Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí

lời nói đầu Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình CNH -HĐH, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế nước ta những năm đổi mới, mở cửa đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Việt Nam hiện đang là thành viên của ASEAN, APEC, đã ký hiệp định thương mại Việt-Mỹ, không bao lâu nữa sẽ gia nhập AFTA (2006) và sẽ trở thành thành viên chính thức của WTO trong tương lai. Thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo hiệp định CEPT, Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế 4230 mặt hàng. Do đ

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó, trong điều kiện mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực thì thách thức phải đối đầu với cạnh tranh, hội nhập quốc tế sẽ ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh có nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và sự tăng trưởng kinh tế của đất nước nói chung. Yêu cầu này đặt ra không chỉ đối với các doanh nghiệp tham ra vào thị trường thế giới, mà ngay cả đối với các doanh nghiệp chỉ sản xuất hàng hoá cho thị trường nội địa vì tính chất giao lưu quốc tế hiện nay không còn thuần tuý ở phạm vi ngoài biên giới. Điều này cũng không làm ngoài phạm vi của Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí - một doanh nghiệp Nhà nước, để tồn tại và phát triển trong xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, trong quá trình thực tập và tìm hiểu tại Công ty em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí” làm đề tài nghiên cứu của mình. Nội dung của luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết thúc còn gồm có: Chương I: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chương II: Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh của Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí trong vài năm gần đây. Chương III Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí. Do điều kiện thời gian có hạn và khả năng tổng hợp đánh giá còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - GS.TS Nguyễn Thành Độ; cùng các Cô Chú, các Anh Chị cán bộ công nhân viên Phòng Kế hoạch tổng hợp và Phòng Tổ chức hành chính của Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Chương I : một số vấn đề Lý luận về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp I. Khái luận về cạnh tranh 1.Bản chất của cạnh tranh trong kinh doanh Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh song nhìn chung cạnh tranh được hiểu là sự chạy đua hay ganh đua của các thành viên của một thị trường hàng hoá, sản phẩm cụ thể nhằm lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trường và thị phần của một thị trường. Như vậy, về phương diện kinh tế cạnh tranh được hình thành trên cơ sở tiền đề là: có sự hiện diện của các thành viên thương trường, có cuộc chạy đua mục tiêu kinh tế giữa các thành viên và chúng đều diễn ra trên một thị trường cụ thể. Khi nhận dạng tính chất và mức độ biểu hiện của cạnh tranh trong các hình thái thị trường cho thấy tầm quan trọng của việc nhận dạng và xác lập được các tiêu chí phân loại hình thái thị trường để đánh giá tính chất và mức độ biểu hiện của cạnh tranh theo hình thái: - Căn cứ vào mức độ can thiệp của công quyền vào đời sống kinh tế, người ta phân chia thị trường thành hai hình thái cạnh tranh: cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết, Nhà nước nào cũng có chính sách kinh tế riêng và vì thế luôn tìm các hướng các hoạt động kinh tế (vĩ mô) của mình. - Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp mức độ tập trung trong một ngành, một lĩnh vực kinh tế, người ta phân thị trường thành các hình thái: cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo mà biểu hiện cực đoan nhất của nó là độc quyền. Ngày nay, trên thực tế cũng không có thể có cạnh tranh hoàn hảo năng lực thực tế, điều kiện chủ quan và kể cả các “cơ may” của các doanh nghiệp không thể đồng nhất. - Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh người ta phân nhóm các hành vi cạnh tranh trên các hình thái thị trường gồm hai loại: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, vì được bảo hộ bởi nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh, tự do khế ước và tự do lập hội và sự giục dã của lợi nhuận, nên thực trạng của thương trường luôn diễn ra theo hướng không lành mạnh. Đây chính là một trong những tiền đề để pháp luật cạnh tranh ra đời. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế cạnh tranh: Kinh tế học định nghĩa cạnh tranh là sự tranh giành thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Như vậy đã là kinh tế thị trường thì đương nhiên có cạnh tranh, và cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành khách hàng (thị phần) thì chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trường. Vì cạnh tranh là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường và để đạt được mục tiêu lợi nhuận, những người tham gia thị trường phải thông qua sự cạnh tranh lẫn nhau, nên từ lâu vấn đề cạnh tranh đã là một những nội dung quan trọng của các môn khoa học về kinh tế và đối tượng điều chỉnh của luật pháp. Tuy nhiên, cạnh tranh thị trường không phải bao giờ cũng trôi chảy. Những mặt trái của nó được khái quát lại trong thuật ngữ “thất bại thị trường’’, với một trong những biểu hiện rõ rệt nhất là những cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ. Ngoài ra, theo như sự phân tích của kinh tế chính trị Mac xit, cuộc cạnh tranh trong điều kiện của kinh tế thị trường TBCN còn mang tính “mù quáng và tàn bạo”theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé” với biết bao nhiêu những hậu quả kinh tế và xã hội đổ xuống đầu các giai cấp cần lao. Ngày nay sau biết bao biến cố thăng trầm qua nhiều thế kỷ của hệ thống kinh tế thị trường TBCN và cả qua sự đổ vỡ của kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong hệ thống XHCN từng tồn tại gần một thế kỷ, người ta đã có cơ sở nhận định chung quanh vấn đề cạnh tranh là: Trên thực tế, không có một thị trường nào ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo hoặc hoàn toàn độc quyền. Mọi nền kinh tế thị trường đều có trạng thái cạnh tranh không hoàn hảo, ở đâu đó giữa hai cực này cả hai lực lượng độc quyền và cạnh tranh kết hợp với nhau trong việc xác định phần lớn giá cả.Vì vậy, việc xác định một nền kinh tế là có tính cạnh tranh hay độc quyền trở nên có ý nghĩa tương đối. Tuy nhiên, cũng không phải vì tương đối và sự phức tạp của vấn đề mà không thể phân biệt được một cách rạch ròi giữa tình trạng độc quyền và tính cạnh tranh. Về nguyên tắc, người ta có thể coi một nền kinh tế có nhiều yếu tố cản trở sự cạnh tranh là một nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh, và ngược lại. 2. Các loại hình cạnh tranh Cạnh tranh có nhiều hình thái khác nhau tuỳ theo góc độ xem xét, ở đây có ba góc độ. 2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia cạnh tranh ta có thể chia cạnh tranh thành ba loại Cạnh tranh giữa người bán và người mua. Cạnh tranh giữa người mua và người mua. Cạnh tranh giữa người bán và người bán. Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Có thể hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là một sự mặc cả theo quy luật mua rẻ, bán đắt. Cả hai bên đều muốn đạt tối đa lợi ích của mình. Người bán muốn bán với giá cao nhất để tối đa hoá lợi nhuận, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất để tối đa hoá lợi ích của mình nhưng chất lượng phải đảm bảo. Và mức giá cuối cùng vẫn là mức giá thoả thuận giữa hai bên. Cạnh tranh giữa người mua với người mua: Xảy ra khi thị trường mức cung nhỏ hơn mức câù. Lúc này hàng hoá trên thị trường khan hiếm, người mua sẵn sàng mua với giá cao. Mức độ cạnh tranh giữa người mua trở nên gay gắt hơn, giá cả hàng hoá sẽ tăng lên và kết quả là những người bán sẽ thu được mức lợi nhuận lớn trong khi đó những người mua tự làm hại chính mình. Cạnh tranh giữa người bán với người bán: Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Các doanh nghiệp phải luôn đua nhau, loại trừ lẫn nhau để giành cho những ưu thế về thị trường và khách hàng nhằm mục tiêu tồn tại và phát triển. 2.2. Căn cứ vào phạm vi kinh tế Có 2 loại hình cạnh tranh là: Cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh ngoài ngành. Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường chung cho sản phẩm đó trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá, dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, thị trường về một loại sản phẩm thực sự bị chia sẻ rõ rệt, bởi thế cạnh tranh diễn ra khốc liệt có thể dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Trong một ngành nếu như các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có quy mô và thế lực ngang nhau thì sự cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên khốc liệt hơn. Bên cạnh đó, sự có mặt của các sản phẩm thay thế một mặt góp phần đa dạng hoá thị trường sản phẩm, mặt khác nó đặt ra thách thức mới cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh. Các vấn đề xoay quanh cạnh tranh trong nội bộ ngành luôn là những vấn đề bức xúc của doanh nghiệp. Hiểu được môi trường ngành sẽ giúp doanh nghiệp biết về đối thủ cạnh tranh, về bạn hàng và đặc biệt về chính mình để từ đó các chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh phù hợp. Như vậy, cạnh tranh trong nội bộ ngành chính là động cơ cho sự phát triển tiến bộ kỹ thuật. Không có sự cạnh tranh nội bộ thì không có những phát minh, sáng kiến, cải tiến và như thế bản thân ngành đó cũng như toàn bộ nền kinh tế bị trì trệ. Nói cách khác muốn có sự phát triển phải nâng cao khả năng cạnh tranh trong nội bộ ngành. Cạnh tranh ngoài ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh các doanh nghiệp của một ngành với ngành khác nhằm giành lợi nhuận cao và tìm kiếm nơi đầu tư có lợi. Do đó, giữa các ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và các điều kiện khác nhau như: nhu cầu, tâm lý, tính chất quan trọng hay không quan trọng khác nhau nên cùng một lượng vốn đầu tư vào ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều người sản xuất kinh doanh ở những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển dịch nguồn lực sang sản xuất tại những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, đó chính là biện pháp để thực hiện cạnh tranh giữa các ngành. 2.3. Căn cứ vào tính chất và mức độ của cạnh tranh Theo tiêu thức này, cạnh tranh được chia thành hai loại: cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Cạnh tranh hoàn hảo: Tất cả hàng hoá dịch vụ đều được định giá và được mua bán trên thị trường. Điều đó có ý nghĩa là không một hãng hay người tiêu dùng nào đủ lớn để tác động tới giá cả thị trường. Do đó ta có thể thấy được cạnh tranh hoàn hảo tồn tại với hai điều kiện là: - Một là, tất cả các kinh doanh trong ngành có quy mô nhỏ. - Hai là, số lượng kinh doanh trong ngành rất nhiều. Theo điều kiện này giá cả thị trường được quyết định thông qua quan hệ cung cầu. Người mua, người bán phải chấp nhận mức giá này. Tham gia vào thị trường cạnh tranh hoàn hảo, tất cả người mua và người bán đều có đầy đủ các thông tin liên quan đến việc trao đổi như: đặc trưng các mặt hàng trao đổi, chất lượng, số lượng, giá cả trên thị trường. Cạnh tranh hoàn hảo là sự tự do gia nhập thị trường, không có gì cản trở sự gia nhập và rút khỏi thị trường với mức giá do thị trường qui định. Vấn đề dặt ra cho mỗi doanh nghiệp là làm thế nào giảm chi phí sản xuất và hạ giá thành tới mức có thể thu được lợi nhuận tối đa. Cạnh tranh không hoàn hảo: Đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trên thị trường mà ở đó các cá nhân bán hàng hay các doanh nghiệp sản xuất có đủ mạnh để có thể chi phối được giá cả các sản phẩm của mình. Cạnh tranh không hoàn hảo làm cho giá bán cao hơn chi phí và mức tiêu thụ của người tiêu dùng giảm dưới mức hiệu quả. Hình thái quá cao, số lượng quá ít là tiêu biểu của tính phi hiệu quả đi cùng với cạnh tranh không hoàn hảo. Trên thực tế phần lớn các ngành hàng đều có những điểm cạnh tranh không hoàn hảo. Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: cạnh tranh độc quyền và độc quyền tập đoàn. - Cạnh tranh độc quyền: là hình thức cạnh tranh mà khi đó những người bán có thể ảnh hưởng ít nhiều đến những người mua bằng sự khác nhau của những sản phẩm mà mình sản xuất ra về mặt hình dáng, kích thước, chất lượng, nhãn mác. Sự khác nhau này cũng có thể do người tiêu dùng nghĩ ra và có thể đúng hoặc không đúng và họ có thể trả giá cao hơn cho sản phẩm mà mình thích và được cho là tốt nhất. Như vậy trong nhiều trường hợp người bán có thể bắt buộc người mua chấp nhận giá sản phẩm do họ định ra. Thị trường cạnh tranh độc quyền có hai loại đặc trưng cơ bản đó là: Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán các sản phẩm phân biệt có mức độ thay thế cao nhưng không phải thay thế hoàn hảo, có sự gia nhập và rút khỏi thị trường. - Độc quyền tập đoàn (độc quyền theo nhóm): Nó chỉ tồn tại trong một số ngành sản xuất mà ở đó chỉ có ít một số người sản xuất. Lúc này sự cạnh tranh sẽ xảy ra giữa một lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy, mọi doanh nghiệp đều nhận thức được rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường. Một sự thay đổi về giá của một doanh nghiệp cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng đến nhu cầu đối với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Những doanh nghiệp tham gia thị trường này thường là những người có tiềm lực kinh tế mạnh, vốn đầu tư lớn và do vậy sự thâm nhập vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh thường là rất khó. 3.Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Nói tới cạnh tranh là nói tới thị trường, ngược lại nói đến thị trường là nói tới cạnh tranh, thị trường mà không có cạnh tranh thì không còn là thị trường nữa. Mặt tích cực của thị trường cũng là mặt tích cực của cạnh tranh. Mặt tiêu cực của thị trường, tồn tại theo quan niệm của nhiều người, cũng là mặt tiêu cực của cạnh tranh. ý đồ tạo lập thị trường không có cạnh tranh, "thị trường có tổ chức’’ đã sụp đổ hoàn toàn vì nó không tạo ra được cơ chế phân phối tối ưu các nguồn lực của xã hội.Triệt tiêu cạnh tranh là làm mất tính năng động, sáng tạo của mỗi con người cũng như của toàn xã hội, nền sản xuất xã hội không còn có hiệu quả - nguồn gốc của việc nâng cao đời sống nhân dân.Thực tiễn cho thấy, cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, là động lực sự phát triển kinh tế điều này được thể hiện cụ thể như sau: -Thông qua quy luật cung cầu, cạnh tranh có khả năng nhanh nhạy trong việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, bằng phương thức cạnh tranh qua giá mà nhờ đó, giá cả của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được cải thiện theo hướng có lợi cho khách hàng và người tiêu dùng. ở trạng thái cạnh tranh (hoàn hảo), nền kinh tế sẽ đạt hiệu quả thấp, tức là nếu không có cạnh tranh nền kinh tế sẽ nằm ở bên dưới đường giới hạn khả năng sản xuất.Trong tình trạng như vậy, một bộ phận nguồn lực sẽ không gây ra sự lãng phí xét trên phương diện tổng thể nền kinh tế xã hội. Mặt khác, vì cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày càng nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản xuất công nghiệp và dịch vụ phải cải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao với giá thành ngày càng hạ. Vì vậy, cạnh tranh là cơ hội bắt buộc các doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật. Như vậy, cạnh tranh cũng là nguồn gốc, động lực để phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao. - Trong điều kiện của cơ chế thị trường có mức độ của cạnh tranh đã trở nên gay gắt thì các doanh nghiệp vì sự tồn tại của mình luôn phải toan tính để vượt lên trên các đối thủ của mình. Điều đó có nghĩa là, cạnh tranh có khả năng tạo ra sức ép để chống trì trệ, khắc phục suy thoái và buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả. - Môi trường cạnh tranh là môi trường mà ở đó, các doanh nghiệp luôn phải vận động, đổi mới, cải tiến không chỉ công nghệ mà cả chủng loại, kiểu dáng, phương thức kinh doanh. Theo cách đó, cạnh tranh tạo ra sự đổi mới liên tục và động lực phát triển liên tục. Vì thế, trong cơ chế thị trường hiện đại, Nhà nước có nhiệm vụ và chức năng phát hiện, thừa nhận, bảo vệ và khuyến khích những khả năng và thuộc tính tốt đẹp trên đây của cạnh tranh. II. Quan niệm về khả năng cạnh tranh 1.Khái niệm về khả năng cạnh tranh Cho đến nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, của một ngành cũng như của một quốc gia. Xin đưa ra đây một số thí dụ: - Fafchamp cho rằng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm tương tự sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn (Peter. G.II: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, Dartmouch, 1995, trang 343). - Randall lại cho rằng, khả năng cạnh tranh là khả năng giành được thị phần và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định. - Dunning lập luận rằng khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó. - Theo định nghĩa của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới) thì khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đặc trưng kinh tế khác. - Một quan niệm khác cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghệ có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời duy trì mức thu nhập thực tế của mình. Qua đây có thể thấy rằng các quan niệm nêu trên xuất phát từ các góc độ khác nhau nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh: Chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Theo em khả năng cạnh tranh có thể được hiểu là năng lực giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao. Quan niệm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, một ngành cũng như đối với một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới hay khu vực. 2. Lợi thế cạnh tranh, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp 2.1. Lợi thế cạnh tranh Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những yếu tố, những điều kiện thuận lợi tạo nên sự thành công trong doanh nghiệp. Những vũ khí mạnh mẽ của lợi thế cạnh tranh là sự khác biệt hoá, chi phí thấp, phản ứng nhanh. Nếu một doanh nghiệp đã nghiên cứu và lựa chọn được thị trường mục tiêu của mình, và nếu nó là doanh nghiệp duy nhất phục vụ cho thị trường đó thì nó chắc chắn có tính một giá đem đến lợi nhuận hợp lý. Nếu nó tính giá quá cao và hàng rào nhập khẩu không cao thì các đối thủ cạnh tranh sẽ nhảy vào và làm cho giá hạ xuống. Nếu có một số doanh nghiệp theo đuổi cùng một thị trường mục tiêu và các sản phẩm của họ không có gì khác biệt thì hầu hết người mua mua hàng với giá rẻ nhất. Các doanh nghiệp khác buộc phải giảm giá của mình. Đối với doanh nghiệp phương án tạo đặc điểm khác biệt cho sản phẩm của mình khác so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh sẽ tạo ra một ưu thế của sản phẩm mình trên thị trường. Có thể một khác biệt về mẫu mã, kiểu cách hay chất lượng đều có thể tạo ra sự thích thú hay đúng đắn hơn là hấp dẫn người tiêu dùng cho dù giá có hơn một chút. Và cũng có thể các doanh nghiệp chiếm được lợi thế cạnh tranh bằng việc giảm chi phí thấp nhất các yếu tố đầu vào chẳng hạn như chi phí đầu vào giảm do sản xuất tại địa phương, tránh được thuế nhập khẩu bởi sản xuất trong nước, giảm sự trùng lặp của tồn kho mà điều này thường có trong nhà máy cùng sản xuất một loại sản phẩm... Một điều ta cần phải hiểu rằng, những nhà cạnh tranh tốt nhất không chỉ tập trung vào một dạng lợi thế cạnh tranh mà là chú ý theo đuổi sự vượt trội trên nhiều phương diện. Lợi thế cạnh tranh của sự phản ánh nhanh có thể được tạo ra bởi các yếu tố chiến lược đa địa phương như: liên doanh với các đơn vị kinh doanh địa phương tạo ra sự khởi xướng nhanh hơn do các đối tác địa phương hiểu rõ tình hình trong nước, cũng có thể nỗ lực hợp tác tập trung mang những nguồn lực to lớn của doanh nghiệp để giải quyết những vấn đề của việc thiết lập những hoạt động tại thị trường mới. Như vậy, mỗi một doanh nghiệp đều phải tạo ra được lợi thế cạnh tranh cho riêng mình, và có như thế mới đứng vững được trên thị trường. 2.2. Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp Vị thế cạnh tranh của một doanh nghiệp so với đối thủ được thể hiện thông qua thị phần và năng lực đặc biệt riêng có của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn, Công ty càng mạnh - xét ở vị thế cạnh tranh. Với thị phần lớn doanh nghiệp có điều kiện giảm chi phí do đạt hiệu ứng của đường cong kinh nghiệm và tạo được sự trung thành với khách hàng. Mặt khác, vị thế cạnh tranh càng vững chắc hơn nếu doanh nghiệp có năng lực đặc biệt về nghiên cứu và phát triển, Marketing, hiểu biết về thị trường, tạo được uy tín nhãn hiệu - những thế vượt trội mà đối thủ cạnh tranh không có được. Nói chung, doanh nghiệp có thị phần lớn nhất với năng lực cạnh tranh mạnh nhất và độc đáo nhất sẽ có vị thế cạnh tranh tốt nhất. Vị thế cạnh tranh xác định tiềm năng của doanh nghiệp trong ngành. Vị thế cạnh tranh tổng quát có thể được xác định bằng cách phân tích và xác định thứ hạng của doanh nghiệp dựa trên các yếu tố cạnh tranh chủ yếu được lựa chọn và so sánh thứ hạng đó với thứ hạng của đối thủ cạnh tranh. 3. Các chỉ tiêu đánh giá và công cụ chủ yếu để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 3.1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể dựa vào một số chỉ tiêu sau: Thị phần: Đây là chỉ tiêu hay được dùng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi xem xét chỉ tiêu này người ta thường xem xét các loại thị phần sau: - Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: đó là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp so với doanh số của toàn ngành. - Thị phần của doanh nghiệp so với phân khúc mà nó phục vụ: đó là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp so với doanh số của toàn phân khúc. - Thị phần tương đối: là thị phần của doanh nghiệp so với thị phần của đối thủ mạnh nhất. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này, doanh nghiệp biết mình đứng ở vị trí nào và cần vạch ra chiến lược hành động như thế nào. + Ưu điểm: Đơn giản, dễ tính. + Nhược điểm: Chỉ tiêu này không đảm bảo được độ chính xác vì dữ liệu về doanh thu của các doanh nghiệp rất khó thu thập. Doanh thu bán hàng: Là một chỉ tiêu kinh tế phản ánh giá hàng hoá, thành phẩm hoặc dịch vụ đã xác định là tiêu thụ trong kỳ. Tăng doanh thu bán hàng thực chất là tăng lượng tiền về cho doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc tăng lượng hàng hoá bán ra trên thị trường. Vì vậy, tăng doanh thu bán hàng vừa có ý nghĩa với xã hội vừa có ý nghĩa với doanh nghiệp. - Đối với xã hội thì tăng doanh thu bán hàng góp phần thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu tiêu dùng hàng hoá cho xã hội, đảm bảo cân đối cung cầu, ổn định giá cả thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng và các nước. - Đối với doanh nghiệp thì tăng doanh thu bán hàng là điều kiện doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng kinh doanh, thu hồi vốn nhanh, bù đắp các chi phí sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước. Do đó, có thể thấy phân tích doanh thu bán hàng là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Và phân tích doanh thu bán hàng là một nội dung quan trọng trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để sử dụng chỉ tiêu này thì doanh nghiệp có thể chọn 3 đến 5 doanh nghiệp mạnh nhất trong cùng nghành để có thể đưa ra so sánh và có sự đánh giá phù hợp. + Ưu điểm: Đơn giản, dễ tính. + Nhược điểm: Dùng chỉ tiêu này độ chính xác không cao vì mỗi doanh nghiệp có điểm mạnh, điểm yếu khác nhau do đó khó xác định được doanh nghiệp mạnh nhất. Tỷ suất lợi nhuận: Là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chính là: lợi nhuận/ doanh thu. Nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả, khả năng cạnh tranh tốt. Chi phí Marketing Tổng chi phí Tỷ lệ chi phí cho Marketing: Đây là chỉ tiêu mà hiện nay đang được sử dụng nhiều để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông qua chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể thấy được hiệu quả kinh doanh của mình. Xem xét tỷ lệ: Nếu chỉ tiêu này quá cao chứng tỏ việc đầu tư cho khâu Marketing tương đối lớn, đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét cơ cấu chi tiêu cho hoạt động này để đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động tiêu thụ. Nếu như Marketing không làm tăng hiệu quả tiêu thụ sản phẩm thì doanh nghiệp có thể xem xét thay vì quảng cáo rầm rộ doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài như đầu tư cho chi phí nghiên cứu và phát triển. 3.2. Các công cụ chủ yếu để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Thứ nhất, chất lượng của hàng hoá. Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được hoặc có thể so sánh được thoả mãn những điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội. Trong cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt đáp ứng được nhu cầu thì người tiêu dùng cũng sẵn sàng mua với một mức giá cao hơn. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới khâu tổ chức sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố như: công nghệ dây truyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý... Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển một quan niệm mới về chất lượng sản phẩm đã xuất hiện: chất lượng sản phẩm không chỉ tốt, bền, đẹp mà nó còn do khách hàng quyết định. Chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với một doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam khi mà phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lượng sản phẩm không được bảo đảm thì doanh nghiệp sẽ bị mất khách hàng, mất thị trường, nhanh chóng đi tới suy yếu và bị phá sản. Do vậy, chất lượng sản phẩm là công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để thắng các đối thủ cạnh tranh. Điều này thể hiện ở chỗ: - Nâng cao chất lượng sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. - Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường. - Chất lượng sản phẩm cao sẽ làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thứ hai, giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Hai hàng hoá có cùng công dụng, chất lượng như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Giá cả hàng hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá. Song sự vận động của giá cả còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Mức sống còn thấp, người tiêu dùng tìm mua những hàng hoá có giá rẻ. Giá cả thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc định giá của sản phẩm: định giá thấp, định giá ngang thị trường hay là chính sách định giá cao. Với một mức giá ngang thị trường giúp doanh nghiệp đánh giá được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra những biện pháp giảm giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh cao. Ngược lại với một mức giá thấp hơn mức giá thị trường thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng và tăng tỷ lệ tiêu thụ, doanh nghiệp có cơ hội xâm nhập thị trường, chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn mức giá thị trường chỉ được sử dụng với các doanh nghiệp độc quyền, điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp thu hút được rất nhiều lợi nhuận(lợi nhuận siêu ngạch). Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường. Ngoài ra trong kinh doanh để cạnh tranh về giá, một số doanh nghiệp chấp nhận lời ít, giá bán thấp, nhưng dùng số nhiều để thu lại. Thứ ba, áp dụng khoa học - kỹ thuật và quản lý hiện đại. Sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng hoá cá biệt của họ thấp hơn giá cả trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung nâng cao các nguồn lực để tăng năng xuất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm làm cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật và quản lý hiện đại vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.Thực tiễn đã chứng minh các doanh nghiệp tồn tại và phát triển được cần có dây truyền công nghệ mới, hiện đại có phương pháp tổ chức quản lý khoa học. Thứ tư là thông tin, một công cụ cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp. Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá cả, đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Đủ thông tin và xử lý đúng thông tin, một mặt giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong kinh doanh; mặt khác qua thông tin có thể tìm ra và tạo ra “lợi thế so sánh” của doanh nghiệp trên thương trường, chuẩn bị và đưa ra đúng thời điểm những sản phẩm mới thay thế để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá. Thông tin đủ, đúng hoặc bưng bít thông tin có thể thúc đẩy thị trường một cách tích cực hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai trái làm biến dạng thị trường. Vì thế, không ngạc nhiên khi tình trạng quảng cáo sản phẩm hiện nay của các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, chi phí cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu, trưng bày sản phẩm chiếm tỉ trọng nhất định trong chi phí chung của các doanh nghiệp. Thứ năm, phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phương thức phục vụ và thanh toán là công cụ cạnh tranh khá quan trọng. Ai nắm được công cụ này sẽ thắng trong cạnh tranh. Bởi vì, công cụ này tạo được sự tiện lợi cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh toán trước hết thể hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng. Trước khi bán hàng, các doanh nghiệp thực hiện các động tác như._.: quảng cáo, giới thiệu, hướng dẫn thị hiếu khách hàng, các hoạt động triển lãm, trưng bày hàng hoá. Những tác động này nhằm hấp dẫn, lôi kéo khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp mình. Trong quá trình bán hàng, khâu quan trọng nhất là nghệ thuật, chào mời khách hàng. Điều này đòi hỏi người bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng, lịch sự, ân cần và chu đáo. Sau khi bán hàng, phải có những dịch vụ như bao bì và giao hàng hoá đến tận tay người mua, các dịch vụ bảo hành, sửa chữa hàng hoá. Những dịch vụ này tạo sự tin tưởng, uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Sau nữa, phương thức phục vụ trên sẽ phát huy tác dụng khi được bảo đảm các yêu cầu sau: các dịch vụ phải phát nhanh, chính xác. Phương thức thanh toán phải linh hoạt, đa dạng bao gồm các loại như: thanh toán một lần, thanh toán trả chậm, bán trả góp. Thứ sáu, tính độc đáo của sản phẩm. Mọi sản phẩm khi xuất hiện trên thương trường đều mang một chu kỳ sống nhất định, “đặc biệt’’ vòng đời của nó sẽ rút ngắn khi xuất hiện sự cạnh tranh. Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, các doanh nghiệp dùng nhiều biện pháp trong đó có biện pháp là thường xuyên cải tiến mọi mặt sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trường những sản phẩm mới thay thế những sản phẩm cũ. Trong điều kiện doanh nghiệp chưa đủ sức tạo ra tính độc đáo của sản phẩm mới, thì có thể sử dụng nhãn hiệu của một sản phẩm đang được uy tín trên thị trường thông qua hình thức liên doanh. Sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã, nhãn hiệu hàng hoá cũng như việc không ngừng nâng cao chất lượng, tính năng hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp hiện nay. Thứ bảy, chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh ngiệp. Trong quá trình kinh doanh các doanh ngiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm giành giật khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện trong khâu hợp đồng, thanh toán như: quy ước về giá cả, số lượng, kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản hoặc bằng miệng, hay việc thanh toán với các hình thức như trả góp, bán chịu, bán gối đầu...Những hành vi này sẽ thực hiện tốt hơn khi giữa doanh ngiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy, chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng, tiện lợi. Mặt khác, công cụ này còn tạo cơ hội cho nhiều người ít vốn có điều kiện tham ra kinh doanh, do đó mở rộng được thị phần hàng hoá..., tạo sức mạnh cho doanh nghiệp. Những ưu điểm đó giải thích vì sao trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh ngiệp nước ngoài quốc doanh thì doanh ngiệp ngoài quốc doanh thường linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, sử dụng công cụ này đòi hỏi các chủ thể cạnh tranh phải có bản lĩnh. Bởi vì, có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh như tình trạng “chụp giật’’, “bể hụi”, đối tác làm ăn có ý đồ đen tối. Thứ tám, sự mạo hiểm rủi ro. Trong kinh doanh, lợi nhuận doanh nghiệp thường tỉ lệ thuận với sự mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh có khuynh hướng đầu tư kinh doanh vào những mặt hàng mới, những lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thường cao. Đây cũng là khuynh hướng khách quan, vì họ hy vọng lợi nhuận cao trong tương lai. Mặt khác, nó giảm được áp lực từ phía các đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro nhằm thu được lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh tranh cực kì hiệu quả, nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm trong quá trình cạnh tranh. Việc sử dụng công cụ này đòi hỏi các doanh ngiệp phải có tài năng và bản lĩnh. Như vậy, các công cụ cạnh tranh mà các doanh nghiệp sử dụng có thể khái quát lại như sau: lấy chất lượng; rẻ; thông tin; nhanh; mới; nhiều; linh hoạt; lòng tin; nổi tiếng; thúc đẩy( khoa học-kỹ thuật và khoa học quản lý hiện đại); liên doanh; độc đáo; mạo hiểm; và bán chịu để thắng trong cạnh tranh. Vì cạnh tranh là một quy luật trong nền kinh tế thị trường mà ở đó các chủ thể kinh tế tìm mọi biên pháp - cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình.Với nghĩa đó, cạnh tranh bao hàm cả những thủ đoạn trong hoạt động kinh doanh.Việc sử dụng các công cụ và thủ đoạn cạnh tranh sẽ dẫn đến tình trạng: một là, bằng việc xử lý linh hoạt công cụ cạnh tranh sẽ có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp đi lên, tạo động lực phát triển kinh tế ; hai là, bằng thủ đoạn cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp “lấn át” lẫn nhau theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, thậm chí làm lũng đoạn thị trường, tha hoá bộ máy nhà nước. 4. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Nâng cao khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày càng nhiều hơn các ưu thế về các mặt giá cả, giá trị sử dụng, chất lượng, uy tín của sản phẩm của doanh nghiệp nhằm giành được những ưu thế tương đối trong cạnh tranh, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh một mặt sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác nó sẽ đào thải không thương tiếc những doanh nghiệp yếu thế không đủ khả năng cạnh tranh. Do vậy, để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất, giá thành bán sản phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ một cách tốt nhất, đúng lúc nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm. Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, những đòi hỏi yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng ở mức cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp buộc phải tiến hành các hoạt động Marketing, tìm hiểu thị trường. Như vậy, cùng với cạnh tranh thì nâng cao khả năng cạnh tranh là một điều tất yếu khách quan. Để thắng thế trong cạnh tranh doanh nghiệp buộc phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như: Giá thành, giá bán, chất lượng sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp hay thông qua các hoạt động gián tiếp như các hoạt động quảng cáo, tham gia hội chợ... ở nước ta từ một nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước chắc chắn có phần nào bỡ ngỡ: Từ chỗ chỉ hoạt động một cách thụ động cho tới chỗ tự quyết định các vấn đề quan trọng mang tính sống còn của doanh nghiệp (Sản xuất cho ai? Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất bao nhiêu...) là cả một vấn đề. Các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải làm quen với điều này cũng như phải thích nghi với môi trường kinh doanh mới của cơ chế thị trường, chấp nhận các quy luật kinh tế của thị trường cũng như là phải chấp nhận cạnh tranh. Đặc biệt là trong giai đoạn này, khi đất nước ta đang xây dựng một nền kinh tế mở, kêu gọi vốn đầu tư bên ngoài vào Việt Nam thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp liên doanh rõ ràng sẽ chiếm ưu thế hơn các doanh nghiệp Việt Nam về tiềm lực tài chính cũng như khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý. Chính điều này buộc các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước phải tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của mình thì mới tồn tại và phát triển được trên thị trường. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành có thể được phân loại theo nhiều cách.Theo UNCTAD (Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển) thì các yếu tố đó có thể là công nghệ, nguồn nhân lực, các chính sách thương mại, đối thủ cạnh tranh mới. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) lại đưa ra các yếu tố sau đây có tác động tới khả năng cạnh tranh: Sự mở nền kinh tế, vai trò của Nhà nước, khả năng tài chính, cơ sở hạ tầng, công nghệ, quản lý, lao động, thể chế. M.Porter đề xuất một cách khác để nói về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh, đó là : 1. Các yếu tố thuộc môi trường quốc tế Thứ nhất, ảnh hưởng của các yếu tố kỹ thuật - công nghệ: Kỹ thuật - công nghệ tác động trực tiếp đến việc sử dụng các yếu tố đầu vào, năng suất, chất lượng, giá thành, nên là nhân tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của mọi doanh nghiệp. Xu thế phát triển kỹ thuật - công nghệ hiện nay còn ảnh hưởng mang tính dây chuyền: sự thay đổi công nghệ này kéo theo sự biến đổi của công nghệ khác, xuất hiện sản phẩm mới, vật liệu mới, sản phẩm cũng như vật liệu thay thế, thói quen tiêu dùng.Vì vậy, sự phát triển của nó có tác động không chỉ đến một doanh nghiệp, mà còn tác động đến nhiều doanh nghiệp, nhiều ngành khác theo chiều hướng tích cực. Trong nền kinh tế thế giới hiện nay, nhân tố kĩ thuật - công nghệ đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của mọi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lớn, phát triển mạnh nếu muốn có sức cạnh tranh cao sẽ luôn phải là các doanh nghiệp có khả năng làm chủ khả năng sáng tạo kĩ thuật - công nghệ cao, đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển. Thứ hai, ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá - xã hội: Mỗi nước đều có một nền văn hoá riêng và xu hướng toàn cầu hoá tạo ra phản ứng giữ gìn bản sắc văn hoá của từng nước. Bản sắc văn hoá dân tộc ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp với nước mà họ quan hệ. Ngày nay, những ảnh hưởng này không chỉ ở hành vi giao tiếp, ứng xử mà điều rất quan trọng là văn hoá dân tộc tác động trực tiếp tới việc hình thành thị hiếu, thói quen người tiêu dùng. Điều này, tác động trực tiếp nhất đến các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm tiêu dùng. Doanh nghiệp nào mà nắm được và hiểu rõ bản sắc văn hoá - xã hội của nước, hay thị trường mà tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình thì họ sẽ có được lợi thế tạo ra những sản phẩm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng từ đó sẽ tăng được khối lượng sản phẩm bán ra, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận đó là điều kiện để tạo lên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thứ ba, ảnh hưởng của các quy định pháp luật của mỗi quốc gia, luật pháp và thông lệ quốc tế. Luật pháp của mỗi quốc gia là nền tảng tạo ra môi trường kinh doanh của nước đó. Các quy định pháp luật của mỗi nước tác động trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp tham gia kinh doanh ở thị trường của nước đó. Môi trường kinh doanh quốc tế và từng khu vực lại phụ thuộc nhiều vào luật pháp và các thông lệ quốc tế. Điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh ngiệp, cho thấy một doanh ngiệp muốn đứng vững trên thị trường thế giới phải tìm mọi cách để tăng khả năng cạnh tranh, giữ vững thị trường. 2. Các yếu tố thuộc môi trường tác nghiệp Môi trường cạnh tranh bao là môi trường phức tạp nhất và cũng có ảnh hưởng nhiều nhất đến cạnh tranh của doanh nghiệp. Michael Porter đã đưa ra khái niệm cạnh tranh mở rộng và theo đó cạnh tranh trong một ngành phụ thuộc vào năm lực lượng đó là: 2.1.Khách hàng Khách hàng của doanh nghiệp là những người có nhu cầu về sản phẩm do doanh nghiệp cung cấp. Đối với mọi doanh nghiệp, khách hàng là người tạo ra lợi nhuận, tạo ra sự thắng lợi của doanh nghiệp. Cầu về sản phẩm là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có tính quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong một thời kỳ nhất định, số cầu vừa tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định cung của doanh nghiệp, lại vừa tác động tới mức độ và cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng ngành.Thị hiếu của khách hàng cũng như các yêu cầu cụ thể của khách hàng về chất lượng sản phẩm, tính nhạy cảm của khách hàng về giá cả...đều ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đáp ứng đúng các yêu cầu của khách hàng sẽ có lợi thế trong cạnh tranh, thắng lợi trong kinh doanh còn ngược lại doanh nghiệp nào không hoặc chú ý không đúng mức tới nhu cầu của khách hàng ắt sẽ thất bại. 2.2.Các đối thủ cạnh tranh trong ngành Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp đang kinh doanh cùng ngành nghề và cùng khu vực thị trường với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng cung ứng của tất cả các đối thủ cạnh tranh trong một ngành tạo ra cung sản phẩm trên thị trường. Số lượng, quy mô, sức mạnh của từng đối thủ cạnh tranh đều ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo M.Porter, tám vấn đề sau sẽ ảnh hưởng đến sự cạnh tranh giữa các đối thủ: Số lượng đối thủ cạnh tranh nhiều hay ít? Mức độ tăng trưởng của ngành là nhanh hay chậm? Chi phí lưu kho hay chi phí cố định là cao hay thấp? Các đối thủ cạnh tranh có đủ ngân sách để khác biệt hoá sản phẩm hay chuyển hướng kinh doanh? Năng lực sản xuất của các đối thủ có tăng hay không và nếu tăng thì khả năng tăng ở tốc độ nào? Tính chất đa dạng sản xuất - kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh ở mức độ nào? Mức độ kỳ vọng của các đối thủ cạnh tranh vào chiến lược kinh doanh của họ và sự tồn tại các công cụ rào cản rời bỏ ngành. 2.3.Các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường (đối thủ tiềm ẩn) Các doanh nghiệp sẽ tham gia vào thị trường là đối thủ mới xuất hiện hoặc sẽ xuất hiện trên khu vực thị trường mà doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động.Tác động của các doanh nghiệp này đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp đó( quy mô, công nghệ chế tạo...). Sự xuất hiện của các đối thủ mới này còn làm thay đổi bức tranh cạnh tranh ngành, dù thay đổi cục diện cạnh tranh nào thì sự xuất hiện của chúng cũng làm gia tăng mức cạnh tranh của ngành. 2.4. Sức ép từ phía các nhà cung cấp Các nhà cung cấp hình thành các thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào khác nhau bao gồm cả người bán thiết bị, nguyên vật liệu, người cấp vốn và những người cung cấp lao động cho doanh nghiệp. Tính chất của các thị trường cung cấp khác nhau sẽ ảnh hưởng ở mức độ khác nhau đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo M.Porter, các nhân tố sẽ tác động trực tiếp và tạo ra sức ép từ phía các nhà cung cấp tới hoạt động mua sắm và dự trữ cũng như tuyển dụng lao động của từng doanh nghiệp bao gồm: số lượng nhà cung cấp ít hay nhiều, tính chất thay thế của các yếu tố đầu vào là khó hay dễ, tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào cụ thể đối với hoạt động của doanh nghiệp, khả năng của các nhà cung cấp và vị trí quan trọng đến mức độ nào của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp. Điều này sẽ có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nếu thị trường cung cấp lao động nhiều thì việc tuyển dụng lao động của doanh nghiệp sẽ dễ, tận dụng được giá nhân công rẻ từ đó sẽ tạo ra được lợi thế cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.5.Sức ép của các sản phẩm thay thế Sản phẩm thay thế là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Kỹ thuật - công nghệ càng phát triển sẽ càng tạo ra khả năng tăng số loại sản phẩm thay thế. Càng nhiều loại sản phẩm thay thế xuất hiện bao nhiêu sẽ càng tạo ra sức ép lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bấy nhiêu. Do đó cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có những giải pháp đề nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với sản phẩm thay thế, luôn chú ý đến việc khác biệt hoá sản phẩm . 3.Các yếu tố thuộc bản thân doanh nghiệp 3.1.Trình độ và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp Bất kỳ một doanh nghiệp nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển vững chắc trên thị trường thì phải luôn thích ứng được với môi trường kinh doanh. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm cụ thể mà doanh nghiệp cần có những biện pháp và hướng đi phù hợp, như vậy mới có thể hoạt động một cách hiệu quả. Và đó được coi là chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, những chiến lược đó có thể nhằm vào một yếu tố hay toàn bộ yếu tố trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với sản xuất, chiến lược đặt ra có thể là: chiến lược về chất lượng, mẫu mã... còn đối với doanh nghiệp thương mại thì đó là các chiến lược về chính sách định giá, phương thức tiêu thụ, các hoạt động hỗ trợ bán như: quảng cáo, khuyến mại nhằm tăng doanh số bán ra. Tất cả các yếu tố trên cấu thành nên chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đó là những yếu tố không thể thiếu đối với công tác quản trị. Nếu một doanh nghiệp kinh doanh mà không biết gì hoặc không hiểu gì về chiến lược kinh doanh thì doanh nghiệp đó chỉ đi đến phá sản. Tuy nhiên, các nhà quản trị phải chú ý hết sức đến việc ra quyết định, làm sao đưa ra được các quyết định phải đúng lúc, kịp thời tạo ra một hướng đi đúng đắn thì mới giúp doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trên thương trường. 3.2.Năng lực tài chính Đây là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sản xuất cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá quy mô của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị nguyên vật liệu hay phân phối, quảng cáo...đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính sẽ có khả năng trang bị các dây truyền công nghệ sản xuất hiện đại; đảm bảo chất lượng; hạ giá thành, giá bán sản phẩm nhằm mở rộng thị phần của doanh nghiệp để sau đó lại tăng giá, thu được lợi nhuận nhiều hơn. Tóm lại, nghiên cứu vấn đề cơ bản về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn hiện nay đối với mọi doanh nghiệp. Qua đó làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.Từ đó đưa ra các giải pháp thiết thực để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. ChươngII: Phân tích thực trạng tình hình kinh doanh của Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí I. Giới thiệu về Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí là một doanh nghiệp Nhà nước có tên giao dịch là ELMACO (Tên tiếng Anh là: Electrical Materials and Mechanical Instruments Corporation). Là một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại thực hiện việc sản xuất kinh doanh theo quy định số 366-TNTCCB ngày13/07/1990 của Bộ Thương Nghiệp nay là Bộ Thương Mại. Công ty được thành lập ngày 22/12/1971 theo quyết định số 820/VTQD Bộ trưởng Bộ vật tư. Sau khi sát nhập Bộ Vật tư và Bộ Thương nghiệp theo Nghị định 338/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Công ty được thành lập theo quy định số 613 TM-TCCB ngày 28/5/1993 của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Trụ sở chính của Công ty đặt tại 240-Tôn Đức Thắng- Đống Đa- Hà Nội. Công ty còn có nhiều chi nhánh tại Đức Giang - Gia Lâm - Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Đông Hà- Quảng Trị...Công ty Vật liệu điện-Dụng cụ cơ khí tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công ty là một đơn vị hạch toán kinh tế tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân mở tài khoản tiền gửi và tiền vay ở Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Công ty được phép sử dụng con dấu riêng. Quá trình hình thành và phát triển của ELMACO được chia thành 6 giai đoạn: - Từ năm 1971-1975: Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí là Công ty chuyên doanh ngành hàng của TW có nhiệm vụ tập hợp nhu cầu và rót hàng cho các Công ty vật tư tổng hợp các tỉnh và Công ty Hoá chất -Vật liệu điện Hà Nội. Phương thức kinh doanh của Công ty thực hiện hoàn toàn qua hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu, địa chỉ, danh mục hàng hoá và giá cả do cấp trên quy định. Thực chất là một đơn vị trung gian nhận vật tư từ các nguồn(sản xuất, nhập khẩu ) rồi đến các đơn vị trực tiếp cung ứng ở các địa phương. Giai đoạn này Công ty chưa có khái niệm kinh doanh mà Công ty chỉ là một tổ chức điều hành nội bộ ngành vật tư . - Từ năm 1976-1980: Phương thức kinh doanh của Công ty không thay đổi nhưng ngoài phạm vi đáp ứng cho các tỉnh miền Bắc còn có nhiệm vụ điều hàng cho các Công ty chuyên doanh ngành hàng khu vực trực thuộc Tổng Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí đóng tại Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Thái và Hải Phòng. Đồng thời với nhiệm vụ điều hàng nội bộ ngành, Công ty còn được giao nhiệm vụ cung ứng trực tiếp cho các nhu cầu sử dụng tại thành phố Hà Nội. Như vậy, tính chất hoạt động và kinh doanh giai đoạn này đã thay đổi, Công ty vừa là Công ty chuyên doanh ngành hàng trung ương vừa là Công ty khu vực, vừa điều hành vừa đáp ứng nhu cầu trực tiếp. - Từ năm 1980-1983: Công ty là thành viên của Liên hiệp cung ứng vật tư khu vực I. Phương thức kinh doanh vẫn giữ nguyên nhưng địa bàn chỉ còn lại 6 tỉnh và Hà Nội, Công ty trở thành Công ty chuyên doanh ngành hàng khu vực. - Từ năm 1983-1993: Công ty chuyển sang trực thuộc Liên hiệp xuất nhập khẩu vật tư, có nhiệm vụ trực tiếp đáp ứng nhu cầu cho khu vực Hà Nội và điều hàng cho các Liên hiệp cung ứng vật tư. Giai đoạn này, Công ty lại trở lại vừa là Công ty chuyên doanh ngành hàng TW vừa là Công ty chuyên ngành hàng khu vực. - Từ năm 1985-1993: Công ty lại trở lại trực thuộc Tổng Công ty hoá chất -Vật liệu điện. Nhiệm vụ của Công ty trong giai đoạn này là: đáp ứng nhu cầu về hàng hoá Vật liệu điện tại Hà Nội và điều hành các Công ty chuyên doanh ngành hàng khu vực và các Công ty Vật tư tổng hợp các tỉnh, phương thức kinh doanh của Công ty được phát triển, mở rộng. Công ty không chỉ điều hành các Công ty khu vực, các Công ty Vật tư tổng hợp và bán hàng cho các đơn vị kinh doanh ở Hà Nội mà còn mở rộng việc bán hàng trực tiếp cho các đơn vị có nhu cầu lớn. - Từ 1993 đến nay: Công ty chính thức thành lập và tách ra khỏi Tổng Công ty Hoá chất-Vật liệu điện với tên giao dịch là ELMACO theo Nghị định 613-TH/TCCB ngày 28/5/1993 của Bộ Trưởng Bộ Thương mại. 2. Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty ELMACO là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực lưu thông tư liệu sản xuất, được nhà nước phân công tổ chức kinh doanh ngành hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí, các vật tư thiết bị tổng hợp phục vụ sản xuất tiêu dùng và xuất khẩu Công ty có những chức năng, nhiệm vụ sau : Chức năng - Công ty tổ chức kinh doanh, xuất nhập khẩu các mặt hàng Vật liệu điện, Dụng cụ cơ khí, vật tư thiết bị có liên quan để phục vụ nhu cầu của toàn nền kinh tế. - Sản xuất mặt hàng Vật liệu điện để phục vụ cho việc xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Nhiệm vụ Y Tuân thủ các chế độ, chính sách pháp luật nhà nước có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.Thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng ngoại thương đã ký kết. Y Khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn vốn do nhà nước cấp, tự khai thác các nguồn vốn hỗ trợ, đảm bảo trang trải đáp ứng nhu cầu và nhiệm vụ nhà nước giao, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế . Y Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước để xây dựng và thực hiện phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hoá phong phú về số lượng, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của khách hàng. Kinh doanh đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế, quốc phòng của đất nước. Y Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu. Y Quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên chức trong Công ty, thực hiện chính sách của Nhà nước đối với người lao động, quản lý chỉ đạo các đơn vị kinh doanh thực hiện quy định hiện hành của Nhà nước và Bộ Thương mại. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty Trong qúa trình hình thành và phát triển, Công ty đã có nhiều mô hình về tổ chức bộ máy quản lý để phù hợp với cơ chế thị trường trong từng giai đoạn khác nhau. Hiện nay, mô hình tổ chức của Công ty như sau: (Biểu 1) Qua sơ đồ trên ta thấy cơ cấu tổ chức của Công ty tương đối phức tạp, có thể nói đây là một hệ thống quản trị kiểu trị trực tuyến - chức năng. Cách tổ chức này có ưu điểm gắn việc sử dụng chuyên gia ở các bộ phận chức năng với hệ thống trực tuyến mà vẫn giữ được tính thống nhất quản trị ở mức độ nhất định.Tuy nhiên, để đạt được điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định giữa hệ thống trực tuyến và các bộ phận hoạt động chức năng. Ngoài ra, chi phí kinh doanh cho hoạt động ra quyết định quản trị là lớn. Ban Giám Đốc bao gồm: Giám đốc: Là người đứng đầu Công ty do Bộ Thương mại trực tiếp bổ nhiệm, là người chịu trách nhiệm toàn diện và điều hành chung toàn bộ hoạt động của Công ty, đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của toàn Công ty trước cơ quan quản lý nhà nước cấp trên và pháp luật. Phụ trách 3 phòng quản lý, các Chi nhánh và Xí nghiệp. Phó giám đốc: Giúp việc cho Giám đốc và được Giám đốc giao quyền trực tiếp chỉ đạo các phòng ban. Bộ phận chuyên môn: gồm 3 Phòng quản lý; các đơn vị thành viên gồm có 2 đơn vị sản xuất là Nhà máy Dây và Cáp, Nhà máy cơ điện ELMACO và các Chi nhánh, các Xí nghiệp kinh doanh. Phụ trách mỗi đơn vị là Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng các chi nhánh, Trưởng Phó các phòng ban. Nhiệm vụ cụ thể các phòng ban như sau: Phòng Tổ chức hành chính Tổng số người là 22 người, chia làm 4 bộ phận: Bộ phận tổ chức: Tổ chức mạng lưới như tách, sát nhập, giải thể các thành viên. Tổ chức lao động như xây dựng kế hoạch lao động trong tương lai, tuyển dụng, bố trí, đào tạo lao động, bổ nhiệm, thuyên chuyển, đề bạt cán bộ, Xây dựng kế hoạch tiền lương và các phương pháp trả lương. Bộ phận văn thư- hành chính: Mua sắm các trang thiết bị xây dựng cơ bản dở dang. Bộ phận bảo vệ: Bảo vệ trật tự an ninh nơi làm việc. Bộ phận pháp chế: Theo dõi các hợp đồng kinh tế và giải quyết các quan hệ liên quan đến hiện hành. Phòng Tài chính - Kế Toán Tổng số người là 25 người được chia làm nhiều bộ phận, có các bộ phận sau: Bộ phận Kế toán tổng hợp, Bộ phận Kế toán Ngân hàng, Bộ phận Kế toán tiền lương và bảo hiểm xã hội, Bộ phận Tài chính. Mỗi một đơn vị thành viên đều có một kế toán theo dõi. Phòng có nhiệm vụ theo dõi tình hình tăng giảm và số hiện có của các loại vốn, quỹ, tình hình tiêu thụ sản phẩm và kết quả kinh doanh hàng năm, lập báo cáo tài chính và tổ chức bảo quản, lưu dữ số liệu, hồ sơ. Phòng Kế hoạch Tổng số người là 6 người. Nhiệm vụ: Xây dựng chiến lược, chỉ tiêu kế hoạch trong tương lai gồm doanh thu, lợi nhuận, mặt hàng chiến lược, kinh phí nộp Công ty, xây dựng các chỉ tiêu khoán hàng năm đối với các thành viên trực thuộc. Các đơn vị kinh doanh Tuỳ thuộc vào sự phân công, phân nhiệm của ban quản lý, các xí nghiệp kinh doanh có nhiệm vụ tổ chức sản xuất, đẩy mạnh công tác tiêu thụ hàng hoá trong nhóm ngành hàng được giao. Các đơn vị thành viên: Là các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sản xuất thì trực tiếp sản xuất kinh doanh theo chuyên ngành được phân công, các Chi nhánh và các Xí nghiệp kinh doanh thực hiện nghiên cứu, mở rộng tiêu thụ toàn bộ những mặt hàng kinh doanh của Công ty trên địa bàn quản lý. Hàng năm trưởng các đơn vị thành viên phải xây dựng phương án hoạt động kinh doanh của đơn vị mình như doanh thu, lợi nhuận, hàng tồn kho, công nợ phải thu phải trả, kinh phí nộp Công ty, số lượng lao động cần để đảm bảo các chỉ tiêu kế hoạch đề ra để trình Giám đốc Công ty.Trên cơ sở đó hàng năm Giám đốc Công ty họp với ba phòng nghiệp vụ và trưởng các đơn vị đó để giao kế hoạch cho Công ty. Biểu 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Giám Đốc XNKDHoá Chất XNKD Xuất khẩu XNKD Tổng Hợp 2 XNKD Tổng Hợp 1 XNKD Kim Khí Phó Giám đốc 1 Phó Giám đốc 2 Phòng Kế hoạch Tổng hợp Phòng Tổ chức Hành Chính Phòng Tài Chính kế Toán XNKD Các sản phẩm cao su bsusuVật tư truyền tải điện XNKD Vật tư truyền tải điện Siêu thị ELMACO Nhà máy Dây và Cáp điện Nhà máy cơ điện ELMA CO XNKDKho vận XNKD Vật liệu điện dân dụng XNKD Dụng cụ cơ khí XNKD Vật tư Cơ điện Chi nhánh QuảngNinh Chi nhánh Thái Nguyên Chi nhánh TP. HCM Chi nhánh Đà Nẵng Chi nhánh Đông Hà Nguồn: Phòng tổ chức hành chính : Quan hệ trực tuyến : Quan hệ chức năng 4. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty 4.1.Lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh Về lĩnh vực thương mại Do hoạt động thương mại là điểm xuất phát đầu tiên của Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí, lại trong điều kiện hạn hẹp nên giai đoạn đầu Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí bắt buộc phải làm vệ tinh cho các nhà sản xuất trong và ngoài nước, các nhà cung cấp ngoài nước để tổ chức phân phối sản phẩm của họ. Từ việc mua bán thương mại thuần tuý Công ty Vật liệu điện -Dụng cụ cơ khí sẽ dần dần tăng thị phần để làm chủ mặt hàng và trở thành những đại diện phân phối cho từng mặt hàng đó đối với từng thị trường hoặc khu vực thị trường nhất định. Đây là con đường đã thực hiện thành công với một số mặt hàng trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới nhưng chưa duy trì được một cách bền vững, hiện tại đã và đang phải triển khai trở lại và bước đầu đã đạt được một số thành công trong một số mặt hàng. Lợi thế của Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí là có rất nhiều mặt hàng kinh doanh từ đó Công ty đã phân chia các mặt hàng, nhóm mặt hàng; trong một tổng thể sự phân chia này sẽ tạo dựng dần nhiều tổ chức thương mại trong ELMACO với các quy mô và phạm vi, tính chất sở hữu khác nhau. Hiện nay, Công ty đang chú trọng đầu tư phát triển kinh doanh các loại vật tư hàng hoá có liên quan chặt chẽ đến các mặt hàng được chuyên doanh trước đây, bao gồm các vật tư cùng nhóm và gần nhóm tính năng sử dụng, các loại vật tư cho sản xuất thiết bị và sản phẩm vật liệu điện. Đây là những loại vật tư hàng hoá mà Công ty có thể dễ dàng tiếp cận về mặt kỹ thuật và thương mại, mặt khác nếu là vật tư nguyên liệu cho sản xuất các sản phẩm mà Công ty kinh doanh thì quan hệ cung cấp vật tư và tiêu thụ sản phẩm giưã hai bên dễ dàng tạo ra mối quan tâm chung vì lợi ích của cả người sản xuất và Công ty(ELMACO). Nhờ đó, Công ty sẽ nâng cao được khả năng tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của mình. Về dịch vụ Trong lĩnh vực dịch vụ, không kể những dịch vụ thông thương mang tính bổ sung và hoàn thiện của quá trình kinh doanh thương mại, Công ty đi vào lĩnh vực dịch vụ có tính chất công nghiệp như: sửa chữa thu hồi thiết bị điện công nghiệp, lắp đặt điện nội thất, điện chiếu sáng công cộng, xây lắp đường dây và chạm biến áp tới 35 KV. Những dịch vụ này có lợi thế là được hỗ trợ từ chính hoạt động thương mại qua việc cung cấp vật tư thiết bị và thông tin từ các nguồn tiềm năng cũng như nhu cầu, nhờ vậy trong những năm gần đây hoạt động có hiệu quả cao, đồng thời làm tăng hiệu quả kinh doa._.công nghệ, liên doanh liên kết…) Nhờ đó, Công ty sẽ có những chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp với thị trường. 1.2. Phương thức thực hiện Trong quá trình nghiên cứu thị trường và thu thập thông tin, đối tác kinh doanh, cần chú ý đến những nước, những mặt hàng uy tín và là bạn hàng truyền thống của Công ty để đảm bảo cho hoạt động mua bán được an toàn chính xác, tránh rủi ro, lừa gạt, đồng thời có thể được hưởng những ưu đãi cho họ về giá cả, thời gian và điều kiện thanh toán...Tuy nhiên, không nhất thiết áp dụng một cách máy móc quan hệ với những bạn hàng lớn để tránh cô lập về thông tin. Quá trình nghiên cứu thị trường không tự nó cho ra các quyết định, nó chỉ cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản lý Marketing chế biến ra các quyết định, giúp cho ban lãnh đạo hiểu rõ được khách hàng trong môi trường kinh doanh biến động. Công tác nghiên cứu cần được triển khai sâu và rộng: + Nghiên cứu nhu cầu khách hàng: Khách hàng của doanh nghiệp là những người có nhu cầu về sản phẩm do doanh nghiệp cung cấp. Đối với mọi doanh nghiệp, khách hàng là người tạo ra lợi nhuận, tạo ra sự thắng lợi của doanh nghiệp. Cầu về sản phẩm là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có tính quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong một thời kỳ nhất định, số cầu vừa tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định cung của doanh nghiệp, lại vừa tác động tới mức độ và cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng ngành. Thu hút số lượng khách hàng càng đông trở thành mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng bởi lý do đó, nghiên cứu nhu cầu khách hàng giữ tầm quan trọng xuyên suốt quá trình kinh doanh của Công ty là cơ sở để Công ty đưa ra những sản phẩm phù hợp chất lượng cao thoả mãn nhu cầu của khách hàng. + Điều tra khách hàng một mặt biết thêm thông tin, mặt khác khách hàng sẽ cảm thấy ý kiến của họ được tôn trọng. + Nghiên cứu các khách hàng chủ chốt: những khách hàng đóng góp doanh thu lớn cho Công ty. + Nghiên cứu nhóm khách hàng, phân tích giao dịch, phân tích ý kiến phàn nàn của khách hàng. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu về đối thủ cạnh tranh và mạng lưới kênh phân phối. Công ty cần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu này để xác định số lượng gia nhập thị trường, chính sách tiêu thụ của đối thủ, thị phần, sự khác biệt hoá sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phục vụ khách hàng, điều kiện thanh toán, từ đó có những phản ứng chủ động trước đối thủ. Hiện nay mạng lưới của Công ty ở khắp tỉnh thành trên cả nước, vậy công tác nghiên cứu sẽ giúp Công ty nắm được nguyên nhân cũng như tìm cách khắc phục, tổ chức lại mạng lưới kênh tiêu thụ cho hợp lý, phát triển kênh phân phối hoạt động hiệu quả như hệ thống các chi nhánh, các cửa hàng… 1.3. Điều kiện để thực hiện biện pháp Công tác nghiên cứu phải được tiến hành lâu dài song song với hoạt động kinh doanh của Công ty, cần những nhà nghiên cứu có năng lực và chuyên nghiệp. Cũng vì thế Công ty nên kết hợp bộ phận nghiên cứu trong nội bộ doanh nghiệp với các chuyên gia tư vấn để có thể phân tích thị trường một cách toàn diện nhất. Để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường Công ty cần quan tâm hơn nữa đến bộ phận chức năng làm công tác thị trường giúp họ trở thành một trợ thủ đắc lực để tham mưu cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty phải thực sự đề cao vai trò của công tác này, biến nó trở thành một hoạt động mang tính thường xuyên và có chính sách đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên gia giỏi, chuyên trách nhiệm vụ nghiên cứu và tiếp cận thị trường với chức danh đãi ngộ hợp lý. Ngoài ra, phải không ngừng hoàn thiện công tác Marketing nhanh nhạy, năng động, tuyển chọn kỹ nưỡng các nhân viên Marketing giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm tiếp thị tốt, sáng tạo. 1.4. Hiệu quả của biện pháp Nghiên cứu thị trường tốt sẽ đảm cho Công ty luôn bám sát thị trường của mình, làm nẩy sinh những ý tưởng về sản phẩm mới, giúp cho Công ty có thể định lượng được tiềm năng của thị trường. Từ đó sẽ giúp cho Công ty định ra những chiến lược kinh doanh của mình: Việc bám sát thị trường cho phép phát hiện được những vấn đề như quy mô của toàn thị trường đối với những sản phẩm của Công ty, phần thị trường Công ty hiện có và có thể chiếm lĩnh. Sự hình thành những ý tưởng về sản phẩm mới bao gồm những ý tưởng cải tiến các sản phẩm cũ cũng như những ý tưởng về sản phẩm hoàn toàn mới và điều này sẽ giúp cho Công ty phát huy và duy trì vị thế của mình trên thị trường. Mặt khác việc quản lý bán hàng thường phải giải quyết những vấn đề chuẩn bị địa bàn, định lượng tiềm năng của địa bàn và định mức bán cho nhân viên bán hàng. Do đó, nghiên cứu thị trường giúp cho Công ty trả lời được những câu hỏi đó cũng như hỗ trợ việc dự báo tổng mức bán của Công ty. Như vậy, từ chiến lược đã xác định được Công ty tiến hành lập và thực hiện các kế hoạch kinh doanh sao cho phù hợp với thị trường. Đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. 2. Nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách giảm chi phí 2.1.Cơ sở lý luận và thực tiễn Như ta đã biết, giá vốn cũng như chi phí cho hoạt động kinh doanh sẽ cấu thành nên giá bán hàng hoá. Trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì muốn hàng hoá được tiêu thụ nhanh trên thị trường thì giá và chất lượng là hai nhân tố quyết định. Cùng một chất lượng hàng hoá như nhau, doanh nghiệp nào có mức giá bán thấp hơn thì sức cạnh tranh sẽ lớn hơn nhiều so với đối thủ khác kinh doanh cùng một lọai mặt hàng. Để có một mức giá cạnh tranh hơn thì doanh nghiệp ngoài việc tìm mua được nguồn hàng chất lượng cao giá rẻ thì phải giảm chi phí sản xuất kinh doanh như: Chi phí mua hàng, chi phí vận chuyển, chi phí bốc xếp, chi phí vốn, chi phí ngân hàng, chi phí bảo hiểm, chí phí vận chuyển, chi phí lưu kho... Đối với mặt hàng của Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí không phải mặt hàng cao cấp cũng không phải mặt hàng bình thường nên với chính sách định giá bán cao không phải là thủ thuật để giành lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, với mặt hàng này phải định giá thấp mới hấp dẫn người mua. Ta có: Giá bán = Giá mua( bao gồm cả chi phí) + tiền lãi Để tiền lãi giữ nguyên hoặc không tăng lên với giá bán giảm hoặc vẫn giữ nguyên thì buộc giá phải giảm. Điều này phụ thuộc vào chi phí trong quá trình mua. Sở dĩ chi phí mua hàng cao dẫn đến giá bán của Công ty cao hơn giá bán của Tư nhân là do công nhân làm công tác thu mua chưa tốt. Hơn nữa với ý thức tiêu cực là thu mua cho Công ty chứ không phải cho mình nên trả với giá bao nhiêu cũng được, còn với Tư nhân thì vốn của họ bỏ ra nên bao giờ họ cũng mua với giá thấp nhất có thể. Mặt khác do có những nhân viên thu mua lợi dụng công việc này đã gian lận mua hàng và “biển thủ” tiền của Công ty. 2.2.Phương thức thực hiện Để thực hiện giảm chi phí sản xuất kinh doanh tăng khả năng cạnh tranh Công ty cần tiến hành như sau: Trước hết, tiết kiệm chi phí trong hoạt động kinh doanh là giải pháp trực tiếp nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách thực hiện các biện pháp như: + Giảm chi phí lãi vay phải trả Ngân hàng bằng cách quay vòng vốn nhanh, quản lý chặt chẽ công nợ bán hàng luân chuyển. + Giảm lượng hàng hoá tồn kho bằng cách căn cứ vào nhu cầu, chi phí đặt hàng, chi phí bảo quản Công ty phải xác định lượng hàng hoá dự trữ tối ưu để tối thiểu hoá chi phí. + Giảm chi phí vận chuyển bốc xếp, bảo quản và hao hụt hàng hoá, giảm chi phí quản lý kho bãi – quy hoạch kho bãi hợp lý – tiết kiệm diện tích kho chứa: không gây ứ đọng hàng hoá, Nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng, thời gian và công suất… Thứ hai, tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí tài chính bằng việc sử dụng hiệu quả các thiết bị tại khối văn phòng và sử dụng hợp lý nguồn lao động hiện có. 2.3. Điều kiện để thực hiện biện pháp Trước hết, cần phải triệt tiêu những hành vi như đã nói ở trên bằng cách đưa ra các hình thức nhân viên giỏi, đưa ra biện pháp đãi ngộ hợp pháp, thưởng, tăng lương...và điều này sẽ khuyến khích họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Duy trì mối quan hệ làm ăn với các bạn hàng truyền thống, có uy tín đối với Công ty, nhưng cũng đồng thời kết hợp tìm hiểu và mở rộng thị trường sang các thị trường mới nhằm mục đích mua được những mặt hàng giá trị cao và giá rẻ để cạnh tranh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá nhập khẩu của Công ty trong thời gian tới. Cùng với việc giảm chi phí mua hàng thì để giảm chi phí Ngân hàng, chi phí bảo hiểm cần chọn các Ngân hàng làm ăn lâu năm với Công ty. Chi phí vận chuyển cũng chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí hoạt động kinh doanh của Công ty, chính vì vậy để giảm chi phí kinh doanh của Công ty cần giảm chi phí vận chuyển xuống mức thấp nhất. Giải pháp trong việc giảm chi phí vận chuyển của Công ty là tìm kiếm hãng vận chuyển lớn, có uy tín và phí vận chuyển thấp. Đây có thể là cách tốt nhất để giảm chi phí vận tải, vì nó có thể đem lại hiệu quả kinh tế xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho nền kinh tế . 2.4. Hiệu quả của biện pháp Chi phí sản xuất kinh doanh giảm sẽ dẫn đến giá bán hàng hoá của Công ty giảm. Giá hàng hoá giảm sẽ thu hút được khách hàng mua nhiều sản phẩm của Công ty. Điều này, làm cho doanh số bán ra của Công ty tăng lên, doanh thu cũng tăng lên. Từ đó cải thiện được vị trí của Công ty trên thị trường, làm cho khả năng cạnh tranh của Công ty tăng lên. 3. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả nhằm tăng cường tiềm lực tài chính của Công ty 3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Tiềm lực tài chính của Công ty có tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Mọi hoạt động đầu tư, mua sắm, dự trữ, lưu kho…cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm đếu phụ thuộc vào khả năng tài chính của Công ty. Vốn và tài sản của Công ty là một trong các chỉ tiêu quan trọng thể hiện khả năng tài chính của Công ty, là yếu tố không thể thiếu của mọi quá trình kinh doanh. Mặt khác, khả năng tài chính của Công ty được đánh giá thông qua: cầu về vốn và khả năng huy động vốn, việc phân bổ vốn (cơ cấu vốn), hiệu quả sử dụng vốn sản xuất – kinh doanh chung ở Công ty và từng bộ phận của Công ty, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp đánh giá vị thế của doanh nghiệp … Do vậy, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả sẽ làm tăng cường tiềm lực tài chính của Công ty. Bên cạnh đó, một điều dễ nhận thấy là hầu hết các Công ty Việt Nam đều lâm vào tình trạng hiếu vốn, điều này làm cho các Công ty giảm sức cạnh tranh so với các Công ty nước ngoài. Chính vì thế, Công ty cần đặc biệt chú ý đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn khác nhau vào hoạt động sản xuất kinh doanh như một giải pháp quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn hiện nay, góp phần tăng khả năng cạnh tranh. 3.2.Phương thức thực hiện Để đảm bảo luôn có đủ lượng vốn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh với hiệu quả kinh tế cao, rủi ro thấp nhất Công ty phải chủ động tìm kiếm mọi nguồn vốn có thể huy động; phân tích, so sánh rủi ro tín dụng cũng như so sánh chi phí kinh doanh sử dụng vốn từ các nguồn vốn khác nhau để lựa chọn các nguồn vốn huy động theo phương châm đa dạng hoá nguồn cung ứng vốn. Và dưới đây là một số biện pháp nhằm huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để tăng cường tiềm lực tài chính của Công ty : ¯ Vay vốn của các Ngân hàng thương mại: Với phương thức này Công ty có thể vay vốn dưới nhiều hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các Ngân hàng thương mại. ¯ Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp: Biện pháp này có thể được tiến hành dưới hình thức là: Công ty mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm, và ghi rõ trong hợp đồng mua bán về giá cả, số lần và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả. Như thế, Công ty có máy móc thiết bị sử dụng ngay nhưng tiền lại phải chưa trả ngay, số tiền chưa phải trả là số tiền mà Công ty chiếm dụng được từ người cung ứng. ¯ Tín dụng thuê mua: Đây là phương thức giúp cho Công ty sử dụng vốn đúng mục đích, khi Công ty có cầu về sử dụng máy móc thiết bị cụ thể thì đặt vấn đề thuê mua và chỉ ký hợp đồng thuê mua trong thời gian sử dụng thích hợp. Công ty không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết từ doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua. Công ty sử dụng máy móc thiết bị có thể tránh được những tổn thất do mua máy móc, thiết bị không đúng yêu cầu hoặc do mua nhầm. Công ty sử dụng có được máy móc thiết bị cần thiết mà không cần phải đầu tư nhiều lần với vốn lớn. Mặt khác Công ty sử dụng máy móc thiết bị có thể giảm được tỉ lệ nợ/ vốn vì tránh phải vay Ngân hàng thương mại. Với phương thức thuê mua này Công ty có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố định, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. 3.3. Điều kiện để thực hiện Để thực hiện việc huy động vốn cần có những điều kiện sau: ¯ Phải xây dựng kế hoạch huy động vốn phù hợp với thực trạng thị trường và môi trường kinh doanh trong từng thời kỳ. ¯ Tạo niềm tin nơi cung ứng vốn. Uy tín, danh tiếng của Công ty với khách hàng là tài sản vô giá của Công ty không chỉ trên thị trường tiêu thụ mà cả trên thị trường tài chính. ¯ Chứng minh mục đích sử dụng vốn. Công ty phải xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật vững chắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, cho các dự án đầu tư cụ thể cần huy động vốn nói riêng. ¯ Xác định tính hiệu quả của việc sử dụng vốn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh việc phân tích hiệu quả kinh tế theo các tiêu thức thích hợp phải được tiến hành một cách thường xuyên. Những nguồn được huy động có thể bổ sung những khiếm khuyết cho nhau. Song vấn đề quan trọng đặt ra với Công ty là làm sao có thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Muốn vậy, Công ty cần nhanh chóng giải quyết tình trạng bị nợ đọng và chiếm dụng vốn hiện nay như yêu cầu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thanh toán tiền ngay hoặc có thể thế chấp, ký quỹ, ký cược, kiên quyết dừng cấp hàng. Ngoài ra, Công ty còn phải tính toán và xây dựng kế hoạch tài chính rõ ràng cho từng khoản đầu tư và cho toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty để đảm bảo có vốn hoạt động mà vẫn có thể trả được lãi suất và các khoản nợ. Kế hoạch này phải quán triệt đến từng bộ phận và cán bộ có liên quan để đảm bảo kế hoạch được thực hiện một cách hiệu quả. Đặc biệt trước khi đầu tư vào một hạng mục nào đó Công ty cần suy xét một cách kỹ lưỡng về tầm quan trọng và hiệu quả của nó, tránh hiện tượng đầu tư một cách dàn trải, thiếu đồng bộ mà nên tập trung vào khâu thiếu then chốt, khâu mũi nhọn có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển của Công ty. Đồng thời, Công ty cũng cần phải tìm hiểu đối tượng trước khi đầu tư, nhất là đầu tư vào máy móc thiết bị vì đây là hạng mục có giá trị đầu tư khá lớn và quan trọng, nên lựa chọn đối tác đầu tư đáng tin cậy và có thể đảm bảo được chất lượng cao cho hoạt động đầu tư. 3.4. Hiệu quả của biện pháp Với việc huy động vốn từ các nguồn vốn khác nhau trong đó việc huy động vốn từ tín dụng thương mại sẽ giúp cho Công ty có được lợi thế về giá cả, kỳ hạn trả,…khi thị trường có nhiều nhà cung ứng cạnh tranh với nhau. Và với phương thức tín dụng này Công ty có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không ảnh hưởng đến tình hình tài chính của mình. Khi đã có được nguồn vốn rồi thì phải sử dụng làm sao cho có hiệu của mới là quan trọng. Với những cách thức như đã nói trên sẽ tạo điều kiện Công ty sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn phù hợp với yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong từng thời kỳ. Từ đó sẽ giúp cho Công ty có được nguồn vốn ổn định để đầu tư công nghệ kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, chiến thắng trong cạnh tranh. 4. Nâng cao trình độ quản lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực 4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Con người là trung tâm của mọi hoạt động. Lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định hiệu quả kinh doanh. Xu thế xây dựng nền kinh tế tri thức đòi hỏi đội ngũ lao động phải có trình độ chuyên môn cao, có năng lực sáng tạo. Vấn đề tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại nhằm thường xuyên nâng cao chất lượng cho đội ngũ lao động là nhiệm vụ mà mọi doanh nghiệp phải hết sức quan tâm. Đặc biệt đội ngũ lao động quản trị phải có khả năng hoạch định chiến lược, phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, chủ động đối phó với những thay đổi bất thường của môi trường kinh doanh. Hiện nay, hầu hết tất cả các doanh nghiệp Nhà nước đều tồn tại một số đội ngũ cán bộ lãnh đạo lâu năm và như vậy việc quản lý có thể sẽ không bắt kịp với xu thế thời đại. Do đó, việc nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo là một yếu tố quyết định đối với việc nâng cao sức cạnh tranh. Đội ngũ quản lý này tham gia vào tất cả các quá trình sản xuất kinh doanh nên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng công việc của Công ty. Một quản trị gia phải biết khéo léo kết hợp hài hoà giữa lợi ích của các hành viên với lợi ích chung của toàn Công ty, một Công ty có đội ngũ quản lý, cán bộ giỏi thì chắc chắn công việc kinh doanh của họ có hiệu quả hơn. Để kích thích các thành viên làm việc nhiệt tình có trách nhiệm và hiệu quả thì nhà quản trị phải đóng vai trò là “phương tiện” để thoả mãn nhu cầu mong muốn của các thành viên và phải xác định được quyền hạn và nhiệm vụ của mỗi thành viên để hoàn thành mục tiêu một cách tốt nhất. Đồng thời, trong một nhóm phải là thành viên đứng đầu tạo ra sự phấn khích cho cả nhóm trong quá trình hành động thực hiện các mục tiêu của tổ chức, tránh tình trạng nhiều nhà quản trị cho mình là cấp trên đứng ngoài tổ chức ra lệnh, dọa nạt, mắng mỏ cấp dưới, điều đó sẽ làm cho mối quan hệ giữa nhà quản trị và cấp dưới trở nên đối phó, mất đoàn kết, mức độ nhiệt tình giảm xuống và hiệu quả công việc không cao, điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty. Vì vậy, có thể nói khả năng lãnh đạo của nhà quản trị đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. Và việc nâng cao trình độ quản lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực là rất cần thiết. 4.2. Phương thức thực hiện Nâng cao trình độ quản lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cần được tiến hành theo các phương thức sau: Y Công ty cần xây dựng cơ cấu lao động tối ưu, đảm bảo đủ việc làm trên cơ sở phân công và bố trí lao động hợp lý phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người. Y Phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các điều kiện cần thiết của quá trình sản xuất, đảm bảo sự cân đối thường xuyên trong sự biến động của môi tường kinh doanh Y Phải chú trọng công tác vệ sinh công nghiệp và các điều kiện về an toàn vệ sinh lao động. Y Ngoài ra, muốn nâng cao trình độ quản lý cũng như đào tạo, bồi dưỡng cán độ công nhân viên thì Công ty có thể thực hiện bằng cách: mời gia sư, chuyên viên giỏi về đào tạo bổ túc, nâng cao trình độ kiến thức cho họ hoặc cử nhân viên đi học, mời họ tham gia vào các hội thảo, hội nghị những nhà quản trị có năng lực để thay thế những người thiếu khả năng. Có như vậy Công ty mới có thể đảm bảo cạnh tranh được trên thị trường cũng như đối đầu với các đối thủ cạnh tranh của mình. Biện pháp này được các doanh nghiệp chú ý rất nhiều và ngày càng được quan tâm hơn nữa. 4.3. Điều kiện để thực hiện biện pháp Công ty cần sắp xếp lao động cho hợp lý, đúng người, đúng việc thì kinh doanh mới có hiệu quả vì thị trường thường xuyên thay đổi nên Công ty phải luôn nắm bắt được những thay đổi đó để đáp ứng kịp thời những yêu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, Công ty cũng phải xây dựng một nội quy, kỷ luật rõ ràng, bắt buộc mọi người phải tuân theo nhằm bảo đảm tính kỷ luật trong khi làm việc. Mặt khác, mọi người cần phải xây dựng một chế độ khuyến khích về kinh tế nghĩa là Công ty nên chú trọng tới việc khen thưởng kịp thời, phần thưởng tài chính sẽ có tác dụng thúc đẩy hiệu lực nhất mà các nhà quản lý hay sử dụng để khuyến khích nhân viên làm việc tốt hơn. 4.4. Hiệu quả của biện pháp Thực hiện biện pháp này Công ty sẽ có được một lực lượng lao động có chất lượng cao, có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới sẽ tác động trực tiếp đến năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác như : máy móc, thiết bị, nguyên liệu…nên sẽ tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Bên cạnh đó sẽ đưa những sáng tạo công nghệ, kỹ thuật mới vào sử dụng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể bán được tạo tiềm năng lớn cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. Qua đây, ta thấy Công ty có thể kết hợp những biện pháp trên để có được sự cạnh tranh hợp lý nhất và có hiệu quả cao nhất. II.Một số kiến nghị đối với nhà nước Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ hiện nay phát triển theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Mọi doanh nghiệp đều phải tuân theo các chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước vách ra. Vì vậy, ta có thể thấy rằng các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động của doanh nghiệp. Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí là một doanh nghiệp thương mại nên cũng bị ảnh hưởng thông qua một số chính sách như: tỷ giá hối đoái, chính sách thuế ... Do vậy để tạo điều kiện cho Công ty nâng cao khả năng cạnh tranh của mình cần có một số kiến nghị đối với Nhà nước như sau: 1.Điều chỉnh tỷ giá hối đoái 1.1.Cơ sở lý luận và thực tiễn Tỷ giá hối đoái phản ánh mối tương quan về sức mua của đồng tiền quốc gia. Nó là phương tiện so sánh về mặt giá trị chi phí sản xuất của doanh nghiệp với cả thị trường thế giới. Thông qua việc phản ánh tương quan giá trị của đồng tiền ở những mức khác nhau, tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi tỷ giá hối đoái tăng lên xét ở góc độ toàn bộ nền kinh tế xã hội thì sẽ gây bất lợi cho nhà sản xuất vì hàng xuất khẩu trở nên đắt hơn so với hàng hoá trên thị trường thế giới, hàng hoá đó sẽ trở khó bán hơn, từ đó gây bất lợi cho thu ngoại tệ do không xuất khẩu được làm cho khối lượng ngoại tệ ngày càng giảm đi do. Điều này sẽ làm mất cân đối trong cán cân thanh toán gây nên hiệu quả âm cho toàn bộ nền kinh tế. Là một quốc gia đang trên con đường thực hiện mở cửa nền kinh tế và hội nhập vào các khu vực kinh tế thế giới. Do đó, chúng ta không thể không quan tâm. Hiện nay tình trạng tài chính tiền tệ nước ta tuy đã được cải thiện một bước cơ bản song vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố mang tính bất ổn định. Chính vì vậy, với tư cách về mặt đối ngoại của chính sách tiền tệ tuy có những đặc thù riêng song hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái xuất phát từ những định hướng phù hợp với các mục tiêu của chính sách tiền tệ ở từng giai đoạn, tăng trưởng nhanh và bền vững góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí là Công ty thương mại hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nên cũng chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái. Do vậy, đảm bảo tỷ giá hối đoái trong giai đoạn tới phải thường xuyên được xác lập và duy trì một cách linh hoạt ổn định và bền vững. Thêm vào đó dần giảm đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của thị trường tài chính quốc tế. 1.2. Phương thức thực hiện Vấn đề trên cần phải được tiến hành, và không thể thiếu được vai trò của Chính phủ để điều chỉnh cung cầu nội ngoại bằng những phương thức nhất định. Sau đây là một số phương thức cần thực hiện: à Điều chỉnh chiết khấu - Chính sách chiết khấu: Đó là việc NHNN dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu của Ngân hàng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái lên cao đến mức nguy hiểm, muốn làm cho tỷ giá hối đoái hạ xuống, NHNN nâng cao tỷ suất chiết khấu. Kết quả là vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới chảy vào nước mình để thu lãi cao; nhờ đó giảm căng thẳng của cầu ngoại hối; tỷ giá hối đoái sẽ hạ xuống. Ngược lại khi tỷ giá xuống thấp, NHNN hạ thấp tỷ suất chiết khấu thì tư bản ngắn hạn nước ngoài rút ra nên nguồn cung ngoại tệ giảm, do đó tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên. à Điều tiết cung cầu ngoại tệ – Chính sách hối đoái: Đó là sự can thiệp trực tiếp của NHNN vào thị trường ngoại hối bằng cách thu mua hay bán ngoại tệ. Khi giá tiền tăng lên trên mức ấn định( giá tiền nội tệ giảm xuống dưới mức ấn định) do cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoaị tệ. 1.3. Điều kiện để thực hiện biện pháp Để thực hiện được những phương thức trên Nhà nước cần phải có sự điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định thông qua việc thiết lập khuôn khổ pháp luật thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán. Đồng thời, thông qua chính sách tiền tệ và chính sách tài chính duy trì nền kinh tế ổn định, duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp. 1.4. Hiệu quả của biện pháp Điều chỉnh tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm của Công ty trên thị trường quốc tế. Khi giá cả sản phẩm nội địa rẻ tương đối so với sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế thì Công ty sẽ được lợi vì giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng lên, khả năng cạnh tranh của Công ty cũng sẽ tăng lên. Mặt khác Công ty sẽ có những điều kiện thuận lợi về phương diện thanh toán, quan hệ ngoại hối, quan hệ kinh tế đối ngoại. 2.Cải cách hệ thống thuế 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Thuế là công cụ để Nhà nước điều chỉnh nền kinh tế quốc dân, thậm chí điều chỉnh quan hệ ngoài kinh tế khác. Trong hoạt động ngoại thương thì thuế là một công cụ mà Nhà nước sử dụng để quản lý XNK nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thường, góp phần bảo vệ sản xuất- tiêu dùng và tăng ngân sách. Thuế có tác động một cách trực tiếp đến giá cả đối với người sản xuất lẫn người tiêu dùng, đồng thời có thể làm cho các hoạt động thương mại phát triển hoặc bị thu hẹp. Mặc dù trong những năm gần đây, vai trò của thuế trong thương mại quốc tế đang bị giảm dần song khoản thu về thuế trong thương mại quốc tế vấn chiếm vị trí đáng kể, ở Việt Nam thuế XNK chiếm khoảng 25% nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Trong những năm qua hệ thống thuế của nước ta tuy đã được sửa đổi song còn tồn tại những bất hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó, vấn đề cấp bách hiện nay là cải cách hệ thống thuế hiện hành. 2.2. Phương thức thực hiện Việc cải cách hệ thống thuế trước hết phải đảm bảo cho nguồn thu ngân sách Nhà nước, đồng thời phải đảm bảo động viên hợp lý, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó chính sách thuế phải đưa ra một hệ thống thuế đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, nhất là đối với thuế xuất nhập khẩu. Ngoài ra, thuế xuất khẩu đối với các lô hàng mới được xuất sang thị trường mới, thị trường khó tính hoặc những lô hàng xuất khẩu có chất lượng cao nên được giảm trừ để khuyến khích xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp trong nước nói chung và Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí nói riêng. 2.3.Điều kiện để thực hiện biện pháp ² Tiến hành giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0-5% với 5-7% mức thuế xuất trong tương lai . ² Cải tiến phương pháp tính giá hàng xuất nhập khẩu sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế, đơn giản hoá các thủ tục khai báo, kiểm tra hải quan và nộp lệ phí xuất nhập khẩu. ² Công ty nào sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn thuế lợi tức với phần đầu tư đó. 2.4. Hiệu quả của biện pháp Như vậy, với chính sách trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc xuất khẩu hàng hoá sang nước khác, cũng như nâng cao được khả năng nhập khẩu của Công ty. Từ đó sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó sẽ phần nào khắc phục được tình trạng trốn lậu thuế của các doanh nghiệp khi mà phải nộp thuế suất cao. Kết luận Qua đây chúng ta có thể thấy rằng, cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh đang là vấn đề nóng bỏng đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí. Ngày nay do sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ, sản xuất hàng hoá phát triển với quy mô hết sức rộng lớn, nó không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi thế giới. Điều này làm cho cạnh tranh càng trở nên quyết liệt và sâu rộng. Cạnh tranh được xem như là yếu tố nội tại của quá trình kinh doanh và đi vào cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Cũng như các doanh nghiệp khác thì Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí khi muốn đưa ra các chính sách chiến lược nhằm tăng khả năng cạnh tranh cần phải biết khả năng cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp, đồng thời hiểu được thực trạng kinh doanh của đối thủ. Bên cạnh đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh thì ngoài sự nỗ lực của Công ty cần có những chính sách bảo hộ đúng đắn của Nhà nước, với vai trò tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh (bằng quản lý vĩ mô, bằng pháp luật, bằng đòn bẩy kinh tế, bằng các chính sách ưu đãi...), kết hợp với các giải pháp ổn định và phát triển hợp lý như đã trình bày. Với đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Vật liệu điện - Dụng cụ cơ khí ”. Em mong muốn đóng góp những suy nghĩ nghiên cứu tìm tòi và một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty. Cuối cùng, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - GS.TS Nguyễn Thành Độ, cùng các CôChú, các Anh Chị cán bộ công nhân viên Phòng Kế hoạch tổng hợp và Phòng Tổ chức hành chính của Công ty vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo Chiến lược cạnh tranh – M.Porter. Giáo trình: Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp - Nhà xuất bản lao động thương binh - xã hội: Hà Nội-2002. Giáo trình : Quản trị kinh doanh tổng hợp – Nhà xuất bản thống kê:Hà nội – 2001. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Thị Kim Dung: Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước - Hà Nội 1998. Tạp chí Công nghiệp Việt Nam: Số 12+13/2001,Số2+3/2002, Số9/2002. Tạp chí Cộng Sản : Số 7/2000. Tạp chí Phát triển kinh tế. Tạp chí Thương mại: Số 17/2001 Tạp chí Kinh tế và Phát triển: Số 50+52/2001. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế: Số 254/1999,Số 270/2000. Báo cáo kết quả kinh doanh 1999-2000-2001-2002 của Công ty Vật liệu điện – Dụng cụ cơ khí Kế hoạch sản xuất kinh doanh 2002-2006 của Công ty Vật liệu điện Một số tài liệu tham khảo khác. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4592.doc
Tài liệu liên quan