Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Bắc Ninh

Chương 1: Chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.1.1 Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại * Định nghĩa về Ngân hàng thương mại. Có rất nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại nhưng tập trung lại theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Luật này cò

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Luật Ngân hàng nhà nước, cũng do Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 định nghĩa: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán. * Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại bao gồm: - Hoạt động huy động vốn: Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau: + Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. + Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. + Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài. + Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước. + Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. - Hoạt động tín dụng Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. + Cho vay: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng như cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Cho vay trung và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. + Bảo lãnh: Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một ngân hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng thương mại. + Chiết khấu: Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác. + Cho thuê tài chính: Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính. - Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán gữa các ngân hàng thương mại với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt động sau: + Cung cấp các phương tiện thanh toán + Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng. + Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ. + Thực hiện các giao dịch thanh toán khác của Ngân hàng Nhà nước. + Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. + Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. + Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. + Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. - Các hoạt động khác Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số hoạt động khác, bao gồm: + Góp vốn mua cổ phần: Ngân hàng thương mại được dung vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác thep quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được góp vốn, nua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh. + Tham gia thị trường tiền tệ: Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ. + Kinh doanh ngoại hối: Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. + Ủy thác và nhận ủy thác: Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý. + Cung ứng dịch vụ bảo hiểm: Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật + Tư vấn tài chính: Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng. + Bảo quản vật quý giá: Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý giá, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo quy định của pháp luật. 1.1.2 Các hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại. Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây: *Mục đích cho vay: Dựa vào căn cứ này, cho vay thường được chia ra làm các loại sau: - Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ. - Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu, v.v..... - Cho vay các định chế tài chính (financial institution loans) bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác. - Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. - Cho thuê: cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại: cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị. * Thời hạn cho vay: Theo căn cứ này cho vay được chia ra làm ba loại: - Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. - Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của NHNN Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều, v.v..... - Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên tới 20 - 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có qui mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 1970 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. *Mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: Theo căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại: - Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản than khách hàng. Đối những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. - Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Trong những năm 1990, các ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm, trừ các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông dân từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày 29/12/1999 chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về Bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; theo Nghị định này việc cho vay không bảo đảm được mở rộng hơn so với trước đây, cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không bảo đảm khi cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. * Xuất xứ tín dụng: Dựa vào căn cứ này, cho vay chia làm hai loại: - Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay hoàn trả nợ trực tiếp cho ngân hàng. Sơ đồ 1.1.2 a: Sơ đồ cho vay trực tiếp: Ngân hàng Khách hàng Cấp tín dụng (1) Thanh toán nợ (2) - Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Mô hình cho vay gián tiếp được thực hiện như sau: Sơ đồ 1.1.2 b: Sơ đồ cho vay gián tiếp Khách hàng nhận vốn vay Cấp tín dụng (1) Ngân hàng Người thanh toán nợ Thanh toán nợ (2) Các ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau: - Chiết khấu thương mại (discount). - Mua các phiếu bán hàng (dealer paper) tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp - Nghiệp vụ thanh tín (nghiệp vụ factoring): là nghiệp vụ mua bán các khoản nợ thương mại (các khoản phải thu), trong đó bên mua (factor) nhận việc thu nợ và chấp nhận rủi ro tín dụng. Factoring thực chất là hình thức tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp. Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp bằng tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do trên mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. 1.2 Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một chi phí nhất định. Chất lượng tín dụng là thuật ngữ phản ánh hiệu quả của hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, gồm hai yếu tố: “Mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại”. Có hai mối quan hệ rủi ro và sinh lợi trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng có thể rủi ro càng cao, thì sinh lợi kỳ vọng càng lớn, và ngược lại. Do đó, ngân hàng có thể theo đuổi hoạt động tín dụng mà mức độ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn, song đều phải tính đến mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời để đảm bảo gia tăng thu nhập cho ngân hàng và chủ sở hữu trong dài hạn. Chất lượng tín dụng là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, vì hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đe dọa hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại luôn là một yêu cầu bức xúc, là điều kiện sống còn cho bản thân mỗi ngân hàng, cho hệ thống ngân hàng và rộng hơn nữa là cho cả nền kinh tế. 1.2.2 Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh qui mô cho vay Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn vay của khách hàng, hay phản ánh hiệu quả cho vay của ngân hàng về mặt số lượng. * Doanh số cho vay - Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng cho vay đối với nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. - Doanh số cho vay cho biết qui mô cho vay của ngân hàng đối với từng khách hàng cụ thể và với cả nền kinh tế trong một khoảng thời gian. - Doanh số cho vay phụ thuộc vào qui mô, chính sách cho vay của ngân hàng, chu kì kinh tế, môi trường pháp lý. * Dư nợ cho vay - Dư nợ là tổng số tiền mà ngân hàng cho vay với nền kinh tế tại một thời điểm. - Tổng dư nợ của một ngân hàng cho biết trạng thái thanh khoản, khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn vay của ngân hàng đó. - Dư nợ đối với từng khách hàng cụ thể cho biết mối quan hệ của ngân hàng và khách hàng trên. - Dư nợ còn là cơ sở để xác định chất lượng của khoản vay. - Dư nợ cho vay phụ thuộc vào trạng thái thanh khoản của ngân hàng, chính sách cho vay của ngân hàng, chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước.v.v.. b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh độ an toàn * Tỉ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn - Tỉ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ Tỉ lệ nợ quá hạn cho biết tỉ trọng của các khoản cho vay đã bị quá hạn trả nợ gốc và lãi trong tổng dư nợ. Qua đó, phản ánh chất lượng các khoản vay của ngân hàng có được tốt hay không. Trong hoạt động ngân hàng, tỉ lệ này càng cao phản ánh chất lượng các khoản vay càng thấp và độ an toàn của ngân hàng càng thấp và ngược lại. Tuy nhiên tỉ lệ nợ quá hạn của ngân hàng mang tính thời điểm, nên chưa phản ánh chính xác độ an toàn của các khoản vay. - Tỉ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản Dư nợ cho vay có ĐBBTS Tỉ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản = Tổng dư nợ Tài sản đảm bảo là một trong những đệm đỡ an toàn cho hoạt động cho vay của ngân hàng, nhằm đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của khách hàng và bảo toàn vốn cho ngân hàng. Do vậy, tỉ lệ cho vay có tài sản đảm bảo ảnh hưởng đến độ an toàn của khoản vay. Tỉ lệ này cao hay thấp là phụ thuộc vào chính sách tín dụng của NHNN nói chung và của ngân hàng thương mại nói riêng trong từng thời kỳ. * Cấu trúc danh mục cho vay. - Sự đa dạng của danh mục cho vay Sự đa dạng ở đây là đa dạng về ngành nghề, thành phần kinh tế, loại hình cho vay.v.v... Tuỳ thuộc vào qui mô, đặc tính, tiềm năng thị trường mà mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một danh mục cho vay với độ đa dạng khác nhau. Nhìn chung một danh mục cho vay càng đa dạng, sẽ càng giảm thiểu các rủi ro phi hệ thống cho ngân hàng. - Kỳ hạn của danh mục Kỳ hạn trung bình của danh mục cho vay phụ thuộc nhiều vào kì hạn của nguồn, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nói chung kì hạn trung bình của khoản vay càng phù hợp với kì hạn của nguồn các tốt. Sự thích hợp của kì hạn cho vay với chu kì kinh doanh của khách hàng là một yêu cầu quan trọng trong việc giảm thiểu rủi do tín dụng c. Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lời Khả năng sinh lời trong hoạt động cho vay có mối liên hệ mật thiết với độ an toàn trong hoạt động cho vay, ngân hàng chỉ có thể thu đựơc lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo đựơc độ an toàn cho các khoản cho vay của mình. Bất cứ tổn thất nào mà ngân hàng gặp phải cũng ảnh hưởng đến thu nhập hay lợi nhuận của ngân hàng. * Tỉ lệ thu từ lãi cho vay/ Tổng thu của ngân hàng - Cho biết tỉ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay trong tổng nguồn thu của ngân hàng - Các nguồn thu của ngân hàng bao gồm: thu từ lãi cho vay, thu từ tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, thu từ dịch vụ, thu từ hoạt động đầu tư, và các khoản thu khác. * Tỉ lệ thu nhập lãi từ cho vay/ dư nợ bình quân Cho biết một đồng cho vay bình quân thu được bao nhiêu đồng lãi Chỉ tiêu này phản ánh khả năng kiểm soát chi phí trong cho vay của ngân hàng và mức độ sinh lời từ cho vay. Thu nhập từ lãi là phần chênh lệch giữu thu từ lãi trừ chi phí trả lãi huy động Tỉ lệ này càng cao phản ánh mức sinh lời từ hoạt động cho vay càng cao, do kiểm soát tốt chi phí và tăng cường lợi nhuận * Chênh lệch lãi suất bình quân Là chỉ tiêu phản ánh chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân. Chênh lệch lãi suất bình quân = lãi suất cho vay bình quân - lãi suất huy động bình quân. Hiện nay trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường vốn, dẫn đến các cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động. Do vậy, khoảng cách chênh lệch này ngày càng bị thu hẹp. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lường tín dụng của ngân hàng thương mại. 1.3.1 Yếu tố thuộc về ngân hàng * Trình độ cán bộ ngân hàng Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại. Chất lượng nhân sự ngày càng được đòi hỏi cao để có thể đáp ứng kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh và hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trên thực tế, chất lượng tín dụng cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào việc tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ của mỗi ngân hàng thương mại. Một ngân hàng thương mại với đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt, thì việc quản lý hoạt động tín dụng cũng như những hoạt động khác, thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói riêng sẽ đạt kết quả cao. Hơn nữa, nó còn giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro có thể xảy ra do trình độ cán bộ, nhờ đó mà chất lượng tín dụng luôn được đảm bảo. * Chiến lược kinh doanh Để đạt được mục tiêu của mình mỗi ngân hàng đã tự đề ra cho mình những chiến lược kinh doanh phù hợp với tiềm lực và thế mạnh của mình để đạt được những mục tiêu nhất định mà ngân hàng đã đề ra. Chiến lược kinh doanh là một nhân tố ảnh hưởng đầu tới chất lượng tín dụng. Ngân hàng thương mại cần có chiến lược kinh doanh để không rơi vào thế bị động trong hoạt động kinh doanh của mình. Dựa trên chiến lược kinh doanh dài hạn đúng đắn, ngân hàng thương mại mới có thể có những kế hoạch đúng đắn cho từng thời kỳ để bảo đảm thực hiện mục tiêu đề ra. * Chính sách tín dụng Huy động nguồn vốn, gây dựng uy tín và tìm kiếm lợi nhuận và đặc biệt là mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu đối với mỗi ngân hàng thương mại, để đạt được mục tiêu đã đề ra mỗi ngân hàng thương mại có những chính sách tín dụng khác nhau để đạt được những mục đích đó. Chính sách tín dụng của một ngân hàng thương mại là một hệ thống những biện pháp liên quan đến việc tăng cường khả năng tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã đề ra của ngân hàng thương mại. Chính sách tín dụng bảo đảm cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động tín dụng nói riêng và toàn bộ hoạt động của một ngân hàng thương mại nói chung. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, bảo đảm khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối, chính sách của nhà nước và bảo đảm công bằng xã hội. * Quy trình tín dụng Đảm bảo quy trình tín dụng là một việc rất quan trọng đối với mỗi hệ thống ngân hàng, nó đảm bảo sự thống nhất trong quá trình hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Quy trình tín dụng bao gồm những bước phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng; được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có được bảo đảm hay không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt các qui định ở từng bước và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng. * Hệ thống thông tin tín dụng Chất lượng của hoạt động tín dụng không những ảnh hưởng tới lợi ích của cả ngân hàng thương mại và lợi ích của người cho vay, để hạn chế rủi ro có thể xảy ra ngân hàng thương mại cần có một hệ thống thông tin đầy đủ đối với mỗi khách hàng. Cấp tín dụng không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải khách hàng nào cũng sử dụng vốn tín dụng đúng mục đích và có hiệu quả, ngoài ra còn có những khách hàng chủ định lừa ngân hàng để chiếm đoạt tài sản gây rủi ro, tổn thất cho ngân hàng.Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn tăng trưởng, đảm bảo an toàn vốn, đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ công tác này. Nắm bắt kịp thời, chính xác các luồng thông tin về khách hàng là điều kiện để xem xét, phân tích tìm ra những cơ hội tốt trong kinh doanh cũng như để đề phòng những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại. Trên thương trường, với nhiều đối thủ cạnh tranh, người nào nắm bắt được những thông tin cần thiết một cách nhanh nhất, chính xác nhất sẽ nắm được phần thắng. Rõ ràng việc xây dựng hoàn chỉnh một hệ thống thông tin tín dụng với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực có chọn lọc, xử lý thông tin kịp thời là một trong những điều kiện quyết định sự thành công trong công tác kinh doanh và thực hiện nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. * Hiệu quả công tác huy động vốn Hoạt động huy động vốn của ngân hàng đóng một vai trò quan trọng quyết định sự thành công của ngân hàng, từ nguồn vốn có được từ việc huy động ngân hàng sẽ dùng nguồn tiền đó để cho vay và kinh doanh để thu lời. Hoạt động tín dụng cũng như tất cả các hoạt động khác của ngân hàng thương mại chỉ có thể thực hiện được tốt nếu công tác huy động vốn được tiến hành hiệu quả. Nếu một ngân hàng thương mại có chiến lược khách hàng tốt, thu hút được nhiều khách hàng tín dụng làm ăn có hiệu quả, có nhu cầu vốn lớn về xác lập quan hệ tín dụng với ngân hàng, nhưng số vốn huy động được không đủ để ngân hàng cung cấp tín dụng cho những khách hàng đó, thì hoạt động tín dụng của ngân hàng không thể đạt hiệu quả cao. Huy động vốn có hiệu quả luôn là bước đệm cho việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. * Công tác tổ chức ngân hàng Để tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng tín dụng, cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất từ trên xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến toàn bộ cán bộ công nhân viên của ngân hàng thương mại. Công tác tổ chức ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa, thực hiện tốt công tác này ngân hàng đã làm cho guồng máy hoạt động của mình được uyển chuyển, nhịp nhàng, linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động ngân hàng nên chú trọng mặt này để ngày càng hoàn thiện, phát triển toàn bộ hoạt động của mình và tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng tín dụng. * Vấn đề kiểm tra, giám sát, thanh tra Kinh doanh tiền tệ là một lĩnh vực chịu nhiều rủi ro, mà chủ yếu là rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là chính, và xuất phát từ nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan. Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không tính đến những rủi ro, bất trắc có thể xảy ra thì sụp đổ và phá sản là những mối đe doạ thường trực đối với mỗi ngân hàng thương mại. Một trong những nghiệp vụ hoạt động nhằm mục đích giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro trên là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ thực hiện đối với khách hàng mà còn được thực hiện với bản thân ngân hàng, kiên quyết loại trừ những cán bộ mất phẩm chất, tiêu cực, tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của ngân hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng cũng đồng thời là việc đòi hỏi ngân hàng phải ngăn chặn, phát hiện được những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng nói riêng và tất cả các mặt hoạt động nói chung của ngân hàng cũng như bảo vệ được tài sản, đội ngũ cán bộ, uy tín của ngân hàng. Muốn vậy, việc bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ và trách nhiệm cao, phẩm chất tốt, trung thực, khách quan thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra giám sát là vấn đề mà không một ngân hàng nào được coi nhẹ. 1.3.2 Các yếu tố bên ngoài. * Khách hàng Những nhân tố thuộc về khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại là: - Năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý của khách hàng. Nếu năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý của khách hàng yếu, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, có thể dẫn đến tình trạng khách hàng không trả được hoặc không trả đủ nợ cho ngân hàng, hoặc ngân hàng phải co cụm trong đầu tư, khiến chất lượng tín dụng tại ngân hàng bị giảm sút. - Những kiến thức cơ bản của khách hàng trong việc vay vốn Nếu khách hàng không biết những kiến thức cơ bản cần có trong việc vay vốn cũng có thể gây khó khăn cho ngân hàng, thậm chí đẩy ngân hàng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Những kiến thức này tuy đơn giản, nhưng nếu khách hàng không nắm được, thì sẽ ảnh hưởng không tốt tới chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. - Tính trung thực, chính xác của những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng Có những khách hàng cố tình cung cấp thông tin không chính xác, không trung thực cho ngân hàng. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh cũng như việc theo dõi, giám sát, quản lý vốn vay của khách hàng để từ đó có thể đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn, hoặc những biện pháp tình thế kịp thời, điều này làm chất lượng tín dụng ngân hàng bị giảm sút. - Sự chây ì của khách hàng Có những trường hợp khách hàng kinh doanh có lãi nhưng họ vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Hành vi này sẽ ảnh hưởng xấu tới chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại. - Tính đúng mục đích của việc sử dụng vốn Việc sử dụng vốn đúng mục đích là một trong những yêu cầu cơ bản của ngân hàng đối với khách hàng cho vay, và ngân hàng nào cũng có những biện pháp để giám sát mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Tuy vậy, việc sử dụng vốn sai mục đích vẫn có thể xảy ra và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chẳng hạn, khách hàng là doanh nghiệp sử dụng vốn ngân hàng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng với phương án, mục đích xin vay, thậm chí có khách hàng sử dụng vốn vay ngắn hạn sử dụng đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản…Đây rất có thể là những nguyên nhân cho việc họ không trả được nợ đúng hạn, thậm chí phá sản, không trả được nợ cho ngân hàng. - Việc bị chiếm dụng vốn hoặc bị lừa đảo Khi doanh nghiệp vay vốn bị chiếm dụng vốn, trong đó có vốn vay ngân hàng, thậm chí bị lừa đảo, sẽ khiến cho doanh nghiệp đó không trả được nợ cho ngân hàng, làm chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại bị giảm sút. * Các yếu tố khác - Những chủ trương, chính sách của Ngân hàng Nhà nước. Những chủ trương, chính sách của Ngân hàng Nhà nước – cơ quan quản lý vĩ mô trực tiếp của các ngân hàng thương mại có tác động hết sức lớn lao tới hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước đưa ra những định hướng lớn và đôi khi cả những hướng dẫn chi tiết cho hoạt động của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng, nhằm thực hiện mục tiêu điều tiết vĩ mô và quản lý. Chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cũng chịu ảnh hưởng của những chủ trương, chính sách đó, khi mà một ngân hàng thương mại không thể đi ngược lại chúng. Ngoài ra, cơ chế, chính sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác có tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế nên cũng tác động trực tiếp đến khách hàng vay vốn của ngân hàng. Nếu chính sách của nhà nước (như chính sách thuế, chính sách tiền tệ, chính sách xuất nhập khẩu…) không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, gây khó khăn cho các doanh nghiệp (gồm các khách hàng của ngân hàng và bản thân ngân hàng) trong sản xuất kinh doanh, chất lượng tín dụng chắc chắn sẽ bị giảm sút. - Môi trường kinh tế Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ làm giá cả luôn giữ ở mức ổn định, tình trạng lạm phát ở mức thấp tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại mở rộng quy mô hoạt động của mình và tránh được những thiệt hại cho ngân hàng do sự mất giá của đồng tiền, từ đó chất lượng tín dụng của ngân hàng có cơ hội thuận lợi để được nâng cao. Một trong những nhân tố có tác động lớn tới chất lượng tín dụng là chu kỳ phát triển kinh tế. Trong thời kỳ kinh tế phát triển hưng thịnh sẽ có nhiều cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư, sản xuất kinh doanh được mở rộng, lợi nhuận các thành phần kinh tế trong xã hội thu được tăng cao. Từ đó, nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng sẽ tăng. Điều này tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng cho vay và chất lượng tín dụng được tăng lên. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, quy mô sản xuất thu hẹp, thua lỗ kéo dại dẫn đến các khách hàng của ngân hàng khó khăn trong việc trả nợ, chất lượng tín dụng bị giảm sút. - Môi trường xã hội Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm là chủ yếu. Vì vậy, sự tín nhiệm là cầu nối của mối quan hệ ngân hàng và khách hàng. Uy tín của ngân hàng trên thị trường tiền tệ cao sẽ thu hút được nhiều khách hàng, ngược lại khách hàng có uy tín, được ngân hàng tín nhiệm tạo thuận lợi trong việc cấp tín dụng. Trong xã hội có nhiều truyề._.n thống tốt đẹp, ít tệ nạn xã hội như lừa đảo, làm ăn phi pháp cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. - Tình hình chính trị Một quốc gia có sự ổn định về chính trị, không có chiến tranh thì đây là môi trường thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Chính trị ổn định thì nền kinh tế mới phát triển, bất cứ sự biến động nào về chính trị cũng dẫn tới xáo động lớn cho toàn bộ nền kinh tế. Riêng đối với ngân hàng nó có ảnh hưởng trực tiếp tới việc huy động vốn, tới chất lượng tín dụng. - Môi trường pháp lý Pháp luật là một bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ nền kinh tế nào, là cơ sở để giải quyết mọi mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội. Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng ngân hàng, đặc biệt là những văn bản luật có liên quan trực tiếp tới hoạt động ngân hàng. Pháp luật ban hành không hợp lý, không đồng bộ sẽ gây khó khăn cho toàn bộ nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp. Ngược lại, hệ thống pháp luật đồng bộ, hợp lý sẽ tạo môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, để sản xuất kinh doanh được tiến triển thuận lợi, đạt hiệu quả cao, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ngân hàng và khách hàng, tiết kiệm thời gian và chi phí cho ngân hàng nếu có tranh chấp tín dụng xảy ra. - Những nhân tố bất khả kháng Khách hàng của ngân hàng có thể phải đối mặt với những nhân tố bất khả kháng như: thiên tai, chiến tranh, hoả hoạn, dịch bệnh… Những thay đổi này có thể tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho họ. Nếu khó khăn, trong một số trường hợp, khách hàng bị tổn thất nhưng vẫn có thể hoàn trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Tuy vậy, thường là tác động của những nhân tố bất khả kháng như trên tác động tới người vay rất nặng nề, họ thường tổn thất lớn, và khả năng trả nợ ngân hàng bị suy giảm, thậm chí không còn khả năng trả nợ. Các nhân tố này được gọi là những nhân tố bất khả kháng vì chúng thường vượt quá tầm kiểm soát của cả ngân hàng và khách hàng. Chương 2 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh. 2.1 Khái quát về chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh 2.1.1 Chức năng nhiệm vụ và bộ máy tổ chức của chi nhánh. 2.1.1.1 Chức năng nhiệm vụ của chi nhánh. Bắc Ninh là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, là tỉnh tiếp giáp và cách Thủ đô Hà Nội 30km: Cách sân bay Quốc tế Nội Bài 45km; cách cảng biển Hải Phòng 110km. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm - tam giác tăng trưởng: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; gần các khu, cụm công nghiệp lớn của vùng trọng điểm Bắc bộ. Bắc Ninh có các tuyến trục giao thông lớn, quan trọng chạy qua; nối liền tỉnh với các trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc: đường quốc lộ 1A-1B, quốc lộ 18 (Thành phố Hạ Long - sây bay Quốc tế Nội Bài), quốc lộ 38, đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc. Trong tỉnh có nhiều sông lớn nối Bắc Ninh với các tỉnh lân cận và cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân. Vị trí địa lý của tỉnh Bắc Ninh là một trong những thuận lợi để giao lưu, trao đổi với bên ngoài, tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội và khai thác các tiềm năng hiện có của tỉnh. Trong những năm qua kinh tế xã hội Bắc Ninh đã có bước phát triển, tổng sản phẩm  GDP tăng bình quân 12,9% (năm 2001 GDP tăng 14,1%). Trong đó nông nghiệp tăng bình quân 6,4%, công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng bình quân 23,1%, thương mại dịch vụ tăng 12,0%, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 24,5%, kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân 18,6%. Phấn đấu đến 2020 Bắc Ninh trở thành một tỉnh công nghiệp, ngành công nghiệp được Ủy ban nhân dân tỉnh đặc biệt quan tam và có bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là các khu, cụm công nghiệp, các làng nghề truyền thống đã hình thành và đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của tỉnh. Do đó, để duy trì và tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp ở Bắc Ninh thì nguồn vốn để đầu tư cho các doanh nghiệp là yếu tố then chốt cho sự thành công của các doanh nghiệp. Nắm bắt được tình hình này, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã quyết định thành lập Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh. Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh được thành lập ngày 17/11/2003 theo quyết định số 555/QĐ.NHNT.TCCB-ĐT ngày 17/11/2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh là đơn vị thành viên trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, hạch toán độc lập, có con dấu riêng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ liên quan hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh có: - Tên giao dịch tiếng Anh là: BANK FOR FOREIGN TRADE OF VIETNAM, BAC NINH BRANCH. - Tên viết tắt là: VIETCOMBANK BẮC NINH - Trụ sở hoạt động chính: Số 353 - đường Trần Hưng Đạo - Thành phố Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh. Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh là đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; và chịu sự điều hành trực tiếp của Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Hiện nay, chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh thực hiện các nghiệp vụ sau: - Huy động tiết kiệm tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ. - Huy động kỳ phiếu đồng Việt Nam và ngoại tệ. - Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. - Nhận chuyển tiền trong và ngoài nước - Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. - Cho vay tài trợ hàng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi. - Kinh doanh ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu, dịch vụ ngân hàng và chi trả kiều hối. - Thanh toán séc du lịch - Dịch vụ ATM - Thanh toán thẻ tín dụng quốc tế như : VISA – MASTER … - Bảo lãnh các khoản vay và thanh toán của các pháp nhân, thể nhân trong và ngoài nước. 2.1.1.2 Bộ máy tổ chức của chi nhánh Tổ chức bộ máy của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh gồm có ban giám đốc và các phòng, tổ sau: Sơ đồ bộ máy tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh. Phòng Quan hệ khách hàng Phòng Quản lý rủi ro Tổ quản lý nợ Phòng Kế toán Phòng Thanh toán quốc tế và KDDV Ban Giám đốc Phòng Hành chính – Nhân sự Phòng Ngân quỹ Phòng Giao dịch số 1 – Quế Võ Các phòng Giao dịch Phòng Giao dịch số 2 – Từ Sơn Phòng Giao dịch số 3 – TP Bắc Giang Tổ Kiểm tra nội bộ Chức năng nhiệm vụ của các phòng, tổ: Phòng Quan hệ khách hàng: * Chức năng: Phòng quan hệ khách hàng có chức năng là đầu nối thiết lập quan hệ khách hàng, duy trì và không ngừng mở rộng mối quan hệ đó với khách hàng trên tất cả các mặt hoạt động, tất cả các sản phẩm ngân hàng nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh doanh một cách an toàn, hiệu quả và tăng thị phần của Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh. * Nhiệm vụ cụ thể: - Thực hiện công tác quản lý vốn theo qui chế của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. - Lập các báo cáo về công tác tín dụng, báo cáo sơ kết, tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh. - Kinh doanh tín dụng: Khai thác nguồn vốn và sử dụng vốn an toàn, hiệu quả, cho vay đối với mọi thành phần kinh tế bảo đảm theo nguyên tắc chế độ ngành qui định; xây dựng và cài đặt kịp thời các loại lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay của chi nhánh; thực hiện công tác tín dụng và thông tin tín dụng. - Kinh doanh ngoại tệ, theo dõi diễn biến tỷ giá, xây dựng và cài đặt kịp thời tỷ giá các loại ngoại tệ. - Bộ phận kế hoạch của phòng Quan hệ khách hàng thực hiện công tác nguồn vốn giúp việc cho Ban Giám đốc. - Ngoài ra, phòng Quan hệ khách hàng còn thực hiện một số nhiệm vụ khác do ban Giám đốc giao. Phòng Quản lý rủi ro. * Chức năng: Phòng Quản lý rủi ro có chức năng nghiên cứu, phân tích, quản lý rủi ro chung (rủi ro hệ thống, rủi ro thị trường…) và rủi ro riêng (rủi ro từng khách hàng, từng dự án) nhằm đảm bảo phát triển tín dụng, mở rộng hoạt động một cách an toàn và hiệu quả. * Nhiệm vụ cụ thể: - Xây dựng chính sách rủi ro tín dụng. - Quản lý danh mục đầu tư - Trực tiếp thẩm định rủi ro đối với từng khoản cấp tín dụng đến khách hàng. Cho điểm tín dụng và phân loại khách hàng theo quy định của Ngân hàng Ngoại thương. - Tham gia phê duyệt quy trình tín dụng, tham gia và giám sát quá trình thực hiện các quyết định đã được phê duyệt, tham gia xử lý các khoản cấp tín dụng có vấn đề. Phòng kế toán. Phòng kế toán có chức năng: - Hạch toán kế toán, lưu giữ, bảo quản và quản lý tài sản nhà nước theo pháp lệnh kế toán thống kê và các chế độ tài chính kế toán hiện hành của Bộ Tài chính và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam qui định. - Tham mưu cho ban Giám đốc trong xử lý các nhiệm vụ của phòng có chất lượng và hiệu quả. - Thực hiện nhiệm vụ kế toán thanh toán trong nước. - Phụ trách bộ phận quản lý nợ. Phòng Thanh Toán Quốc tế và Kinh doanh dịch vụ. Phòng thanh toán quốc tế có chức năng tham mưu cho Ban Giám đốc những biện pháp nâng cao hiệu quả và chất lượng trong công tác thanh toán quốc tế, kinh doanh dịch vụ ngân hàng, quan hệ với các ngân hàng nước ngoài. Phòng Hành chính – Nhân sự. Tham mưu giúp việc cho Ban Giám đốc trong việc tiếp nhận, tuyển dụng, bố trí, điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ thuộc diện quản lý của chi nhánh theo quy định của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Xây dựng kế hoạch và thực hiện công tác hành chính, quản trị, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, công cụ, vật liệu, thực hiện về điện, nước, điện thoại, sửa chữa và xây dựng nhỏ của Chi nhánh. Phòng Ngân quỹ. Quản lý trực tiếp và bảo quản tiền Việt Nam đồng, ngân phiếu thanh toán, các loại ngoại tệ, các chứng từ có giá, các loại ấn chỉ quan trọng, các hồ sơ thế chấp, cầm cố, ký gửi theo chế độ quản lý kho quỹ trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương hiện hành. Thực hiện chế độ báo cáo về hoạt động ngân quỹ. Đảm bảo mức tồn quỹ tiền mặt đồng Việt Nam, ngoại tệ phục vụ hoạt động của Chi nhánh hiệu quả. Các phòng Giao dịch. Thực hiện các giao dịch chuyển tiền của khách hàng theo quy định hiện hành về luân chuyển chứng từ của Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và hướng dẫn của Giám đốc Chi nhánh. Thực hiện các nghiệp vụ có liên quan đến phát hành, thanh toán thẻ ATM và thẻ tín dụng. Ký các hợp đồng tín dụng, hợp đồng cầm cố các giấy tờ có giá theo quy định về cho vay đối với khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và hướng dẫn của Giám đốc Chi nhánh. Tổ Kiểm tra nội bộ: Tổ kiểm tra nội bộ là một bộ phận độc lập với các phòng nghiệp vụ, chịu sự chỉ đạo và điều hành trực tiếp của Giám đốc, có chức năng tham mưu cho Giám đốc trong quản lý và khắc phục những sai sót trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Tổ Quản lý nợ. Tổ Quản lý nợ có chức năng quản lý và trực tiếp thực hiện các tác nghiệp liên quan đến việc giải ngân, thu hồi nợ. Đảm bảo số liệu trên hệ thống khớp với số liệu trên hồ sơ. Đảm bảo lưu giữ hồ sơ vay đầy đủ và an toàn. 2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh thời gian qua. * Công tác huy động vốn Hoạt động huy động vốn cho chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của chi nhánh. Bảng 2.1.2 a. Tình hình huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng nguồn vốn huy động 207 41,56 297 33,14 I. Phân theo đối tượng 1. VNĐ 147 71.01 187 62,96 2. Ngoại tệ quy VNĐ 60 28,99 110 37,04 II. Phân loại theo kỳ hạn 1. Không kỳ hạn 117 56,52 160 53,87 2. Có kỳ hạn 90 45,48 137 46,13 III. Phân theo thời hạn 1. Ngắn hạn 120 57,97 185 62,28 2. Trung và dài hạn 87 42,03 112 37,72 Xác định tầm quan trọng của công tác này, Chi nhánh đã quán triệt và phân công đến từng phòng, từng cán bộ trong cơ quan - Đối với khách hàng là cá nhân: Cùng với các chương trình khuyến mại khi tham gia gửi tiết kiệm của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh đã tham gia tích cực vào công tác quảng bá về các lợi ích mà khách hàng nhận được khi gửi tiết kiệm.Với các hình thức khuyến mại như lãi suất linh hoạt, gửi tiết kiệm nhận quà, khuyến mại miễn phí mở tài khoản ATM khi gửi tiền… - Đối với các tổ chức hành chính sự nghiệp hay doanh nghiệp trên địa bàn: Chi nhánh tích cực triển khai thực hiện việc thanh toán lương qua tài khoản ATM. Mặt khác, Chi nhánh khuyến khích các doanh nghiệp gửi những khoản vốn nhàn rỗi tạm thời của mình tại chi nhánh với những ưu đãi đặc biệt. Qua đó cũng thu hút được số vốn đáng kể cho Chi nhánh. * Công tác tín dụng Tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh cho vay luôn là hoạt động chủ đạo và chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trong những năm vừa qua, Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh đã đầu tư, khơi dậy những khả năng tiềm tàng trong một số lĩnh vực được xác định là thế mạnh của địa phương như: các làng nghề truyền thống (giấy Phong Khê, đồ gỗ Đồng Kỵ, vật liệu xây dựng ở Gia Bình, đúc đồng Đại Bái…), các khu công nghiệp Quế Võ, Từ Sơn, Đồng Vàng… Nhờ có nguồn vốn này mà các làng nghề từng bước khôi phục và phát triển mạnh, máy móc thiết bị sản xuất được hiện đại hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Với các cá nhân, hộ gia đình, nhờ có nguồn vốn vay của Chi nhánh mà một phần những nhu cầu trong cuộc sống được đáp ứng: mua sắm đồ dùng, xây dựng nhà cửa… Với các hộ kinh doanh cá thể, nhờ có nguồn vốn mà công việc kinh doanh của mình được thuận lợi và hiệu quả hơn. Bảng 2.1.2b Tình hình sử dụng vốn tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh năm 2007 Năm 2006 2007 Chỉ tiêu Thực hiện So với năm trước (%) So với kế hoạch (%) Thực hiện So với năm trước (%) So với kế hoạch (%) Tồng dư nợ 498 25,5 109 728 46,18 117 Cho vay ngắn hạn 197 8,0 102.5 239 21,3 102,8 Cho vay trung và dài hạn 301 21,2 130 489 65,4 116 Đơn vị: tỷ đồng Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh năm 2006,2007. Qua bảng trên ta có thể thấy hoạt động sử dụng vốn của chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh là rất đa dạng; trong đó cho vay dài hạn đối với nền kinh tế luôn chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, ngoài ra ngân hàng còn tích cực cho vay ngắn và trung hạn và đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế. *Về hoạt động dịch vụ Tổng thu từ hoạt động dịch vụ trong năm 2007 đạt 2,08 tỷ đồng, tăng 1,32 lần so với năm 2006 (năm 2006 là 1,575 tỷ đồng). + Thanh toán xuất nhập khẩu: Trong năm 2007 thanh toán xuất nhập khẩu của chi nhánh đạt 38 triệu USD chiếm khoảng 9% thị phần trên địa bạn (Kim ngạch xuất nhập khẩu toàn tỉnh đạt 400 triệu USD). Các khách hàng chủ yếu của chi nhánh là các công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực may mặc, nông sản…như công ty cổ phần may Đáp Cầu, công ty cổ phần may Hà Bắc, công ty cổ phần may Bắc Giang, công ty TNHH Hương gia vị Sơn Hà, công ty TNHH Nghiệp Quảng, công ty TNHH Tân Hồng Ngọc, công ty TNHH Samwon… + Hoạt động thẻ: Chi nhánh không ngừng tuyên truyền quảng cáo nhằm phổ biến loại hình dịch vụ rút tiền tự động tại những nơi đông dân cư, các khu công nghiệp nhằm thu hút nguồn tiền lương ổn định của cán bộ viên chức tại các khu công nghiệp, chỉ rõ sự an toàn và thuận tiện khi sử dụng thẻ ATM. Đến nay chi nhánh đã phát hành được hơn 11000 thẻ ATM, MTV, SG…bằng 142.37% so với năm 2006 ( năm 2006 phát hành 7.726 thẻ). + Kinh doanh ngoại tệ: Kinh doanh ngoại tệ là hoạt động đặc thù của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh nói riêng. Năm 2007 là năm có nhiều về biến động tỷ giá ngoại tệ quy đổi nên việc kinh doanh ngoại tệ gặp nhiều khó khăn, do vậy lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh trong năm 2007 đạt 503 triệu đồng. Các quy định về quản lý và kinh doanh ngoại tệ được thực hiện nghiêm túc, tỷ giá mua bán hàng ngày được chi nhánh niêm yết công khai, chấp hành nghiêm túc trạng thái ngoại hối được giao. + Hoạt động ngân quỹ: Hoạt động thu chi tiền mặt kịp thời nhanh chóng, chính xác với khối lượng lớn (tổng thu tiền mặt 1.520.647 triệu đồng và 2.709.816 USD, tổng chi tiền mặt là 1.524.408 triệu đồng và 2.711.868 USD) cho khách hàng, tổ chức điều chuyển an toàn trên 1.200 chuyến hàng đặc biệt, tổ chức tốt công tác kiểm kê cuối ngày đúng thành phần, thu giữ được 2.720.000 đồng tiền giả, đảm bảo an toàn tuyệt đối các loại tài sản được bảo quản trong kho quỹ, không để xảy ra mất mát, thiếu… + Bảo lãnh: Hoạt động bảo lãnh của chi nhánh chủ yếu là bảo lãnh thực hiện hợp đồng và bảo lãnh thanh toán, giá trị đến cuối năm 2007 đạt 4.586 triệu đồng và 398.000 USD. * Kết quả kinh doanh Đơn vị: tỷ đồng STT Chỉ tiêu Số tiền I Tổng thu 59,523 1 Thu lãi vay 49,097 2 Thu lãi tiền gửi 7,335 3 Thu lãi ngoài 3,091 II Tổng chi 42,932 1 Chi trả lãi tiền gửi 8,283 2 Chi trả lãi tiền vay 20,416 3 Chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá 0,494 4 Chi ngoài lãi 13,739 III Thu nhập trước thuế 16,591 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh năm 2007 2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh. 2.2.1 Tình hình hoạt động cho vay của chi nhánh. Ngay từ khi thành lập chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh đã chú trọng đến việc mở rộng cho vay trên cơ sở đảm bảo chất lượng tín dụng, chủ động tìm kiếm các dự án, tìm kiếm khách hàng, và mở rộng thị phần cho vay, đẩy mạnh tiếp cận các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh để thu hút khách hàng, bố trí cán bộ có năng lực trình độ, kinh nghiệm tốt phụ trách cho vay những khách hàng lớn và những địa bàn có nhu cầu vay lớn. Bảng dư nợ cho vay Đơn vị: tỷ đồng Năm 2006 2007 Chỉ tiêu Thực hiện So với năm trước (%) So với kế hoạch (%) Thực hiện So với năm trước (%) So với kế hoạch (%) Tồng dư nợ 498 34,2 109 728 46.18 117 Phân theo thời hạn - Dư nợ ngắn hạn 197 14,0 102,5 239 21,3 102,8 - Dư nợ trung và dài hạn 301 21,2 130 489 65,4 116 Phân theo ngoại tệ - Dư nợ VNĐ 187 15,3 238 27,3 - Dư nợ ngoại tệ quy VNĐ 311 26,2 490 57,6 Phân theo đối tượng khách hàng - Khách hàng cá nhân 35 15,5 28 - 20 - Khách hàng doanh nghiệp 463 21,3 700 51,2 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh năm 2006,2007. * Về dư nợ cho vay Dư nợ cho vay của chi nhánh tăng đều qua các năm với tốc độ tăng trung bình trong hai năm trở lại đây là 40%. Trong đó: - Năm 2006: dư nợ cho vay đến thời điểm 31/12/2006 đạt 498 tỷ đồng, tăng so với năm 2005 là 127 tỷ đồng (34,2%), đạt 109% kế hoạch Trung ương giao. Trong đó cơ cấu nợ theo kỳ hạn: + Dư nợ cho vay ngắn hạn 197 tỷ đồng, chiếm 39.56% tổng dư nợ cho vay và tăng 14% so với năm 2005. + Dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 301 tỷ đồng, chiếm 60,44% tổng dư nợ cho vay và tăng 21,2% so với năm 2005 - Năm 2007: Dư nợ cho vay đến thời điểm ngày 31/12/2007 là 728 tỷ đồng, tăng so với năm 2006 là 230 tỷ đồng, đạt 117% kế hoạch Trung ương giao + Dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 239 tỷ đồng, chiếm 32.8% tổng dư nợ và tăng 21,3% so với năm 2006 + Dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 489 tỷ đồng, chiếm 67.2% tổng dư nợ và tăng 65,4% so với năm 2006. Nhìn vào kết quả trên có thể cho thấy, về qui mô và cơ cấu cho vay theo kỳ hạn của Chi nhánh đang diễn biến theo chiều hướng tích cực. Dư nợ tăng dần qua các năm, năm sau tăng nhanh hơn năm trước, đặc biệt vào thời điểm cuối năm 2007 dư nợ cho vay tăng rất mạnh; cơ cấu dư nợ diễn biến theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn và tăng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, tuy nhiên tốc độ thay đổi vẫn chưa nhanh. - Đặc biệt, cho vay đối với các doanh nghiệp của Chi nhánh luôn chiếm tỷ trọng rất cao (năm 2007 chiếm 96,1% tổng dư nợ). Đây cũng là một đặc điểm đặc trưng của Ngân hàng Ngoại thương. * Chất lượng các khoản vay Năm vừa qua là năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng. Với chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh, hoạt động cho vay của chi nhánh diễn ra khá thuận lợi. Chất lượng các khoản vay tương đối tốt. Cụ thể: - Đối tượng cho vay của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân, hoạt động sản xuất của họ mang tính truyền thống của các làng nghề. Đây là một trong những đối tượng được UBND tỉnh rất quan tâm, tạo điều kiện nên những doanh nghiệp này làm ăn rất có hiệu quả. Trong năm 2007, chi nhánh đã cho vay mới được 17 doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp Tiên Sơn, cụm công nghiệp Phong Khê, làng nghề Đồng Kỵ, thị trấn Từ Sơn, Thành phố Bắc Giang…Các doanh nghiệp được vay vốn làm ăn khá hiệu quả nên việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng thực hiện khá tốt. Tuy nhiên năm vừa qua có rất nhiều những biến động về giá cả nguyên vật liệu… khiến cho một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xây dựng cơ bản (giá thành xây dựng nhà xưởng tăng quá cao so với dự kiến, nguyên vật liệu đắt đỏ, chi phí sản xuất: xăng dầu, điện… tăng cao) làm cho dự án đi vào sản xuất chậm hơn so với dự kiến, do đó việc hoàn thành nghĩa vụ với ngân hàng bị chậm trễ. Đứng trước tình hình trên, Chi nhánh đã chủ động tiến hành định kì đánh giá lại khách hàng, tăng cường theo dõi, giám sát các khoản cho vay, đồng thời đưa ra các giải pháp xử lý như: - Thay đổi hình thức cho vay như chuyển từ cho vay theo hạn mức, luân chuyển sang cho vay từng lần hoặc chỉ giới hạn một mức dư nợ nhất định với các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tình hình kinh doanh có rủi ro cao. - Đánh giá lại các khoản cho vay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản để đưa ra các giải pháp phù hợp. - Gia hạn thời gian trả nợ cho một số doanh nghiệp gặp khó khăn thực sự. Do theo sát diễn biến các khoản cho vay và đưa ra các giải pháp kịp thời nên trong giai đoạn này tỉ lệ nợ xấu của Chi nhánh năm qua chỉ còn 1,88%. * Xử lý nợ tồn đọng. Năm 2006, nợ đọng của chi nhánh là 10,01 tỷ đồng (chiếm 2,01% tổng dư nợ năm 2006). Do đó những món nợ này còn kéo sang năm 2007 làm cho hoạt động kinh doanh của năm 2007 cũng bị ảnh hưởng theo. Do đó, chi nhánh đã tích cực đôn đốc, tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp để họ có thể trả nợ cho ngân hàng. Với những khoản nợ mà khách hàng hoàn toàn mất khả năng trả nợ, Chi nhánh đã tích cực gửi công văn tới phòng thi hành án đề nghị thi hành án để thu hồi nợ, còn đối với các khoản nợ tồn đọng khác chi nhánh luôn bám sát khả năng trả nợ của khách hàng để thu hồi vốn. Trong năm 2007, chi nhánh đã thu hồi được 6,3 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là nợ xấu của năm 2006. 2.2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Về quy mô cho vay: Trong năm 2007, tổng dư nợ của chi nhánh đạt 728 tỷ đồng. Trong đó, tổng dư nợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 610 tỷ đồng, chiếm 83,8% tổng dư nợ. Tuy nhiên, chi nhánh mới chỉ chiếm khoảng 7% tổng dư nợ trên địa bàn tỉnh, như vậy là chưa xứng tầm với một ngân hàng có vị thế như ngân hàng Ngoại thương. Mặt khác, chi nhánh mới chỉ cho vay được trên 60 doanh nghiệp trong tổng số 2243 doanh nghiệp trong địa bàn tỉnh. Chi nhánh sử dụng hầu hết nguồn vốn của mình vào hoạt động cho vay (chiếm 81.25% tổng nguồn vốn). Tình hình huy động vốn: Năm 2007 chi nhánh đã huy động được trên địa bàn 297 tỷ đồng, tuy rằng tăng nhiều hơn năm 2006 là 90 tỷ đồng nhưng nguồn vốn tự huy động chỉ chiếm 33.14% tổng nguồn vốn, từ đó cho thấy chi nhánh chưa chủ động được nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, thị phần huy động vốn của chi nhánh trên địa bàn tỉnh mới chỉ chiếm 3.5%, đây là con số rất khiêm tốn so với vị thế của ngân hàng Ngoại thương. Kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động đặc thù của ngân hàng Ngoại thương nói chung và chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh nói riêng, tuy nhiên lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ năm qua mới chỉ đạt 530 triệu đồng. Từ số liệu trên cho ta thấy hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của chi nhánh chưa thực sự chủ động và độc lập, vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào ngân hàng Ngoại thương Trung ương. Khả năng huy động vốn của chi nhánh chưa cao, nguồn vốn hoạt động vẫn chủ yếu do ngân hàng Ngoại thương Trung ương cấp. * Độ an toàn của vốn vay - Nhóm chỉ tiêu phản ánh độ an toàn + Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Năm 2006 2007 Tỉ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản 100% 100% Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Bắc Ninh năm 2006, 2007. - Tỷ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Tỷ lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản của chi nhánh đạt 100%. Tài sản đảm bảo là một trong những lá chắn an toàn của ngân hàng để đối phó với khả năng mất vốn. Tỷ lệ này là rất cao tuy nhiên nợ xấu của chi nhánh trong năm 2007 vẫn còn lớn là do một số thủ tục pháp lý nên chi nhánh chưa thanh lý được một số tài sản thế chấp Tuy lệ cho vay có đảm bảo bằng tài sản mức cao nhưng chi nhánh cần chọn lựa những tài sản trong sạch, có tính thanh khoản cao để làm tài sản đảm bảo cho mình. Thực tế cho thấy dù có tài sản đảm bảo cao nhưng nợ xấu của chi nhánh năm 2006 vẫn ở mức lớn. Ngân hàng sẽ không có nguồn tài sản bù đắp dẫn đến nguy cơ mất vốn và giảm hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng + Tỉ lệ nợ xấu Bảng dư nợ xấu của chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh Đơn vị: tỷ đồng Phân loại 2006 2007 Nhóm 3 0,998 0,921 Nhóm 4 4,202 4.896 Nhóm 5 3,810 4,883 Tổng dư nợ xấu 10,01 13.7 Trong năm 2007, tình hình nợ xấu của chi nhánh đã giảm so với năm 2006 nhưng vẫn chiếm 1.88% tổng dư nợ của chi nhánh. Đặc biệt nợ xấu năm 2007 chủ yếu tập trung vào nhóm 4 và nhóm 5 là những nhóm có nguy cơ mất vốn rất cao. + Tỉ lệ nợ gia hạn: Tỉ lệ nợ gia hạn năm 2006 là 5,02% và năm 2007 là 4,53%, tuy tỉ lệ này diễn biến theo chiều hướng giảm nhưng so với tỷ lệ nợ quá hạn đã qua xử lý thanh lý tài sản còn khá cao. Tỷ lệ nợ quá hạn sau khi xử lý thanh lý năm 2006 là 1,3% và năm 2007 là 1,6%. Tỉ lệ nợ gia hạn cho thấy rủi ro tín dụng của chi nhánh khá cao, cho thấy các khoản cho vay của ngân hàng chất lượng chưa đảm bảo, tiềm ẩn nhiều rủi ro dẫn đến ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Nợ quá hạn của chi nhánh tính đến 31/12/2007 là 13,7 tỷ đồng, chiếm 1.88% tổng dư nợ của chi nhánh. Tỷ lệ này đã giảm so với năm 2006 (nợ quá hạn năm 2006 là 2.1%) do trong năm 2007 chi nhánh đã tích cực chỉ đạo các cán bộ tập trung thu hồi những món nợ xấu kể cả việc đem thanh lý những tài sản thế chấp. Do đó, đã chấm dứt được 90% nợ xấu của năm 2006, góp phần làm trong sạch, lành mạnh bảng cân đối của ngân hàng. * Cấu trúc danh mục cho vay: Trong năm vừa qua, danh mục cho vay của chi nhánh đã đa dạng hơn rất nhiều so với các năm trước. Cụ thể, chi nhánh đã cho vay mới được 17 doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp, các làng nghề truyền thống: sắt Đa Hội, gỗ Đồng Kỵ, giấy Phong Khê… Các doanh nghiệp vay vốn hoạt động sản xuất kinh doanh trong rất nhiều lĩnh vực: sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất đồ mĩ nghệ, may mặc, vật liệu xây dựng, lắp ráp chế tạo máy….do đó, xét một cách tổng thể sẽ góp phần làm giảm rủi với nguồn vốn của ngân hàng. Đặc biệt, trong năm vừa qua, chi nhánh đã mở rộng đầu tư về địa bàn Bắc Giang, nơi có khu công nghiệp Đình Trám, Đồng Vàng rất phát triển do địa bàn Bắc Giang chưa có chi nhánh của ngân hàng Ngoại thương. - Kỳ hạn của danh mục cho vay: Kỳ hạn cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của chi nhánh rất đa dạng từ ngắn hạn, trung hạn đến dài hạn. Tuy nhiên chủ yếu vẫn là trung và dài hạn (chiếm 64,3%). Do đó việc cân đối giữa kỳ hạn của nguồn vốn và kỳ hạn cho vay đôi khi không phù hợp cũng gây khó khăn về thanh khoản cho chi nhánh. * Mức độ sinh lời - Tỉ lệ thu từ lãi cho vay: nguồn thu từ lãi vay chiếm 82.5% trong tổng thu của chi nhánh. Ngoài ra, chi nhánh còn có một số khoản thu khác từ tiền gửi và các hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình. Qua đó cho thấy hoạt động cho vay vẫn là hoạt động chủ đạo của chi nhánh trong năm 2007. - Tỉ lệ thu nhập từ lãi cho vay/dư nợ bình quân. Trong năm 2007, tỉ lệ này của chi nhánh là 2,61%. Tỉ lệ này khá cao, nó cho thấy khả năng kiểm soát chi phí và mức sinh lời của chi nhánh từ hoạt động cho vay của chi nhánh là rất lớn. - Chênh lệch lãi suất bình quân: Trong năm qua, lãi suất cho vay bình quân của chi nhánh là 9.6%/năm, lãi suất huy động bình quân là 7,2%/năm. Chênh lệch lãi suất bình quân là 2,4%. Tuy nhiên, lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân không phải do chi nhánh tự đặt ra mà phụ thuộc rất nhiều theo sự chỉ đạo của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng nhà nước. 2.2.3 Đánh giá khái quát chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh. 2.2.3.1 Thành tựu đạt được: - Về độ an toàn của hoạt động tín dụng, các chỉ tiêu đã phân tích cho thấy độ an toàn tín dụng tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh những năm vừa qua đã dần được cải thiện, cụ thể là chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn và chỉ tiêu tỷ lệ mất vốn khá thấp và có giảm dần qua các năm. Đơn vị thường xuyên chuyển nợ quá hạn kịp thời, hàng quý phân loại tài sản Có để trích lập quỹ dự phòng rủi ro đề bù đắp những khoản nợ khó đòi đã chuyển ra theo dõi ngoại bảng, không còn khả năng thu hồi. Hiện nay, quỹ dự phòng rủi ro của Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh đã có thể bù đắp được tất cả các khoản nợ đó. - Về khả năng sinh lời, trong những năm nghiên cứu, mức sinh lời vốn tín dụng của Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh ở mức khả quan, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của đơn vị và ngày càng tăng thêm cùng với sự tăng trưởng dư nợ. - Hoạt động tín dụng của Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh ngày càng được mở rộng, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng tín dụng qua các năm, năm sau có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm trước. - Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Bắc Ninh đã chú trọng cấp tín dụng đến nhiều thành phần kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Cơ cấu cấp tín dụng thay đổi theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần, và tập trung._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28526.doc
Tài liệu liên quan