Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Sản xuất kinh doanh tại Công ty Dệt Vải Công nghiệp Hà Nội

Mục lục Lời nói đầu Chương i lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn sxkd trong doanh nghiệp 1.1. tổng quan về vốn kinh doanh trong doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm chung về vốn SXKD của doanh nghiệp 1.1.2. Phân loại vốn SXKD của doanh nghiệp 1.1.2.1. Căn cứ vào thời gian sử dụng 1.1.2.2. Căn cứ vào công dụng kinh tế 1.1.2.3. Căn cứ vào quyền sở hữu 1.1.2.4. Căn cứ vào nguồn hình thành 1.2. Quản lý vốn sxkd của doanh nghiệp 1.2.1. Bảo toàn và phát triển vốn SXKD của doanh nghiệp

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Sản xuất kinh doanh tại Công ty Dệt Vải Công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.2.1.1. Bảo toàn và phát triển vốn cố định 1.2.1.2. Bảo toàn và phát triển vốn lưu động 1.2.2. Chi phí vốn của doanh nghiệp 1.2.2.1. Chi phí nợ vay 1.2.2.2. Chi phí lợi nhuận giữ lại 1.2.2.3. Chi phí vốn cổ phần 1.3. hiệu quả sử dụng vốn sxkd và các chỉ tiêu đánh giá 1.3.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.3.2.1. Các chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận 1.3.2.2. Các chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán 1.3.2.3. Các chỉ tiêu về cơ cấu tài chính 1.3.2.4. Các chỉ tiêu về năng lực hoạt động 1.3.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định 1.3.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 1.3.3.1. Sự phát triển của thị trường tài chính 1.3.3.2. Trình độ tổ chức và quản lý SXKD doanh của doanh nghiệp 1.3.3.3. Sự quản lý vĩ mô của nhà nước về kinh tế Chương ii Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dệt vải công nghiệp hà nội 2.1. vài nét về công ty dệt vải công nghiệp hà nội 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 2.1.2. Hoạt động sản xuất kinh doan của Công ty 2.2. Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty 2.2.1. Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của Công ty 2.2.1.1. Phân tích kết cấu nguồn vốn SXKD theo công dụng kinh tế của nguồn vốn 2.2.1.2. Phân tích kết cấu nguồn vốn SXKD theo quyền sở hữu 2.2.1.3. Phân tích kết cấu nguồn vốn SXKD theo nguồn hình thành 2.2.2. Sự biến động về vốn của công ty 2.2.2.1. Sự biến động về vốn cố định 2.2.2.2. Sự biến động về vốn lưu động 2.2.3. Chi phí vốn của Công ty 2.2.4. Tình hình khả năng thanh toán của Công ty 2.3. đánh giá chung về hiệu quả sử dụng vốn SXKD của Công ty 2.3.1. Những kết quả đạt được 2.3.2. Những hạn chế của Công ty trong hoạt động SXKD Chương III Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sxkd tại công ty dệt vải công nghiệp hà nội 3.1. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty 3.1.1. Giải pháp cho huy động vốn SXKD 3.1.1.1. Tài trợ nội sinh 3.1.1.2. Tài trợ ngoại sinh 3.1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định 3.1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động 3.1.3. Giải pháp giảm giá thành sản xuất 3.1.4. Chú trong hoạt động Marketing 3.1.5. Tổ chức tốt công tác hạnh toán kế toán 3.1.6. Lựa chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ tay nghề cao kết luận tài liệu tham khảo mở đầu Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), đất nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cáp sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Sự mạnh dạn đổi mới của Đảng đã giải phóng hàng loạt các mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mang lại nhiều thành tựu khả quan bước đầu. Mọi nguồn lực của xã hội đã được khai thác phát huy tao đà cho một nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, ổn định và năng động. Chúng ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá với yêu cầu đặt ra là từ nay đến năm 2020 cơ bản Việt Nam trở thành một nước công nghiệp. Để đảm bảo cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá diễn ra một cách thuận lợi thì một trong những vấn đề quan trọng đặt ra đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp chính là bảo toàn và phát triển nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, chỉ có luôn đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì mới đảm bảo tồn tại và thu được những hiệu quả kinh doanh mong muốn của doanh nghiệp. Tuy vậy sau hơn 15 năm đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự tận dụng, phát huy hầu hết thế lực của đất nước. Tình hình hiệu quả sử dụng vốn còn yếu kém ở một bộ phận doanh nghiệp dẫn đến chưa tạo được động lực cho sự phát triển. Nhất là hiện nay trong tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới, công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp càng đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhận thức rõ các yêu cầu, đòi hỏi, đặc biệt là sau một thời gian thực tập tại Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại Công ty Dệt Vải Công nghiệp Hà Nội”. Bài viết chủ yếu đưa ra các vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp, từ đó có các đánh giá và giải pháp kiến nghị đối với tình hình nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội. Chuyên đề ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục gồm có 3 chương. Chương I. Lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Chương II. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội. Chương III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty. Chương i Lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 1.1. tổng quan về vốn kinh doanh trong doanh nghiệp 1.1.1. khái niệm chung về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp a. Khái niệm về vốn : Tất cả các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều bắt đầu bằng việc huy động vốn. Vốn sản xuất kinh doanh quyết định đến nhiều hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp, đặc biệt là quy mô sản xuất, doanh thu, lợi nhuận … Vốn là một phạm trù kinh tế, nó gắn liền với sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế khép kín tự cung tự cấp, mọi hoạt động lao động sản xuất đều là tái sản xuất giản đơn, vốn cho hoạt động kinh tế không được trao đổi mua bán và không được coi là hàng hoá. Theo quan điểm của Marx, mọi tư bản (vốn) lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền chưa hẳn đã là tư bản, tiền chỉ biến thành tư bản khi có một số điều kiện nhất định mà ở đây là hoạt dộng của các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như vậy theo Marx, dưói góc độ kinh tế chính trị học vốn là giá trị mang lại giá trị thặng dư và vận dụng theo công thức T-H-T (tiền-hàng-tiền). Các nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển thì cho rằng vốn là hàng hoá được tạo ra nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất, là đầu vào của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Đứng trên góc độ tài chính-kế toán của doanh nghiệp hiện nay vốn chính là nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Như vậy giữa vốn và tài sản của doanh nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tài sản và nguồn vốn chính là hai tiêu thức khác nhau để phân loại tài sản trong một doanh nghiệp. Tuy vậy không thể đồng nhất vốn và tài sản của doanh nghiệp bởi vì vốn là biểu hiện bằng tiền là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ. Trong nền kinh tế thị trường người ta coi vốn như là các giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo của doanh nghiệp, hay vốn chính là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Vốn không chỉ đóng vai trò trong các quá trình sản xuất ban đầu riêng biệt, mà có thể tham ra vào mọi quá trình tái sản xuất xuất liên tục trong doanh nghiệp. Trong thời ký bao cấp ở nước ta chỉ tồn tại các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã tập thể. Vốn hoạt dộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là do nhà nước cấp hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi. Do đó tính hàng hoá của vốn đã không được chú ý đúng mức, cung cầu về vốn mang tính áp đặt một chiều từ nhà nước. Bước sang giai đoạn kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải đảm bảo tự chủ trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh, do đó phải tự chủ có chính sách huy dộng vốn với chi phí vốn nhất định. Yêu cầu đó đặt ra cho cac doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. b. Đặc trưng cơ bản của vốn trong nền kinh tế thị trường: *Trong nền kinh tế thị trường vốn được quan niệm là một loại hàng hoá, đó là hàng hoá đặc biệt. Thông qua hoạt động của thị trường tài chính và sự phát triển của công nghệ ngân hàng, sự quản lý vĩ mô của nhà nước về tài chính tiền tệ, đã diễn ra hoạt dộng luân chuyển vốn từ các cá nhân tổ chức có vốn sang các cá nhân tổ chức cần vốn nhằm đảm bảo cho các hoạt dộng kinh tế xã hội diễn ra đúng yêu cầu. Người bán dư tiền đem nhượng đi một khoản tiền để lấy một khoản lãi nhất định, giá cả mua bán chính là khoản tiền lãi đó và gọi là lợi tức cho vay. Giá cả này có thẻ được xác định từ trước như lợi tức cổ phần và cũng chứa các đặc tính rủi ro. *Vốn là biểu hiện bằng tiền đại diện cho một lượng giá trị tài sản, hay nói cách khác, vốn là nguồn hình thành tài sản. Từ những khoản tiền ban đầu như vốn chủ sở hữu, vốn pháp định, lợi nhuận giữ lại, máy móc thiết bị và cả con người nhằm đem lại khả năng sinh lời trong tương lai. Do đó nguồn vốn và tài sản được nhìn nhận theo hai góc độ khác nhau về mặt phân loại nhưng cân bằng về mặt lượng: Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn. *Vốn phải luôn luôn gắn với chủ sở hữu, bởi mỗi nguồn vốn của doanh nghiệp luôn gắn trực tiếp với lợi ích kinh tế quyền lợi và trách nhiệm của nhiều phía khác nhau. Nếu những nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp là những nguồn vốn vô chủ, hoặc không rõ ràng về chủ sở hữu sẽ gây ra lãng phí kém hiệu quả. Nguồn vốn đó gắn trực tiếp với doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy vậy quyền sở hữu vốn không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với quyền sử dụgn vốn của doanh nghiệp, song tôn trọng quyền sở hữu vốn sẽ đảm bảo khả năng huy động vốn đầu tư. *Vốn trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo có tính sinh lời, các doanh nghiệp chỉ đầu tư tiền vào hoạt dộng sản xuất kinh doanh khi đảm bảo khả năng sinh lời trong tương lai. Trong quá trình hoạt dộng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải lớn hơn điểm xuất phát, đây chính là nguyên tắc cơ bản trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu vốn bị ứ đọng tại một khâu nào đó như tiền mặt dự trữ, hàng tồn kho, nợ khó đòi… hay không đảm bảo thu hồi đầy đủ vốn sản xuất kinh doanh đều làm ảnh hưởng đến công tác bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. *Vốn có giá trị về mặt thời gian và chịu ảnh hưởng của yếu tố thời gian. Giá trị thời gian của vốn liên quan trực tiếp đến lạm phát, tăng trưởng kinh tế, sự bỏ lỡ của các cơ hội đầu tư. Do đó không nhất thiết phải tạo ra sự ổn định của đồng vốn mà cần có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với sự thay đổi của giá trị đồng tiền sự tăng trưởng kinh tế. Nói chung, thời gian càng dài thì giá trị của một đồng vốn càng giảm. *Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể huy động từ mọi nguồn lực của xã hội và biểu hiện dưới nhiều dạng vật chất khác nhau. Do yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất, doanh nghiệp không chỉ khai thác nguồn vốn chủ sở hữu mà còn vay vốn, góp vốn, liên doanh, liên kết… Vốn không chỉ là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định hữu hình (đất đai, nhà xưởng, t hiết bị…) mà còn biểu hiện dưới dạng vô hình như nhãn hiệu bản quyền, uy tín, bí quyết công nghệ, vị trí địa lý…. c. Vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường và trong doanh nghiệp : Có thể nói rằng vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh hiện nay. Đối với tầm vĩ mô của cả nền kinh tế nước ta với mức khởi điểm ban đầu quá thấp nên cần duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm. Giai đoạn 1990-2000 Việt Nam đã cần huy dộng trên 40 tỷ đô la mới có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như mong muốn. Để có thể duy trì 1% tốc độ tăng trưởng kinh tế cần phải duy trì tốc độ tăng trưởng vốn FDI ít nhất là 3%, điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của vốn đối với nền kinh tế. Đối với một doanh nghiệp, vốn cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định đến sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp. Trong sự cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn luôn phải đảm bảo một lượng vốn đủ để đáp ứng nhu cầu, khẳ năng sản xuất kinh doanh, đảm bảo điều kiện tối thiếu về kỹ thuật, lương, nguyên vật liệu. Muốn tăng năng suất và chất lượng lao động, doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới công nghệ, mẫu mã, thực hiện nghiên cứu triển khai, mở rộng hoạt dộng sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với bất cứ hoạt dộng của bất cứ doanh nghiệp nào. Ngày nay chúng ta đang bước vào kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức mà nền tảng là công nghệ thông tin và công nghệ cao. Lợi thế về giá nhân công rẻ, nguồn nguyên vật liệu dồi dào…..đang dần bị thay thế bởi tri thức chất xám. Sự thay đổi đó yêu cầu phải đầu tư một lượng vốn rất lớn vào con người và cơ sơ hạ tầng kỹ thuật. Điều này đã đặt ra cho chúng ta những thách thức về công tác sử dụng vốn trong các doanh nghiệp. Nếu muốn nguồn vốn được huy động và sử dụng hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển. Đối với toàn xã hội, vốn không chỉ dành cho tập trung phát triển kinh tế mà còn phải đảm bảo an ninh xã hội, quốcphòng-an ninh, văn hoá xã hội… đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững. Như vậy dù đối với tầm vĩ mô xã hội hay đối với từng doanh nghiệp thì cũng đều cần có vốn cho đầu tư phát triển. Huy động vốn cho đầu tư phát triển từ tích luỹ nội lực, khai thác tốt tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn đảm bảo khai thông mọi nguồn lực của xã hội, nâng cao được vai trò của vốn trong nền kinh tế và trong doanh nghiệp, duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Do vậy, nhận thức rõ vai trò của vốn trong đầu tư phát triển kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mọi doanh nghiệp và toàn xã hội. 1.1.2. Phân loại vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau trong nền kinh tế. Mối nguồn tài trợ đều có nhứng thế mạnh riêng, do đó tuỳ thuộc vào từng điều kiện hoàn cảnh mà lựa chọn nguồn tài trợ cho phù hợp. Việc xác định phân chia đúng nguồn tài trợ sẽ giúp cho doanh nghiệp đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lí với chi phí vốn tối ưu và giảm thiểu các rủi ro. Có nhiều cách để phân loại các nguồn tài trợ tuỳ vào từng tiêu thức phân loại, chủ yếu dựa vào các tiêu thức sau: 1.1.2.1. Căn cứ vào thời gian sử dụng có vốn ngắn hạn và vốn dài hạn a. Vốn ngắn hạn : Vốn ngắn hạn có thời gian đáo hạn trong vòng một năm và lãi suất vay thường thấp hơn lãi suất dài hạn do độ rủi ro thấp hơn và thời gian đầu tư ngắn hơn. Thông thường để hình thành nguồn vốn ngắn hạn các doanh nghiệp thường đi vay từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính trung gian khác… Mọi hoạt dộng như trao đổi mua bán vốn ngắn hạn được thực hiện trên thị trường tiền tệ. Giá cả trên thị trường tiền tệ là khá ổn định, ít có rủi ro, các công cụ tài trợ có tính lỏng cao và chi phí thấp. b. Vốn trung và dài hạn : Nguồn vốn này cóthời gian đáo hạn thường là trên một năm, lãi suất cho vay thường cao hơn lãi suất ngắn hạn do tính chất rủi ro của các khoản vay người đi vay phải trả thêm một chi phí cơ hội gọi là “phần bù kỳ hạn”. Thông thường các doanh nghiệp đi huy động vốn trung và dài hạn có thể đii vay nợ trung và dài hạn chủ yếu từ các ngân hàng thương mại hoặc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, ít khi huy động từ các tổ chức tài chính trung gian. Các nguồn vốn dài hạn này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Các công cụ tài trợ trung và dài hạn được trao đổi mua bán trên thị trường vốn với thời gian lưu hành dài, độ rủi ro cao, giá cả biến động phức tạp. Các quan hệ trao đổi mua bán ở đây không phải là một số lượng nhất định các khoản tiền mặt, tư liệu sản xuất mà là các quyền sơ hữu về tư liệu sản xuất và vốn bằng tiên. 1.1.2.2. Căn cứ vào công dụng kinh tế của vốn, người ta phân chia thành vốn cố định và vốn lưu động Vốn cố định : Trong quá trình sản xuất kinh doanh, biểu hiện vật chất của vốn cố định là tài sản cố định. Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu dài ( thường là trên một năm hoặc một kỳ kinh doanh ). Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản cố định bị hao mòn dần và gía trị của nó chuyển dịch nhiều lần vào chi phí sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giữ nguyên hình thái giá trị ban đầu cho đến lúc loại bỏ. Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất, có giá trị lơn, được sử dụng lâu dài cho quá trính sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp như máy móc, nhà cửa, thiết bị… Tài sản cố định vô hình là tài sản không có hình thái vật chất thể hiện một lượng giá trị có quy mô lớn đã được đầu tư chi trả nhằm đem lại lợi ích kinh tế lâu dài cho doanh nghiệp: bằng phát minh sáng chế, quyền sử dụng đất, lợi thế thương mại, vị trí địa lý… Hiện nay tài sản cố định vô hình là tài sản có giá trị >= 500.000 đồng và thời gian sử dụng trên một năm mà không hình thành tài sản cố định hữu hình. Tài sản tài chính là tài sản của doanh nghiệp được sử dụng cho đầu tư tài chính ( mua cổ phiếu, trái phiếu, cho vay…) có thời gian thu hồi vốn từ một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh trở lên. Tài sản thuê tài chính là tài sản cố định mà doanh nghiệp đi thuê dài hạn và được bên thuê giao quyền sử dụng và quản lý trong thời gian cho thuê tài sản cố định. Tiền cho thuê bao gồm các khoản trang trải chi phí đầu tư tài sản cố định và lợi nhuận. Vốn lưu động : Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cấn có một khoản vốn lưu động để đầu tư vào tư liệu lao động, đối tượng lao động… để tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Đây là khoản vốn lưu thông của doanh nghiệp đứng dưới góc độ tài sản, biểu hiện vật chất của vốn lưu động chính là tài sản lưu động. Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những tài sản sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh có thời gian sử dụng luân chuyển thu hồi trong một năm hoặc chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động có thể là tài sản lưu động trong sản xuất hoặc tài sản lưu động trong lưu thông. Tài sản lưu động trong sản xuất chủ yếu là các tài sản được dự trữ trong quá trính sản xuất ( nguyên vật liệu dự trữ, hàng tồn kho, sản phẩm dở dang …), chủ yếu là trong các doanh nghiệp sản xuất. Tài sản lưu động trong lưu thông chủ yếu là sản phẩm hàng hoá cho lưu thông hoặc vốn bằng tiền, các khoản phải thu … Ngoài ra còn có tài sản tài chính của doanh nghiệp đầu tư tài chính có thời hạn dưới một năm hoặc chu kỳ kinh doanh. Việc bố trí một cơ cấu hợp lý giữa tài sản cố định và tài sản lưu động đảm bảo cho sự an toàn thuận tiện cho quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao được các giá trị của doanh nghiệp. 1.1.2.3. Căn cứ vào quyến sở hữu đối với vốn có nợ phải trả và vốn chủ sơ hữu. Nợ phải trả : Vốn nợ được tài trợ bởi những người không phải là chủ sơ hữu của doanh nghiệp, việc mua bán trao đổi được diễn ra trên thị trường tài chính và được thoả thuận có tổ chức như một hợp đồng vay muợn mà người đi vay cam kết trả cho người cho vay. Như vậy khi huy động các công cụ nợ để hình thành vốn nợ, người đi vay phải trả lãi cho các công cụ nợ ( các khoản tiền vay). Mức lãi suất phải trả cho các khoản vay phụ thuộc mức cung cầu trên thị trường, đó chính là giá cả của vốn hàng hoá. Các mức lãi suất này thường ổn định và được thoả thuận khi vay. Các khoản vay này đều có thời hạn nhất định, hết thời hạn doanh nghiệp phải trả cả gốc và lãi hoặc được gia hạn mới nếu doanh nghiệp có nhu cầu. Khuyến khích các doanh nghiệp vay dài hạn để đầu tưvào sản xuất kinh doanh, xây dựng các nhà xưởng đòi hởi vốn lớn là điều rất cần thiết đối với doanh nghiệp. Lãi suất phải trả khi vay được tính vào chi phí hợp lệ để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu : Vốn chủ sở hữu được tài trợ bởi các chủ sở hữu doanh nghiệp thông qua việc trao đổi mua bán các cổ phiếu. Hoạt động của các cá nhân tổ chức hình thành vốn chủ sở hữu không phản ánh mỗi qua hệ giữa những người đi vay và cho vay mà là quan hệ giữa những người cùng sơ hữu trong công ty cổ phần. Khi huy động cổ phiếu sẽ không phải trả lãi vay mà phải trả lợi tức cổ phần, lợi tức cổ phần trả cho các cổ dông thay đổi theo mức lợi nhuận mà công ty thu được tuỳ thuộc vaò quyết định của hội đồng quản trị ( trừ các cổ phần ưu đãi). Các khoản tài trợ này hầu như không có thời hạn, doanh nghiệp không phải trả các khoản tiền đã huy động, trừkhi có sự giải thể, phá sản thì các tài sản được chia cho các chủ sở hữu theo các thứ tự quyền ưu tiên. Cổ tức để chi trả không được tính là chí phí hợp lí hợp lệ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp và được chi trả bằng lợi nhuận sau thuế. Việc phân chia nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành vốn nợ và vốn chủ sở hữu là cách phân chia rất cơ bản và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường, chúng có mối quan hệ đặc biệt với nhau hình thành nên cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp. 1.1.2.4. Căn cứ vào nguồn hình thành đối với vốn Vốn doanh nghiệp đầu tư từ lợi nhuận giữ lại : Kết thúc mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sau khi lập các báo cáo kết quả kinh doanh nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì phần lợi nhuận ( lợi nhuận từ hoạt dộng sản xuất kinh doanh và lợi nhuận từ các hoạt dộng khác) sẽ được phân phối nhằm mục đích tái đầu tư mở rộng năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một trong các quỹ liên quan đên tái đầu tư là Quỹ đầu tư phát triển, chủ yếu là dầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới tài sản cố định, tiến hành hoạt đọng nghiên cứu và triển khai, bổ sung vốn lưu động và cac loại hình đầu tư khác. Thông thường, lợi nhuận giữ lại đầu tư vào sản xuất kinh doanh không chịu chi phí huy động nhưng phải chịu các chi phí cơ hội, người ta thường phải sử dụng mô hình định giá tài sản- vốn ( CAPM ), chủ yếu là dựa trên các đánh giá và dự đoán tỷ lệ sinh lời không có rủi ro ( tương đương với tỷ lệ lãi suất trái phiếu kho bạc), tỷ lệ sinh lời rủi ro đối với rỏ đầu tư thị trường. Nguồn vốn này đảm bảo khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao tính chủ động của doanh nghiệp, thể hiện khả năng sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh. Vốn cổ phần : Cũng là phần vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng được hình thành từ việc phát hành cổ phiếu. Chủ sở hữu của nguồn vốn này cũng là chủ sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp khi huy động nguồn vốn này phải chi trả lợi tức cổ phần từ lợi nhuận sau thuế. Vốn tín dụng : Là các khoản vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đối với các ngân hàng, các công ty tài chính, bảo hiểm… để bổ sung vào nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn phát hành trái phiếu doanh nghiệp để đi vay trên thị trường tài chính. Khi huy động doanh nghiệp phải trả lãi các khoản vay. Vốn liên doanh liên kêt : Đây là nguồn vốn mà cac doanh nghiệp tham gia liên doanh liên kết đên góp chung. Hiện nay liên doanh liên kết là hình thức hợp tác kinh doanh phổ biến, đặc biệt là với đối tác nước ngoài. Tuy vậy còn có nhiều điều phức tạp trong quản lý, đặc biệt là các phương án phân phối lợi nhuận, do vậy cần có quy định chặt chẽ và đầy đủ giữa các bên. Nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách: Nhà nước có thể cấp vốn lần đâu hoặc cấp vốn bổ sung trong quá trình hoạt dộng. Đó có thể là cấp trực tiếp, gián tiếp, viện trợ, chuyển từ doanh nghiệp khác đến hoặc khấu hao giữ lại. Thông thường cac doanh nghiệp sử dụng vốn ngân sách nhà nước cấp là các doanh nghiệp nhà nước và hàng năm phải trả các khoản thuế vốn (thu sử dụng vốn ngân sách). 1.2. quản lý vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 1.2.1. Bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Bảo toàn là bảo đảm giá trị thực tế của vốn tại các thời điểm khác nhau tránh sự ảnh hưởng của trượt giá lạm phát. Khi nền kinh tế có lạm phát cao, đồng tiền bị trượt giá nhanh thì doanh nghiệp cần tăng số vốn ban đầu lên theo một tỷ lệ nhất định để duy trì khả năng sản xuất kinh doanh. Ngoài ra bảo toàn còn được thực hiện trong quá trình sử dụng vốn sản xuất kinh doanh như duy trì nguyên trạng tài sản cố định tránh hư hỏng, mất mát hay lãng phí…, doanh nghiệp đồng thời cũng phải duy trì khả năng sử dụng vốn của mình. Bảo toàn còn phải đi đôi với phát triển nguồn vốn, do đó doanh nghiệp cần có trách nhiệm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh đảm bảo mở rộng thị trường tăng lợi nhuận. Trong sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp phải chủ động trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh theo phương thức tự hạnh toán kinh tế. Do đó các doanh nghiệp cần phải duy trì số vốn ban đầu, tự bổ sung thêm và tận dụng có hiệu quả các nguồn viện trợ, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp cần thực hiện đầy đủ các yêu cầu nghiệp vụ theo chế độ kế toán hiện hành, luôn luôn không ngừng đổi mới năng lực sản xuất. 1.2.1.1. Bảo toàn và phát triển vốn cố định Nhà nước quy định các doanh nghiệp Nhà nước phải có trách nhiệm bảo toàn vốn cố định thuộc sở hữu nhà nước cả về hiện vật lẫn giá trị. Việc bảo toàn ở đây hoàn toàn không phải là giữ nguyên hiện trạng, giữ nguyên hình thái vật chất mà chính là bảo toàn năng lực kinh doanh vốn. Thông thường, trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, kỳ tính toán bảo toàn vốn thực hiện vào cuối năm. Việc bảo toàn vốn cố định gắn liền với việc hình thành nguồn vốn khấu hao cơ bản. Khấu hao theo phương thức nào là có lợi cho doanh nghiệp, tuy nhiên hiện nay ở nước ta mới chỉ cho phép khấu hao tuyến tính. Tăng cường khấu hao giúp cho doanh nghiệp thu hồi một lượng vốn lời đầu tư vào một tài sản cố định một cách nhanh hơn, đảm bảo đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ. Điều này rất có ý nghĩa cho sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện nay giúp cho doanh nghiệp có được những tài sản cố định mới có công suất lớn, năng suất cao đảm bảo khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm kê và đánh giá vốn cố định hiện có của doanh nghiệp, đối chiếu giữa số liệu kiểm kê và số liệu trên giấy tờ, từ đó mà tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục. Nếu tài sản cố định chưa được tính đủ cần điều chỉnh tăng tài sản cố định và tăng nguồn khấu hao tương đương, ngoài ra phần thiếu hụt khi kiểm kê cần quy trách nhiệm cụ thể và bổ sung từ các quỹ đã trích. Nếu tài sản cố định bị giảm, hư hỏng do nguyên nhân khách quan cần được yêu cầu bồi thường từ các công ty bảo hiểm hoặc xem xét giảm vốn. Ngoài ra doanh nghiệp cần thường xuyên trích từ lợi nhuận sau thuế bổ sung vào các quỹ của doanh nghiệp để đảm bảo cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh tiến hành được thuận lợi an toàn. 1.2.1.2. Bảo toàn và phát triển vốn lưu động Các doanh nghiệp cần bảo toàn và phát triển vốn lưu động trong mỗi vòng chu chuyển của hoạt dộng sản xuất kinh doanh, chủ yếu là dựa trên sự trượt giá của đồng vốn, đặc biệt là sự tăng giảm giá hàng tồn kho. Theo định ký, doanh nghiệp phải tính các khoản chênh lệch bổ sung cho sự thay đổi giá đem lại, từ đó có các kế hoạch cho phù hợp. Sau khi kiểm kê, đánh giá mà nguồn vốn lưu động giảm thì cần có chính sách bù đắp từ các quỹ dự phòng giảm giá. Ngoài công tác bảo toàn thì còn có yêu cầu bổ sung thường xuyên để phát triển nhằm đáp ứng tốt nhu cầu kinh doanh, giảm bớt hoặc hạn chế việc vay vốn lưu động trên thị trường tài chính phải chịu các khoản lãi vay ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp. 1.2.2. Chi phí vốn của doanh nghiệp Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Lợi nhuận sản xuất kinh doanh gắn liền với doanh thu và chi phí sản xuất kinh doanh. Để tăng lợi nhuận có thể tăng doanh thu hoặc giảm thiểu chi phí sản xuất. Các quyết định liên quan đến chi phí như thay thế máy móc, thiết bị nhà xưởng, vay vốn hay huy động bằng cổ phiếu… đều liên quan đến chi phí vốn của doanh nghiệp. Theo quan điểm của quan hệ tài chính doanh nghiệp, chi phí vốn là tỷ lệ sinh lời cần thiết của khoản vốn mà người chủ sở hữu yêu cầu. Thực tế chi phí vốn được đo bằng tỷ suất lợi nhuận cần thiết phải đạt trên nguồn vốn huy động để không làm thay đổi thu nhập dành cho cổ đông và cho doanh nghiệp. Thông thường tỷ lệ sinh lời cần thiết phụ thuộc vào mức độ rủi ro có thể xẩy ra khoản vốn đầu tư. Nếu mức độ rủi ro trong đầu tư càng lớn thì yêucầu sinh lời càng phải cao để bù đắp vào những thiệt hại có thể xẩy ra. Tỷ lệ sinh lời cần thiết là tỷ lệ sinh lời tối thiểu, nếu doanh nghiệp có mức độ sinh lời thấp hơn có nghĩa là phần thu nhập dành cho cổ đông đã bị giảm xuống ( không kể cổ dông có vốn cổ phần ưu đãi) tức là doanh nghiệp đã bị lỗ tính trên phần vốn huy động. Trong chi phí vốn người ta còn xem xét khái niệm tỷ suất sinh lời cơ hội đố là tỷ suất sinh lời có thể chấp nhận của nhà đầu tư khi đầu tư vào dự án khác có cùng mức rủi ro. Điều này thường được xem xét khi xác định chi phí của lợi nhuận giữ lại. 1.2.2.1. Chi phí nợ vay Chi phí nợ vay chính là lãi suất của khoản vay, được đo bằng tỷ lệ sinh lời trên vốn vay đủ để trả lãi cho nợ vay. Tuy vậy phần trả nợ vay được tính là khoản chi phí hợp lý hợp lệ và được trừ vào phần lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Có nghĩa là doanh nghiệp đã tiết kiệm được một khoản từ thuế TNDN đúng bằng thuế suất TNDN nhân với phần lãi vay phải trả. Do đó khi tính chi phí nợ vay thực tế, người ta tính chi phí nợ vay sau thuế và được sử dụng để tính chi phí bình quân gia quyền của vốn. Gọi KD là chi phí nợ vay ( lãi vay), t là thuế suất thuế TNDN thì chi phí sau thuế của nợ vay là KD(1-t). 1.2.2.2. Chi phí của lợi nhuận giữ lại Thông thường có quan niệm cho rằng lợi nhuận giữ lại khi đem tài sản đầu tư thì không chịu chi phí. Thực tế chi phí của lợi nhuận giữ lại được đo bằng chi phí cơ hội của vốn. Việc xác định chi phí cơ hội của vốn không phải lúc nào cũng tính toán được một cách chính xác. Chủ yếu là dựa vào lãi suất trái phiếu cộng với phần thưởng rủi ro, tức là so sánh chi phí của vốn cổ phần và chi phí nợ vay. Cũng có thể sử dụng mô hình định giá tài sản –vốn CAPM. Ks = KRF + (KRM_KRF) b Ks :là chi phí của lợi nhuận giữ lại KRF :là tỷ lệ sinh lời không có rủi ro, thường lấy tương đương lãi suất trái phiếu kho bạc KRM :là tỷ lệ sinh lời kỳ vọng đối với các danh mục đầu tư được đánh giá thường gắn với mức độ rủi ro. b :là chỉ số đánh giá rủi ro của lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư. Trong trường hợp đặc biệt (hiếm gặp trong thực tế) nếu tỷ lệ tăng trưởng không đổi, có thể áp dụng phương pháp luồng tiền chiết khấu: D1 Ks = ------- + g Po Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng cổ tức D1 là cổ tức mong đợi được trả vào cuối năm đ._.ầu Po là giá trị hiện tại cổ phiếu 1.2.2.3. Chi phí vốn cổ phần thường và vốn cổ phần ưu đãi Cổ phiếu thường được huy động từ các chủ sở hữu mới (cổ đông )của doanh nghiệp, phần chi trả cổ tức không được coi là chi phí sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp dùng lợi nhuận sau thuế để chi trả. Do đó, về bản chất thì vốn cổ phần thường giống như lợi nhuận giữ lại nhưng có thể chịu thêm chi phí phát hành. Nếu áp dụng mô hình không đổi, tương tự như cách tính chi phí của lợi nhuận giữ lại: D1 Kc = ---------- + g Po(1-F) F là tỷ lệ % trên giá trị phát hành. Nếu mô hình tăng trưởng là không cố định thì tuỳ từng trường hợp mà có các phương pháp tính chi phí cụ thể. Đối với vốn cổ phần ưu đãi, phần chi phí này gần như cố định theo mức độ thoả thuận: Dp Kp = -------- Pu Dp là lợi tức cổ phần ưu đãi, Pu là giá phát hành ( đã trừ đi phần chi phí phát hành) Với mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần phải thiết lập một cơ cấu vốn tối ưu nhằm đạt đến mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Khi xác định cơ cấu vốn của doanh nghiệp sẽ là chi phí bình quân gia quyền của vốn n WACC = ồWiKi t Wi là tỷ trọng nguồn vốn thứ i Ki là chi phí của nguồn vốn thứ i 1.3. Hiệu quả sử dụng vốn và các chỉ tiêu đánh giá 1.3.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn Vốn là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp tiến hành hoạt dộng sản xuất kinh doanh đảm bảo sự khởi sự của doanh nghiệp. Tuy nhiên để đảm bảo ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì cần đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh có thể được hiểu là với một lượng vốn nhất định đầu tư vào sản xuất kinh doanh phải làm sao mang lại hiệu quả cao nhất làm cho đồng vốn luôn được bảo toàn và sinh sôi nảy nở. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế nói lên việc yêu cầu sử dụng đồng vốn của doanh nghiệp được hợp lý, có nghĩalà đạt được các mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra như: nâng cao giá trị doanh nghiệp, tăng năng suất lao động , duy trì khả năng cạnh tranh, thanh toán. Mỗi doanh nghiệp có một mục tiêu hoạt dộng khác nhau nhưng đều cần đạt được hiệu quả sử dụng vốn tối ưu. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.3.2.1. Các chỉ tiêu về doanh thu và lợi nhuận Để xây dựng các chỉ tiêu về doanh thu và lợi nhuận người ta có thể xem xét cả chi phí sản xuất kinh doanh. Thông thường để đánh giá về các chỉ tiêu này, người ta thường phân tích xem để đạt được một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng chi phí hoặc từ một đồng chi phí ban đầu có thể cho bao nhiêu đồng doanh thu, đồng lợi nhuận. Các đại lượng thường được sử dụng là doanh thu, thu nhập, lợi nhuận vòng tổng vốn kinh doanh, vốn chủ sở hữu… tuỳ theo góc độ của người phân tích. Doanh thu thực hiện trong kỳ + Khả năng s.x.k.d = -------------------------------------------- Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vôn kinh doanh được sử dụng tạo ra mấy đồng doanh thu. Chủ yếu là nhằm so sánh giữa các đơn vị hoạt dộng trong một lĩnh vực hoặc giữa các kỳ với nhau, chỉ tiêu này còn thể hiện xu hướng của kết quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận ròng sau thuế + Hệ số sinh lời vốn CSH = ---------------------------------- Vốn CSH Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả thực tế của nguồn vốn CSH doanh nghiệp từ một đồng vốn CSH có thể tạo ra mấy đồng lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế + tiền lãi phải trả + Hệ số sinh lời = ------------------------------------------------ của tài sản Tổng số tải sản Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản có khả năng sinh lợi được bao nhiêu đồng, từ đo đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng tài sản. 1.3.2.2. Các chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán Không chỉ có mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận mà duy trì tốt khả năng thanh toán, giảm rủi ro cho doanh nghiệp cũng là mục tiêu rất quan trọng. Tổng tài sản lưu động + Hệ số thanh toán ngắn hạn = ------------------------------------- Nợ ngắn hạn Vốn bằng tiền + các khoản phải thu + Hệ số thanh toán nhanh = --------------------------------------------- Nợ ngắn hạn Vốn bằng tiền + Hệ số thanh toán tức thời = -------------------------------------------- Nợ ngắn hạn 1.3.2.3. Các chỉ tiêu về cơ cấu tài chính Tổng nợ phải trả + Hệ số nợ tổng tài sản = ------------------------------------------ Tổng tài sản Tổng nợ phải trả + Hệ số nợ vốn cổ phần = ------------------------------------------ Vốn CSH TSCĐ hoặc TSLĐ + Hệ số cơ cấu tài sản = --------------------------------------------- Tổng tài sản Tổng vốn CSH và Vốn nợ + Hệ số cơ cấu nguồn vốn = -------------------------------------------- Tổng nguồn vốn 1.3.2.4. Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt dộng Các khoản phải thu + Kỳ thu tiền bình quân = ----------------------------------------------- Doanh thu bình quân một ngày Doanh thu thuần + Hiệu suất sử dụng tổng TS = ----------------------------------------------- Tổng tài sản Doanh thu thuần + Hiệu suất sử dụng TSCĐ = ------------------------------------------------- TSCĐ Giá vốn hàng bán + Vòng quay hàng tồn kho = ------------------------------------------------- Hàng tồn kho 1.3.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá vốn cố định Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng có ý nghĩa quan trong đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá tình hình biến động của TSCĐ như sau: Giá trị tăng (giảm) trong kỳ + Hệ số tăng (giảm) TSCĐ = --------------------------------------------- Giá trị TS bình quân kỳ Giá trị TSCĐ mới (tăng) trong kỳ + Hệ số đổi mới TSCĐ = ---------------------------------------------------- Giá trị TSCĐ cuối kỳ Giá trị TSCĐ loại bỏ trong kỳ + Hệ số loại bỏ TSCĐ = ------------------------------------------------- Giá trị TSCĐ đầu kỳ Trong doanh nghiệp, hệ số tăng giảm TSCĐ chủ yếu phản ánh mức tăng, giảm về quy mô TSCĐ, trong khi đó hệ số đổi mới và loại bỏ ngoài việc phản ánh mức tăng giảm thuần tuý quy mô TSCĐ còn phản ánh sự ứng dụng của quá trình tiến bộ KHKT, đổi mới trang thiết bị trong doanh nghiệp. Ngoài ra còn một số chỉ tiêu để đánh giá: Doanh thu trong kỳ + Hiệu quả sử dụng TSCĐ = ------------------------------------------ Số dư TSCĐ trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh từ một đồng TSCĐ tham gia vào sản xuất kinh doanh có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ trong kỳ. Tổng lợi nhuận trong kỳ + Tỷ suất lợi nhuận = ------------------------------------------------ Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này đã phản ánh được khả năng sinh lời của vốn cố định, cứ một đồng vốn cố định thì mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Điều này là cần thiết bởi vì căn cứ vào chỉ tiêu của lợi nhuận chưa phản ánh được một cách đầy đủ. Chỉ tiêu này đánh giá lợi nhuận từ các hoạt động tài chính và các hoạt dộng khác. Tổng thu nhập trong kỳ + Hiệu quả thu nhập vốn cố định = -------------------------------------------- Vốn cố định bình quân trong kỳ Để có thể đưa ra một kế hoạch đúng đắn trong việc sử dụng TSCĐ các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải xem xét tổng hợp các loại chỉ tiêu trên và cũng phải căn cứ vào từng điều kiện, từng ngành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.2.6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vôn lưu động Vốn lưu động thường được đầu tư vào TSLĐ, đây là tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư một lượng tài sản cố định như thế nào về quy mô cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh và các mục tiêu về tối đa hoá lợi nhuận, về khả năng thanh toán của doanh nghiệp là các yêu cầu quan trọng đặt ra đối với doanh nghiệp. Một số chỉ tiêu đánh giá vôn lưu động của doanh nghiệp như sau: Doanh thu trong kỳ + Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = ------------------------------------------ Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tổng doanh thu + Số vòng quay của vốn lưu động = ------------------------------------------- Vốn lưu động bình quân Đây là một chỉ khá quan trọng phản ánh sự vận động chu chuyển không ngừng của vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ, vòng quay càng nhiều chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng tăng. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 1.3.3.1 Sự phát triển của thị trường tài chính Thị trường tài chính liên quan trực tiếp đến quá trình huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt dộng luân chuyển vốn trực tiếp từ các tổ chức cá nhân có vốn sang các tổ chức cá nhân cần vốn đảm bảo cho các hoạt dộng kinh tế hàng ngày. Mỗi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để đầu tư phát triển. Vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể được cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nước, từ nguồn vốn liên doanhll, liên kết với các doanh nghiệp khác nhưng cũng có thể từ các trung gian tài chính. Ngày nay với yêu cầu xắp xếp lại các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nâng cao tính độc lập tự chủ của các doanh nghiệp thì việc huy động sử dụng vốn trên thị trường tài chính ngày càng đong vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đên hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thông qua việc đi vay, huy động phải hoàn trả lãi và vốn, buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn đảm bảo mang lại hiệu quả cao, đầu tư vào các lĩnh vực, ngành trọng điểm. Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh luôn phải tự đổi mới máy móc trang thiết bị, nâng cao năng lực và trình độ quản lý, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Có thể điều chỉnh sự ảnh hưởng của thị trường tài chính đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua giá cả của vốn, hàng hoá trên thị trường tái chính là lãi suất áp dụng mức lãi suất cao, hay thấp tuỳ thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh trong từng thời kỳ. Chẳng hạn nếu áp dụng mức lãi suất cao buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn đầu tư vào các ngành ít vốn, sử dụng nhiều lao động, từ đó giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Cũng có thể sử dụng lãi suất thấp đảm bảo đầu tư dài hạn, đầu tư vào các ngành có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao hoặc điều chỉnh mức lãi suất thấp theo từng ngành nhằm ưu tiên các ngành công nghệ mũi nhọn, ngành công nghệ hướng về xuất khẩu như may mặc, điện tử tin học… ở nước ta hiện nay thị trường tài chính thực sự chưa phát triển, do đó việc huy động vốn để mở rộng hoạt dộng sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế, mặc dù lãi suất của ngân hàng đã liên tục giảm đối với hoạt dộng cho vay của sản xuất kinh doanh. Thị trường chứng khoán tuy đã đi vào hoạt dộng tháng 7-2000 nhưng chỉ là một thị trường nhỏ bé, hoạt động còn nhiều manh mún, còn nhiều cản trở cho các cá nhân, doanh nghiệp tham ra, do đó việc quản lý vốn cũng kém hiệu quả. Hiện nay thị trường vốn chưa thật sự hoàn chỉnh và biến động theo giá cả thị trường, còn chịu nhiều sự áp đặt của cơ quan quản lý. Nguồn tài chính trực tiếp còn chưa phát triển, các nguồn vốn chủ yếu vận động qua các trung gian tài chính. Chính điều này đã ảnh hưởng đến tình hình hiệu quả sử dụng vốn doanh nghiệp trong suốt những năm qua, việc đạt được mục đích sử dụng vốn là không dễ dàng. Hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính ở nước ta là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 1.3.3.2. Trình độ tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Trình độ tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó. Một bộ máy quản lý của doanh nghiệp có cơ cấu gọn nhẹ, phù hợp sẽ đảm bảo sự hoạt dộng nhịp nhàng hợp lý, đạt kết quả cao hơn một doanh nghiệp có bộ máy quản lý cồng kềnh. Việc tinh giảm bộ máy quản lý giúp tận dụng tối đa năng lực của đội ngũ nhân sự, lại giảm các chi phí đầu tư như tiền lương. Như vậy doanh nghiệp vừa có thể tăng năng suất lao động lại giảm được một lượng chi phí đầu vào, từ đó có thể làm tăng lợi nhuận, nâng cao được hiệu quả trên một đồng vốn đầu tư. Cơ cấu tổ chức hợp lý còn thể hiện sự cân đối giữa lao động trực tiếp và lao động gián tiếp, việc phân công đúng người đúng việc vừa giúp nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, trình độ quản lý của cán bộ điều hành, lại nâng cao được năng suất lao động từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua các chiến lược chọn hướng kinh doanh, đầu tư, mở rộng thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh. Tóm lại trình độ tổ chức quản lý kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp đên hiệu quả sử dụng vốn. Không ngừng nâng cao trình độ quản lý từ việc phát huy tối đa nguồn nhân lực và thực hiện tốt công tác quản trị nhân sự là vấn đề thiết yếu và cấp thiết với các doanh nghiệp hiện nay. 1.3.3.3. Sự quản lý vĩ mô của nhà nước về kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước vừa là người đóng vai trò điều hành, đồng thời là khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường đảm bảo các dịch vụ công cộng như bưu chính viễn thông, điện lực, xăng dầu, hàng không, giao thông vận tải… và quản lý xã hội bằng pháp luật. Cùng với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế, nhà nước cũng có những thay đổi trong chính sách quản lý doanh nghiệp. Trong nền kinh tế bao cấp Nhà nước trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như cấp vốn lưu thông, vốn cố định, ấn định quy mô sản xuất và đảm bảo bao tiêu sản phẩm. chính sự quản lý đó, các doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh chưa đạt được các chỉ tiêu đề ra, công tác bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn chưa được chú trọng. Vốn sản xuất kinh doanh bị thất thoát, lãng phí nhiều. Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, đặc biệt là các doanh nghiệp chỉ sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước, chưa chú trọng đến lợi nhuận. Bước sang cơ chế thị trường, sự quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp đã thay đổi chủ yếu ở tầm vĩ mô. ngoài các doanh nghiệp nhà nước thì các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cũng được khuyến khích phát triển. Do các doanh nghiệp phải tự chủ, độc lập trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh nên yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn góp phần khai thác tối đa tiềm năng của đất nước. CHƯƠNG II Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dệt vải công nghiệp hà nội vài nét về công ty dệt vải công nghiệp hà nội 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Qúa trình hình thành và phát triển của công ty dệt vải công nghiệp Hà nội từ khi thành lập đến nay có thể được chia ra làm ba giai đoạn . a/Giai đoạn 1: Giai đoạn tiền thân của công ty (1967-1973). Công ty dệt vải công nghiệp Hà nội ra đời từ thời kỳ chiến tranh phá hoại ở miền Bắc của Đế quốc mỹ. Công ty dệt vải công nghiệp Hà nội là một trong những đơn vị thành viên của nhà may liên hiệp dệt Nam Định . Được lệnh tháo dỡ máy móc và trang thiết bị sơ tán lên Hà Nội và mang tên “Nhà máy dệt chăn” ,xây dựng tại xã Vĩnh Tuy , huyện Thanh Trì, Hà Nội . Khi còn là xí nghiệp thành viên thì nhiệm vụ chính là tận dụng bông đay, sợi rối, phe liệu của rệt Nam Định để dệt chăn chiên . Sau khi sơ tán lên Hà Hội thì không còn nguồn phế liệu trên để làm phế liệu cho kê hoạch sản xuất , nhà máy phải thu mua phế liệu của các nhà máy khác trong địa bàn Hà Nội :như nhà máy dệt kim đông xuân, nhà máy dệt 8-3 …để thay thế và giữ vững sản xuất . Nhưng do quá trình công nghệ lạc hậu , thiết biệt máy móc lại cũ kỹ chế tạo từ thời pháp thuộc , nguyên liệu cung cấp thất thường làm cho giá thành sản xuất cao dẩn đến tình trạng nhà nước phải bù lổ thường xuyên . Cũng tại thời điểm đóTrung Quốc giúp nước ta xây dựng một dây chuyền công nghệ sản xuất vải mành làm lốp xe đạp từ sợ bông để cung cấp choNhà máy Cao su Sao vàng. Lãnh đạo cơ quan đãđề nghị Nhà núơc đầu tư dây chuyền vào hoạt động tại nhà máy, từ năm1970-1972 dây chuyền bắt đầu được lắp đặt và đưa vào sử dụng . Sản phẩm làm ra được cung cấp cho Nhà máy cao su sao vàng . Đây là sản phẩm vải mành mà nhà máy trước kia nhập Trung Quốc. Đến tháng 10-1973 nhà máy đổi tên là: “Nhà máy dệt vải công nghiệp Hà nội “. b/ Giai đoạn 2: giai đoạn tăng trưởng trong cơ chế bao cấp (1974-1988). Từ quy mô lúc đầu nhỏ bé ,tiền vốn chỉ có 473406,98 đồng ,gia trị tổng sản lượng là 108507 đồng (theo giá 1968) cán bộ công nhân viên có 174 người trong đó công nhân có 114 người ,nhà máy vừa sản xuấ , vừa đầu tư xây dựng cơ bản ,hệ thống nhà xưởng, kho tàng, đương xá, nội bộ , bổ sung thêm vốn... Đến 1988 tổng số vốn kinh doanh đã đạt 10 tỷ đồng ( theo gia 1968) tổng số cán bộ công nhân viên trong biên chế là 1079 người trong đó 986 người là công nhấn sản xuất . Về thiết bị khi lắp đặt dây chuyền sản xuất vải mành ,Trung Quốc chỉ cung cấp cho ta 2 máy dệt vải mành . Trong quá trình phát triển nhà máy đã tự trang bị tự chế thêm 6 máy dệt vải mành đưa tổng số lên 8 máy để nâng cao năng lực sản xuất , đáp ứng nhu cầu vải sợi bông làm lốp xe đạp trong nươc ,đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi. Trong giai đoạn này ,nhà máy thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh theo cơ chế bao cấp ,nhận vật tư và tiêu thụ sản phẩm của nhà máy là tương đối ổn định. Với xu hướng năm sau cao hơn năm trước, cán bộ cộng nhân viên toàn nhà máy phải làm việc hết sưc mình như tăng ca , tăng giờ làm việc để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch mà nhà nước giao. Sản phẩm làm ra đều được khách hàng ưa chuộng, mở rộng mạng lưới tiêu thụ từ Bắc vào Nam. Các sản phẩm chủ yếu đạt kỹ lục tiêu thụ cao nhât vào năm 1988 , trong đó vải mành tiêu thụ 3,308 triệu m2 vải bạt 1,2 triệu m2 vải 3024 sinh ly bông dùng may quân trang cho quân đội tiêu thụ 1,4 triệu m2. Dây chuyền sản xuất làm việc liên tục làm việc chê độ ngày ba ca . c/ Giai đoạn 3: Giai đoạn chuyển cơ chế từ 1988 đến nay. Khi cả nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường với chính sấch mở cửa của nền kinh tế mậu dịch biên giới mậu dịch mạnh mẻ. Thị trường trong nước xuất hiện những sản phẩm tưng tự như sản phẩm của nhà máy. một số khách hàng tương tự như: cục quân trang, các xí nghiệp giầy vải, các nhà máy cao su ...đi tìm mua sản phẩm tương tự, kể cả thị trường trong và ngoài nước. Mặt khác một số khách hàng củng quyết định thay đổi công nghệ mới để đáp ứng nhu cầu sản xuât kinh doanh trong cơ chế thị trường. Do đó thị trường tiêu thụ sản phẩm của nhà máy củng bị thu hẹp lại một cách đáng kể. Đứng trong tình hình đó nhà máy tìm mọi cách để cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để cạnh tranh với sản phẩm cùng loại đang xuất hiện trên thị trường. Nguyên liệu vải mành làm lốp xe đạp từ sợi bông (100% côtton) được thay thế bằng sợ pêco (35% cotton +65% PE) và tiến hành đa dạng hoá sản phẩm, dệt thêm các loại vải dân dụng như vải phim các loại6624, 60606, 5420... nhà máy chủ động tìm khách hàng mới để ký kết hợp đồng kinh tế và tìm biện pháp hạ giá thành sản phẩm, tất cả nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong giai đoạn mới,trong cơ chế quản lý mới. Với tinh thần giảm đội ngũ CBCNV, bố trí săp xếp lại lao động dư thừa , nhà máy đầu tư xây dựng một phân xưởng mayvới công xuất 5000 sản phẩm/năm, số lượng lao động còn lại giải quyết theo chế độ 176 HĐBT với tinh thần tự nguyện có sự giúp đỡ của công ty về tiên vốn để kiếm ngành nghề mới . Với những tiến triển và kết quả đã đạt được , đến tháng 7-1974 nhà máy được Bộ công nghiệp nhẹ đổi tên thành Công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội, trụ sở giao dịch hiện nay là 93 - Đường Lĩnh Nam – Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Với chức năng hoạt động đa dạng hoá , nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, công ty đã xây dựng các dự án và được uỷ ban nhà nước hợp tác đầu tư cấp giấy phép thành lập “ Xí nghiệp liên doanh với nươc ngoài” để sản xuất vải mành ni lon thay thế vải bông đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước, phù hợp với điều kiện cụ thể và xu hướng quản lý tất yếu của công ty. 2.1.2. Tổ chức bộ máy Quản lý Công ty Công ty dệt vải công nghiệp Hà nội là đơn vị trực thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam . Trong cơ chế này , công ty đuợc quyền tổ chức bộ máy quản lý trong nội bộ để phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh .Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng . Theo kiểu cơ cấu tổ chức này toàn bộ mọi hoạt động của Công ty đều chịu sự quản lý thống nhất của Giám đốc Công ty. Dưới giám đốc có hai phó giám đốc cùng với sáu trưởng phòng và hai quản đốc phân xưởng. Với mô hình cơ cấu trực tuyến này, các cán bộ quản lý có thể thi hành các quyết định một cách nhanh chóng, chính xác góp phần to lớn vào việc nâng cao năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm công ty. Sơ đồ Giám đốc Phó giám đốc KD kiêm phó giám đốc kỹ thuật Phó giám đốc sản xuất Phòng kế toán tài chính Phòng sản xuất kinh doanh Phòng hành chính tổng hợp Phòng khoa học công nghệ Phân xương sợi dệt Phân xưởng nhúng keo Phòng dịch vụ đời sống Phòng bảo vệ Phân xưởng may tổ chức bộ máy quản lý của công ty Giám đốc: là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc quản lý của công ty và là người chỉ huy cao nhất điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra giám đốc còn là người đảm bảo việc làm củng như thu nhập của CBCNV trong toàn bộ công ty theo luật lao động của nhà nước ban hành. Giúp việc cho giám đốc có hai phó giám đốc: *Phó giám đốc kinh doanh kiêm phó giám đốc kỹ thuật chịu trách nhiệm trước giám đốc về công tác kỹ thuật và vấn đề kinh doanh của công ty. +Giám đốc về kỹ thuật trong viêc ứng dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào cải tiến mẩu mã, an toàn kỹ thuật. +Phụ trách công tác đầu ra đầu vào, các vấn đề tài chính của công ty, đồng thời phụ trách các vấn đề kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. *Phó giám đốc sản xuất : Giúp giám đốc trong việc tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thành các kế hoạch được giao. Ngoài ra còn có kế toán trưởng giúp giám đốc thực hiện pháp lệnh kế toán trong công ty và các phòng ban khác. Tổ chức bộ máy quản lý nghiệp vụ gồm có: a. Phòng hành chính tổng hợp : gồm 19 người - Chức năng: tham mưu cho giám đốc về: Quản lý hành chính quản trị Tổ chức bộ máy quản lý và lao động tiền lương. - Nhiệm vụ: Nghiên cứu xây dựng hoàn thiện mô hình tổ chức công ty, đào tạo săp xếp CBCNV. Xây dựng quỹ tiền lương, định mức lao động, tổng hợp ban hành quy chế quản lý, sử dụng lao động, giải quyết các chế độ lao động theo quy chế của nhà nước. Thực hiện các nghiệp vụ lễ tân, nghiệp vụ quản trị. Thư ký giám đốc. Thực hiện các nghiệp vụ văn thư. b. Phòng sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu: gồm 19 người - Chức năng: Tổng hợp xây dựng các kế hoạch sản xuât kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản , kế hoạch xuất nhập khẩu. Chỉ đạo sản xuất, điều hoà thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch xuất nhập khẩu, cân đối toàn công ty để đảm bảo tiến độ yêu cầu của khách hàng. Thưc hiện các nghiệp vụ cung ứng vât tư và quản lý kho. Tổ chức thực hiện tiêu thụ sản phẩm. Kiểm tra, giám sát,xác nhận mức độ hoàn thành kế hoạch, quyết toán vật tư cấp phát và sản phẩm nhập kho đối với các phân xưởng. c. Phòng tài chính kê toán : gồm 8 người - Chưc năng: tham mưu cho giám đốc về. Quản lý, huy độngvà sử dụng các nguồn vốn của công ty đúng mục đích, đạt hiệu quả cao nhât. Giám sát kiểm tra công tác tài chính kế toán ở các đơn vị trực thuộc công ty. Hoạch toán bằng tiền mặt mọi hoạt động của công ty. - Nhiệm vụ: Xây dựng kế hoạch tài chính,tổ chức thực hiện các nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Theo dỏi, giám sát thực hiện các hợp đồng kinh tế về mặt tài chính, theo dõi đốc thu hồi. Quản lý nghiệp vụ hoạch toán kế toán trong công ty. Chủ trì công tác kiểm kê trong công ty theo định kỳ quy định. Xây dựng quản ly, giám sát bán giá thành phẩm. d. Phòng khoa học công nghệ: gồm 10 người -Chức năng: Xây dựng chiến lược sản phẩm của công ty. Quản lý các hoạt động kỹ thuật của công ty. Tiêp nhân, phân tích các thông tin khoa học kinh tế mới. Xây dựng quản lý các quy trình, quy phạm tiêu chuẩn kỹ thuật ,chất lượng sản phẩm, định mưc kỹ thuật. Tiến hành nghiên cứu chế thử sản phẩm mới. Tổ chức quản lý, đánh giá các sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong công ty. Tổ chức kiêm tra , xác định trình độ tay nghề cho công nhân. Kiểm tra quản lý mức kỹ thuật , quản lý hồ sơ kỹ thuật của công ty. e. Phòng dịch vụ đời sống: gồm 36 người - Chức năng: Nuôi dạy các cháu nhà trẻ mẩu giáo. Khám chửa bệnh. Tổ chức các bửa ăn công nghiệp. Các hoạt động dịch vụ khác. - Nhiệm vụ. Tổ chức nuôi dạy các cháu lứa tuổi nhà trẻ mẩu giáo. Tổ chức bửa ăn giửa ca, bồi dưởng độc hại cho người lao động, phục vụ cơm khách hội nghị khi có yêu cầu. Khám chửa bệnh cho người lao động và các chau nhà trẻ trong công ty. Theo dõi bệnh nghề nghiệp. Chỉ đạo công tác vệ sinh môi trường. Thực hiện chỉ đạo công tác dân số kế hoạch hoá gia đình. Sửa chữa nhỏ và các dịch vụ khác. g. Phòng bảo vệ: gồm 20 người Chịu trách nhiệm trước giám đốc về tài sản của công ty như vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị, nhà xưởng để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế hiện nay, lực lượng bảo vệ giư vai trò gương mẩu trong mạng lưới của công ty, bảo vệ tài sản của công ty, không để mất mát hư hỏng. Nếu thấy có trường hợp nghi vấn phải báo ngay cho giám đốc để có biện pháp sử lý kịp thời. Háng năm cán bộ phòng bảo vệđược đi tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ bảo vệ tài sản cũng như bảo vệ an ninh chính trị của đơn vị. h. Phân xưởng dệt: Là phân xưởng chính của công ty chịu trách nhiệm sản xuất các loại vải mà công ty ký kết hợp đồng với khách hàng trong kỳ. Phân xưởng vừa nhận nguyên liệu gia công cho khách hàng vừa sản xuât khép kín. Sơ đồ về quy trình công nghệ sản xuất ra sản phẩm dệt Đóng gói Nhập kho thành phẩm Kho nguyên liệu Tổ đậu Tổ xe Tổ ống, suốt Tổ lờ Tổ dồn Tổ go Tổ dệt KCS kỹ thuật Tiêu thụ Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty là quá trình sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục , loại hình sản xuất với lượng lớn, chu ký sản xuất ngắn và xen kẻ liên tục. Nguyên vật liệu chính là sợi đơn nhập về tứ kho nguyên liệu theo từng chủng loại sợi mà phòng khoa học công nghệ yêu cầu cho từng mã hàng. Sau đó đưa vào ghép sợi( qua máy điện) tuỳ theo yêu cầu. i. Phân xưởng nhúng keo: Là phân xưởng chịu trách nhiệm nhúng keo tự động cho vẩi mành. Vải mành sau khi nhung keo sẽ được bán cho các công ty chuyên sản xuất lốp xe đạp và ôtô. Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất phân xưởng nhúng keo Vải mộc Máy tở vải Máy may đầu tấm Máy lôi vải trước Máy nhúng keo Khu sấy trước Khu sấy sau Tổ kéo dãn số 1 Khu kéo dãn Tổ kéo dãn sô 2 Khu định hình Khu làm lạnh Tổ kéo dãn số 3 Giá tồn vải sau Máy lôi vải sau Máy cuộn vải Đóng gói Nhập kho thành phẩm Máy lôi vải giữa Giá tốn vải trước k. Phân xưởng may: Là phân xưởng mới thành lập, khi chuyển sang cơ chế thị trường phân xưởng chịu trách nhiệm gia công sản phẩm may mặc cho các tổ chức cá nhân có yêu cầu, nguyên vật liệu do các khách hàng đưa đến, phân xưởng chịu trách nhiệm gia công. Sơ đồ công nghệ phân xưởng may Tổ cắt Tổ may Nhóm là Nhóm KCS Nhập kho Đóng kiện l/Phân xưởng xản xuất vải không dệt. Phân xưởng sản xuất vải không dệt được lắp đặt vào tháng 4 năm 2002. Đây là một công nghệ mới, sản xuất ra vải trực tiếp từ sơ không qua công đoạn dệt. Vải không dệt này dùng để sản xuất ra nhiều mặt hàng khác nhau như: lót giày, thảm trải nhà… Sơ đồ công nghệ phân xưởng vải không dệt Máy sé trộn sơ bộ Sơ Máy sé trộn lại Máy sé mịn Máy trải tạo màng sơ Máy kéo dãn Máy xuyên kim 1 Máy xếp lớp Máy quận cắt đóng gói Máy xuyên kim 2 Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh Công ty có 4 Phân xưởng thành viên: Phân xưởng vải Bạt, Phân xưởng vải Mành, Phân xưởng May, Phân xưởng Vải không dệt mới lắp đặt gần đây. Mỗi phân xưởng có quy trính sản xuất khác nhau, nên việc sản xuất sản phẩm khác nhau, ở phân xưởng thành viên bộ máy tổ chức bao gồm: 1 phó giám đốc công ty kiêm phó giám đốc phân xưởng phụ trách chung, 1 phó giám đốc phân xưởng phụ trách công tác lao động tiền lứơng và hạch toán, 1 phó giám đốc phân xưởng phụ trách công tác kỹ thuật. Nhân viên phân xưởng bao gồm các kế toán thống kê làm nhiệm vụ ghi chép số liệu ban đầu và báo cáo lên các bộ phận có liên quan như: Phòng TCKT, SXKD, KTĐT…. Định kỳ hàng tuần (thứ hai) các giám đốc phân xưởng họp giao ban cùng lãnh đạo Công ty và các bộ phận phòng ban của Công ty báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh. Thông qua mọi hoạt dộng của phân xưởng thành viên, Giám đốc Công ty cùng các phòng chức năng chỉ đạo sản xuất xuống từng phân xưởng. 2.1.5. Các sản phẩm chính của Công ty Về sản phẩm chính của Công ty đó là các loại vải mành, vải bạt và các loại vải mộc (không qua tẩy nhuộm), sợi xe các loại và sản phẩm may, những sản phẩm này được sử dụng rộng rãi cho nhiều ngành công nghiệp trong nước và ngoài nước. Vải mành Được dùng làm nguyên liệu trong sản xuất lốp ô tô, xe máy, xe đạp, dây đai thang, khách hàng chủ yếu là các công ty cao su như: Công ty cao su Miềm Nam, Cao su Hải Phòng, Cao su Sao Vàng, Cao su Đà Nẵng, Cao su Biên Hoà…. Vải bạt các loại Với kích cỡ, khổ vải, dày mỏng khác nhau được các khách hàng, các nhà sản xuất dùng làm dầy vải các loại, ống dẫn nước, băng tải loại nhỏ, găng tay BHLĐ, vải bọc bia, vải may quần áo BHLĐ…. Khách hàng chủ yếu là các công ty như : Công ty giầy Thăng Long, Giầy Thuỵ Khuê, Giầy Thượng Đình, Giầy Hiệp Hưng, Giầy Cần Thơ… và các cơ sở sản xuất bia tiêu thụ mạnh. c. Sợi xe các loại Dùng làm chỉ khâu công nghiệp, khách hàng là các công ty xi măng dùng để khâu bao xi măng. Ngoài ra còn xe sợi cho các công tynhư : Công ty dệt lụa Nam Định, Dệt Hà Nội… để dệt các loại vải dầy. Hàng may Chủ yếu may gia công cho nước ngoài như thị trường EU, ngoài ra ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0169.doc
Tài liệu liên quan