nghiệp tại ngân hàng khác, nếu khách hàng có dấu hiệu vi phạm thì phải có biện pháp khắc xử lý kịp thời. 3.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng cần phải quan tâm tới công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển. Ngân hàng cần phải chú ý thực hiện các hoạt động sau nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cả về lý luận và thực tế cho các cán bộ tín dụng: - Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, kết hợp với đào tạo tại chỗ. - Ngân hàng cần chú trọng tới việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho các cán bộ tín dụng. Bởi vì, với những món bảo lãnh mà có liên quan đến phía nước ngoài như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh thanh toán...thì việc am hiểu và nắm rõ các điều khoản ghi bằng ngoại ngữ trên hợp đồng là rất quan trọng. Để từ đó đưa ra các điều khoản khi ký kết hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh phải chính xác. Nếu không việc tranh chấp là khó tránh khỏi khi có vi phạm xảy ra. Bên cạnh đó, một vấn đề nữa đặt ra với các cán bộ tín dụng là phải nắm rõ và thường xuyên cập nhật các thông tin về luật, quy tắc và thông lệ trong giao dịch bảo lãnh. - Bồi dưỡng, nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm của toàn thể cán bộ ngân hàng. Luôn phải coi hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Cần phải có thái độ niềm nở, phục vụ tận tình, chu đáo, để tạo ra hình ảnh tốt về ngân hàng. - Tổ chức sắp xếp lao động phải hợp lý, đảm bảo phù hợp về trình độ chuyên môn, năng lực, nguyện vọng của mỗi người. Như vậy sẽ càng nâng cao được hiệu quả làm việc. Để có được đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, bên cạnh những cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm cần phải có các cán bộ trẻ có tinh thần sáng tạo, năng động. Do đó cần phải có các chính sách thu hút, tuyển dụng các cán bộ có trình độ và năng lực cao. Đồng thời thu hút thêm các cán bộ trẻ có khả năng tìm tòi, sáng tạo, năng động. 3.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc hiện đại ảnh hưởng một phần tâm lý, sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Nhất là những khách hàng mới, điều đầu tiên mà khách hàng thấy đó chính là cơ sở hạ tầng. Thông qua đó khách hàng sẽ nhận xét về quy mô của ngân hàng. Vì vậy mà ngân hàng cũng cần phải có sự đầu tư thích đáng để nâng cấp, cải tạo lại nơi làm việc, trang thiết bị. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phải chú trọng hơn nữa tới việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh. Việc đầu tư vào công nghệ thông tin không những tạo ra chất lượng tốt đối với hoạt động bảo lãnh mà nó còn giúp ngân hàng nắm bắt thông tin với khách hàng, với thị trường một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Để từng bước tiến tới hiện đại hoá thông tin thì trước hết Ngân hàng Ngoại thương Hà nội cần phải: - Xây dựng trang thiết bị máy móc như đầu tư máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc cho các phòng một cách đầy đủ. - Xây dựng trang webside giới thiệu về ngân hàng, có cung cấp thông tin quảng cáo và phục vụ khách hàng trên mạng internet. - Xây dựng mối quan hệ thường xuyên với một số công ty, tổ chức tin học chuyên nghiệp có uy tín để tận dụng sự tư vấn, hỗ trợ trong quá trình ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực bảo lãnh. Cùng với phòng thông tin điện toán và các phòng ban khác của ngân hàng hoàn thiện hơn nữa chương trình phần mềm quản lý, theo dõi khách hàng. Mở rộng hoạt động bảo lãnh phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng công tác bảo lãnh, có vậy mới nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác bảo lãnh bao gồm nâng cao chất lượng thẩm định, hoàn thiện quy trình bảo lãnh và đề ra chính sách phí và ký quỹ hợp lý. 3.3 KIẾN NGHỊ 3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước * Về điều kiện được bảo lãnh. NHNN quy định tổng số tiền bảo lãnh tối đa cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Quy định này là chưa phù hợp vì cơ chế quy định mức dư nợ cho vay và mức bảo lãnh riêng đã làm hạn chế mức bảo lãnh của ngân hàng trong trường hợp khách hàng có nhu cầu bảo lãnh tại ngân hàng nhưng không vay vốn tại ngân hàng. Hướng xử lý trong thời gian tới cần quy định chung đối với tổng số dư bảo lãnh và tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định. * Về mức phí bảo lãnh. Mức phí bảo lãnh tối đa hiện nay là 2% tăng hơn so với quy chế trước đây. Tuy nhiên, tại ngân hàng có những loại bảo lãnh mức phí này vẫn chưa chắc đã đủ để bù đắp chi phí và rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng. Mức độ rủi ro của nghiệp vụ bảo lãnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mỗi loại bảo lãnh được đánh giá với mức rủi ro khác nhau. Do vậy trong trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu thực hiện nhiều loại bảo lãnh tại ngân hàng việc xác định mức độ rủi ro cho từng loại bảo lãnh để làm căn cứ xác định mức bảo lãnh là rất cần thiết. Vì vậy, NHNN không nên quy định mức phí trần mà nên để ngân hàng tự thỏa thuận với khách hàng dựa trên loại bảo lãnh, đối tượng khách hàng, mức độ rủi ro… NHNN sớm ban hành quy định mới về mức phí bảo lãnh đó là chỉ quy định mức phí tối thiểu, việc quy định cụ thể cần giao quyền cho cac tổ chức tín dụng để tạo quyền tự chủ cho các tổ chức tín dụng trong việc kinh doanh. * Về các hình thức bảo lãnh. Quy chế bảo lãnh ngân hàng ngày càng trở nên linh hoạt, phù hợp hơn với nhu cầu phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh. Sau nhiều lần được thay đổi và điều chỉnh, quy chế bảo lãnh đã có một bước tiến mới tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Tuy nhiên, có nhiều loại hình bảo lãnh mà các ngân hàng thương mại đã thực hiện hoặc khách hàng đang có nhu cầu nhưng trong các văn bản luật vẫn chưa quy định cụ thể, chỉ quy định một cách rất chung chung là các loại bảo lãnh khác. Những loại bảo lãnh mới nhưng đã được ngân hàng áp dụng như đồng bảo lãnh...Để tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, không gặp phải cản trở trong quy chế chưa quy định rõ ràng, thiết nghĩ NHNN nên quy định rõ hơn về các loại bảo lãnh mới này. * Về đối tượng khách hàng. Cần bổ sung thêm đối tượng khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh trong quy chế bảo lãnh ngân hàng. Tại điều 4 quy chế bảo lãnh ngân hàng ban lèm theo quyết định 283/2000/QĐ-NH14 ngày 25/08/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quy định khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh bao gồm: các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt nam; các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo luật tổ chức tín dụng; hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại điều 94 Bộ luật dân sự, các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt nam hoặc thực hiện các dự án đầu tư tại Việt nam. Trong quá trình phát triển kinh tế nhiều nghành, nhiều lĩnh vực đều phát sinh nhu cầu về vốn, không chỉ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mà các đơn vị sự nghiệp, các hộ gia đình, tư nhân đều có thể trở thành đối tượng nợ và đều là những thành viên được tham gia vào hoạt động bảo lãnh. Do vậy, quy chế bảo lãnh cần bổ sung từng bước khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh là các đối tượng nêu trên để đảm bảo nhu cầu phát triển ngày càng đa dạng của nghiệp vụ này. Tuy nhiên việc mở rộng đối tượng phải đáp ứng được yêu cầu quản lý và đảm bảo an toàn. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Ngoại thương Việt nam Để hoạt động bảo lãnh tại các chi nhánh diễn ra một cách thuận lợi đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Thì NHNT VN cần quan tâm tới những vấn đề sau: - Xây dựng một quy trình nghiệp vụ cho hoạt động bảo lãnh tại các chi nhánh thống nhất cho cả hệ thống. Quy trình này vừa đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế của các chi nhánh vừa mang tính linh hoạt nhằm phục vụ tốt hơn cho khách hàng và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. - Thường xuyên thực hiện công tác cải cách và phát triển hệ thống trên nhiều lĩnh vực như: nhân lực, công nghệ, chính sách khách hàng. - Đơn giản hoá các thủ tục. - Đầu tư cho công tác hiện đại hoá toàn bộ hệ thống, ứng dụng công nghệ hiện đại tạo điều kiện cho công tác truyền tin và cập nhật thông tin cần thiết. KẾT LUẬN Cho đến nay, bảo lãnh ngân hàng là một loại hình nghiệp vụ không thể thiếu đối với các ngân hàng cũng như với sự phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu đổi mới hoạt động của hệ thống NHTM càng đòi hỏi ngày một hoàn thiện và phát triển. Chính vì vậy các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của nghành. Qua quá trình nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Ngoại thương Hà nội. Chuyên đề đã đạt được một số các kết qủa sau: - Khái quát quá trình hình thành, sự cần thiết ra đời hoạt động bảo lãnh cũng như những vấn đề cơ bản khác về nghiệp vụ bảo lãnh. - Phân tích được tình hình hoạt động của nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng từ đó đưa ra những nguyên nhân của hạn chế đó. - Từ đó đưa ra được các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Song do trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên chuyên đề còn chưa bao quát được toàn bộ nội dung của hoạt động bảo lãnh và không tránh khỏi sai sót. Em rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp của các thầy cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7691.doc
Tài liệu liên quan