Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án nhân dân cấp huyện

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài : Nước ta đang đứng trên đà phát triển và hội nhập sâu rộng về kinh tế. Một xã hội có nền kinh tế càng phát triển thì tranh chấp càng xảy ra nhiều, phức tạp về tính chất và đa dạng về nội dụng. Tranh chấp KD – TM là một hệ quả tất yếu của quá trình vận động các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động kinh doanh, thương mại. Khi tranh chấp xảy ra, các bên cần có cơ chế để giải quyết tranh chấp để mở đường cho sự hợp tác và phát triển. Tòa án là một tron

doc110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1865 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án nhân dân cấp huyện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g những phương thức giải quyết tranh chấp như thế. Trong bối cảnh đang diễn ra cuộc cải cách tư pháp mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, TAND cấp huyện đã được lựa chọn là khâu cải cách đột phá về thẩm quyền. Trước đây chỉ những tranh chấp nhỏ, ít phức tạp mới thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TAND cấp huyện. Hiện nay, TAND cấp huyện đã được mở rộng thẩm quyền theo xu hướng xét xử sơ thẩm chủ yếu tất cả các tranh chấp KD – TM. Trước hoàn cảnh đó, TAND cấp huyện đang đứng trước những thách thức to lớn cả về mô hình tổ chức, nhân sự lẫn cơ sở vật chất để thực hiện được nhiệm vụ mới. Những thách thức đặt ra sẽ là cơ hội để TAND cấp huyện nâng cao năng lực, nhưng đồng thời cũng là vật cản con đường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nhân nếu không có những biện pháp tháo gỡ phù hợp. Với lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN để làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục đích nghiên cứu mà luận văn đặt ra là: - Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án - Đánh giá thực trạng những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án. Qua đó, nêu lên thực trạng hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện hiện thời. - Nêu ra một số kiến nghị khắc phục các trở lực, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập và tự do hóa nền kinh tế. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chọn những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM làm đối tượng nghiên cứu. Từ đó tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố đó tới quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM là rất phong phú và phức tạp. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của tất cả các yếu tố đó là không phù hợp trong khuôn khổ của bản luận văn này. Vì thế, tác giả chỉ lựa chọn những yếu tố chủ yếu (được trình bầy trong chương 2) làm đối tượng nghiên cứu của luận văn. 4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp được luận văn sử dụng nghiên cứu là các phương pháp phổ biến để nghiên cứu luật học đặt trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đó là: - Phương pháp khai thác tài liệu sẵn có bởi các bài viết, các kết quả nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trong những lĩnh vực có liên quan đến đề tài. - Phương pháp phân tích và so sánh luật - Phương pháp diễn dịch và phương pháp tổng hợp - Phương pháp thăm dò xã hội học. 4. Bố cục của luận văn Luận văn có bố cục gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp KD – TM và giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đường Tòa án. Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện hiện nay. Chương 3: Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện. Với trình độ của tác giả còn hạn chế, đề tài luận văn lại liên quan đến nhiều lĩnh vực nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tuy nhiên, tác giả cũng đã nỗ lực cố gắng trình bầy các ý tưởng của mình một cách có hệ thống, làm rõ sự ảnh hưởng của các yếu tố thực tiễn đến quá trình giải quyết quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện. Hy vọng luận văn sẽ giúp ích đôi chút cho công cuộc cải cách tư pháp đang diễn ra và là tài liệu hữu ích cho những người đang nghiên cứu các lĩnh vực liên quan đến đề tài. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KD – TM BẰNG CON ĐƯỜNG TÒA ÁN Tranh chấp KD – TM và những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp KD – TM. Khái niệm về tranh chấp KD – TM Con người, với bản tính tự nhiên là luôn tìm cách tối đa hóa lợi ích cho mình nên đôi khi dẫn đến sự xung đột với lợi ích của người khác hoặc lợi ích của cộng đồng. Do vậy, Tranh chấp tồn tại như một điều tất yếu. Chừng nào con người còn được thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân thì chừng đó còn có những xung đột về lợi ích. Xét ở một chừng mực nhất định, theo Triết học, mâu thuẫn còn tạo ra động lực cho sự phát triển. Và hệ quả của nó là, để mở đường cho sự phát triển, luôn tồn tại các phương thức để giải quyết tranh chấp. Tranh chấp KD – TM là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện cùng với sự ra đời của BLTTDS năm 2004. Trước khi thuật ngữ tranh chấp KD – TM xuất hiện, thực tiễn giải quyết tranh chấp phân chia thành tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế. Các tranh chấp phát sinh trong đời sống dân sự hàng ngày bao gồm các quan hệ nhân thân phi tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản được coi là tranh chấp dân sự và điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự năm 1995. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế và hoạt động tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp, hoạt động mua bán trái phiếu, cổ phiếu được coi là các tranh chấp kinh tế, được điều chỉnh chủ yếu bởi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Tình trạng này đã được cải thiện một cách đáng kể sau nỗ lực cải cách về tư duy pháp lý lớn vào năm 2005. Kết quả là cho ra đời BLDS năm 2005, Luật thương mại năm 2005, bãi bỏ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 đã thống nhất về cách điều chỉnh hợp đồng. BLDS có vai trò như đạo luật gốc, điều chỉnh liên thông tất cả các quan hệ dân sự, lao động, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình; BLTTDS năm 2004 ra đời đã thống nhất thủ tục giải quyết tranh chấp nếu xảy ra đối với tất cả các quan hệ này. Theo nghĩa thông thường của từ, tranh chấp KD – TM có thể được hiểu là tranh chấp về KD – TM hoặc tranh chấp trong KD – TM. Và như vậy, có hai khái niệm nhỏ cần làm rõ là khái niệm tranh chấp và khái niệm KD – TM trước khi đi làm rõ khái niệm tranh chấp KD – TM. Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, Tranh chấp được hiểu là “Đấu tranh, giằng co khi có những mâu thuẫn, bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên” [1, 66, tr 1024] Theo khoản 2 điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” Khoản 1 điều 3 Luật thương mại năm 2005 định nghĩa: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Với cách định nghĩa như trên, hoạt động kinh doanh và hoạt động thương mại, có nhiều nội hàm trùng nhau như về mục đích sinh lợi, về đầu tư, về cung ứng dịch vụ, về tiêu thụ sản phẩm ... Bởi thế, nếu tách bạch giữa hoạt động kinh doanh và hoạt động thương mại là điều không thể. Có lẽ vậy nên BLTTDS đã tìm cách dung hòa giữa hai hoạt động này bằng cách gọi chung là hoạt động kinh doanh, thương mại. Như vậy, có thể quan niệm tranh chấp KD – TM là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực hiện liên tục một, một số hoặc toàn bộ quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng các dịch vụ trên thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. Một cách ngắn gọn hơn, có thể định nghĩa tranh chấp KD – TM là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động KD – TM. Cách định nghĩa như trên có hạn chế là tuy chỉ ra được bản chất của tranh chấp KD – TM là mâu thuẫn về quyền lợi phát sinh khi tham gia hoạt động KD – TM nhưng lại không cho thấy được biểu hiện của nó. Trong quan hệ kinh doanh, giữa các bên luôn tồn tại đồng thời hai mối quan hệ vừa xung đột vừa hợp tác. Để xác định chính xác khi nào những xung đột lợi ích này chuyển thành tranh chấp thì cần phải dựa vào những dấu hiệu biểu hiện của nó. Dấu hiệu đó là khi một bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm yêu cầu phía bên kia khắc phục nhưng không nhận được sự đồng ý. Vì vậy, theo cách này, còn có một cách định nghĩa khác đó là tranh chấp KD – TM xảy ra khi một bên trong quan hệ KD – TM khẳng định một trái quyền mà lại bị bên khác chống lại. [2, 15] (tạm gọi là cách định nghĩa theo hình thức) Cách định nghĩa thứ hai cho cách nhận biết dễ dàng hơn về tranh chấp KD – TM và các đặc điểm pháp lý của nó. Theo cách định nghĩa này, tranh chấp KD – TM có những đặc điểm pháp lý sau đây: (i): Chủ thể trong quan hệ tranh chấp KD – TM là những chủ thể tham gia vào hoạt động KD – TM nhằm tìm kiếm lợi nhuận; (ii): Nội dung của tranh chấp KD – TM xảy ra xung quanh các quyền và nghĩa vụ của quan hệ KD – TM mà các bên tham gia được pháp luật điều chỉnh; (iii): Phát sinh khi một bên chủ thể trong quan hệ KD – TM mà các bên tham gia khẳng định trái quyền của mình nhưng bị bên khác chống lại. Tóm lại, nếu tìm một cách định nghĩa thể hiện cả nội dung và hình thức thì có thể kết hợp hai cách định nghĩa trên và nêu ra khái niệm về tranh chấp KD – TM như sau: Tranh chấp KD – TM là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi giữa các bên trong quan hệ KD – TM khi một bên khẳng định trái quyền của mình mà lại bị bên khác chống lại. Những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp KD – TM Như đã phân tích, trong quan hệ KD – TM vừa có xung đột, vừa có hợp tác. Vì thế, khi tranh chấp xảy ra, các bên luôn tìm cách nhanh chóng giải quyết và vãn hồi lại tình trạng bình thường. Do đó, việc giải quyết tranh chấp KD – TM cần đáp ứng được một số yêu cầu như sau: Đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể Giữ gìn uy tín, bí mật thương mại của các bên trên thương trường Không cản trở hoạt động kinh doanh, chu kỳ sản xuất Nhanh chóng và khôi phục sự tín nhiệm của các bên trong kinh doanh Đặc điểm giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đường Tòa án Khi tranh chấp xảy ra, có rất nhiều con đường giải quyết mà các bên có thể lựa chọn. Con đường nào ngắn nhất, ít tốn kém nhất có thể khôi phục lại được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình sẽ được các bên lựa chọn. Trên thực tế, tranh chấp KD – TM có thể được giải quyết bằng những con đường như Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài, Tòa án. Tòa án là thiết chế mang quyền lực tài phán cao nhất. Quyền lực tài phán của Tòa án là đương nhiên xuất phát từ chức năng bảo vệ pháp luật của cơ quan tư pháp. Giải quyết tranh chấp KD – TM bằng toà án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán của nhà nước thực hiện. Được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Bản án hay quyết định của Toà án về vụ tranh chấp được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đường Tòa án có những đặc trưng sau: - Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án chỉ phát sinh khi bên có tố quyền thực hiện tố quyền của mình bằng thủ tục khởi kiện tại Tòa án. - Bằng hình thức Toà án, tranh chấp có thể được xem xét và giải quyết qua nhiều cấp (sơ thẩm, phúc thẩm) và có thể phải thông qua thủ tục xem xét lại bản án (giám đốc thẩm hoặc tái thẩm) theo quy định của pháp luật mà nhiều khi không phụ thuộc vào ý chí của các đương sự; - Quyết định có hiệu lực của toà án có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên và có thể được cưỡng chế thi hành nếu các bên không tự nguyện thi hành. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án có những ưu, nhược điểm sau: Ưu điểm: Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án có ưu điểm lớn là các phán quyết của Toà án đưa ra có bộ máy cưỡng chế của Nhà nước thi hành, đảm bảo tính hiệu lực cao của bản án. Nhược điểm: Trình tự tố tụng Toà án rất nghiêm ngặt, cứng nhắc, thời gian xét xử kéo dài vì phải trải qua nhiều cấp xét xử, chi phí tốn kém, xét xử công khai, uy tín của các bên tranh chấp không được đảm bảo, bí quyết kinh doanh khó có thể được giữ kín... Đây không phải là hình thức giải quyết tranh chấp hấp dẫn vì nó không phù hợp với tính chất nghề nghiệp và tâm lý của các nhà kinh doanh. Một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án. Muốn nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, trước tiên cần xác định hiện nay hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp KD – TM hiện nay đến đâu. Từ đó, tìm được các nguyên nhân và giải pháp để nâng cao hiệu quả. Để có thể đánh giá hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp KD – TM cần có những tiêu chí cụ thể và khoa học. Chính vì thế, nghiên cứu các tiêu chí để đánh giá hiệu quả cũng là điều hết sức quan trọng để xác định thực trạng của việc giải quyết tranh chấp KD – TM. Hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp được đánh giá trên các giác độ: (i) nhìn từ phía Tòa án và (ii) nhìn từ phía các đương sự và (iii) Nhìn từ phía cộng đồng doanh nhân. Nhìn từ phía Tòa án. Tòa án, trong giới hạn bản luận văn này, là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp mà các các bên cầu viện tới. Do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tòa án là cơ quan giữ vị trí trung tâm, chủ động tiến hành các hoạt động tố tụng. Sản phẩm cuối cùng mà Tòa án đưa ra là phương án giải quyết tranh chấp cho các bên. Phương án này có thể đạt được thông qua sự hòa giải, cũng có thể do sự phán quyết bắt buộc của Tòa án. Nhưng, dù bằng cách nào, phương án này cũng thể hiện một cách chính xác nhất hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM. Để đánh giá các sản phẩm đầu ra của Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM, có thể đưa ra hai chỉ tiêu là số lượng và chất lượng. Chỉ tiêu số lượng Chỉ tiêu số lượng là một chỉ tiêu đánh giá khá đơn giản, đó là đánh giá thông qua tỷ lệ các tranh chấp mà Tòa án đã giải quyết trong một đơn vị thời gian nhất định. Chỉ tiêu này có thể thấy thông qua hai tiêu chí là (i): Tỷ lệ số lượng các tranh chấp KD – TM đã được giải quyết trên Tổng số các tranh chấp KD – TM mà Tòa án thụ lý giải quyết hoặc (ii): Thời gian trung bình để giải quyết một vụ tranh chấp KD – TM. Hai tiêu chí này thực chất là một. Thời gian trung bình giải quyết một vụ tranh chấp KD – TM càng ngắn thì cũng có nghĩa tổng số các vụ tranh chấp KD – TM sẽ được giải quyết trong một đơn vị thời gian càng nhiều và ngược lại. Thông thường, mỗi năm, ngành Tòa án Việt Nam đều có những báo cáo tổng kết trong đó thống kê số lượng các vụ án KD – TM đã được giải quyết và tổng só các vụ án đã được thụ lý. Từ đó cho thấy một bức tranh tổng quát về tình hình giải quyết tranh chấp trong một năm và tốc độ làm việc của các Tòa án. Nếu chỉ dựa theo chỉ tiêu số lượng thì hiệu quả càng cao khi số lượng đầu ra càng lớn, thời gian trung bình giải quyết một vụ việc càng ngắn và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ tiêu số lượng có một điểm yếu là phản ánh không đầy đủ được thực chất của sản phẩm. Có thể Tòa án trong một năm giải quyết được rất nhiều các vụ tranh chấp KD – TM nhưng các phương án giải quyết hoặc không thể thi hành hoặc các bên không tìm được lợi ích thiết thân của mình trong phương án đó thì cũng không thể nói quá trình giải quyết tranh chấp đã đạt hiệu quả. Vì vậy, để bổ sung cho chỉ tiêu số lượng, cần phải có chỉ tiêu chất lượng để đánh giá sản phẩm đầu ra. Chỉ tiêu chất lượng Chỉ tiêu chất lượng là chỉ tiêu đánh giá phức tạp, thực chất là một hỗn hợp các chỉ tiêu đánh giá, mà mỗi chỉ tiêu đó chỉ mang lại một khía cạnh về chất lượng của quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM. Có thể chỉ ra một số các chỉ tiêu này như sau: (i): Tỷ lệ các tranh chấp bị kháng cáo, kháng nghị trên tổng số các tranh chấp đã được giải quyết. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hài lòng của các bên trong quan hệ tranh chấp đối với phương án mà Tòa án đưa ra. Nếu mức độ hài lòng của họ tốt hoặc vừa phải, chắc chắn họ sẽ không kháng cáo phán quyết của Tòa và ngược lại. (ii): Tỷ lệ các tranh chấp bị giải quyết lại bởi cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm theo chiều hướng hủy án sơ thẩm hoặc sửa cơ bản án sơ thẩm. Chỉ tiêu này có thể nói lên các “sản phẩm lỗi” của quá trình giải quyết. Các sản phẩm lỗi này đã bị phát hiện và khắc phục. (iii): Tỷ lệ các phương án không thể thi hành trên tổng số các phương án giải quyết tranh chấp. Chỉ tiêu này phản ánh những “sản phẩm” tuy đã được đưa ra nhưng không phủ hợp với tình hình thực tế, không thể “tiêu thụ” được. Đánh giá kết hợp có lưu ý sự khác biệt Cũng cần nhìn nhận rằng, sản phẩm đầu ra của Tòa án là các dịch vụ cung cung cấp không đồng đều. Có những vụ tranh chấp KD – TM rất đơn giản nhưng cũng có những vụ tranh chấp KD – TM hết sức phức tạp. Nếu chỉ lấy đơn thuần chỉ tiêu cả số lượng và chất lượng của những vụ án đơn giản để so sánh với các vụ án phức tạp là điều không thể. Do đó, trong sự đánh giá, cần phải có sự phân vùng. Những khu vực (kể cả khu vực mang tính địa lý và khu vực của nền kinh tế) có thể xảy ra các tranh chấp KD – TM phức tạp đòi hỏi phải có sự lưu ý trong đánh giá. Cần đánh giá hiệu quả dựa trên sự kết hợp của cả 2 yếu tố chất lượng và số lượng, không nên quá coi trọng bất cứ một mặt nào. Bởi lẽ, nếu chỉ coi trọng số lượng thì sẽ dẫn tới hiện tượng chạy đua mà bỏ qua chất lượng của việc giải quyết và như vậy thì chỉ tạo ra được sự hào nhoáng các số liệu ở bề nổi, còn bản thân kết quả giải quyết tranh chấp thì lại không được quan tâm. Chỉ coi trọng vào số lượng sớm muộn cũng dẫn tới sự suy giảm số lượng vì chất lượng không có thì không thể tạo ra niềm tin của các bên giải quyết tranh chấp. Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến chất lượng, có thể dẫn tới các Tòa án kéo dài thời gian giải quyết và số lượng các vụ việc được giải quyết không cao. Số lượng các tranh chấp sẽ càng ngày càng tăng dần, đa dạng và phức tạp theo sự phát triển của nền kinh tế. Quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM đòi hỏi cần nhanh chóng để không cản trở hoặc làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh nhân. Như vậy, nếu chỉ quan tâm đến chất lượng mà không quan tâm đến việc đốc thúc tốc độ giải quyết và nâng cao số lượng vụ việc cần được giải quyết thì cũng như việc chỉ chú trọng đến cái tiểu tiết của từng vụ việc mà không chú trọng tới cái đại cục của cả nền kinh tế. Nhìn từ phía các đương sự Trước hết, đối với các doanh nhân, họ coi giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cũng chỉ là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp. Do đó, với bản tính bẩm sinh của mình sẽ chỉ ra cho họ biết, phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất là phương thức tối đa hóa được lợi ích mang lại và tối thiểu hóa chi phí bỏ ra. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cũng được lựa chọn trên nguyên tắc đó một cách không ngoại lệ. Khi có tranh chấp tranh chấp KD – TM xảy ra, họ sẽ căn cứ vào Tỷ lệ lợi ích thu được với chi phí bỏ ra để theo đuổi vụ kiện để quyết định có hay không lựa chọn Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp. L = G – C Lợi ích thu được từ việc giải quyết tranh chấp có thể được tính bởi công thức: Trong đó: L: là lợi ích mà doanh nhân thu được từ việc cầu viện tới Tòa án giải quyết tranh chấp để khôi phục lại các quyền và lợi ích của mình; G : là giá trị kỳ vọng của doanh nghiệp được hưởng từ hoạt động kinh doanh nếu tranh chấp không xảy ra (thường đó chính là giá trị mối lợi mà hợp đồng mang lại); C: là chi phí mà doanh nhân phải bỏ ra để theo đuổi vụ kiện. Các khoản chi phí mà Doanh nhân bỏ ra để theo đuổi vụ kiện bao gồm: - Chi phí cơ hội là giá trị cơ hội tốt nhất đã bị bỏ qua khi họ theo đuổi vụ kiện (C1); - Chi phí đi lại để theo kiện, thuê luật sư, chuẩn bị các tài liệu, giấy tờ để có thể được tòa chấp nhận (C2) - Án phí phần có thể bị bác yêu cầu và phí thi hành án nếu bên phía đối tác không tự nguyện chấp hành phán quyết của Tòa (C3) - Các chi phí “ngầm” và các chi phí khác mà doanh nghiệp có thể phải bỏ ra để thúc đẩy nhanh chóng vụ kiện (C4). Đối với nền tư pháp minh bạch và các quan Tòa có quyền độc lập thì chi phí này không có hoặc rất thấp, tuy nhiên ở Việt nam thì điều này không thể không có. Như vậy, tổng các khoản chi phí C sẽ là: C = C1 + C2 + C3 +C4 L = G – (C1 + C2 + C3 +C4 ) Cuối cùng, thực ra L sẽ được tính trực tiếp bởi : Căn cứ vào khoản lợi ích L này để các doanh nhân quyết định lựa chọn có dùng Tòa án làm phương thức giải quyết tranh chấp KD – TM hay không hoặc dùng phương thức khác (như Trọng tài, hoặc vận động gây áp lực từ phía các cơ quan khác như công an, như ủy ban, các cơ quan hành chính quyền lực khác …) hoặc từ bỏ khoản lợi ích này để đi kiếm cơ hội khác nếu nó quá nhỏ. Tỷ lệ Lợi ích / chi phí (L/C) sẽ biểu hiện hiệu quả giải quyết tranh chấp của Tòa án. Nếu tỷ lệ này càng cao, có nghĩa là hiệu quả giải quyết càng lớn và ngược lại. Nhìn từ phía cộng đồng doanh nhân Nhìn từ phía cộng đồng các doanh nhân lại có cách đánh giá hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM một cách hoàn toàn khác. Cách đáng giá này không chi tiết vào các chỉ số cụ thể như cách đánh giá nhìn từ phía Tòa án, cũng không có những toan tính cụ thể như nhìn từ phía các đương sự đang có tranh chấp cần cầu viện tới Tòa án. Cách đánh giá này đơn giản chỉ dựa vào sự tín nhiệm của cộng đồng doanh nhân vào Tòa án. Sự tín nhiệm này có thể xuất phát bởi: (i): Truyền thống giải quyết tranh chấp của giới doanh nhân. Truyền thống tạo ra từ những đặc điểm tâm lý, đặc điểm kinh doanh và lịch sử ra đời của giới doanh nhân; (ii): Kinh nghiệm thực tiễn từ các vụ việc giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đường Tòa án. Từ các tranh chấp KD – TM cụ thể đối với các doanh nhân mà Tòa án đã giải quyết, mỗi doanh nhân sẽ có cách đánh giá riêng về hiệu quả của Tòa án và cách đánh giá của đa số các doanh nhân sẽ tạo ra sự đánh giá của cộng đồng; (iii): Sự tin tưởng của cộng đồng doanh nhân rằng phán quyết của Tòa có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Các doanh nhân hợp với nhau thành một cộng đồng vừa có sự hợp tác vừa có sự cạnh tranh. Ngay trong sự hợp tác kinh doanh đã tiềm ẩn những yếu tố có thể gây ra tranh chấp. Và, khi tranh chấp xảy ra, nếu đưa đến Tòa án, cộng đồng Doanh nhân trông đợi ở Tòa án, như đại diện cho công lý, đưa ra một phương án làm tiền lệ cho các Doanh nhân trong các ứng xử tiếp theo. Một sự giải thích hợp lý của Tòa án hoặc một cách đánh giá của Tòa án sẽ có tác dụng điều chỉnh hành vi của các doanh nhân trong hoạt động kinh doanh làm giảm thiểu các tranh chấp có thể xảy ra và do đó sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển. Tóm lại: quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án thực chất là quá trình cung cấp dịch vụ cho xã hội. Nếu dịch vụ tốt, sẽ có được lòng tin của khách hàng và ngược lại. Như vậy, hiệu quả giải quyết tranh chấp của Tòa án được đánh giá thực sự qua lòng tin và sự tín nhiệm của giới doanh nhân đối với uy tín và phương án giải quyết của Tòa. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án Để có thể nhìn nhận đúng đắn và có những tác động hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả GQTC KD-TM bằng con đường Tòa án, cần đánh giá đúng những yếu tố tác động vào quá trình GQTC KD-TM. Khi đó, ta sẽ có đủ những cơ sở và phương hướng tác động vào từng khâu, từng quá trình mà không bị sợ sai lầm. Đồng thời, dưới sự phân tích các yếu tố tác động cả từ bên trong và bên ngoài, chúng ta có cái nhìn hệ thống, tìm ra được các chi tiết còn yếu kém hoặc không phù hợp để tạo ra sự đồng bộ, hài hòa cho cả hệ thống. Các yếu tố tác động từ bên trong Nhìn trong nội bộ hệ thống thì các yếu tố tác động bên trong gồm có: các quy định về luật nội dung, các quy định về luật thủ tục, các tài liệu chứng cứ mà các bên có thể xuất trình, năng lực của nguời giải quyết. Thử tượng tượng một cách so sánh giữa giải quyết tranh chấp KD-TM với quá trình chế tạo một sản phẩm. Với sự đơn giản nhất, làm ra một sản phẩm bị ảnh hưởng bới những yếu tố như là: các nguyên vật liệu đầu vào; máy móc thiết bị để gắn kết những nguyên liệu đó thành sản phẩm; công nghệ (quy trình) để sản xuất ra sản phẩm; sau cùng là tay nghề của người thợ chế tạo ra sản phẩm đó. Tất cả các yếu tố này có tác động một cách đồng thời tới chất lượng đầu ra của sản phẩm. Nếu nguyên vật liệu không tốt hoặc máy móc/thiết bị hư cũ, hoặc công nghệ lạc hậu hoặc tay nghề người thợ yếu kém đều ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm được làm ra. Một sự so sánh dường như khập khiễng, nhưng những gì đúng với việc sản xuất có vẻ đúng như đối với việc giải quyết tranh chấp KD-TM. Các nguyên vật liệu đầu vào tương ứng với các tài liệu, chứng cứ mà các bên có được khi xuất trình cho Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp; Các máy móc/thiết bị để gắn kết các nguyên vật liệu đầu vào tương ứng với các quy định của luật nội dung; quy trình/công nghệ tương ứng với các quy định từ luật thủ tục và cuối cùng tay nghề của người thợ tương ứng với năng lực/trình độ của người Thẩm phán. Kết quả là, đối với việc sản xuất, đầu ra là sản phẩm hoàn hảo và làm hài lòng người dùng. Kết quả của việc giải quyết tranh chấp KD-TM là đưa ra được một phương án hợp lý (có thể đạt được thông qua sự hòa giải hoặc xét xử), có lợi cho xã hội, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh và thúc đẩy thương mại phát triển. Cũng thông qua phương án đó, lợi ích của xã hội, của nhà nước được đảm bảo; quyền và các lợi ích hợp pháp của các bên được bảo vệ, được khôi phục. Như vậy, để có kết quả đầu ra tốt đối với việc giải quyết tranh chấp, cần các điều kiện đầy đủ như: (i): Các tài liệu, chứng cứ đầu vào mà các bên xuất trình cho Tòa án các đầy đủ bao nhiêu thì Tòa án càng có những căn cứ và đánh giá chính xác so với sự thật khách quan bấy nhiêu; (ii): Các quy định của luật nội dung rõ ràng và đầy đủ tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án áp dụng pháp luật đánh giá chứng cứ và giải quyết tranh chấp một cách đúng đắn; (iii): Các quy định của luật tố tụng khoa học và hợp lý sẽ tạo ra các công đoạn làm việc hợp lý, không bị trùng lắp vừa có tác dụng thúc đẩy thời gian giải quyết nhanh chóng, vừa có tác dụng đảm bảo được chất lượng đầu ra; (iv): Năng lực, trình độ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân sẽ là trung tâm của sự kết nối và đưa ra phương án giải quyết tranh chấp tối ưu. Các yếu tố tác động bên ngoài Ngoài những yếu tố tác động từ bên trong quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM, còn có những tác động từ phía bên ngoài tới quá trình giải quyết tranh chấp. Các yếu tố đó là sự phát triển của hoạt động kinh doanh – thương mại; quan điểm của giới doanh nhân về việc giải quyết tranh chấp KD_TM bằng con đường Tòa án, hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp và các điều kiện vật chất khác. Những yếu tố này có tác động không trực tiếp nhưng lại gián tiếp tạo ra môi trường lành mạnh để quá trình giải quyết tranh chấp có thể diễn ra thuận lợi hoặc khó khăn. (i): Sự phát triển của nền kinh doanh – thương mại Sự phát triển của nền kinh doanh thương mại tạo ra sự muôn mặt trong quá trình GQTC KD-TM. Thực tiễn chỉ ra rằng, nền kinh tế - thương mại phải phát triển đến một mức nhất định thì hoạt động GQTC KD-TM mới trở thành một hoạt động giải quyết tranh chấp đặc thù, thoát khỏi quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự thông thường. Đối với nền kinh tế kém phát triển và mang tính tự cung, quan hệ hợp đồng dường như không tồn tại. Các loại hợp đồng chỉ đơn thuần với những nội dung như vay nợ, mua bán. Sự phát triển của nền kinh tế đã dẫn tới vô vàn các hình thức do Doanh nhân sáng tạo như tín dụng, đầu tư, sở hữu trí tuệ …Những hình thức sáng tạo đó đã mang lại cho hoạt động giải quyết tranh chấp vẻ mặt mới, đặc thù hơn và cũng phức tạp hơn. (ii): Quan điểm của giới Doanh nhân đối với việc giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án Quan điểm của giới Doanh nhân ảnh hưởng rất lớn tới việc giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án có được trở lên phổ biến hay kém phổ biến. Tất nhiên, sự cầu viện công lý là điều luôn luôn cần thiết, nhưng đó có phải là phương án mà các bên tham gia cho là thỏa đáng và ưa thích hay không là vấn đề cần xem xét. Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án có rất nhiều ưu điểm không ai có thể phủ nhận, tuy nhiên, nó có thích hợp hay không, hay nói cách khác, nó có bám rễ được vào lòng xã hội hay không một phần rất lớn ảnh hưởng từ truyền thống của xã hội. Đối với xã hội Tây Âu có truyền thống phân quyền với sự độc lập của Tòa án, giới Doanh nhân đã có một thời gian rất dài được làm quen với các phương thức tố tụng bởi Tòa án. Tòa án là thiết chế sinh ra để bảo vệ pháp luật và các quyền tự do kinh doanh, nghĩa vụ hợp đồng của giới doanh nhân. Do đó, các tranh chấp được cầu viện công lý tới Tòa án là điều hết sức bình thường. Trái lại, đối với xã hội Á đông, sự tách bạch giữa một cơ quan hành chính và một cơ quan tư pháp là không có. Những vị phán quan học hành thi cử, tiến thân từ “kẻ sĩ” dường như xa lạ đối với giới thương nhân. Thêm vào đó, tư tưởng đạo nho “ức nông, trọng thương” đã xếp vị trí của người thương nhân xuống hạng bét trong xã hội đã lấy đi sự tin tưởng của giới thương nhân truyền thống vào các cơ chế tài phán công. Bởi vậy, có thể thấy, ở các nước Á Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo Trung hoa, phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án không mấy được ưa chuộng (để xem xét cụ thể giới Doanh nhân Việt Nam, tác giả xin được trình bầy cụ thể hơn ở chương sau) Phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án chỉ có thể trở lên phổ biến khi nó lấy được sự tin tưởng từ phía các Doanh nhân và thông qua đó, dần dần thay đổi tư duy truyền thống. Chỉ khi ấy, phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án mới được đánh giá là hiệu quả khi so sánh với các phương thức giải quyết tranh chấp khác. (iii): Hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp đối với việc giải quyết tranh chấp KD-TM Theo từ điển Tiếng Việt, từ Bổ trợ có nghĩa là “giúp thêm vào, phụ thêm vào cho đầy đủ hơn, tốt hơn” [3, 66, tr 78]. Như vậy, Bổ trợ tư pháp có thể hiểu là hoạt động giúp thêm vào để bảo vệ pháp luật được tốt hơn. Nghĩa của từ là như vậy, nhưng trong giới hạn của đề tài này, hoạt động Bổ trợ tư pháp chỉ được tác giả đề cập đến trong phạm vi hẹp là hoạt động giúp thêm cho Tòa án khi giải quyết các tranh chấp. Tư pháp hiện đại chỉ ra rằng, hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp luôn gắn liền với nhau. Nhà nước đề cao việc bảo vệ pháp luật bao nhiêu thì cũng đề cao hoạt động Bổ trợ tư pháp bấy nhiêu. Một trong những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền là luôn tạo điều kiện cho hoạt động tư pháp và hoạt động bổ trợ tư pháp song song cùng phát triển. Sự tồn tại của các cơ quan bổ trợ tư pháp không những giúp cho Tòa án mà còn giúp cho các công dân bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích của mình. Các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ góp phần._. làm bôi trơn và hỗ trợ cho guồng máy giải quyết tranh chấp được chạy thông suốt. Hoạt động đó có thể được kể ra là: - Hoạt động giám định, định giá - Hoạt động luật sư và tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý - Hoạt động thi hành các bản án, quyết định của Tòa án - Hoạt động phát mại tài sản Đó là một số các hoạt động bổ trợ tư pháp mang tính cổ điển và thường xuyên hỗ trợ cho hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án. Tòa án, về bản chất, là cơ quan có rất ít sức mạnh vật chất. Sức mạnh của nó nằm ở trí tuệ, ở phán đoán và lòng yêu công bằng. Vì thế, để cho các phán quyết của Tòa án, cũng như hoạt động của Tòa án được thông suốt, đòi hỏi phải có sự bổ trợ của các cơ quan, tổ chức khác. Nếu những sự bổ trợ này không có hoặc không hiệu quả thì quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án cũng chỉ có tác dụng trên giấy mà không có tác dụng thực tiễn. Đứng về mặt xã hội, các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp các công dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhờ có luật sư, nhờ có hoạt động công chứng, hoạt động giám định, hoạt động thi hành án, hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp lý mà công dân có điều kiện để thực hiện các quyền nội dung của mình trên thực tế, có thể tạo ra các chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho các yêu cầu hợp pháp của mình. Sự tồn tại và phát triển của các cơ quan bổ trợ tư pháp có ý nghĩa tạo ra một nền tư pháp chuyên nghiệp, đồng bộ. (iv): Các cơ sở vật chất để phục vụ cho việc giải quyết tranh KD-TM Các cơ sở vật chất đóng vai trò không nhỏ trong việc thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp trở lên thuận lợi và nhanh chóng. Với những điều kiện vật chất nghèo nàn, Tòa án khó có thể đáp ứng được công việc giải quyết tranh chấp trong thời kỳ mới. Thời đại về thông tin điện tử đã cho phép các bên được phép giao dịch qua mạng điện tử, sử dụng các chữ ký điện tử, các quá trình thanh toán điện tử.. Càng ngày, những chứng cứ mà các bên cung cấp càng trở lên phong phú, không chỉ có văn bản viết mà còn là các tài liệu nghe được, nhìn thấy, phần mềm …Tất cả những chứng cứ và tài liệu ấy đòi hỏi người giải quyết không chỉ có trình độ mà phải còn được cung cấp những công cụ để có thể thẩm định, xem xét được những chứng cứ ấy. Mặt khác, có những công cụ lao động hiện đại, được hỗ trợ về thông tin, tài liệu sẽ có tác dụng như “cánh tay nối dài” giúp cho Thẩm phán có thể thực hiện công việc một cách dễ dàng hơn. Điều kiện về phòng xử, phòng hòa giải, phòng làm việc, các công cụ lao động không chỉ ảnh hưởng đến năng suất lao động của Thẩm phán mà còn ảnh hưởng cả tới các đương sự, và tồi tệ hơn, có thể làm suy giảm đi sự uy nghiêm của hoạt động tố tụng. Do đó, nâng cao các điều kiện về cơ sở vật chất của Tòa án cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tích cực đến việc giải quyết tranh chấp. Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TAND CẤP HUYỆN HIỆN NAY Một số khó khăn khi áp dụng thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp KD – TM theo quy định hiện hành. Làm việc chuyên nghiệp hóa cần phải có quy trình. Một quy trình làm việc hợp lý sẽ tổ chức quá trình lao động khoa học và nâng cao hiệu suất làm việc. Đó là ý nghĩa mang tính quyết định của thủ tục tố tụng trong việc giải quyết tranh chấp KD – TM. Không chỉ dừng lại ở ý nghĩa quy trình, Luật tố tụng còn đảm bảo tố quyền của người dân và nâng cao dân chủ trong hoạt động công quyền. Vì thế, nghiên cứu và hoàn thiện thủ tục tố tụng góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM, đảm bảo các quyền và lợi ích cho người dân. BLTTDS năm 2004 ra đời đã có những cải thiện đáng kể về cả về thủ tục tiến hành tố tụng và triết lý ẩn sau những thủ tục đó (xem quy trình giải quyết tại Sơ đồ 1). Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, trên thực tế BLTTDS vẫn còn những vướng mắc cần khắc phục. Về Quyền khởi kiện Quyền khởi kiện (Tố quyền) chính là khả năng thừa nhận đối với các chủ thể được cầu viện đến công lý để đạt được sự tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng. Các quyền của chủ thể đuợc quy định trong luật nội dung là cơ sở của tố quyền. Không có lợi ích thì không có tố quyền, không có tố quyền mọi quyền lợi cũng mới chỉ là quyền trên giấy mà chưa được đảm bảo thi hành bởi quyền lực công. Điều 161 BLTTDS quy định về quyền khởi kiện một cách khá chung chung đó là: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Dựa vào quy định này và quy định tại điều 29 BLTTDS về thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM của Tòa án thì có thể chỉ ra Người có quyền khởi kiện tranh chấp KD – TM phải có những điều kiện sau đây: Phải là cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể đầy đủ. Quyền và lợi ích của bản thân mình đã bị vi phạm theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên. Pháp luật tố tụng Việt Nam chỉ thừa nhận tố quyền trực tiếp. Nghĩa là chỉ những người có quyền và lợi ích trực tiếp đối với bên bị kiện trong tranh chấp mới có quyền khởi kiện tranh chấp tại Tòa án. Người khởi kiện phải tự nhân danh mình để làm đơn khởi kiện, không thể ủy quyền cho bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào khác nhân danh mình để khởi kiện trong tranh chấp KD – TM. Khi nhận thấy quyền và các lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm, người khởi kiện có thể lựa chọn phương thức là cầu viện pháp lý tới sự bảo vệ của Tòa án. Một đơn khởi kiện được gửi đến Tòa án với đầy đủ các nội dung và hình thức theo quy định tại điều 164 BLTTDS sẽ được Tòa án xem xét. Trên thực tế, khi thực hiện tố quyền có những trường hợp xảy ra đưa cả Tòa án và chủ thể vào tình huống ngoài dự liệu của luật. Trường hợp 1: Chủ thể khởi kiện ngoài những hoạt động KD – TM được liệt kê tại điều 29 BLTTDS. Điều 29 BLTTDS đã dùng cách liệt kê một loạt những quan hệ tranh chấp KD – TM thuộc thẩm quyền của Tòa án. (xem điều 29 BLTTDS). Cách liệt kê theo điều 29 BLTTDS có ưu điểm là cụ thể và dễ dàng cho Tòa án nhận biết về thẩm quyền của mình. Tuy nhiên, liệt kê cũng có nghĩa là không bao giờ đầy đủ. Đáng tiếc hơn nữa là sự không đầy đủ này không được lấp chỗ trống bởi những quy định đảm bảo tố quyền cho Doanh nhân. Điều gì sẽ xảy ra khi Doanh nhân khởi kiện đối với quan hệ tranh chấp nằm ngoài các quan hệ đã được liệt kê tại điều 29 BLTTDS như đấu thầu, nhượng quyền thương mại hoặc một quan hệ khác mà trong tương lai sẽ xảy ra mà tuy pháp luật không cấm nhưng không có quy định về nó? Doanh nhân vốn là thành phần sáng tạo nhất của xã hội, những ý tưởng kinh doanh mới liên tục được nảy sinh và chắc chắn luật pháp không thể theo kịp để điều chỉnh những lĩnh vực do họ sáng tạo ra. Khi đó, Tòa án không thể vượt qua khỏi thẩm quyền của mình để xem xét giải quyết các tranh chấp mà Doanh nhân cầu viện pháp lý. Điều này sẽ làm hạn chế tố quyền của các Doanh nhân. Thiết nghĩ, nếu cầu viện công lý là một quyền cơ bản của doanh nhân thì Tòa án có nghĩa vụ phục vụ quyền cơ bản đó. Đảm bảo công lý là một dịch vụ công mà nhà nước cung cấp cho người dân, trong đó các doanh nhân cũng có quyền được hưởng. Tòa án không thể từ chối xét xử với lý do luật không quy định, quy định không rõ ràng hoặc không đầy đủ. Nguyên tắc này đã đuợc ghi nhận trong những điều mở đầu (Điều 4) của bộ dân luật nổi tiếng nhất trên thế giới đó là Bộ luật dân sự Pháp. Luật thực định Việt Nam không thừa nhận nguyên tắc này và trong thực tiễn xét xử, TANDTC cũng không thừa nhận nguyên tắc này. Có thể minh chứng điều này bằng một công văn hướng dẫn nghiệp vụ của TANDTC số 102/2004/KHXX ngày 07.06.2004. Trong công văn có đoạn viết: “Đối với các trường hợp yêu cầu Toà án giải quyết việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và thi hành án dân sự gây ra, theo quy định của pháp luật thì đây là quyền của đương sự, nhưng do chưa có quy định cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cho nên Toà án chưa có căn cứ để thụ lý giải quyết. Vì vậy, khi có đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong các trường hợp này thì Toà án chưa thụ lý giải quyết.” Như vậy, để giải quyết mẫu thuẫn vừa đảm bảo tố quyền của Doanh nhân, vừa đảm bảo Tòa án vẫn tuân thủ thẩm quyền của mình, không vượt qua những điều pháp luật cho phép thì pháp luật, đặc biệt là luật tố tụng phải có những quy định mang tính mở hoặc nguyên tắc để tạo điều kiện cho Tòa án được bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng cho Doanh nhân. Điều đó đòi hỏi BLTTDS khi sửa đổi phải khắc phục nhược điểm này. Trường hợp 2: Các bên có thỏa thuận về việc sử dụng tố quyền Trong nhiều hợp đồng giữa các bên, tại điều khoản giải quyết tranh chấp có việc thỏa thuận sử dụng tố quyền. Nếu việc thỏa thuận đó nằm ngoài những quy định pháp luật, vấn đề này sẽ được giải quyết như thế nào? Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa giữa công ty A và công ty B, điều khoản giải quyết tranh chấp thỏa thuận: “Mọi tranh chấp phát sinh giữa các bên đều giải quyết hết sức bằng thương lượng, hòa giải. Sau 90 ngày kể từ ngày giao hàng, nếu không bên nào khiếu nại với bên kia về các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng thì sẽ không được khởi kiện về tranh chấp hợp đồng này” Trong trường hợp này, các bên đã thỏa thuận với nhau về quyền khởi kiện như sau: (i) Thỏa thuận với nhau về điều kiện khởi kiện : Đó là phải khiếu nại và thương lượng với nhau khi xảy ra tranh chấp trước khi khởi kiện. (ii) Thỏa thuận với nhau về việc triệt tiêu quyền khởi kiện. Đó là thỏa thuận nếu sau thời hạn 90 ngày kể từ ngày giao hàng, không bên nào có khiếu nại thì không được quyền khởi kiện. Có hai quan điểm khi nhìn nhận vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong hoạt động dân sự cần tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các đương sự. Trong trường hợp này, các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau về phương thức giải quyết tranh chấp thì Tòa án nên tôn trọng. Nếu có một bên khởi kiện thì Tòa án hướng dẫn họ thực hiện thỏa thuận của mình. Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền khởi kiện là quyền do pháp luật quy định và không thể bị hạn chế bởi sự thỏa thuận của các bên. Mọi sự thỏa thuận nhằm hạn chế hoặc triệt tiêu quyền khởi kiện đều vô hiệu. Và, do đó trong trường hợp này, nếu bên nào khởi kiện thì Tòa án vẫn xem xét giải quyết. Trong BLTTDS 2004 và những nghị quyết hướng dẫn của HĐTP TANDTC không có những quy định chính thức về vấn đề này. Tham khảo thực tiễn giải quyết ở một số Tòa án tại Hà Nội thì đa phần các Tòa án đều đưa ra giải pháp cùng thống nhất thỏa thuận về việc triệt tiêu quyền khởi kiện đều vô hiệu. Tuy nhiên, thỏa thuận về điều kiện khởi kiện thì mỗi Tòa án, thậm chí mỗi thẩm phán tại một Tòa án khi nghiên cứu đơn khởi kiện lại có những quan điểm khác nhau. Giải pháp thứ nhất mà Tòa án đưa ra là theo quan điểm tôn trọng sự thỏa thuận về điều kiện khởi kiện, nếu bên khởi kiện chưa có thương lượng với bên bị kiện để giải quyết tranh chấp thì phải thực hiện việc này trước khi khởi kiện. Giải pháp hoàn toàn khác đó là không chấp nhận thỏa thuận này và thừa nhận quyền khởi kiện của bên khởi kiện mà không cần đáp ứng các điều kiện khởi kiện do các bên thỏa thuận. Theo quan điểm này, điều kiện khởi kiện cũng như quyền khởi kiện là quyền đương nhiên của chủ thể để bảo vệ các quyền vật chất được luật nội dung quy định. Do đó, quyền khởi kiện và điều kiện khởi kiện chỉ có thể do pháp luật quy định hoặc hạn chế. Như vậy, cùng một trường hợp nhưng mỗi Tòa án, thậm chí mỗi Thẩm phán trong một Tòa án lại có những cách giải quyết khác nhau. Điều đó sẽ làm thiếu đi sự thống nhất của pháp luật, sự tin tưởng của Doanh nhân khi tìm kiếm công lý. Thiết nghĩ, TANDTC nên có hướng dẫn giải pháp thống nhất để giải quyết vấn đề. Điều đó vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa có ý nghĩa học thuật khi nghiên cứu tố quyền. Trường hợp 3: Một tổ chức không có tư cách pháp nhân liệu có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ án KD – TM? Ví dụ: Công ty cổ phần Thuận Quốc và Viện cơ học ứng dụng có ký hợp đồng với Công ty vận tải hàng hóa đường sắt hợp đồng thiết kế và xây dựng nhà ga năm 2005. Trong quá trình thực hiện đã xảy ra tranh chấp do Công ty vận tải hàng hóa đường sắt vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Năm 2008 Công ty Thuận Quốc và Viện cơ học ứng dụng đã khởi kiện yêu cầu Tòa án quận Hai Bà Trưng (nơi bị đơn có trụ sở) buộc Công ty vận tải hàng hóa đường sắt phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Sau khi thụ lý vụ án, TAND quận Hai Bà Trưng phát hiện Công ty vận tải hàng hóa đường sắt không có tư cách pháp nhân, là đơn vị trực thuộc Tổng công ty đường sắt Việt Nam. Vì vậy, TAND quận Hai Bà Trưng đã xác định bị đơn trong trường hợp này là Tổng công ty đường sắt Việt Nam và chuyển vụ án sang TAND quận Hoàn Kiếm giải quyết (vì trụ sở Tổng công ty đường sắt Việt Nam ở quận Hoàn Kiếm). Tòa án Hoàn Kiếm không nhận vì lý do Người bị khởi kiện là Công ty vận tải hàng hóa đường sắt trụ sở tại quận Hai Bà Trưng. Bên nguyên đơn thấy giải quyết kéo dài nên đã khiếu nại. Sự việc hiện nay vẫn đang chờ giải quyết. Ví dụ trên đặt ra câu chuyện một tổ chức không phải là Pháp nhân liệu có được quyền độc lập khởi kiện hoặc là người bị kiện? Đối với Pháp lệnh TTGQCVAKT trước đây, quan hệ tố tụng dân sự chỉ được thiết lập với các chủ thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Nếu vậy, tổ chức không phải là pháp nhân rõ ràng không có quyền khởi kiện và cũng không có tư cách để tham gia là bị đơn trong vụ kiện. Tuy nhiên, với quy định mới trong BLTTDS, việc xác định không đơn giản như vậy. Điều 56 BLTTDS quy định một cách chung Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Như vậy, BLTTDS cũng không giới hạn ở đây đương sự là tổ chức phải có tư cách pháp nhân. Do đó, Tòa án rất lúng túng trong việc xác định họ có phải là chủ thể tham gia quan hệ tố tụng hay không. Tương tự trường hợp này là việc xác đinh tư cách của Tổ hợp tác, Hộ gia đình có phải là chủ thể tham gia tố tụng dân sự hay không cũng là điều làm các Tòa án lúng túng. Thiết nghĩ, vấn đề này liên quan rất lớn đền tố quyền của Người khởi kiện. Pháp luật nội dung cần phải có sự thống nhất với pháp luật tố tụng. TAND tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để tránh gây tranh chấp thẩm quyền giữa các Tòa án, gây phiền hà cho Người khởi kiện và người bị kiện. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM của Tòa án Thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM của TAND cấp huyện được quy định tại các điều 29, 33, 35, 36 của BLTTDS; điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 và Nghị quyết số 01/2005/HĐTP của TANDTC. Căn cứ vào các quy định này có thể nghiên cứu thẩm quyền của TAND cấp huyện ở góc độ: thẩm quyền theo vụ việc; thẩm quyền theo cấp xét xử và thẩm quyền theo lãnh thổ (xem cơ cấu thẩm quyền của Tòa án tại sơ đồ 2) a) Thẩm quyền theo vụ việc Thẩm quyền theo vụ việc là giới hạn những loại tranh chấp mà Tòa án được quyền giải quyết. Theo quy định tại khoản 1 điều 29 và điều 33 BLTTDS; điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 thì TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những quan hệ tranh chấp KD – TM thỏa mãn những điều kiện sau đây: (i) Điều kiện về chủ thể của quan hệ tranh chấp Chủ thể của quan hệ tranh chấp KD – TM thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện phải là những cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh. Những cá nhân, tổ chức này là những chủ thể hoạt động kinh doanh – thương mại được cấp giấy chứng nhận kinh doanh theo quy định pháp luật. Hay nói cách khác, chủ thể của quan hệ tranh chấp KD – TM phải có hoạt động KD – TM một cách hợp pháp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng theo giải thích của TANDTC trong Nghị quyết 01/2005/HĐTP thì: “Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh thương mại”. Điều này có nghĩa, tranh chấp KD – TM giữa các chủ thể không chỉ giới hạn trong những lĩnh vực mà họ đăng ký kinh doanh mà còn ở cả những lĩnh vực họ không có đăng ký kinh doanh nhưng có tác dụng thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động KD – TM của họ. Theo quy định khoản 3 điều 33 BLTTDS, nếu tại thời điểm khởi kiện một trong các chủ thể của quan hệ tranh chấp không có mặt tại lãnh thổ Việt Nam thì TAND cấp huyện cũng không có thẩm quyền giải quyết mà thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh. (ii) Điều kiện về Mục đích của quan hệ tranh chấp Quan hệ giữa các chủ thể trong tranh chấp KD – TM thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án phải có mục đích lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận của các bên theo TANDTC giải thích là mong muốn của các chủ thể thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được lợi nhuận hay không thu được lợi nhuận phát sinh từ quan hệ KD – TM đó. (iii) Điều kiện về Đối tượng của quan hệ tranh chấp Đối tượng quan hệ tranh chấp KD – TM thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện không phải là những tài sản đang ở nước ngoài vào thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết. Nếu đối tượng quan hệ tranh chấp là tài sản ở nước ngoài thì thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh. (iv) Điều kiện về Nội dung của quan hệ tranh chấp Chỉ những tranh chấp phát sinh từ quan hệ được quy định từ điểm a đến điểm i khoản 1 điều 29 BLTTDS mới thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện. (v) Điều kiện Giới hạn về thỏa thuận trọng tài Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Theo quy định tại điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại, khi các bên trong quan hệ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. So sánh thẩm quyền theo vụ việc của TAND cấp huyện theo quy định mới của BLTTDS với quy định trước đây theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì TAND cấp huyện đã được mở rộng thẩm quyền giải quyết lên rất nhiều. Khoản 1 điều 13 Pháp lệnh quy định TAND cấp huyện chỉ được giải quyết những tranh chấp hợp đồng kinh tế có giá trị nhỏ hơn 50 triệu đồng, trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài. Theo quy định mới hiện hành, TAND cấp huyện giải quyết tranh chấp KD – TM không bị giới hạn giá trị tranh chấp mà phụ thuộc vào tính chất của vụ việc. Việc mở rộng thẩm quyền này đã đáp ứng một phần tinh thần cải cách tư pháp, chuyển dần chức năng sơ thẩm cho TAND cấp huyện để TAND cấp tỉnh tập trung xét xử phúc thẩm. b) Thẩm quyền theo cấp xét xử TAND cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ việc được nêu trong phần a. Điều đó có nghĩa, nếu không đồng ý với phán quyết của TAND cấp huyện, đương sự có quyền kháng cáo để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm hoặc khiếu nại để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. c) Thẩm quyền theo lãnh thổ Theo cách thức tổ chức truyền thống của Tòa án, mỗi một Tòa án có thẩm quyền riêng đối với lãnh thổ mà mình quản hạt. Căn cứ vào quy định của khoản 1 điều 35, điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự, thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án được xác định theo nguyên tắc chung (i); sự thỏa thuận của các bên (ii) và sự lựa chọn của nguyên đơn. d) Một số vướng mắc về thực hiện thẩm quyền Nếu những quy định về tố quyền cho phép Nguyên đơn được đưa tranh chấp thì những quy định về thẩm quyền xác định quyền hạn và nghĩa vụ của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp đó. Với những quy định về thẩm quyền hiện tại theo BLTTDS, trong thực tế xảy ra những trường hợp sau: (i) Xung đột khi xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM và tranh chấp dân sự Kể từ khi Tòa kinh tế ra đời bắt đầu có sự phân biệt giữa tranh chấp KD – TM và tranh chấp dân sự. Mục đích của việc phân biệt này nhằm xác định thẩm quyền riêng biệt của Tòa dân sự và Tòa kinh tế. Ở TAND cấp huyện tuy không thành lập các tòa chuyên trách, nhưng sự phân biệt giữa tranh chấp KD – TM và tranh chấp dân sự vẫn rất quan trọng. Về thủ tục tố tụng áp dụng, mặc dù tất cả tranh chấp KD – TM và tranh chấp dân sự đều được thống nhất giải quyết theo một thủ tục chung nhưng vấn có điểm khác biệt. Đó là thời hạn CBXX của tranh chấp dân sự là 04 tháng còn thời hạn CBXX KD – TM chỉ có 02 tháng. Về luật nội dung, đối với tranh chấp KD – TM, Tòa án ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành về kinh doanh, thương mại trước, nếu không có mới áp dụng đến Bộ luật dân sự. Đối với tranh chấp dân sự, Tòa án không thể áp dụng các luật về kinh doanh, thương mại mà chỉ có thể áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự. Quan trọng hơn nữa, nếu phán quyết của TAND cấp huyện không thỏa mãn được các bên và bị kháng cáo thì lúc này sẽ xuất hiện thẩm quyền riêng biệt của Tòa chuyên trách xử phúc thẩm. Trong trường hợp này, nếu xác định quan hệ tranh chấp không đúng sẽ dẫn tới sai thẩm quyền của Tòa chuyên trách cấp phúc thẩm khi chuyển kháng cáo, và do đó không tránh khỏi nguy cơ tranh chấp thẩm quyền giữa Tòa dân sự và Tòa kinh tế cấp phúc thẩm. Khi ấy, phán quyết của TAND cấp huyện rất dễ bị sửa hoặc hủy vì xác định không đúng quan hệ tranh chấp. Bên cạnh đó, vì theo Nghị quyết số 32/2004 của Quốc hội thì đến ngày 01.07.2009 mới thống nhất thực hiện thẩm quyền của TAND cấp huyện trên toàn quốc. Trong thời gian từ khi BLTTDS có hiệu lực cho đến ngày 01.07.2009, chỉ những TAND cấp huyện nào đã được mở rộng thẩm quyền mới được áp dụng thẩm quyền theo quy định của BLTTDS, còn lại vẫn áp dụng thẩm quyền theo quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Theo quy định của pháp lệnh này, TAND cấp huyện chỉ được giải quyết tranh chấp KD – TM là những tranh chấp Hợp đồng kinh tế mà giá trị dưới 50 triệu đồng, trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài. Trong khi đó, nếu là tranh chấp dân sự thì BLTTDS và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự cũ không giới hạn về giá trị tranh chấp TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết mà chỉ dựa vào tính chất của vụ việc để phân định thẩm quyền. Như vậy, nếu không có sự phân biệt rạch ròi giữa tranh chấp KD – TM và tranh chấp dân sự sẽ dẫn tới xác định sai thẩm quyền giữa TAND cấp huyện và Tòa kinh tế TAND cấp tỉnh và sự sai lầm về thẩm quyền từ trước đến nay đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, bản án do Tòa án không có thẩm quyền tuyên sẽ bị hủy vì không có hiệu lực. Những lý do trên để chứng tỏ việc phân biệt quan hệ tranh chấp KD – TM và quan hệ tranh chấp dân sự là quan trọng đối với TAND cấp huyện theo luật tố tụng Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp hướng xử lý của Tòa án là không thống nhất về cách phân biệt hai loại tranh chấp này. Xin nêu ra vài ví dụ điển hình sau: Ví dụ 1: Ông Nguyễn Văn A là nông dân trồng Dưa hấu. Ông có ký hợp đồng với Công ty TNHH Thanh Quang chuyên kinh doanh mặt hàng nông, lâm sản về việc mua bán trái Dưa hấu. Khi xảy ra tranh chấp hợp đồng giữa Thanh Quang và ông A, ông A khởi kiện đến Tòa án. Vấn đề đặt ra đây là tranh chấp KD – TM hay tranh chấp dân sự và Tòa án cấp nào có thẩm quyền giải quyết. Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là tranh chấp mua bán hàng hóa giữa một bên có đăng ký kinh doanh và một bên không có đăng ký kinh doanh. Quan hệ tranh chấp này không thuộc quy định tại điều 29 BLTTDS về những tranh chấp KD – TM thuộc thẩm quyền của Tòa án, vì thế đây là tranh chấp dân sự và thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện giải quyết sơ thẩm. Theo quan điểm này, TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên. Quan điểm thứ hai cho rằng đây là tranh chấp KD – TM. Lý do là cả ông A và công ty Thanh Quang khi ký hợp đồng mua bán đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Đây là một trong những hoạt động thương mại thuộc sự điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005 được quy định tại điều 1, điều 2 về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật. Do đó nếu có tranh chấp xảy ra thì tranh chấp đó là tranh chấp KD – TM. Theo hướng dẫn tại mục 1, điểm b tiểu mục 1.1 của Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP TANDTC hướng dẫn thẩm quyền của Tòa án quy định: “ Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTĐS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận;” Dựa vào hướng dẫn này của TANDTC thì không chỉ có những tranh chấp được quy định tại điều 29 mới là tranh chấp KD – TM mà còn cả những tranh chấp về kinh doanh thương mại giữa một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận cũng là tranh chấp KD – TM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế cấp tỉnh. Như vậy, với hai quan điểm khác nhau về sự phân loại giữa tranh chấp KD – TM và tranh chấp dân sự dẫn tới sự khác nhau trong việc xác định thẩm quyền giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh. Quan điểm thứ hai đã phân loại tranh chấp không chỉ dựa vào những quy định của luật tố tụng mà còn phải dựa vào những quy định của luật nội dung liên quan đến tranh chấp. Tuy nhiên, nếu theo quan điểm này có thể thấy rõ sự bất cập của BLTTDS khi quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM của TAND cấp huyện. Thật vô lý khi cùng quan hệ tranh chấp mua bán hàng hóa nhưng nếu cả hai bên có đăng ký kinh doanh thì thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của TAND cấp huyện. Nếu một trong hai bên hoặc cả hai bên không có đăng ký kinh doanh lại thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa kinh tế TAND cấp tỉnh. Sự phân định thẩm quyền này rõ ràng không khoa học và thiếu căn cứ. Trong thực tiễn xét xử có một hiện tượng trở thành giải pháp thông lệ. Đó là những tranh chấp dạng như ví dụ trên thường được xác định là tranh chấp KD – TM nhưng TAND cấp huyện vẫn giải quyết sơ thẩm. Có thể dẫn chứng là vụ ông Lê Đăng Goòng (không có đăng ký kinh doanh) kiện Công ty xây dựng và phát triển nông thôn II về việc tranh chấp hợp đồng giao nhận thầu do TAND quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội giải quyết; vụ án Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và vật liệu Đồng Nai kiện ông Lê Minh Toàn (không có ĐKKD) về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa do TAND quận 10, thành phố Hồ Chí Minh giải quyết; vụ án Công ty TNHH Phan kiện bà Đào Thị Hiền về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa do TAND quận Hai Bà Trưng giải quyết . Cả hai Tòa án cấp sơ thẩm đều xác định đây là tranh chấp KD – TM. Cả hai vụ án đều bị kháng cáo. Tòa án cấp phúc thẩm khi xem xét kháng cáo cũng xác định đây là tranh chấp KD – TM. Tuy nhiên khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét nội dung tranh chấp mà không có bất cứ nhận xét nào về thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm. Các tranh chấp trên cũng không hề bị Tòa án Tối cao xem xét lại theo thủ tục Giám đốc thẩm. Phải chăng TANDTC và Tòa án cấp phúc thẩm đã ngầm chấp nhận giải pháp của Tòa án sơ thẩm cấp huyện theo cách xác định thẩm quyền như trên? Nếu đúng là như vậy thì TAND cấp huyện đã được mở rộng hơn thẩm quyền của mình trong việc giải quyết các tranh chấp KD – TM so với quy định tại khỏan 1 điểm b điều 33 BLTTDS. Ví dụ 2: Công ty A (thầu chính) và công ty B (thầu phụ) ký hợp đồng kinh tế về việc giao nhận thầu. Sau khi B đã thực hiện đầy đủ các công việc theo thỏa thuận nhưng A lại không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì thế, sau khi hết hạn thực hiện hợp đồng, A và B có ngồi lại với nhau và lập biên bản đối chiếu công nợ. Trong biên bản này, A xác nhận còn nợ lại B một số tiền X đồng và hẹn thanh toán vào một thời điểm xác định. Tuy nhiên, khi đến thời điểm đó, A vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho B. Vì thế B khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc A thực hiện nghĩa vụ. Trong thực tế có rất nhiều những tranh chấp đã được các bên thương lượng thành công trước khi khởi kiện. Tuy nhiên, do một bên không thực hiện thỏa thuận thương lượng nên buộc bên có quyền phải khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc phía bên kia thực hiện nghĩa vụ. Đến lúc này, xuất hiện câu chuyện được tranh luận tại Tòa án là thụ lý quan hệ pháp luật nào đối với tranh chấp mà B khởi kiện? Tranh chấp giữa A và B là tranh chấp về hợp đồng giao nhận thầu ban đầu hay tranh chấp về Thỏa thuận đối chiếu công nợ? Thực tiễn xét xử tại các Tòa án quận, huyện trên địa bàn Hà Nội đều xác định đây là tranh chấp về hợp đồng giao nhận thầu và xác định đây là tranh chấp KD – TM. Với cách xác định như trên, Tòa án sẽ tiến hành thu thập và đánh giá chứng cứ bắt đầu suốt từ quá trình hai bên ký kết hợp đồng cho đến khi A vi phạm thỏa thuận. Từ đó, Tòa án đã xem xét luôn cả hiệu lực của hợp đồng ký kết giữa A và B. Nếu hợp đồng đó vô hiệu cũng dẫn đến làm vô hiệu thỏa thuận dàn xếp giữa A và B về đối chiếu công nợ. Cách làm này thực chất đã gây kéo dài thời gian và sức lực của các Thẩm phán trong quá trình giải quyết tranh chấp. Lẽ ra khi các bên đã đạt được thương lượng về việc giải quyết tranh chấp ban đầu thì Tòa án nên tôn trọng thỏa thuận đó. Trong trường hợp này, Tòa án chỉ nên là cơ quan quyền lực để hối thúc các bên đã thực hiện thương lượng dàn xếp của mình mà không cần quan tâm đến các tranh chấp trước đó vì nó đã được giải quyết bởi thương lượng dàn xếp giữa các bên. Tòa án chỉ nên không công nhận dàn xếp đó khi nó xâm phạm đến tài sản công cộng hoặc lợi ích của bên thứ ba. (ii) Xung đột về thẩm quyền giữa Tòa án và Trọng tài thương mại Tranh chấp KD – TM được giải quyết bằng phương thức tài phán thuộc thẩm quyền của cả Tòa án và Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, thẩm quyền của Tòa án là đương nhiên đối với việc giải quyết tranh chấp, còn thẩm quyền của Trọng tài lại xuất phát từ sự tự nguyện thỏa thuận của các bên trong việc chấp nhận quyền tài phán của Trọng tài. Để loại bỏ xung đột thẩm quyền giữa Tòa án và Trọng tài, trong điều 5 Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã quy định Tòa án phải từ chối thụ lý nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài , trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Trên thực tế, vẫn xảy ra việc dẫn đến tranh chấp thẩm quyền giữa Trọng tài và Tòa án. Ví dụ sau sẽ là một trong những minh chứng cho điều này [4, 68]: Giữa công ty TNHH A và ông S đã ký thỏa thuận hợp tác kinh doanh vào tháng 7/2002. Trong hợp đồng có thỏa thuận sẽ lựa chọn Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) giải quyết khi có tranh chấp. Sau đó quá trình thực hiện hợp đồng xảy ra bất đồng giữa hai bên. Tháng 7-2007, Công ty A gửi thư khuyến cáo cho phía ông S, nêu rõ không thể hợp tác tiếp và sẽ kiện ra tòa để giải q._. nêu nên sự phản đối thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Thi hành án dân sự thi hành quyết định của Tòa án. Hạn chế quyền kháng nghị của VKS đối với phán quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. Quyền kháng nghị và tham gia vào quá trình tố tụng của VKS cũng cần được giới hạn. Những quyết định, thông báo thông thường của Tòa án không cần thiết phải gửi cho VKS để tránh làm lãng phí nguồn lực. Chỉ nên quy định VKS nhận được quyết định cuối cùng mang tính kết thúc quá trình tố tụng như Quyết định đình chỉ, Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, bản án. Và, nếu lợi ích công bị xâm phạm (lợi ích công trong trường hợp này cần phân biệt với trật tự công, gồm cả trật tự pháp luật mà chỉ giới hạn là lợi ích của nhà nước, của xã hội không được ai trực tiếp bảo vệ) thì VKS mới nên thực hiện kháng nghị của mình với vai trò là người bảo vệ lợi ích công. Còn nếu lợi ích công không bị xâm phạm thì việc có đưa tranh chấp ra xem xét theo thủ tục phúc thẩm hay không là tùy vào quyền của đương sự. Họ không kháng cáo cũng có nghĩa họ đồng ý với phán quyết của Tòa án. Không nên quy định VKS có quyền kháng nghị trong trường hợp này. Nâng cao quyền uy của Tòa án và uy tín của Thẩm phán Nâng cao quyền uy của Tòa án Để hiểu rõ hơn quyền của ngành tư pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước, những lời nhận xét sau đáng để suy ngẫm: Những người đã nghiên cứu các ngành quyền đều nhận thấy rằng, trong một Chính Phủ mà các ngành được phân định rõ ràng, ngành tư pháp là lúc nào cũng là ngành quyền ít nguy hiểm nhất đối với những quyền tự do chính trị ghi trong hiến pháp, bởi vì ngành này có ít khả năng nhất để ngăn cản hoặc xâm hại những quyền tự do hiến định đó. Ngành hành pháp không những có quyền phân phối các vinh dự mà lại có quyền sử dụng võ lực. Ngành lập pháp không những có quyền kiểm soát tài chính mà lại còn có quyền quyết định các luật lệ chi phối sự sinh hoạt của các công dân. Ngành tư pháp thì trái lại không có quyền sử dụng võ lực hoặc có quyền kiểm soát tài chính, không có quyền quyết định tích cực nào cả. Có thể nói rằng ngành tư pháp vừa không có lực lượng lại vừa không có ý chí, mà chỉ có trí phán đoán mà thôi, và cần phải dựa trên sự trợ giúp của ngành hành pháp thì mới có thể thi hành quyết định trí phán đoán của mình.” [26, 19] Muốn công lý được tỏa sáng thì người thắp lên ánh sáng ấy và bảo vệ nó phải đủ mạnh. Điều đó cũng có nghĩa sức mạnh của Tòa án cần được nâng cao và cần được trợ giúp bởi ngành tư pháp và lập pháp. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay và với lịch sử truyền thống để lại, chưa bao giờ chúng ta có một ngành tư pháp mạnh. Để nâng cao quyền uy của Tòa án, cần có những cải thiện từ cả phía hệ thống quyền lực nhà nước, chủ động từ phía Tòa án và xây dựng hình ảnh Tòa án trong xã hội. a) Trước hết cần thay đổi tận gốc rễ quan điểm coi Tòa án cũng như Công an, kiểm sát, nhà tù chỉ là các công cụ bạo lực để bảo vệ lợi ích giai cấp đã ăn sâu vào tư duy một số lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước do cách quan niệm trước đây. Tư duy về nhà nước pháp quyền phải coi Tòa án là cơ quan được trao giữ quyền tư pháp (quyền ra các phán quyết dựa trên công lý) – một ngành tương đối độc lập so với quyền hành pháp và lập pháp như điều 2 Hiến pháp đã ghi nhận. Theo đó, Tòa án phải là thiết chế bảo vệ tính công bằng của pháp luật, ngăn ngừa sự lạm quyền của Chính Phủ và Quốc hội nếu xâm phạm thái quá đến các quyền công dân. Do đó và từ đó, xác định lại vai trò nhân văn sâu sắc của Tòa án chứ không phải vai trò công cụ của bạo lực. Chỉ khi thay đổi tận gốc quan điểm này mới có sự thay đổi về cách hành xử đối với Tòa án. Một khi Tòa án không bị can thiệp theo kiểu “bị chỉ đạo” và trở thành thiết chế giám sát quyền lực công, vị thế của Tòa án sẽ gia tăng. b) Đối với cộng đồng doanh nhân, cần xây dựng văn hóa biết tôn trọng pháp luật, sử dụng pháp luật và tin cậy Tòa án. Các quy định của pháp luật hiện hành có thể còn nhiều điểm bất cập, nhưng dù sao nó vẫn đang là quy tắc chung của mọi người. Tạo lập thói quen tôn trọng pháp luật ở chính nước nhà thì khi buôn bán, hội nhập với thế giới, giới doanh nhân mới không khỏi bỡ ngỡ bởi luật xứ người. Tìm đến với Tòa án, có thể gặp nhiều khó khăn, nhưng ít ra phương thức này cũng có nhiều cái lợi không thể tính bằng tiền. Giới Doanh nhân với bản tính khôn ngoan cần hiểu rằng Tòa án là nơi cần được tôn trọng chứ không phải là nơi sợ hãi, các thủ tục tố tụng cần phải được hiểu và sử dụng thông minh chứ không phải để lẩn tránh. Giới doanh nhân là bộ phận cấp tiến nhất trong xã hội, với bản tính năng động và dễ chuyển đổi của mình cần thoát ly khỏi ảnh hưởng truyền thống của dân tộc để đưa một cách nhìn mới về hình ảnh của Tòa án trong lòng xã hội. c) Muốn người khác tôn trọng mình, trước hết hãy làm cho mình đáng được người khác tôn trọng. Tòa án muốn nâng cao quyền uy của mình cũng cần chủ động xác lập quyền lực và hình ảnh của mình dựa trên những quy định sẵn có. Nếu so sánh giữa Tòa án Việt Nam và Tòa án Mỹ thì quả là khập khiễng, nhưng trong gian đoạn hội nhập, cả thế giới gần nhau hơn và như chung một mái nhà thì việc nhìn xem Tòa án nước bạn như thế nào cũng là điều đáng nên làm. Trong nhiều năm phát triển, Pháp viện tối cao Hoa Kỳ đã dần củng cố quyền lực và ảnh hưởng của mình. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, cũng như trong bất cứ văn bản pháp luật nào đều không nhắc tới quyền bảo hiến của Tòa án Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bằng phán quyết của cụ thể của mình trong vụ án nổi tiếng Mabury kiện Madison, Tòa án Hoa Kỳ đã dành cho mình quyền là trọng tài cuối cùng của luật pháp. Như vậy, dựa vào vỏn vẹn vài chữ được ghi nhận tại điều III, khoản 11 Hiến pháp Hoa Kỳ: “Ngành tư pháp của Hoa Kỳ sẽ được trao cho Pháp viện tối cao và những tòa án cấp dưới mà quốc hội có thể thành lập trong một số trường hợp”, thông qua hoạt động cụ thể, bằng trí phán đoán, kinh nghiệm và sức mạnh của sự lập luận chặt chẽ, Pháp viện tối cao đã dần nâng cao ảnh hưởng của cả ngành Tòa án [27, 8]. Trong việc gây dựng ảnh hưởng và quyền uy của Tòa án tại Việt Nam, Tòa án tối cao phải góp phần chủ động quan trọng và hoàn toàn có thể dành được sự chủ động đó trên những quy định của Hiến pháp 1992. Khi xem xét những tranh chấp, Tòa án tối cao cần tích cực phát huy vai trò giải thích pháp luật và bảo vệ hiến pháp. Mặc dù Hiến pháp trao quyền giải thích pháp luật cho UBTVQH và không chính thức trao quyền cho Tòa án vai trò bảo hiến, tuy nhiên điều đó không có nghĩa ngăn trở quyền này của Tòa trong những trường hợp cụ thể. Khác với giải thích pháp luật của UBTVQH với tư cách là cơ quan được ủy quyền lập pháp nên cách giải thích đó sẽ lập ra các quy tắc chung, Tòa án chỉ giải thích pháp luật trong trường hợp cụ thể của tranh chấp và cách giải thích đó không vượt ra ngoài phạm vi tranh chấp. Cũng như vậy, dựa vào quy định ngay trong bản thân Hiến pháp rằng nó là văn bản mang giá trị pháp lý cao nhất, các loại văn bản khác đều thấp hơn và có giá trị pháp lý theo một trật tự được quy định trong Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Tòa án có quyền từ chối các văn bản mà nội dung của nó mâu thuẫn với những văn bản cao hơn như Luật và Hiến pháp trong tranh chấp cụ thể mà Tòa đang xem xét. Như vậy, bằng cách giải thích pháp luật của Tòa trong trường hợp cụ thể sẽ làm mềm mại tính cứng nhắc của luật, bổ khuyết những chỗ lồi lõm mà nhà lập pháp vô tình đã tạo nên. Đồng thời bảo vệ Luật và hiến pháp, Tòa ngăn cản được sự lạm quyền từ phía các cơ quan hành pháp đối với dân chúng. Những điều này sẽ làm cho Tòa có một vị trí xứng đáng ngang hàng với cơ quan lập pháp và hành pháp. Đổi mới Tòa án hiện nay rất cần động lực của Tòa án tối cao, muốn làm và dám làm. Nâng cao uy tín của Thẩm phán Nâng cao quyền uy của Tòa án và nâng cao uy tín của Thẩm phán tuy hai mà là một. Tòa án là cái vỏ, công việc của Thẩm phán là cái ruột. Khi Thẩm phán có uy tín thì Tòa ắt có quyền uy và ngược lại, Tòa có quyền uy thì địa vị, uy tín của các Thẩm phán trong xã hội cũng được nâng cao. Trong giới hạn đề tài giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án, để nâng cao uy tín của Thẩm phán, cần có cả những động lực bên trong và sự thúc ép bên ngoài. Đó là: (i) Thay đổi cách lựa chọn, bổ nhiệm Thẩm phán hiện hành. Mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán. Có lẽ còn lâu người ta mới quên được câu nói tai tiếng của nguyên Chánh án TATC Nguyễn Văn Hiện khi phát biểu trước Quốc hội rằng “ngành Tòa án đã cố gắng, tạm gọi là vơ vét, tận dụng lực lượng đã có để bổ nhiệm cho đủ” [28, 60]. Thật sợ hãi khi Thẩm phán – những người ban phát công lý lại phải “vơ vét” nguồn để bổ nhiệm. Thực tế, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 không hề hạn chế nguồn bổ nhiệm Thẩm phán chỉ là những người trong ngành. Phải chăng vì quan điểm vị kỷ mà TANDTC đã tự giới hạn mình trong sự giới hạn đó. Mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán sang cả những luật sư giỏi, những giáo sư về luật, chuyên gia luật có uy tín ... không những khắc phục được tình trạng thiếu nguồn bổ nhiệm thẩm phán mà còn làm cho ngành Tòa án được thêm luồng sinh khí mới của những con người đã có địa vị cao trong xã hội và trình độ chuyên môn đã được công nhận ở một mức nhất định. Cần phân biệt rõ giữa ngạch Thẩm phán và Thư ký. Thư ký theo công việc tố tụng hiện nay chỉ cần những người có trình độ luật vừa phải, không nhất thiết cần phải là trình độ đại học như hiện nay. Điều đó sẽ tránh được sự lãng phí các nguồn lực xã hội đối việc sử dụng nhân lực. (ii) Nâng cao chuyên môn về luật KD – TM và hiểu biết về KD – TM của Thẩm phán và các thành viên trong HĐXX. Tranh chấp KD – TM là tranh chấp khá đặc thù. Trong một xã hội càng phát triển thì tốc độ thay đổi càng lớn. Lĩnh vực KD – TM luôn là lĩnh vực đầy biến động, các luật lệ của nó cũng liên tục phải thay đổi cho phù hợp với đời sống xã hội. Điều đó càng đúng hơn nữa đối với pháp luật về KD – TM của Việt Nam hiện nay. Tính hay thay đổi của các đạo luật không chỉ dừng ở mức thay đổi các quy định mà còn ở cả mức thay đổi tư duy pháp lý ẩn chứa đằng sau đạo luật đó. Vì thế, rất khó làm cho các Thẩm phán cấp huyện tiếp cận những đạo luật mới và hiểu nó một cách có hệ thống. Vậy để đưa những quy định mới vào áp dụng, cần thiết phải có sự đào tạo lại các Thẩm phán. “Không thầy đố mày làm nên”, việc nâng cao trình độ của các Thẩm phán không thể chỉ dựa vào nỗ lực bản thân của chính họ mà cần có sự đào tạo lại, đào tạo liên tục của TANDTC để cập nhật được những kiến thức hiện đại. Bên cạnh việc đào tạo về luật, xét xử KD – TM cũng đòi hỏi Thẩm phán hiểu biết ít nhiều về các hoạt động KD – TM trên thực tế. Trước sự bùng nổ của thị trường chứng khoán vào năm 2006, TAND thành phố Hà Nội đã phải tổ chức khóa đào tạo cho các Thẩm phán về thị trường chứng khoán. Đây là nhận thức đúng đắn về sự đào tạo nhận thức chung về KD – TM cho Thẩm phán. Đáng là kinh nghiệm cho toàn ngành học tập. Chỉ khi hiểu biết về hoạt động KD – TM, Thẩm phán mới có thể đánh giá chính xác vấn đề và hòa giải để các bên đạt được sự nhượng bộ. Các Hội thẩm nhân dân tham gia giải quyết tranh chấp KD – TM nên là những đại diện của giới Doanh Nhân do Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) bầu chọn. Cái nhìn hiểu biết của người trong nghề sẽ góp phần giúp Tòa án giải thích đúng những quy định pháp luật trong thực tế cũng như hạn chế bớt sự thô ráp của pháp luật nếu nó không phù hợp trong thực tế. (iii) Tạo ra cơ chế đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán khi xét xử Điều này đã được bàn luận rất nhiều và có cũng có rất nhiều các công trình nghiên cứu công phu về đề tài này. Luận văn không có tham vọng trình bầy một cách cặn kẽ mà chỉ nêu lên một số quan điểm cần và có thể thực hiện ngay để nâng cao sự độc lập của Thẩm phán: - Tạo một cơ chế lương bổng phù hợp. Nâng lương cho Thẩm phán cấp huyện; - Kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán cấp huyện lên 7 năm hoặc 9 năm thay vì 5 năm như hiện nay; - Hạn chế quyền lực của Chánh án trong hoạt động tố tụng; đề cao tính tự lập của các Thẩm phán khi giải quyết tranh chấp; - Bãi bỏ áp dụng nghị định 158/2007/NĐ-CP ban hành luân chuyển các Thẩm phán khỏi nơi trị nhiệm hoặc vị trí công tác. Thiết lập án lệ trong xét xử và công bố bản án rộng rãi Thiết lập án lệ trong xét xử Trong chương 2. luận văn đã trình bầy một số những vướng mắc trong thực tiễn xét xử và những quy phạm cần được giải thích khi áp dụng pháp luật. Điều đó đã gây khó khăn cho các Thẩm phán cấp huyện khi thực hiện công việc. Gặp phải trường hợp đó, TAND cấp huyện thường có công văn “xin ý kiến” TANDTC để giải quyết, và TANDTC cũng đã có những công văn nêu ý kiến về các trường hợp này. Tuy nhiên, lo sợ ảnh hưởng bởi nguyên tắc Độc lập xét xử nên các công văn của TANDTC thường ghi chú ý kiến đã đưa ra chỉ có ý nghĩa tham khảo và không lưu trong hồ sơ vụ án. Điều này không những làm vụ án bị kéo dài vì TAND cấp huyện phải mất thời gian trao đổi công văn với Tòa cấp trên mà ngay cả khi có trả lời rồi, các Thẩm phán vẫn không yên tâm khi áp dụng cách trả lời của TANDTC. Một phương án đưa ra không rõ ràng, không có giá trị ràng buộc nên mỗi Thẩm phán đều có thể tùy ý hoặc áp dụng hoặc không và vận dụng điều luật, xử lý tình huống theo cách hiểu của riêng mình. Tình trạng đó đã dẫn đến việc xét xử không được thống nhất. Những vụ việc tương tự nhau nhưng lại được giải quyết bởi các phương án hết sức khác nhau. Thực tiễn xét xử nảy sinh nhu cầu của Thẩm phán cấp huyện là cần có một phương án rõ ràng khi gặp phải những tình huống như đã nêu và phương án đó phải được công nhận để khi gặp những tình huống tương tự, họ sẽ hướng giải quyết chính xác mà không sợ mắc phải sai lầm dẫn tới bị hủy hoặc sửa án. Giới Doanh nhân thì muốn có sự đối xử công bằng trong những trường hợp tương tự nhau. Điều đó có tác dụng thống nhất trong cách ứng xử của họ, tránh xu hướng kẻ nhát thì không dám khởi kiện vì không hiểu Tòa sẽ xử như thế nào còn kẻ liều thì cứ kiện bừa với hy vọng Tòa sẽ xử thắng về phía mình. Giải pháp cho tình trạng này không phải điều quá mới mẻ trong lịch sử tố tụng trên thế giới và cả ở Việt Nam. Tại Anh, cách đây khoảng 6 thế kỷ, khi xét xử lưu động trên khắp đất nước, các Thẩm phán Hoàng gia đã làm quen với các tập quán khác nhau và những quy định khác nhau ở mỗi vùng (vì khi đó Anh tuy thống nhất một đất nước nhưng lại cát cứ phong kiến ở mỗi vùng). Mỗi khi gặp nhau ở London, họ thường thảo luận với nhau về các điểm mạnh, điểm yếu của các phương án đưa ra. Dần dà, điều này đã đưa đến kết quả là các Thẩm phán Hoàng gia Anh ngày càng đưa ra những phán quyết giống nhau trong những tình huống tương tự ở khắp mọi nơi trên đất nước. Nhờ vậy mà pháp luật trở nên thống nhất thành hệ thống Common Law như hiện hành. Sự thống nhất đó được đóng góp quan trọng bởi nguyên tắc án lệ (nguyên tắc Stare decisis). Có thể tóm tắt nguyên tắc án lệ đó là: Hai vụ việc việc có những tình tiết tương tự nhau thì sẽ được xét xử như nhau [29, 2, tr 79 - 80]. Đối với lịch sử tố tụng Việt Nam, án lệ đã từng được vận dụng: (i): Trong chương Điền Sản, Điều 397 Bộ cổ luật Hồng Đức có ghi: “ Người ông là Trần Giáp sinh được trai gái hai con, trai trưởng là Trần Ất, gái là Trần Thị Bính. Trần Ất sinh được một con gái Trần Thị Đinh, còn thơ ấu thì Trần Ất chết. Ông là Trần Giáp lập chúc thư giao phần ruộng đất hương hỏa cho Trần Thị Bính giữ. Khi Trần Thị Bính chết thì phần hương hỏa phải trả lại cho con gái Trần Ất là Trần Thị Đinh giữ.”. Điều 397 đã trích có lẽ là một vụ án cụ thể đã được phân xử còn giữa nguyên cả chi tiết cá biệt là tên thật của các đương sự. Nhà làm luật đã giữ y lại phán quyết đó ghi vào trong điều luật để cho quy định có tính cụ thể và dễ hiểu. Bên cạnh những điều luật có tính có định và mang tính trừu tượng, vì không muốn Bộ luật có tính cách quá lý thuyết nên đã xây dựng kỹ thuật lập pháp như trên. (iii) Theo quy định tại thông tư của Thủ tướng chính phủ số 442/TTg ngày 19/01/1955 có quy định: “Kinh nghiệm xét xử một số loại phạm pháp đã trở thành án lệ. Tuy nhiên, án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa phương. Đường lối xét xử không được thống nhất, rõ ràng và có nơi không được đúng. Cần phải thống nhất những án lệ ấy trong quy định chung sau đây để hướng dẫn Tòa án trừng trị một số tội phạm thông thường.” (iii) Trong các báo cáo tổng kết công tác ngành của TANDTC nêu những vụ án điển hình và rút kinh nghiệm, đưa ra phương hướng xét xử cho cả ngành [30, 57]. Mới đây TANDTC cũng đã cho công bố tuyển tập các Quyết dịnh giám đốc thẩm của HĐTP vào các năm 2003 đến 2006 [31, 58]. Những vụ án này tuy không được thừa nhận là án lệ nhưng thực tế còn có tác dụng ràng buộc hơn cả án lệ vì đã được rút kinh nghiệm. Nếu Thẩm phán nào không áp dụng chúng trong những trường hợp tương tự thì nguy cơ sẽ bị hủy án. Điều đó làm ảnh hưởng tới con đường sự nghiệp khi tái bổ nhiệm, thăng chức của Thẩm phán. Điều mà không ai muốn làm. Như vậy, án lệ không phải là điều quá xa lạ đối với lịch sử tố tụng Việt Nam. Tuy vậy, nó chưa bao giờ được ý thức để phát triển trở thành một nguyên tắc. Có nhiều quan điểm không ủng hộ cho sự phát triển án lệ thành một nguyên tắc vì lo sự tùy tiện tạo thành các quy phạm pháp luật của các Thẩm phán và sự xâm lấn của cơ quan tư pháp vào quyền lực lập pháp. Tuy nhiên, dù biện giải thế nào, công nhận Án lệ cũng là nhu cầu khách quan mà thực tiễn áp dụng pháp luật đặt ra chứ không phải dựa trên sự suy diễn chủ quan nào. Lịch sử tố tụng và thực tiễn xét xử đã và đang khẳng định điều đó. Trong giới hạn nghiên cứu, luận văn không có ý muốn tranh luận về việc công nhận hay không công nhận nguyên tắc án lệ và coi án lệ là một nguồn luật mà chỉ đề xuất việc thiết lập án lệ như là một giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc đã nêu trong chương 2. Dựa vào các quy định hiện hành, TANDTC hoàn toàn có thể làm được điều đó. Với vai trò “Hướng dẫn Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án” (K1 điều 19 Luật tổ chức TAND năm 2002), TAND tối cao hoàn toàn có thể lựa chọn để công bố những bản án mẫu mực của mình. Đó là những Bản án mà phương án đưa ra đã có tác dụng bổ sung cho sự khiếm khuyết của luật, giải thích và vận dụng pháp luật vào tình huống cụ thể mà Tòa án đã xét xử. Để cho sự công bố có hiệu lực, người công bố nên là HĐTP TANDTC. Kèm với việc đó, Viện khoa học xét xử nên có những bình luận khoa học để thấy được các quy tắc “ẩn nấp” trong phán quyết của Tòa. Điều này rất có tác dụng nâng cao nhận thức cho Thẩm phán cấp huyện, các Doanh nhân, làm họ hiểu rõ hơn về phán quyết của TANDTC đưa ra để có thể áp dụng trong trường hợp tương tự. Đối với nhà lập pháp, việc này cũng rất có ích khi xây dựng, hoàn thiện pháp luật sẽ trừu tượng và quy phạm hóa các quy tắc đã được đưa ra để trở thành QPPL. Để các Thẩm phán cấp huyện làm quen với Án lệ, TANDTC nên tự mình thực hành trước điều này. Trong các phán quyết của TANDTC hoàn toàn có thể trích dẫn, tham khảo các Án lệ trong phần Xét Thấy của bản án mà không nêu tại phần căn cứ để ra quyết định của Bản án. (Bản án hiện nay thông thường gồm ba phần: Phần nội dung vụ án, phần xét thấy nêu nhận định của Tòa án và phần quyết định nêu phán quyết mà Tòa đưa ra). Không có điều luật hiện hành nào ngăn cản cách làm như vậy. Với cách làm đó sẽ tránh được những chỉ trích cho rằng Án lệ không phải là nguồn của luật nên không được căn cứ vào đó để ra phán quyết. Học tập cách làm của Tòa án cấp trên, các Thẩm phán cấp huyện cũng sẽ làm như vậy và nguyên tắc án lệ sẽ được củng cố trên thực tế mà không cần bất cứ cuộc tranh luận nào về tính hợp hiến, hợp pháp của nó. Công bố tất cả những bản án đã xét xử một cách rộng rãi Công khai bản án là một trong những yêu cầu của nền tư pháp minh bạch. Việc công khai bản án đem lại những lợi ích sau đây: Thứ nhất, việc công bố bản án sẽ củng cố việc áp dụng thống nhất pháp luật. Trong thực tế, rất nhiều vấn đề pháp lý không chưa được rõ ràng nhưng Tòa án vẫn phải giải quyết. Và ở đây, thường có nhiều quan điểm khác nhau và các Thẩm phán có thể đưa ra những phán quyết không thống nhất. Xin trích một ví dụ trong thực tế pháp lý để minh họa, đó là việc tính lãi đối với khoản tiền do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Bản án số 08/2008/KD – TM của TAND quận Hai Bà Trưng đã xử buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn và kèm theo khoản lãi phát sinh do chậm nghĩa vụ thanh toán. Khoản lãi này được tính bằng cách lấy lãi suất cơ bản của Ngân hàng trung ương với thời gian chậm thanh toán nhân với số tiền chậm thanh toán. Tuy nhiên, cũng tại TAND quận Hai Bà Trưng, Bản án số 02/2009/DSST lại có cách tính lãi khác. Lãi chậm thanh toán được tính bởi lãi suất do Ngân hàng trung ương công bố tại thời điểm xét xử nhân với khoản tiền chậm thanh toán. Hai cách làm trên đều được cấp phúc thẩm chấp nhận. Như vậy, rõ ràng hai vụ việc khác nhau, nhưng giải pháp lại khác nhau. Việc công bố các bản án sẽ giúp các luật gia thấy được sự không thống nhất để từ đó tìm ra hướng giải quyết chung. Thứ hai, việc công bố bản án có lợi cho công tác lập pháp. Trong thực tế, khi xây dựng một quy phạm pháp luật, các nhà làm luật thường xuất phát từ một hoàn cảnh pháp lý cụ thể trong khi đó một bản án cho biết một hoàn cảnh pháp lý cụ thể và giải pháp tương ứng của Tòa án. Do vậy, việc công bố bản án cho phép nhà lập pháp biết thực trạng pháp luật của nước mình và đánh giá tính hợp lý của quy phạm ghi nhận trong bản án được công bố đối với một hoàn cảnh pháp lý cụ thể. Thứ ba, việc công bố bản án sẽ làm tăng chất lượng của các Thẩm phán, các luật gia Nó tạo cho công tác xét xử minh mạch hơn, sẽ làm giảm hiện tượng thẩm phán tùy tiện trong hoạt động tố tụng. Nó sẽ làm giảm hiện tượng một vấn đề pháp lý hôm nay được giải quyết thế này trong một bản án và ngày mai được giải quyết khác trong một bản án khác. Khi biết rằng bản án của mình sẽ được công bố, các thẩm phán sẽ thận trọng hơn, nghiêm túc hơn khi xét xử và viết án. Việc công bố bản án không chỉ góp phần vào củng cố chất lượng của Thẩm phán mà cả của học sinh, sinh viên, những người nghiên cứu pháp luật. Bản án được công bố sẽ là tài sản vô giá đối với họ. Khi được tiếp cận thường xuyên các bản án được công bố, những người này sẽ có cách nhìn và tư duy thực tiễn hơn. Họ sẽ ít bỡ ngỡ hơn khi đi vào thực tiễn. Thứ tư, việc công bố bản án rộng rãi sẽ làm người dân, doanh nhân dễ dàng tiếp cận hơn với công lý. Đã đến lúc chúng ta phải cho rằng các phán quyết của Tòa án tối cao không phải là tài sản riêng của Tòa án mà là tài sản chung của quốc gia. Tất cả mọi người dân đều có quyền được thụ hưởng những lợi ích mà tài sản đó phát sinh. Tra cứu dễ dàng các bản án sẽ làm tăng nhận thức của người dân, doanh nhân đối với pháp luật và gần gũi hơn với Tòa án. Đồng thời, họ cũng tìm ra cho mình trong những tình huống tương tự cách hành xử khôn ngoan để không phải xảy ra tranh chấp. Điều này không những làm giảm chi phí của họ khi giao dịch mà còn có thể làm giảm sức ép khối lượng công việc giải quyết tranh chấp đối với Tòa án. Thực tế ở Việt Nam, các Bản án chưa được ngành TAND công bố rộng rãi, vì thế đã không đạt được những hiệu quả đã nêu. Gần đây, trong những nỗ lực để tạo sự tiếp cận dễ dàng cho cả giới nghiên cứu và giới doanh nhân đối với phương án của Tòa, trang web của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam ( trang web sưu tầm án lệ Việt Nam ( đã đăng những bản án của một số Tòa án công khai trên mạng. Riêng ngành Tòa án, Tạp chí TAND – một tạp chí chuyên ngành của TANDTC đã thường xuyên công bố các Quyết định giám đốc thẩm của HĐTP. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa được đặt trong một chiến lược tổng lực. Ngày nay, ngành Tòa án đã được cải thiện một cách đáng kể về cơ sở vật chất. Các Tòa án quận, huyện tại địa bàn Hà Nội đã được trang bị máy tính và có nối mạng. TANDTC nên có kế hoạch xây dựng Tòa án điện tử, không những chỉ công khai các bản án mà còn công khai cả những thủ tục khởi kiện, các loại mẫu đơn, lịch xét xử để người dân, Doanh nhân có thể sử dụng các dịch vụ công một cách hữu dụng nhất và đó cũng là cách giám sát chất lượng, buộc TAND phải nâng cao hiệu quả hoạt động của mình một cách tốt nhất. KẾT LUẬN Giải quyết tranh chấp KD – TM tại Tòa án là cả quá trình kể từ khi Người khởi kiện thực hiện tốt quyền của mình bằng thủ tục khởi kiện tại Tòa và kết thúc bởi sự định đoạt của nguyên đơn, sự dàn xếp giữa các bên hoặc phán quyết bắt buộc của Tòa án. Trong sự liên quan ràng buộc và quy định lẫn nhau, quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM bị ảnh hưởng bởi nhiều các yếu tố. Có thể phân chia những yếu tố này thành hai nhóm. Nhóm yếu tố tác động bên trong quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM bao gồm: (i) Các tài liệu, chứng cứ các bên xuất trình cho Tòa án; (ii) Các quy định của Luật nội dung liên quan đến quan hệ tranh chấp; (iii) Các quy định của luật thủ tục để các bên thực hiện tố quyền và Tòa án làm việc; (iv) Năng lực, trình độ của Thẩm phán – những người giải quyết tranh chấp KD – TM. Nhóm các yếu tố tác động từ bên ngoài vào quá trình bao gồm: (i) Sự phát triển của nền KD – TM; (ii) Quan điểm của giới doanh nhân đối với việc giải quyết tranh chấp KD – TM; (iii) Sự hỗ trợ từ các cơ quan bổ trợ tư pháp và (iv) cơ sở vật chất để phục vụ cho quá trình giải quyết tranh chấp. Để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM cần phải đánh giá thực trạng của các yếu tố này và phân tích sự ảnh hưởng của chúng tác động đến quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM. Từ đó, tăng cường những ảnh hưởng tích cực, loại bỏ những cản trở tiêu cực để quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM tại Tòa án được thông suốt, mang lại sự làm việc khoa học cho Tòa án và lợi ích cho doanh nhân. Luận văn đã cố gắng nêu ra và phân tích những yếu tố ảnh hưởng cơ bản nhằm thể hiện hiệu quả thực tế giải quyết tranh chấp KD – TM đang diễn ra tại TAND cấp huyện. Những khó khăn đến từ luật thủ tục chưa phù hợp, lực cản từ truyền thống kinh doanh tại Việt Nam và trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã làm cho quá trình giải quyết tranh chấp chưa thực sự hiệu quả. Hoàn thiện các thủ tục tố tụng để đảm bảo tố quyền của doanh nhân; xây dựng văn hóa doanh nhân biết tôn trọng pháp luật và tin cậy ở Tòa án; nâng cao địa vị của Tòa án và uy tín của Thẩm phán chính là các giải pháp mà luận văn hướng tới để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Làm cho người dân, doanh nhân cảm nhận được lẽ công bằng và tình yêu công lý vừa là mục tiêu, vừa là động lực để Tòa án nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Điều này không thể đạt được ngay tức khắc mà cần có thời gian chuyển biến. Tuy nhiên, trước bối cảnh cấp tập cải cách nền tư pháp dưới sức ép của cạnh tranh kinh tế đã mang tính toàn cầu, hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM cần phải được liên tục hoàn thiện. Bởi lẽ, nếu không trông đợi được vào pháp luật bảo vệ, Doanh nhân sẽ tự tìm đến các biện pháp thô bạo bằng “luật rừng”, bằng cách “hình sự hóa” các quan hệ kinh doanh hoặc phải nín chịu sự bất công. Điều đó không có lợi cho việc xây dựng nền kinh doanh có đạo đức, cho sự ổn định của người dân và môi trường kinh doanh lành mạnh. PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KD – TM BẰNG CON ĐƯỜNG TÒA ÁN 4 1.1 Tranh chấp KD – TM và những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp KD – TM. 4 1.1.1 Khái niệm về tranh chấp KD – TM 4 1.1.2 Những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp KD – TM 6 1.2 Đặc điểm giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đường Tòa án 7 1.3 Một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án. 8 1.3.1 Nhìn từ phía Tòa án. 8 1.3.2 Nhìn từ phía các đương sự 11 1.3.3 Nhìn từ phía cộng đồng doanh nhân 13 1.4 Những yếu tố ảnh hưởng tới việc giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án 14 1.4.1 Các yếu tố tác động từ bên trong 14 1.4.2 Các yếu tố tác động bên ngoài 15 Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 20 KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TAND CẤP HUYỆN HIỆN NAY 20 2.1 Một số khó khăn khi áp dụng thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp KD – TM theo quy định hiện hành. 20 2.1.1 Về Quyền khởi kiện 20 2.1.2 Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM của Tòa án 25 2.1.3 Về chế định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời 37 2.1.4 Về cách thức xử lý bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt. 41 2.1.5 Về Nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ 46 2.1.6 Về sự tham gia của VKS vào quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. 53 2.2 Thực trạng truyền thống văn hóa và nhận thức của giới Doanh nhân Việt Nam với tố tụng Tòa án. 54 2.3 Thực trạng địa vị của Tòa án, năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cấp huyện. 58 2.3.1 Địa vị của TAND còn thiếu tính độc lập, chưa tương xứng với vai trò là nơi bảo vệ công lý. 58 2.3.2 Năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán cấp huyện về pháp luật kinh doanh – thương mại còn hạn chế. 61 2.3.3 Thiếu những quy định đảm bảo cho vị thế xét xử của Thẩm phán 66 2.3.4 Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong qúa trình giải quyết tranh chấp KD – TM không hiệu quả 72 2.3.5 Hệ lụy của những thực trạng trên tới quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM 74 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KD – TM TẠI TAND CẤP HUYỆN 77 3.1 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện. 77 3.2 Hoàn thiện thủ tục tố tụng – tạo ra quy trình hợp lý, khoa học để thúc đẩy tiến trình giải quyết tranh chấp KD – TM. 81 3.2.1 Xác định một tinh thần thống nhất cho BLTTDS 81 3.2.2 Nâng cao sự chủ động chứng minh, tranh tụng của các đương sự khi tham gia vào giải quyết tranh chấp. 82 3.2.3 Đơn giản hóa thủ tục tố tụng khi bị đơn, người liên quan không cung cấp chứng cứ hoặc có mặt theo triệu tập của Tòa án. 88 3.2.4 Xây dựng thủ tục rút gọn áp dụng cho những tranh chấp kinh doanh, thương mại đơn giản. 91 3.2.5 Hạn chế quyền kháng nghị của VKS đối với phán quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. 93 3.3 Nâng cao quyền uy của Tòa án và uy tín của Thẩm phán 94 3.3.1 Nâng cao quyền uy của Tòa án 94 3.3.2 Nâng cao uy tín của Thẩm phán 97 3.4 Thiết lập án lệ trong xét xử và công bố bản án rộng rãi 99 3.4.1 Thiết lập án lệ trong xét xử 99 3.4.2 Công bố tất cả những bản án đã xét xử một cách rộng rãi 103 KẾT LUẬN 106 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2003.doc
Tài liệu liên quan